Professional Documents
Culture Documents
(Thỏa hiệp)
(Thỏa hiệp)
Quá trình tìm hiểu văn hoá của một đối tác trong đàm phán tương tự như bóc một củ hành
Lớp ngoài cùng là HÀNH VI, lời nói và hành động của một người (đối tác). Đây là lớp mà chúng ta nhận thấy
đầu tiên trong đàm phán đa văn hoá.
Lớp thứ hai bên trong bao gồm THÁI ĐỘ của những người từ các nền văn hoá khác nhau đối với các sự kiện,
các hiện tượng cụ thể (ví dụ, thái độ về thời gian, thái độ đối với hợp đồng, với quan hệ, v.v. hoặc đơn giản
là cách định dạng bài thuyết trình – dài / ngắn – đơn giản / phức tạp – trực tiếp / gián tiếp – rõ ràng / mơ hồ,
v.v.). Thái độ sẽ trở nên rõ ràng hơn trong đàm phán đa văn hoá khi các bên làm việc với nhau sau một thời
gian nhất định (tương đối dài).
Lớp tiếp theo là các CHUẨN MỰC, các quy tắc phải phải tuân theo trong các tình huống cụ thể (chuẩn mực
về thời gian, chuẩn mực trong giao tiếp, chuẩn mực trong đối xử với nhân viên, khách hàng, chuẩn mực đạo
đức, v.v.)
Ví dụ: việc không đúng giờ không chỉ là thái độ của con người đối với thời gian, mà đôi khi là chuẩn mực
của các nền văn hoá đó, của tổ chức khắt khe, hoặc không khắt khe đối với vấn đề thời gian.
Lớp trong cùng của lõi bao gồm các GIÁ TRỊ. Một trong những đặc điểm thiết yếu của một giá trị là niềm tin
của 1 cá nhân hay 1 nhóm đối với một hành vi cụ thể. Chính niềm tin hay những quan niệm gốc sẽ là căn cứ
để tạo ra chuẩn mực, thái độ và hành vi. Giá trị giúp là căn cứ để đánh giá tốt – xấu, đúng – sai, nên – không
nên, quan trọng – không quan trọng, v.v. Sự khác biệt về giá trị thường khó khăn cho các nhà đàm phán để
phát hiện và hiểu được. Các bên tham giá đàm phán quốc tế nhiều khi chỉ có thể phát hiện sự khác biệt về
giá trị của họ sau khi đã kỹ hợp đồng và bắt đầu làm việc cùng nhau. Khi phát hiện ra sự khác biệt về giá trị
giữ các bên trong một doanh nghiệp liên doanh quốc tế, có thể dẫn đến xung đột nghiêm trọng và cuối cùng
là sự thất bại của doanh nghiệp đó – đây cũng là lí do giải thích tại sao nhiều doanh nghiệp quốc tế chỉ tồn
tại trong một thời gian ngắn.
Xung đột liên quan đến thái độ
Trong cuốn sách “The Seven Cultures of Capitalism”, các tác giả đã khảo sát 15 000 nhà quản lý và nhân
viên trên thế giới về thái độ của họ đối với các hoạt động cơ bản trong quản trị. Bao gồm: ra quyết định
nhóm, tuyển dụng, đề bạt nhân viên, thiết lập và áp dụng các quy tắc. Kết quả cho thấy có sự khác biệt
rất lớn giữ các nền văn hoá.
Chẳng hạn khi khảo sát về việc chọn người đại diện của nhóm – 84,4% người Nhật chọn cách đồng thuận
(consensus) (các thành viên sẽ thảo luận, vận động, thuyết phục và trao đổi cho đến khi đa số chấp
thuận), chỉ có 37,7% người Mỹ chọn cách này, đa số muốn sự dân chủ đối lập (adversarial democracy)
(có tiêu chuẩn cho người đại diện, người đó phải đủ điều kiện, tự ứng cử và tất cả sẽ bỏ phiếu để lựa
chọn).
Các loại xung đột giá trị có thể phát sinh trong việc thiết lập, quản lý các thoả thuận quốc tế.
Ví dụ: Giữa CN cá nhân (individualism) được đánh giá cao bởi người Mỹ và CN cộng đồng
(communitarianism) được thể hiện trong nhiều nền văn hoá châu Á có thể tạo ra xung đột trong đàm
phán các hợp đồng liên doanh, như:
+ Xung đột trong tuyển dụng nhân sự: Dựa trên tài năng cá nhân hay sự phù hợp với tổ chức. Ủng hộ
hay phản đối việc thuê người thân của giám đốc vào làm việc trong tổ chức (liên doanh); Sa thải nhân
viên trung thành khi năng suất, hiệu quả bị giảm sút, v.v.
+ Xung đột trong chế độ khuyến khích: Tiền lương, khen thưởng trên cơ sở hiệu suất của nhóm hoặc
thành tích cá nhân, v.v.
Sự khác biệt về giá trị văn hoá thể hiện không chỉ trong quá trình đàm phán thông thường lâu dài trong quá
trình thực hiện các thoả thuận và có thể trở thành xung đột nguy hiểm phá vỡ các thoả thuận.
5.2.4 Tác động của văn hoá đến đàm phán KDQT
Sự hiểu nhầm trong giao tiếp ngôn ngữ
VD: Nói thẳng những gì mình muốn thường là phong cách của người phương Tây, ngược lại người phương
Đông thường không muốn nói thẳng. Họ ngại nói từ “No” cả khi họ muốn điều này. Một người Mỹ nói “That’s
difficult” có nghĩa là vẫn có thể đàm phán, ngược lại, nếu người Nhật nói câu này có nghĩa là không thể đàm
phán.
Sự hiểu nhầm trong giao tiếp phi ngôn ngữ. Thông tin giữa các bên không chỉ truyền đạt cho nhau thông qua
ngôn ngữ (viết hoặc nói) mà còn thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ (cận ngôn ngữ và ngoại ngôn ngữ). Giao
tiếp phi ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng và rất dễ gây ra hiểu lầm giữa các bên đến từ các nền văn hoá
khác nhau.
Cận ngôn ngữ (paralanguage): Ngôn thanh (vocal), các yếu tố xen ngôn thanh (vocal interferences /
vocal fillers), các loại thanh lưu (types of vocal flow), im lặng (silence / pauses)
Ngoại ngôn ngữ (extralanguage): Ngôn ngữ thân thể (body language / kenesics / action language), ngôn
ngữ vật thể (object language / artifacts / artefacts), ngôn ngữ môi trường (environmental language)
Các loại hình giao tiếp
Giao tiếp ngôn ngữ (spoken or verbal communication): face-to-face, điện thoại, TV, radio, v.v.
Giao tiếp phi ngôn ngữ (non-verbal communication): ngôn ngữ hình thể, cử chỉ, cách ứng xử / ăn mặc,
mùi hương, v.v.
Giao tiếp qua văn bản (written communication): thư từ, email, sách, tạp chí, internet, v.v.
Hình thức hoá (visualizations): biểu đồ, đồ thị, bản đồ, logo, v.v.
Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp phi ngôn ngữ và toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp không thuộc mã ngôn từ (verbal
codes), có nghĩa là không được mã hoá bằng từ ngữ, nhưng có thể thuộc về cả hai kênh (channels):
ngôn thanh (vocal) và phi ngôn thanh (non-vocal). Nó bao gồm các yếu tố cận ngôn như: tốc độ, cường
độ, ngữ lưu, v.v. và các yếu tố ngoại ngôn thuộc ngôn ngữ thân thể như: cử chỉ, dáng điệu, diện hiện,
v.v. và thuộc ngôn ngữ vật thể như áo quần, trang sức, v.v. và thuộc ngôn ngữ môi trường như khoảng
cách đối thoại, địa điểm giao tiếp, v.v.
Đa số các nhà nghiên cứu đều thừa nhận, giao tiếp phí ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong giao
tiếp. Lý do:
Người ta dễ dàng ghi nhớ cái họ nhìn thấy hơn cái họ nghe thấy
Giao tiếp phi ngôn ngữ xuất hiện nhiều hơn giao tiếp ngôn ngữ
Người ta có thể dễ dàng lừa dối bằng giao tiếp ngôn từ, nhưng rất khó lừa dối bằng giao tiếp phi
ngôn từ.
Vai trò giao tiếp phi ngôn ngữ
Hall tuyên bố 60% trong toàn bộ giao tiếp con người thuộc về phi ngôn ngữ
Harrison cho biết, trong giao tiếp trực diện, chỉ có 35% ý nghĩa xã hội (social meaning) là được truyền
tải bằng thông điệp ngôn từ
Mehrabian và Wiener phát hiện thấy 93% ý nghĩa XH được gắn kết với giao tiếp phi ngôn từ.
Birdwhitstell cho rằng một người Mỹ trung bình mỗi ngày thường chỉ sử dụng ngôn từ trong khoảng từ
10 – 11 phút và một phát ngôn trung bình có độ dài thời gian khoảng 2,5s. Ông cũng nhận ra rằng thành
tố ngôn từ trong các cuộc hội thoại trực diện chỉ chiếm gần 35%, trong khi hơn 65% thuộc về các thành
tố phi ngôn từ.
Mehrabian còn đưa ra những con số cụ thể sau: trong tổng hiệu quả của một thông điệp, các yếu tố
ngôn từ (từ ngữ) chỉ tạo ra 7%; trong khi đó, các yếu tố ngôn thanh (giọng nói, sự thăng giáng và các âm
thanh khác) chiếm tới 38% và các yếu tố phi ngôn từ chiếm 55%.
Theo Levine và Adelman, trong giao tiếp thông thường, 93% nội dung thông điệp là do giọng điệu, và
các diện hiện (biểu hiện trên khuôn mặt) quyết định chỉ có 7% thông điệp là được truyền tải bằng ngôn
từ.
Goleman cho rằng 90% cảm xúc của cong người được biểu lộ thông qua các hình thức phi ngôn từ.
Khác biệt văn hoá tạo ra những khó khăn không chỉ trong việc tìm hiểu ngữ nghĩa, câu từ (giao tiếp văn bản),
tìm hiểu ý nghĩa của lời nói (giao tiếp ngôn ngữ), giải thích các cử chỉ, hành động (giao tiếp phi ngôn ngữ) mà
còn ảnh hưởng đến thói quen trong giao tiếp, đàm phán. Ví dụ:
Trong khi Mỹ và Canada có thể tiến hành thảo luận kinh doanh tại bữa ăn trưa, Brazil và Mexico đàm
phán KD phải chính thức
Hầu hết người phương Tây mong đợi một câu trả lời nhanh chóng khi họ thực hiện một tuyên bố hoặc
đặt một câu hỏi. Châu Á có xu hướng mất nhiều thời gian để trả lời – đối với họ im lặng là bình thường,
là thời điểm thích hợp để suy nghĩ những gì đã được nói. Việc họ có thể không được nói bằng ngôn ngữ
mẹ đẻ của họ kéo dài hơn thời gian cần thiết để trả lời.
Quan điểm văn của người Mỹ có thể giải thích sự im lặng của Nhật Bản như sự thô lỗ, thiếu hiểu biết,
hoặc một chiến thuật khôn ngoan để người Mỹ tiết lộ bản thân. Thay vì chờ đợi một phản ứng hoặc việc
người Mỹ hay lấp đầy khoảng trống từ ngữ bằng cách đặt câu hỏi, cung cấp giải thích thêm, hoặc chỉ
đơn thuần lặp lại những gì họ đã nói. Phản ứng này của người Mỹ có thể gây nhầm lẫn cho người Nhật,
họ cảm thấy rằng họ đang bị tấn công bởi những câu hỏi và đề nghị không có đủ thời gian để đối phó và
càng làm cho sự im lặng nhiều hơn và đôi khi dẫn đến xung đột.
Văn hoá cũng ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của thoả thuận mà chúng ta đang cố gắng để thực hiện.
Sự khác biệt về văn hoá sẽ đặt ra các yêu cầu phải thay đổi trong sản phẩm, hệ thống quản lý, nhân sự. Ví
dụ:
Trong đàm phán về nhượng quyền của Mc Donald tại Thái Lan, bên nhận nhượng quyền đã cố gắng
thuyết phục bên nhượng quyền cho phép bán một số món ăn truyền thống của Thái, trong đó, Mc Donald
không muốn điều này. Tuy nhiên, sau khi đạt được thoả thuận doanh thu của các cửa hàng đã gia tăng.
Ở VN, mối quan hệ giữa các nhà quản lý và nhân viên có sự phân cấp nhiều hơn ở Hoa Kỳ, châu Âu, Úc.
Người lao động được thúc đẩy bởi mong muốn làm hài lòng cá nhân của họ và sẵn sàng giúp đỡ họ. Ở
những nơi khác, ví dụ tại Úc, Mỹ, v.v. nhân viên không mong đợi và cũng không muốn nhà quản lý tham
gia vào các vấn đề cá nhân của họ. Vì vậy, một dự án của Úc ở VN có thể phải thay đổi quan niệm của
họ về quan hệ lao động theo VH địa phương.
Văn hoá có thể ảnh hưởng đến phong cách của đàm phán – cách tiếp cận, giải thích, trình bày, phản bác,
kiểm soát bản thân, tổ chức chương trình đàm phán.
Tóm lại, văn hoá ảnh hưởng rất nhiều đến việc giao tiếp trong đàm phán, đến nội dung và phạm vi của
thoả thuận, đến tiến trình đàm phán.
5.2.4.1 Mục tiêu đàm phán: Hợp đồng hay quan hệ?
Các nhà đàm phán từ các nền văn hoá khác nhau có thể có xu hướng xem mục đích của một cuộc đàm phán
khác nhau.
Đối với các nhà đàm phán người Mỹ, hoặc 1 số nước châu Âu, thường xem mục tiêu đầu tiên của đàm phán
là hợp đồng giữa các bên. Trường hợp này, muốn đàm phán thành công, chúng ta cần tập trung vào hợp
đồng, với sự chặt chẽ, cụ thể và chỉ rõ lợi ích từ hợp đồng đó cho đối tác. Đừng tìm cách lợi dụng các quan
hệ đã có (chính thức, phi chính thức, v.v.), cũng như đừng tìm cách tạo lập hoặc hứa hẹn một mối quan hệ
trong tương lai nhằm tác động đến việc ký kết hợp đồng. Tính cụ thể và mình chứng rõ ràng cần được ưu
tiên hơn những gì mang tính hứa hẹn hoặc những gì liên quan đến quan hệ.
Các nhà đàm phán châu Á (Nhật, Trung, v.v.) thường chú trọng đến quan hệ (trước và sau đàm phán). Trường
hợp này, chúng ta cần có sự chuẩn bị kỹ, tìm hiểu về đối tác, không nên tập trung ngay vào hợp đồng, trước
hết hãy tạo ra mối quan hệ nhất định với đối tác (tiếp đón niềm nở, chiêu đãi, tham quan, quà tặng, v.v.) có
thể lợi dụng các quan hệ đã có, cũng như khơi gợi MQH tương lai để hỗ trợ cho đàm phán các điều khoản
của hợp đồng.
5.2.4.2 Thái độ đàm phán: “win – win” hay ‘win – lose”
Trong các nghiên cứu, sự khác biệt về văn hoá ảnh hưởng đến thái độ đàm phán thực sự không quá rõ ràng.
Hơn nữa, các nhà đàm phán có xu hướng sử dụng phối hợp cả 2 thái độ trong đàm phán. Vì vậy, cần có giải
pháp khi đối mặt với 1 đối tác mà thái độ đàm phán căng thẳng, theo kiểu “thắng – thua”. Các gợi ý:
Trước hết, hãy bình tĩnh giải thích kỹ về giao dịch đang đàm phán (đối tác có thể không đủ thông tin
hoặc không có kiến thức đầy đủ như chúng ta về giao dịch đó)
Thứ hai, cố gắng khám phá mong muốn, lợi ích thực sự của phía bên kia. Điều này không phải là dễ dàng,
nhất là đối với các quốc gia có xu hướng bí mật thông tin. Cách tốt nhất là phải cởi mở để đối tác có thể
tiết lộ những gì họ muốn / không muốn.
Thứ ba, để hiểu mong muốn, lợi ích của phía bên kia, nhiều khi phải biết thêm các khía cạnh về VH, lịch
sử của họ, v.v.
Cuối cùng, một khi đã xác định được mong muốn, lợi ích của phía bên kia, phải xây dựng đề xuất hướng
vào đáp ứng những lợi ích của họ. Trong trường hợp này, sự sáng tạo và đổi mới là cần thiết và rất quan
trọng trong phá vỡ bế tắc.
5.2.4.3 Phong cách cá nhân: trang trọng hay thân mật?
Phong cách cá nhân liên quan đến cách một nhà đàm phán nói chuyện với những người khác, cách xưng hô
(tên, họ, học vị, tước hiệu, v.v.), trang phục, nói và tương tác với người khác.
Văn hoá ảnh hưởng lớn đến phong cách cá nhân của các nhà đàm phán:
Một nhà đàm phán với 1 phong cách trang trọng thường chú trọng đến chức danh, tước vị, xưng hô
trang trọng (họ), khẳng định việc giải quyết theo chúc danh của họ, không thích nói chuyện về cá nhân,
đời sống riêng tư, gia đình của họ cũng như của các thành viên trong đoàn đám phán của đối tác, cư xử
trong đàm phán theo cấp bậc, phận sự, v.v.
Một nhà đàm phán có phong cách phi chính thức (thân mật) ít chú trọng đến địa vị cá nhân, xưng hô
thân mật (tên), nhanh chóng tìm cách phát triển MQH thân thiện với cá nhân và các nhóm khác, cư xử
thân mật ít theo cấp bậc, có thể tự làm mọi việc trong quá trình đàm phán.
5.2.4.9 Tổ chức nhóm: Một lãnh đạo hay đồng thuận nhóm?
Trong đàm phán, điều quan trọng là phía bên kia tổ chức như thế nào, người có thẩm quyền để đưa ra cam
kết và quyết định là ai?
Văn hoá là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cách tổ chức đội ngũ đàm phán:
Một số nền VH nhấn mạnh cá nhân (VD nhà đàm phán Mỹ)
Một số nền VH nhấn mạnh nhóm (sự đồng thuận của nhóm), (VD nhà đàm phán châu Á)
Các nền VH nhấn mạnh cá nhân thường tổ chức đội ngũ đàm phán nhỏ, quyết định nhanh và rất dễ đoán
biết ai là người quan trọng nhất.
Các nền VH nhấn mạnh sự đồng thuận thường tổ chức đoàn đàm phán nhiều người, quyết định chậm hơn
và đặc biệt là rất khó xác định người quan trọng nhất là ai.
5.2.4.10 Chấp nhận rủi ro: cao hay thấp?
Một số nền VH sợ rủi ro nhiều hơn những nền VH khác
Nếu chấp nhận rủi ro thấp, nhà đàm phán thường đòi hỏi thông tin đầy đủ từ đối tác, trong khi hạn chế
cung cấp thông tin của mình, e ngại trước các giải pháp, các đề xuất mới, không chấp nhận các giải pháp
thiếu chắc chắn, v.v. và cuối cùng thường chậm trong việc ra quyết định và thời gian đàm phán thường
kéo dài.
Nếu chấp nhận rủi ro cao, họ có thể mạnh dạn cung cấp thông tin, thử cách tiếp cận mới, ra quyết định
nhanh hơn, v.v.
Thích nghi với sự khác biệt này là điều cần thiết.
Trong trường hợp các đối tác có mức độ chấp nhận rủi ro thấp, chúng ta nên:
Tránh sự vội vã trong quá trình đàm phán
Dành sự quan tâm đến đề xuất các quy tắc và cơ chế để làm giảm các nguy cơ trong thoả thuận cho
phía bên kia
Cung cấp đầy đủ thông tin cho đối tác
Tập trung nỗ lực vào việc xây dựng một MQH, bồi dưỡng lòng tin giữa các bên
Xem xét cơ cấu lại để các thoả thuận được tiến hành từng bước, chứ không phải là tất cả cùng 1 lúc.
5.2.5 Bốn quy tắc khắc phục sự khác biệt văn hoá
5.2.5.1 Quy tắc 1: Tìm hiểu văn hoá của đối tác
Đây là giải pháp lý tưởng nhất, tuy nhiên không dễ dàng. Chúng ta phải mất nhiều thời gian để hỏi.
Một số gợi ý quan trọng:
Tìm hiểu lịch sử cơ bản và tình hình hiện tại của nước đối tác
Tìm hiểu kỹ về vấn đề tôn giáo tại nước đối tác và những điều cấm kỵ trong VH giao tiếp của nước đối
tác
Tham vấn những người có kinh nghiệm (những người đã từng kinh doanh tại thị trường đó, quan chức
đang làm việc tại cơ quan ngoại giao tại thị trường đó, những người đã học tập, sinh sống tại đó, v.v.)
5.2.5.2 Quy tắc 2: Đừng quá rập khuôn và máy móc
Nếu quy tắc số 1 trong đàm phán quốc tế là biết văn hoá của phía bên kia, quy tắc thứ 2 là tránh quá phụ
thuộc vào kiến thức đó. Không phải tất cả Nhật Bản đều thích giao tiếp gián tiếp, cũng không phải người Đức
nào cũng đều cho ta biết cụ thể những gì họ nghĩ về một đề nghị
Trong dài hạn, học tập VH là điều vô cùng cần thiết, nhưng trong thời gian ngắn của đàm phán, chúng ta
không nên cố gắng du nhập vào nền VH của đối tác một cách khiên cưỡng, trừ khi chúng ta đã quá thông
thạo. Việc không nắm chắc về VH của đối tác mà lại cố gắng hoà nhập vào có thể sẽ gây ra cảm giác khó chịu
cho đối tác, thậm chí có thể gây ra phản ứng xấu vì đối tác cho rằng bạn đang đùa giỡn với nền văn hoá của
họ.
Ví dụ: KH Nhật sẽ cảm thấy thú vị nếu bạn chào hỏi đúng bằng tiếng của họ, ngược lại sẽ cảm thấy khó
chịu nếu chúng ta phát âm không đúng mà cứ cố làm trong quá trình đàm phán. Hoặc chúng ta có thể
vui khi thấy 1 KH Mỹ ăn bằng đũa thành thạo, nhưng sẽ khó chịu nếu họ cố gắng làm điều đó chỉ để
“cho vui.”
Đối tác nước ngoài sẽ thấy khó chịu nếu họ cảm thấy bạn không đối xử với họ như những cá nhân mà là
robot văn hoá của một dân tộc cụ thể.
5.2.5.3 Quy tắc 3: Hiểu rõ VH của chúng ta và xác định xem những nền VH khác có thể chấp nhận nó như thế
nào?
Trong quy tắc này, đòi hỏi chúng ta phải hiểu rõ VH của mình có những nét chính gì? VD chúng ta thích phát
triển quan hệ, chúng ta thích thoả thuận chi tiết, không thích nói thẳng, mất nhiều thời gian cho đàm phán,
v.v.
Từ việc hiểu rõ VH của mình, hãy đặt ra câu hỏi: Liệu rằng VH của đối tác chấp nhận VH của chúng ta như
thế nào? Có một vài khả năng sau:
Có thể chấp nhận tốt VH của đối tác và chúng ta tương đồng, điều này là thuận lợi cho cả hai.
Có thể chấp nhận, nhưng không phải là tất cả VD đối tác thích nói thẳng, trong khi ta thường không
thích điều này nên tìm cách khác phục
Không thể chấp nhận có sự trái ngược hoàn toàn, VH của ta có thể làm cho đối tác tổn thương. VD:
đối tác rất quan trọng thời gian, trong khi ta lại dễ dãi với nó xung đột có thể xuất hiện tìm giải
pháp để thu hẹp sự khác biệt này.
5.2.5.4 Quy tắc 4: Thu hẹp sự khác biệt về VH (4 cách)
Cách 1: Sử dụng VH của phía bên kia: Việc sử dụng hoặc xác định sự gần gũi với nền VH của phía bên kia
sẽ thuận lợi trong đàm phán và xây dựng 1 MQH.
Tìm cách giao tiếp với đối tác theo văn hoá của họ
Trong điều kiện có thể, tìm cách khẳng định sự tương đồng hoặc sự am hiểu của chúng ta về VH của đối
tác (VD: khéo léo truyền đạt cho đối tác chúng ta đều là người châu Á, hay chúng ta đã có thời gian dài
ở nước đối tác, v.v.). Có thể VH chúng ta không hoàn toàn phù hợp, tuy nhiên sự nhắc nhở này sẽ tạo
ra cảm giác thân thiện giữa 2 bên và thu hẹp khoảng cách.
Cách 2: Sử dụng văn hoá của chúng ta và tìm cách để đối phương thuận theo nó
Trong đàm phán ngắn hạn, có thể thông báo cho đối tác biết những nguyên tắc cơ bản mà chúng ta
muốn đối tác hiểu rõ và tuân theo, cố gắng tìm cớ để đối phương dễ chấp nhận (VD: Pháp luật của
chúng tôi rất nghiêm mình trong việc nhận quà tặng, chúng tôi buộc phải kết thúc nhanh đàm phán vì
đây là đòi hỏi của cấp trên, chính phủ rất coi trọng hợp đồng này, v.v.)
Trong dài hạn (VD hợp đồng liên doanh), có thể sử dụng các hoạt động đào tạo để đối tác am hiểu và
vận hành theo các quy tắc của chúng ta.
Sự nguy hiểm trong kỹ thuật này là đối tác nước ngoài có thể phản ứng và tạo ra nguy cơ xung đột cao.
Cách 3: Sử dụng các yếu tố chung của nền VH 2 bên
Trong thực tế, giữa các nền VH luôn tìm được điểm tương đồng (hoàn toàn hoặc gần gũi)
Thách thức trong phương pháp này là xác định các yếu tố quan trọng nhất của mỗi nền VH và tìm cách
pha trộn chúng thành tổng thể hài hoà mà sẽ cho phép cả 2 bên sử dụng 1 cách hiệu quả.
Giữa các nền VH có nhiều điểm chung, cách này được xem là hiệu quả. Ngược lại, giữa các nền VH quá
khác biệt, cách này khó sử dụng thành công.
Cách 4: Sử dụng 1 nền VH thứ 3 không thuộc về bên nào, hoặc tìm một nền VH dựa trên tính chất nghề
nghiệp, chuyên môn
Có thể các bên không hiểu nền VH của nhau, nhưng cả 2 lại hiểu khá rõ một nền VH thứ ba. VD: Khi đàm
phán với đối tác Thái Lan, chúng ta gặp trở ngại trong giao tiếp, tuy nhiên, cả 2 phát hiện họ có chung 1
sự hiểu biết. Điều này thuận lợi khi họ nói chuyện bằng tiếng Pháp và thu hẹp khoảng cách cá nhân, tạo
sự gần gũi. Các bên đã dùng 1 nền VH thứ 3 trong giao tiếp.
Một biến thể của cách này là sử dụng văn hoá chuyên nghiệp (nghề nghiệp). Trong đàm phán, sự chia
sẻ về VH nghề nghiệp nhiều khi còn mạnh mẽ hơn VH quốc gia. Hai người kỹ sư sẽ dễ nói chuyện với
nhau hơn là kỹ sư với luật sư. Điều này thúc đẩy sự khai thác nhân tố nghề nghiệp trong đàm phán.
5.3 RÀO CẢN THỨ 3: Ý THỨC HỆ (HỆ TƯ TƯỞNG)
Ý thức hệ được hiểu ngắn gọn là quan điểm chính trị, chủ yếu xoay quanh quan điểm khi trả lời các vấn đề
như: MQH giữa cá nhân và cộng đồng như thế nào? Làm thế nào MQH đó phải được đảm bảo và thực thi?
Làm thế nào nên các phương tiện SX hàng hoá, dịch vụ được phân chia và quản lý? Vai trò của công dân
trong XH? Vai trò của nhà nước trong cuộc sống người dân? Làm thế nào nên nhà nước và công dân của
mình đối xử với các công dân của các quốc gia khác?
Không có 2 hệ tư tưởng trả lời tất cả những câu hỏi này một cách chính xác như nhau. Mỗi tư tưởng có lời
giải thích riêng của mình về những gì là tốt / xấu trong XH, mỗi người có cách tiếp cận riêng của mình để sửa
chữa TNXH. Những câu trả lời của họ đôi khi lại là nền tảng quan trọng trong các thoả thuận kinh doanh.
Lích sử, tôn giáo, trình độ phát triển, v.v. là những yếu tố tác động và hình thành ý thức hệ phổ biến trong 1
quốc gia.
5.3.1 Sự phức tạp và khó lường của ý thức hệ
Trên thế giới, quan điểm chính trị chủ đạo giữa các quốc gia là rất đa dạng (VD: CN cộng sản, CN tư bản,
CNXH, CN dân tộc, CN cực đoan Hồi giáo, CN phát xít, CN cá nhân, CN Mao, N xã hội Ả Rập, v.v.)
Trong từng hệ tư tưởng lại có sự khác nhau (VD: CN tư bản của Mỹ khác với Canada, CNXH tại Trung Quốc
khác với Bắc Triều Tiên, v.v.)
Trong từng quốc gia, quan điểm chính trị cũng có mức độ “đậm”, “nhạt” khác nhau, hoặc tồn tại nhiều ý
thức hệ (do yếu tố lịch sử, dân tộc, tôn giáo, v.v.). Ví dụ:
Trong XH phương Tây, mặc dù ý thức hệ chủ yếu là tư bản, nhưng vẫn có một bộ phận mang ý thức hệ
XHCN, dân tộc chủ nghĩa, v.v.
Trong XH Ai Cập, người ta có thể nhìn thấy những tư tưởng của CNTB phương Tây, CNXH Ả Rập, và CN
cực đoan Hồi giáo cạnh nhau trong cùng 1 văn phòng hay trong nhóm đàm phán.
Trong các nước Đông Âu, mặc dù đã chính thúc từ bỏ ý thức hệ XHCN nhưng nhiều nhà quản lý vẫn có
thể giữ tư tưởng cũ.
5.3.2 Tác động của ý thức hệ đối với đàm phán KDQT
Trong thực tế, ý thức hệ như một loại tôn giáo
Chúng ta có thể hoà nhập hoặc thông cảm trong giao tiếp, nhưng rất khó hoà nhập, thay đổi các vấn đề
liên quan đến tôn giáo và ý thức hệ của mình.
Xung đột về ý thức hệ thường rất nghiêm tọng vì nó đụng chạm đến hệ tư tưởng được xây dựng và tôn
thờ trong mỗi cá nhân.
Chúng ta không nên hy vọng và cố gắng làm cho đối tác thay đổi tư tưởng của họ và ngược lại.
Trong đàm phán KDQT, ý thức hệ có tác động kép đến hoạt động này:
Ý thức hệ ảnh hưởng đến quá trình đàm phán
Ý thức hệ ảnh hưởng đến bản chất của giao dịch cuối cùng là thoả thuận mà các bên muốn đạt được.
Sự khác biệt ý thức hệ giữa hai bên có thể làm phức tạp quá trình đàm phán và xây dựng thoả thuận giữa
các bên theo nhiều cách khác nhau.
Đầu tiên, ý thức hệ có tính đối lập. Ý thức hệ cho người ta nhận định người tốt và kẻ xấu, bạn bè và kẻ
thù, đúng và sai. Sự khác biệt về ý thức hệ nếu mang vào bàn đàm phán có thể làm gia tăng sự nghi ngờ
về ý định, lòng trung thực và độ tin cậy giữa các bên. Điều này dẫn đến việc các bên thay vì cùng nhau
cởi mở trong đàm phán để giải quyết 1 vấn đề kinh doanh, lại xem nhau như là kẻ thù của ý thức hệ,
luôn cẩn thận theo dõi và dò xét. Cuối cùng, làm cho đàm phán bị phá vỡ hoặc không đạt được kết quả
tốt như nó xứng đáng có được.
Thứ hai, sự khác biệt về ý thức hệ có thể làm phức tạp thêm thông tin liên lạc giữa các nhà đàm phán.
Việc sử dụng các thuật ngữ ý thức hệ có thể là điều tự nhiên đối với 1 bên nào đó, nhưng nó có thể là
sự khiêu khích đối với phía bên kia.
Thứ ba, ý thức hệ có thể dẫn đến các nhà đàm phán gặp phải những trở ngại không thể đàm phán
được. Chẳng hạn, ý thức chính phủ phải nắm quyền kiểm soát các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế,
có thể dẫn đến trở ngại trong việc đàm phán góp vốn liên doanh, khi chính phủ luôn muốn chiếm 51%
cổ phần trong công ty liên doanh, nhà đầu tư nước ngoài không thể đàm phán để thay đổi quy định này.
Thứ tư, ý thức hệ cũng có thể làm phức tạp bản chất của thoả thuận và MQH giữa các bên khi họ đã
ký hợp đồng. Các lĩnh vực của sự khác biệt về ý thức hệ thường xuyên phải đối mặt là đầu tư tư nhân,
lợi nhuận, các quyền cá nhân và ưu đãi. Trong khi một số quốc gia không có sự phân biệt giữa các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, thì 1 số nước khác lại đưa ra các quy định bất lợi hoặc khó khăn cho nhà
đầu tư nước ngoài.
5.3.3 Cách đối phó với rào cản về ý thức hệ
Chiến lược cơ bản là né tránh vấn đề này. Và nguyên tắc, chúng ta không thể tranh luận về vấn đề tư tưởng,
không thể thay đổi niềm tin của đối tác và ngược lại. Do đó, nếu muốn thành công trong đàm phán quốc tế,
tốt nhất là né tránh nó.
Tám quy tắc giúp vượt qua rào cản ý thức hệ trong khi đàm phán:
1. Biết rõ tư tưởng của mình
2. Một khi đã biết rõ tư tưởng của mình, chúng ta sẽ không rao giảng và đề cập đến với đối tác
3. Biết tư tưởng của phía bên kia và cẩn thận với nó
4. Tìm hiểu các bộ phận tư tưởng ở phía bên kia (ý thức hệ của người mà chúng ta đang đàm phán, ý thức của
tổ chức mà ta muốn có thoả thuận với họ, và các hệ tư tưởng phổ biến trong các quốc gia mà chúng ta muốn
có (thoả thuận).
5. Tránh thảo luận về những vấn đề ý thúc hệ, nên tập trung và lợi ích cá nhân
6. Hãy tìm khoảng trống giữa hệ tư tưởng và thực tế
7. Hãy thử để cấu trúc chương trình đàm phán xung quanh những trở ngại về ý thúc hệ
8. Duy trì sự bảo mật
5.4 RÀO CẢN 4: TỔ CHỨC NƯỚC NGOÀI, TỆ QUAN LIÊU
Đằng sau các hoạt động đàm phán kinh doanh quốc tế là các công ty, các MQH và thận chí có sự xuất hiện
của các cơ quan chính phủ và các công ty nhà nước.
Trong hầu hết các trường hợp, các nhà đàm phán toàn cầu là đại diện. Họ đang đàm phán thay mặt cho tổ
chức của họ, chứ không phải bản thân mình. Công việc của họ là để tìm cách để tổ chúc của 2 bên thống
nhất về 1 MQH kinh doanh thuận lợi.
Mặc dù đàm phán là một hoạt động bị tác động mạnh mẽ bởi tính cách cá nhân, kỹ năng và kinh nghiệm của
cá nhân, kỹ năng và kinh nghiệm của các nhà đàm phán, nó cũng là một hoạt động “văn phòng” bị ảnh hưởng
mạnh bởi bản chất của tổ chức có liên quan.
Với đặc tính này, một nhà đàm phán không chỉ quan tâm về người ngồi đối diện trong đàm phán mà cũng
phải liên tục suy nghĩ về tổ chức, bộ máy văn phòng mà cả hai đều là đại diện.
Khi thương lượng bất kỳ thoả thuận nào, hãy nhớ rằng các cuộc đàm phán nội bộ đang diễn ra trong tổ chức
của đối tác và cả trong tổ chức của chúng ta về thoả thuận đang được đàm phán
5.4.1 Ba cuộc đàm phán liên quan đến thoả thuận
Ký kết hợp đồng luôn luôn liên quan đến ít nhất 3 cuộc đàm phán riêng biệt nhưng có liên quan đến ít nhất
ba cuộc đàm phán riêng biệt nhưng có liên quan: các cuộc thảo luận nội bộ trong cả hai tổ chức
Những gì xảy ra trong 3 cuộc đàm phán có thể ảnh hưởng đến quá trình ký kết hợp đồng và cuối cùng là nội
dung của các thoả thuận; do đó, các nhà đàm phán phải tính đến cả ba cuộc đàm phán trong việc lập kế
hoạch và thực hiện các chiến lược đàm phán của họ
Trước khi lao vào một cuộc đàm phán với tổ chức nước ngoài, chúng ta cần phải cố gắng tìm hiểu bộ máy
văn phòng của đối tác, cách họ đưa ra quyết định, các tổ chức có thể tham gia vào các cuộc thảo luận, v.v.
Từ đó quyết định cách tiếp cận và thâm nhập vào tổ chức mà chúng ta muốn đàm phán
Thay vì lao vào đàm phán nhiệt tình nhưng thiếu sự quan sát, phối hợp, nhà đám phán không ngoan tìm
cách trả lời một loạt các câu hỏi và xem xét một loạt các lựa chọn trước khi thực sự đàm phán.
5.4.2 Những nguy cơ
Kết quả đám phán phụ thuộc vào quyết định của một hoặc một số tổ chức khác chú không phải tổ chức mà
chúng ta trực tiếp đàm phán Mất nhiều thời gian chờ đợi, kết quả cuối cùng nhiều khi không như mong
đợi Sai lầm vì nôn nóng, vì không tính đến lợi ích của các bên liên quan khác. Ví dụ:
Đàm phán với một tổ chức mà kết quả cuối cùng phụ thuộc vào phê duyệt của một cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền (ví dụ đàm phán với 1 công ty Nhà nước, trong đàm phán chuyển giao một số loại công
nghệ mà chính phủ không khuyến khích, v.v.) Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đàm phán với tổ
chức đó là đủ, thực tế phải có mối liên hệ với cơ quan có thẩm quyền.
Đàm phán với một tổ chức mà kết quả cuối cùng phụ thuộc vào nhiều cơ quan có thẩm quyền Chúng
ta có thể sai lầm khi tập trung đàm phán với một tổ chức và một cơ quan có thẩm quyền, trong khi
không hiểu rằng, kết quả phụ thuộc vào nhiều cơ quan khác.
Đàm phán với một tổ chức mà họ là chi nhánh của một công ty lớn, họ không có đủ thẩm quyền quyết
định Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng mọi việc sẽ được quyết định nhanh chóng.
Kết quả đàm phán bị ảnh hưởng bởi tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong tổ chức mà chúng ta đàm phán,
hoặc trong các tổ chức liên quan khác.
Kết quả đàm phán bị ảnh hưởng bởi sự quan liêu, tham nhũng trong chính tổ chức của chúng ta.
5.4.3 Khắc phục nguy cơ từ phía đối tác
Tìm hiểu tổ chức của đối tác
Thay vì lao vào các cuộc đàm phán với hi vọng vừa đàm phán, vừa tìm hiểu, học tập, chúng ta nên đầu
tư thời gian và nguồn lực vào việc tìm hiểu tổ chức mà chúng ta sẽ đàm phán. Tức là khám phá cấu trúc
của tổ chức đo, các tổ chức có liên quan đến thoả thuận này.
Việc tìm hiểu có thể thông qua các nhà tư vấn địa phương, các thông tin của chính phủ, thông tin trên
website của các công ty, v.v.
Khi tìm hiểu, cần trả lời các câu hỏi:
Tổ chức chúng ta đàm phán có thẩm quyền như thế nào? Nó có thực sự quyết định đến kết quả đàm
phán không?
Những tổ chức nào có liên quan đến vấn đề chúng ta đàm phán? Việc hợp tác với họ như thế nào?
Tổ chức mà chúng ta đàm phán phải hợp tác với các tổ chức khác như thế nào để quyết định và thực
hiện vấn đề đàm phán của chúng ta?
Bản chất của MQH giữa tổ chức mà chúng ta đàm phán với các tổ chức, cơ quan khác là gì? Nếu xuất
hiện những MQH mạnh mẽ, thì cách thúc nào để tạo sự thuận lợi cho chúng ta trong đàm phán?
Tìm hiểu nhóm đàm phán của đối tác:
Thành phần nhóm đàm phán của đối tác (thông tin này được biết thông qua tên tuổi, chức vụ, v.v.)
Thẩm quyền và mức độ ảnh hưởng của nhóm đàm phán đối tác (rất khó đánh giá, chúng ta có thể nắm
bắt thông qua chức vụ, cách họ trình bày, thảo luận, cách học kết luận, v.v. Nếu quá trình đàm phán
chậm chạp, chúng ta có thể dự đoán đoàn đàm phán này không có đầy đủ thẩm quyền, quan sát kỹ cách
bố trí, cách giao tiếp, cử chỉ, v.v. là điều cần thiết)
Người phụ trách đoàn đàm phán của đối tác. Biết được cho phép chúng ta tập trung quan sát, xử lý
thông tin một cách tập trung vào nhân vật quan trọng. Người phát ngôn chưa chắc là nhân vật quan
trọng nhất (đối với các nước phương Tây, người phát ngôn thường có thẩm quyền cao nhất, ngược lại
ở châu Á, người ít nói nhất đôi khi là nhân vật quan trọng nhất).
Sự ổn định trong thành phần nhóm đàm phán của đối tác. Việc thay đổi thành phần đàm phán có thể
là chiến lược hoặc đôi khi chỉ là giải pháp tình thế của đối tác. Cần đánh giá sự thay đổi là chấm dứt hay
chỉ là sự tiếp nối.
Chương trình đàm phán của đối tác. Cần có sự phân biệt giữa chương trình nghị sự chính thúc và chương
trình nghị sự mang tính cá nhân. Nhiều nhà đàm phán không chỉ đứng trên lợi ích của tổ chức họ mà
nhiều khi đứng trên lợi ích cá nhân. Cần nhận định nhanh và xử lý kịp thời các vấn đề nhạy cảm.
5.4.4 Xử lý sự bất ổn trong đoàn đám phán của đối tác
Cần công nhận khả năng mất ổn định ngay từ đầu. Cần đánh giá khả năng xảy ra những thay đổi và tác động
của chúng đối với sự tiến bộ của thỏa thuận (Một sự thay đổi người đứng đầu của nhóm đàm phán Trung
Quốc đôi khi chỉ là một chiến thuật, cần tránh việc mắc bẫy, ngược lại, một sự thay đổi người đứng đầu trong
đàm phán ở Châu Phi có thể xem là đàm phán phải thực hiện lại từ đầu)
Cố gång ghi chép lại bằng văn bản những gì đạt được trong từng lần đàm phán và chuyển giao cho đối tác.
Tìm cách nhận biết đặc điểm xuất hiện của các thành viên trong đoàn đàm phán của đối tác và liên kết nó
với diễn biển đàm phán.
Chuẩn bị kỹ và luôn luôn mang theo những thỏa thuận sơ bộ, những bản ghi nhớ, những biên bản, v.v. đã
được hai bên ký kết trong những lần đàm phán trước và tìm cách liên kết nó với tiến trình đàm phán và sự
thay đổi trong đoàn đám phán của đối tác.
Cần có sự kiên nhẫn. Những người đàm phán mới có thể không biết hoặc cố tình không biết những gì đã đạt
được trước đó, có thể không phải lỗi của họ hoặc là chủ định của họ, chúng ta cần kiên nhẫn và kiên định
lập trường, tránh rơi vào ma trận do đổi phương sắp đặt. Mọi sự nôn nóng, nóng giận đều phải được kiểm
soát một cách thích hợp.
5.4.5 Xử lý các vấn đề nhạy cảm trong đàm phán với đối tác
Cần nhận thức rằng trong nhiều nền văn hóa quà tặng cá nhân là một phần thiết yếu của mối quan hệ. Không
phải tất cả những món quà như vậy đều có nghĩa là tham nhũng hoặc hối lộ. Việc từ chối những đề nghị về
các món quà thiếu khôn ngoan, có thể là sự chối bỏ thỏa thuận. Cố gắng thiết lập một chính sách trong công
ty về các loại quà tặng phù hợp với pháp luật và đạo đức kinh doanh.
Nếu công ty của đã chuẩn bị một quy tắc đạo đức kinh doanh hoặc tài liệu tượng tự, hãy cung cấp cho phía
bên kia trước hoặc bắt đầu đàm phán như là một phần của tài liệu giới thiệu.
Một mặt khẳng định sự tôn trọng của chúng ta đến văn hóa của đối tác trong vấn đề quà tặng, những cũng
khéo léo cung cấp cho đối tác những thông tin về pháp luật của chúng ta liên quan đến quà tặng và những
nguy cơ nếu quan hệ kinh doanh được thiết lập trên lợi íich cá nhân, khả năng kiếm soát chặt chẽ của pháp
luật chúng ta đối với những vấn đề nhay cảm này
Có thể làm chệch hướng nhu cầu hối lộ bằng việc đóng góp hoặc cung cấp một dịch vụ mang lại lợi ích quốc
gia hay cộng đồng địa phương...
Nếu tham nhũng là phổ biến trong một tổ chức mà chúng ta đang đàm phán, chúng tacó thể không có lựa
chọn nào khác ngoài việc từ bỏ thỏa thuận này. Nếu tham nhũng không phải là phổ biến, chúng ta có thể
tìm cách tiếp cận với các bộ phận, con người "trong sạch" để thúc đấy tiến trình. Tìm cách khẳng định các
lợi ích to lớn mà chúng ta đem lại có thể sẽ giúp cho người đàm phán nhận được những lợi ích hợp pháp
thay vì tìm kiếm các lợi ích phi pháp.
5.4.6 Khắc phục các nguy cơ từ tổ chức của chúng ta
Để thành công, chúng ta không chỉ tìm cách khắc phục các nguy cơ từ đối tác mà còn khắc phục các nguy cơ
từ chính tổ chức của chúng ta.
Một thực tế là việc ký kết hợp đồng đối khi cần có sự phê duyệt của các tổ chức khác ngoài tổ chức của
chúng ta, hoặc có sự tham gia của các bộ phận khác trong tổ chức của chúng ta
Các gợi ý:
Nắm rõ được mối quan hệ giữa tổ chức của chúng ta và các tổ chức liên quan khác. Nắm rõ quy trình,
thủ tục, quy tắc... và cố gắng làm đúng ngay từ đầu để tránh sức ép
Nắm rõ được mối quan hệ chức năng trong tổ chức của chúng ta, tìm cách loại bỏ động cơ, hiềm khích
cá nhân vào quá trình ra quyết định. Yêu cầu tổ chức của chúng ta phải có những quy định rõ ràng về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn... Quan hệ chức năng cho phép sự chuyên môn hóa cao, nhưng nó
cũng làm chậm quá trình giải quyết vấn đè, vì thế cần rà soát tổ chức của mình và điều chỉnh nó thích
hợp nhất
Tình trạng hối lộ, tham nhũng có thể xảy ra từ phía chúng ta và các tổ chức có liên quan, cơ chế kiểm
soát phải được hoàn thiện để hạn chế các tác động này đến đàm phán
Cung cấp các báo cáo thường xuyên lên cấp trên là một cách kiểm soát tốt, tìm cách để cấp trên tham
gia sâu vào tiến trình đàm phán
5.5 RÀO CẢN THỨ 5: CHÍNH PHỦ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
Theo UN, đến năm 2007, thế giới có 194 quốc gia là thành viên của LHQ. Ngoài ra còn có khoảng 10 quốc gia
không phải là thành viên được hoặc không được các quốc gia khác công nhận
Mỗi quốc gia có một chính phủ riêng và hệ thống pháp luật riêng
Trong các giao dịch mà chính phủ có liên quan, thì sự khác biệt về chính phủ là một trở ngại. Tuy nhiên các
giao dịch này không phải là phổ biến và hơn nữa đa số các quốc gia đều có những thay đồi nhằm mục tiêu
phục vụ cho phát triển kinh tế.
Trong khi vấn đề trở ngại về chính phủ ngày càng có xu hướng giảm thì những trở ngại về pháp luật trong
đàm phán luôn hiện hữu
Hệ thống pháp luật một quốc gia phân chia thành hiến pháp (constitution), luật công (public law) và luật tư
(private law)
5.5.1 Tìm hiểu về quan hệ giữa pháp luật và hợp đồng
Hiến pháp: Đa số các nước đều có nhưng không phải là tất cả. Về cơ bản, hiến pháp được soạn ra nhằm hệ
thống hóa những nguyên tắc được chấp nhận chung, dùng để điều hành đất nước. Và tất nhiên là nó khác
nhau ở mọi quốc gia. Hiến pháp tập trung quy định về hệ thống chính quyền trong một nước và quyền của
công dân. Tuy nhiên theo thời gian, phạm vi điều chỉnh của hiến pháp có xu hướng được mở rộng sang các
quan hệ khác (chính trị, kinh tế, văn hóa...) Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, mọi ngành luật đều
xuất hiện trên cơ sở của hiến pháp
Luật công: Quy định nghĩa vụ của công dân với nhà nước (nhà nước đại diện và bảo vệ quyền lợi cho công
dân và cộng đồng của họ) Mang tính bắt buộc (phải tuân thủ)
Luật tư: Quy định nghĩa vụ của công dân đối với nhau Không mang tính bắt buộc, mang tính định hướng
(các bên được quyền tự do thỏa thuận, nếu không thỏa thuận thì áp dụng theo luật)
5.5.2 Quan hệ giữa luật pháp, kinh doanh và hợp đồng
Khi kinh doanh trên một quốc gia nào đó, chúng ta phải tuân thủ theo những quy định bắt buộc của quốc
gia đó (luật đầu tư, luật DN, luật thuế, kế toán, lao động, môi trường...)
Quan hệ kinh doanh giữa các bên được hình thành trên các thỏa thuận mà chúng ta thường gọi là hợp đồng.
Các thỏa thuận này:
Không được làm thay đổi nghĩa vụ của các bên theo quy định của luật công. Chúng ta có thể thỏa thuận
bên phải thực hiện nghĩa vụ, nhưng không được làm thay đổi nghĩa vụ đã được quy định
Các bên được tự do thỏa thuận những vấn đề pháp luật không bắt buộc, hay những vấn đề thuộc phạm
vi điều chỉnh của luật tư
Một hợp đồng được ký kết tức là các bên đã thỏa thuận làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự đối với nhau, nhưng không được làm thay đổi nghĩa vụ đối với nhà nước của các bên
Khi thỏa thuận các hợp đồng quốc tế, những vấn đề mang tính bắt buộc có thế không được thảo luận và đưa
vào hợp đồng, mà các bên phải tự biết và làm đúng các nghĩa vụ này. Khi vi phạm pháp luật sẽ “trừng tri"
chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Đây là một rủi ro lớn khi chúng ta không am hiểu pháp luật của nước sở
tại. Ngoài ra các quy định bắt buộc cũng có thể là cơ sở để giải quyết các xung đột liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của các bên với nhau trong trường hợp phát sinh tranh chấp không thể thương lượng được.
Khi thỏa thuận hợp đồng quốc tế, những vấn đề không có tính bắt buộc được các bên tự do thỏa thuận, nếu
không thỏa thuận, thỏa thuận không rõ hoặc mâu thuẫn... các bên có thể tự giải quyết với nhau nếu xung
đột phát sinh. Trường hợp không giải quyết được, có thể phải căn cứ vào quy định của pháp luật áp dụng
cho hợp đồng để giải quyết xung đột đó. Vấn đề là luật nào sẽ áp dụng cho hợp đồng. Có thể: Luật của nước
chúng ta, luật của nước đối tác, điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế tùy các bên thỏa thuận - trừ
các trường hợp bị bắt buộc
Hợp đồng là một loại luật đặc biệt: luật áp dụng riêng cho hai bên làm ra hợp đồng, có thế đó là hai công
dãn hoặc hai công ty trong cùng một quốc gia hoặc khác quốc gia. Luật đặc biệt này kiểm soát hành vi ứng
xử của bên trong một số khía cạnh, nhưng không phải là tất cả. Trong nhiều trường hợp, chúng ta phải tìm
kiếm câu trả lời cho hành vi ứng xử của các bên trong quy định của luật áp dụng cho hợp đồng
Trong trường hợp khi ký kết hợp đồng, các bên không chọn luật áp dụng mà nếu phát sinh tranh chấp phải
xét xử bằng tổ tụng (tòa án hoặc trọng tài), luật áp dụng sẽ do cơ quan xét xử quyết định dựa vào các yêu
tố: nơi hợp đồng ký kết, nơi người bán có trụ sở chính khi thực hiện chào hàng; nơi hợp đồng thực hiện chủ
yếu; nơi xét xử được thỏa thuận trong hợp đồng, thậm chí còn xem xét cả đến đồng tiền thanh toán, đơn vị
đo lường số lượng...
Luật Dân sự Việt Nam quy định, trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các bên đuợc tự do lựa chọn
nguồn luật áp dụng cho hợp đồng, nếu các bên không thỏa thuận, thì sẽ áp dụng theo luật của quốc gia nơi
hợp đồng thực hiện chủ yếu. Các hợp đồng liên quan đến bất động sản tại Việt Nam, các hợp đồng được ký
kết và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam phải áp dụng luật Việt Nam
5.5.3 Một vài ví dụ về điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng
Luật áp dụng: Mọi khía cạnh của hợp đồng này sẽ được hiểu và diễn giải theo Luật của Nước Cộng hoà Nhân
dân Bangladesh, bao gồm cà những đạo luật được thông qua/ được soạn ra / có hiệu lực trong thời hạn của
hợp đồng.
Luật áp dụng: Không tính đến địa điểm kí thoả thuận, địa điểm thực hiện hợp đồng, hoặc các vấn đề khác,
thoả thuận này và tất cả các sửa đổi, hiệu chỉnh, thay đổi, hay bổ sung cho bản hợp đồng, sẽ được hiểu theo,
và điều chỉnh bởi và mối quan hệ pháp lý giữa các Bên của hợp đồng này được định đoạt theo luật pháp của
nước Cộng hoà Philippines
Luật điều chỉnh: Những điều kiện chung và hợp đồng này được điều chỉnh bởi luật pháp Italy
5.5.4 Các nguy cơ và các khắc phục rào cản về pháp luật
Trừ khi thực sự thông thạo, thì pháp luật nước ngoài là một "hộp đen" đối với chúng ta. Vì thế những nguy
cơ có thể xuất hiện là:
Không biết rõ quy định bắt buộc của pháp luật nước ngoài liên quan đến thỏa thuận kinh doanh được
tiến hành trên đất nước của họ
Không phân biệt những gì được tự do thỏa thuận và những gì không được phép thỏa thuận theo pháp
luật của đối tác
Tin vào những phát biểu của đối tác liên quan đến pháp luật, trong khi họ cũng không am hiểu luật pháp
của nước họ
Sử dụng nhiều thuật ngữ, từ ngữ mà không được định nghĩa rõ ràng
Để nội dung của thỏa thuận phụ thuộc quá nhiều vào pháp luật của nước ngoài trong khi chúng ta không
hiểu biết gì về nó
Cách khắc phục
Tìm hiểu những quy định bắt buộc của pháp luật nước ngoài
Sử dụng tư vấn pháp lý nước ngoài
Cố gắng đàm phán với đối tác trong việc sử dụng luật mà chúng ta thông thạo hoặc điều ước quốc tế,
tập quán quốc tế để điều chỉnh hợp đồng
Thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng (rõ, chính xác, ngắn gọn và đầy đủ)
5.6 RÀO CẢN 6: CHUYỂN TIỀN
Mỗi quốc gia có một đồng tiền riêng, các giao dịch quốc tế thường liên quan đến việc chuyển đổi đồng tiền
này sang đồng tiền khác, và việc di chuyển tiền từ quốc gia này sang quốc gia khác
Các thách thức đặt ra:
Thứ nhất, giá trị của các đồng tiền trên thế giới liên tục thay đổi và dao động. Điều này làm nảy sinh rủi
ro ngoại hối
Thứ hai, đồng tiền nhiều nước không phải là tự do chuyển đổi sang các đồng tiền khác, hoặc không dễ
dàng chuyển sang ngoại tệ. Điều này tạo ra rủi ro trong việc chuyển đổi
Thứ ba, quy định chuyển tiền ra nước ngoài của nhiều quốc gia thường rất chặt chẽ, gây ra những khó
khăn và rủi ro trong việc thanh toán (nhẹ là mất thời gian, chi phí, nghiêm trọng hơn là không thể chuyển
tiền ra nước ngoài được)
5.6.1 Sự thay đổi giá trị đồng tiền
Như mọi loại hàng hóa, giá trị của đồng tiền do các lực lượng cung và cầu trên thị trường quyết định. Cung
và cầu đối với tiền tệ của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả tỷ lệ lạm phát của nước này,
lãi suất, tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị và các hành động của cơ quan quản lý tiền tệ của quốc gia đó.
Đa số các quốc gia phát triển sử dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn, giá trị đồng bản tệ do thị trường quyết
định, chính phủ chỉ can thiệp bằng các biện pháp gián tiếp trên thị trường mở.
Ngược với cơ chế này, hầu hết các nước thị trường mới nổi tìm cách quản lý tỷ giá hối đoái của họ để giá trị
đồng tiền của họ không bị ràng buộc chặt chẽ với các lực lượng cung, cầu. Các ngân hàng trung ương ở các
nước này cho phép giá trị đồng tiền của họ dao động trong biên độ hẹp hoặc “cố định" theo một đồng tiền
quốc tế hàng đầu (thường là đô la Mỹ).
Nếu giá trị của đồng nội tệ bị giảm, các ngân hàng trung ương sẽ mua đồng tiền của mình bằng cách sử
dụng quỹ dự trữ ngoại hối để làm tăng giá trị đồng nội tệ.
Nếu giá trị đồng bản tệ tăng, các ngân hàng trung ương sẽ bán đồng tiền của mình, do đó làm giảm giá
trị của nó.
Nếu một quốc gia gặp khó khăn kinh tế và các ngân hàng trung ương không có dự trữ ngoại hối dồi dào,
họ có thể cho phép đồng nội tệ mất giá mạnh để tìm một diểm cân bằng mới, đây là tình trạng phá giá
đồng tiền. Tình trạng này có thế kéo theo khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng tài chính
5.6.2 Rủi ro ngoại hối
Đối với một nhà đàm phán, các thỏa thuận quốc tế có liên quan đến ngoại tệ luôn hàm chứa những nguy cơ,
nhất là trong trường hợp họ phải trả tiền hoặc được thanh toán bằng một đồng tiền khác so với đông tiền
hạch toán trong sổ sách của mình
Trường hợp nhận tiền thanh toán bằng ngoại tệ (đồng tiền thanh toán khác với đồng tiền hạch toán
trong số sách), mà đồng tiền này bị giảm giá trị trong khoảng thời gian từ sau khi ký thỏa thuận đến khi
thanh toán, thì sẽ làm cho giá trị thu về giảm đi so với kỳ vọng của doanh nghiệp và phát sinh rủi ro
Tương tự như vậy, nếu một doanh nghiệp phải trả bằng ngoại tệ, giá trị của đồng tiền đó có thể tăng
làm cho chi phí thực sự để thanh toán tăng lên, làm phát sinh rủi ro
Các nguy cơ trên đây càng trở nên trầm trọng hơn nếu hợp đồng có tính dài hạn
5.6.3 Cách giảm thiểu rủi ro
Chuyển giao rủi ro cho đối tác
Để tránh những rủi ro ngoại hối, chúng ta có thể đề xuất việc thanh toán bằng đồng tiền nội tệ của nước
mình (điều này gần như không thể thực hiện được trong điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam).
Trong khi theo đuổi chiến lược này, cần phải thiết lập một quy luật khách quan và biện minh cho việc
chuyển giao rủi ro ngoại hối cho phía bên kia. Một nguyên tắc hữu ích là bên có khả năng tốt hơn để
chịu rủi ro tỷ giá hối đoái sẽ là người chịu được. Vì vậy, nếu chúng ta có nguy cơ phải gia tăng chi phí
đáng kể, hoặc có nguy cơ bị giảm thiểu giá trị đáng kể so với đối tác khi sử dụng ngoại tệ, chúng ta có
thể thuyết phục đối tác sử dụng đồng nội tệ của nước mình và phía bên kia phải chịu rủi ro hối đoái
Một biến thể của kỹ thuật chuyến giao rủi ro ngoại hối cho phía bên kia là chúng ta chấp nhận thanh
toán hoặc được trả bằng ngoại tệ, nhưng sử dụng điều kiện bảo đảm ngoại hối (số tiền thanh toán cuối
cùng được tính toán theo tỷ giá hiện tại).
VD: Doanh nghiệp VN có thể chấp nhận phía Nhật Bản thanh toán cho mình bằng JPY, nhưng theo tỷ giá
hiện tại là 1JPY = 200VND. Giả sử tại thời điểm thanh toán 1JPY = 180VND, thì số tiền thanh toán cuối
cùng bằng JPY phải tăng lên theo mức độ mất của JPY = Số tiền phải thanh toán dự kiến x 200/180)
Chấp nhận rủi ro, nhưng phải bảo vệ mình
Một khi chấp nhận thanh toán hoặc được trả tiền bằng ngoại tệ, tức là chúng ta chấp nhận rủi ro. Tuy
nhiên, việc phải đối mặt với rủi ro cũng hàm ý một lợi ích: nếu đồng tiền thanh toán biến động theo
chiều hướng có lợi, đây chính là phần thường cho rủi ro mà chúng ta phải gánh chịu. Tuy nhiên, chúng
ta có thể không nhận phần thường đầy rủi ro này bằng cách sử dụng các kỹ thuật phòng chống rủi ro
ngoại hối.
Các kỹ thuật phòng ngừa rủi ro khá đa dạng và đều làm phát sinh chi phí. Các chi phí này có thể được
xác định trước và được đưa vào tính toán trong phương án kinh doanh, phương án đàm phán với đối
tác nhằm bảo đảm lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp một cách chẩc chấn và trong giới hạn cho
phép.
Chia sẻ rủi ro
Một cách công bằng hơn là hai bên thương lượng để chia sẻ rủi ro, mặc dù có thể mức độ không bằng
nhau. Việc chia sẻ rủi ro có nhiều giải pháp, chẳng hạn:
Thoả thuận thanh toán bằng đồng tiền của cả hai quốc gia (VD: 40% là đồng tiền của bên A và 60%
đồng tiền của bên B)
Thanh toán bằng đồng tiền của một nước khác không phải là đồng tiền của cả hai bên.
Việc chia sẻ rủi ro tất nhiên đều không loại trừ rủi ro cho cả hai bên, nhưng nó hợp lý và công bằng,
chúng ta nên nghĩ đến nó nếu có thể.
5.6.4 Rủi ro chuyển tiền và cách hạn chế
Rủi ro
Tại một số quốc gia mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi hoặc chuyển đổi một phần:
Đồng tiền không được tự do chuyển đổi tức là không thể chuyển đổi sang một đồng tiền khác
Đồng tiền tự do chuyển đổi từng phần tức là chính phủ quy định mức độ hoặc trường hợp được
chuyển đổi cụ thể
Tại một số quốc gia hoặc trong một trường hợp đặc biệt, có thể không cho phép chuyển tiền ra nước
ngoài
Khi đàm phán với các đối tác ở các quốc gia mà đồng tiền bị giới hạn khả năng chuyển đổi, hoặc dễ bị
giới hạn việc chuyển tiền ra nước ngoài, việc này luôn đặt chúng ta trước những nguy cơ về việc thu
tiền hoặc chuyển lợi nhuận về nước. Những nguy cơ này không phổ biến, nhưng vẫn có khả năng xuất
hiện, nhà đàm phán vẫn phải xem xét, khi đàm phán với các doanh nghiệp ở các nước kém phát triển,
có nợ công cao, hay có chiến tranh, dễ bị cấm vận, v.v.
Cách hạn chế
Tìm hiểu hệ thống tiền tệ của quốc gia đó và các chính sách liên quan, nhưng cũng cần lưu ý là mọi thứ
đều có thể thay đổi
Cấu trúc các khoản thanh toán theo hướng thuận lợi nhất (VD: một quốc gia có thể không hạn chế về
phí chuyển giao công nghệ, bản quyền... nhưng có thể có khó khăn trong việc chuyển trả cổ tức, lợi
nhuận)
Thương lượng với ngân hàng trung ương của quốc gia đó về các quyền miễn trừ và đặc quyền của chúng
ta nếu có thể
Thương lượng các hợp đồng đối lưu thay cho việc thanh toán. Các hợp đồng đối lưu rất đa dạng, tùy
trường hợp để thương lượng một cơ chế trao đổi phù hợp
5.7 RÀO CẢN 7: SỰ THAY ĐỔI NHANH CHÓNG
Nguyên nhân và nguy cơ của sự thay đổi nhanh chóng trong môi trường kinh doanh quốc tế
Môi trường quốc tế có độ bất ổn cao, giao dịch kinh doanh quốc tế đặc biệt nhạy cảm với những thay
đổi đột ngột, chẳng hạn như phá giá đồng tiền bất ngờ, đảo chính, chiến tranh, sự thay đổi chính phủ
và các chính sách của chính phủ...
Cơ chế để thực thi thỏa thuận quốc tế thường không chắc chắn hoặc tốn kém hơn so với các giao dịch
trong nước, bởi vì chúng ta phải lệ thuộc vào tòa án và pháp luật của một nước khác
Chính phủ nước ngoài và các tổ chức chính phủ có thể tham gia ở các vai trò khác nhau trong các giao
dịch kinh doanh quốc tế. Họ có thể bác bỏ các hợp đồng với danh nghĩa bảo vệ chủ quyền quốc gia và
lợi ích công cộng. Ngoài ra, chi phí theo đuổi một vụ kiện liên quan đến chính phủ thường rất cao và khả
năng thắng kiện thường thấp hơn trong các vụ việc chỉ liên quan đến tư nhân
Tính không hoàn hảo của các hợp đồng quốc tế. Mục tiêu của hợp đồng bằng văn bản là để diễn tả đầy
đủ ý nghĩa của thỏa thuận giữa các bên liên quan đến giao dịch. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau
(khác biệt về ngôn ngữ, pháp luật, văn hóa, kinh nghiệm, năng lực, v.v.) dẫn đến các hợp đồng không
được soạn thảo theo cách mà chúng ta mong đợi (không rõ ràng, đầy đủ, không dự đoán tất cả các sự
kiện có thể ảnh hưởng đến giao dịch trong tương lai, v.v.), thậm chí ngay cả khi nó rất hoàn hảo thì
không có gì chắc chắn là tòa án giải thích nó theo cách hiểu của chúng ta, hoặc có thể bênh vực công
dân của họ.
5.7.1 Chi phí và lợi ích trong thực hiện thỏa thuận
Trong đàm phán bất kỳ thỏa thuận, hai bên đều tính toán khả năng hoạt động trong tương lai của mỗi bên
theo thỏa thuận của họ. Họ tính toán các yếu tố ảnh hưởng đến giao dịch mà và cách thức để thực hiện
được các thỏa thuận. Cả hai bên đều biết rõ khả năng và thiện chí trong việc thực hiện phần việc của mình
sẽ phụ thuộc rất lớn vào nhận thức về chi phí và lợi ích của việc thực hiện thỏa thuận.
Trong phạm vi mà các lợi ích của việc thực hiện vượt lên trên lợi ích của việc không thực hiện, theo lẽ thông
thường, các bên sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình như đã thỏa thuận. Nhưng khi vì một lý do gì đó, một bên
nhận thấy lợi ích của việc thực hiện thấp hơn việc không thực hiện họ có thể đề nghị đàm phán lại các thỏa
thuận đã có hoặc nặng nề hơn là tìm cách từ chối thực hiện nghĩa vụ
Các khái niệm về chi phí và lợi ích không giới hạn các yếu tố kinh tế thuần tuý mà còn liên quan đến chi phí
và lợi ích chính trị, xã hội và cả những vấn đề vô hình khác
5.7.2 Ứng phó với rủi ro không thực hiện
Để đối phó với nguy cơ không thực hiện thỏa thuận, trong đàm phán có thể tìm đến hai giải pháp sau
Đàm phán các thỏa thuận với các chế tài hiệu quả trong trường hợp đối tác không thực hiện thỏa thuận.
Theo cách này, phải xây dựng thỏa thuận để chi phí và lợi ích khi không thực hiện luôn bất lợi hơn việc
thực hiện (ví dụ: cơ chế bảo đảm thực hiện hợp đồng bằng các khoản tiền hoặc các hợp đồng bảo lãnh
của ngân hàng, cơ chế xét xử bằng trọng tài một quốc gia trung lập...)
Đàm phán các thỏa thuận mà việc không thực hiện thỏa thuận phụ thuộc vào bên thứ ba có tín nhiệm
cao, thay vì các bên được tự quyền quyết định (ví dụ thanh toán bằng UC được mở hoặc được xác nhận
bởi một ngân hàng quốc tế đáng tin cậy)
5.7.3 Ứng phó với rủi ro thay đổi đột ngột
Rủi ro của sự thay đổi là một đặc tính của các thỏa thuận quốc tế, các nhà đàm phán nên đặt ra hai câu hỏi:
Làm thế nào để giảm khả năng thỏa thuận bị hủy bỏ hoặc phải đàm phán lại trong tương lai?
Khi hoàn cảnh thay đổi thực sự ảnh hưởng đến thỏa thuận, làm thế nào để có thể kiểm soát đối tác?
Một số gợi ý để giải quyết các vấn đề trên:
Gợi ý 1: Một thỏa thuận không phải là mãi mãi
Gợi ý 2: Khóa chặt thỏa thuận
Gợi ý 3: Công bằng trong thỏa thuận
Gợi ý 4: Tạo dựng mối quan hệ tốt
Gợi ý 5: Tạo ra các thỏa thuận cho phép đàm phán lại
5.7.3.1 Một thỏa thuận không phải là mãi mãi
Hầu hết các hợp đồng hiện đại đều phủ nhận khả năng thay đổi, vì thế hiếm khi các bên đưa ra các thỏa
thuận cho phép điều chỉnh thỏa thuận tương ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh.
Trong khi nguyên tắc không thay đổi được nhiều nhà đàm phản ủng hộ thì nhiều nhà đàm phán kinh nghiệm
lại cho rằng không có vấn đề gì là mãi mãi. Theo đó, trước khi đến bàn đàm phán, họ dự tính trước các rủi
ro của sự thay đổi của thỏa thuận và các giải pháp ứng phó.
Trong quá trình đàm phán, luôn nhớ nguyên tắc: “Khi chi phí cho phía bên kia phá bỏ một thỏa thuận hợp
đồng thấp hơn việc tôn trọng nó, nguy cơ thoái thác sẽ cao”. Là người đàm phán kinh nghiệm, chiến lược cơ
bản của chúng ta là tạo ra sự ổn định của hợp đồng trong mọi hoàn cảnh. Muốn vậy, cần phải tạo ra các thỏa
thuận sao cho đối tác “luôn có được lợi ích từ việc giữ thỏa thuận và phải gánh chịu chi phí lớn khi có Lý định
phá bỏ nó”.
5.7.3.2 Khóa chặt thỏa thuận
Để áp dụng chiến lược này, đầu tiên bạn cần có một thỏa thuận văn bản quy định chi tiết và cẩn thận về việc
bảo đảm tôn trọng hợp đồng đến mức tối đa có thể của các bên.
Bên cạnh đó, cần thảo luận rõ ràng về những rủi ro do sự thay đổi có thể tác động đến hợp đồng và cách giải
quyết nó. Cần suy nghĩ và đề cập đến mọi rủi ro có thể xảy ra. Bất kể nguy cơ nào không được thảo luận đều
hàm chứa khả năng hủy bỏ thỏa thuận hoặc nguy cơ đàm phán lại trong tương lai. Liên quan đến vấn đề này
chúng ta có thể thấy những nguy cơ lớn cần thảo luận và có giải pháp là:
Những thay đổi về chi phí, giá cả, tỷ giá hối đoái
Những trường hợp bất khả kháng (Force Majeure )
Những trường hợp khó khăn (Hardship)
Ngoài ra, cần tạo cho hợp đồng một cơ chế giảm thiểu khả năng bỏ và đàm phán lại. Hai kỹ thuật cơ bản
được đề xuất là:
Bảo đảm thực hiện (Performance bond): Thông qua một bên thứ ba để khống chế việc bồi thường khi
không thực hiện hợp đồng
Liên kết (Linkage): Khi vi phạm thỏa thuận này, bên vi phạm có thể bị thiệt hại từ những giao dịch hoặc
thỏa thuận khác mà chúng ta kiểm soát được
5.7.3.3 Cân bằng thỏa thuận
Một quan hệ hợp đồng được tạo ra trên cơ sở minh bạch về thông tin, công bằng về thông tin, công bằng về
quyền và nghĩa vụ là cơ sở để các bên tôn trọng và thực hiện nó ngay cả khi có những biến động.
Ngược lại, một thỏa thuận bất cân bằng (theo kiểu bên nắm giữ thông tin không chia sẻ đầy đủ cho bên kia,
bên mạnh áp đặt những điều khoản không công bằng cho bên kia, bên hiểu biết đưa ra các thỏa thuận có
lợi cho mình mà không giải thích đầy đủ cho bên ít hiểu biết, v.v.) luôn hàm chứa nguy cơ của sự phá vỡ,
ngay cả khi sự thay đổi là không quá lớn.
Một thỏa thuận công bằng được hiểu là:
Chia sẻ đầy đủ thông tin cho nhau
Chia sẻ hiểu biết của mình cho nhau
Chia sẻ lợi ích, rủi ro và chi phí hợp lý với nhau
Chia sẻ khó khăn và cùng nhau tháo gỡ...
5.7.3.4 Tạo ra một mối quan hệ
Đàm phán một thỏa thuận không nhất thiết là phải ra mối quan hệ tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu có cơ hội và
không ảnh hưởng đến nội dung thỏa thuận thì việc tạo dựng mối quan hệ sẽ thúc đẩy các bên thực hiện
đúng cam kết.
Tạo dựng mối quan hệ đã được đề cập trong chương 1 của môn học, tuy nhiên có thể lưu ý các vấn đề sau:
Chia sẻ các thông tin ngoài hợp đồng đầy đủ với đối tác
Duy trì việc trao đổi thông tin và gặp mặt sau khi ký hợp đồng
Luôn công bằng và tôn trọng đối tác trong đàm phán
Quan tâm đến đối tác một cách thích hợp
Tạo mối quan hệ cá nhân giữa những người lãnh đạo
Tạo ra sự tin tưởng về lợi ích từ mối quan hệ lâu dài
Bất kể nền văn hóa nào, quan hệ hợp tác và tin tưởng giữa các bên đều là chìa khóa để giải quyết các khó
khăn mà các bên có thể gặp phải trong thực hiện các thỏa thuận đã ký kết.
5.7.3.5 Cung cấp giải pháp cho đàm phán lại trong các thỏa thuận
Một hợp đồng, đặc biệt là các hợp đồng dài hạn cần phải có những quy định cho việc đàm phán lại, điều này
là một thực tế trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh chóng.
Các bên sẽ thỏa thuận trong hợp đồng những thời điểm cụ thể hoặc các sự kiện xảy ra mà các bên cần đàm
phán lại.
Các hướng cho đàm phán lại:
Các điều khoản đàm phán lại ngầm định (Implicit Minor Renegotiation Clauses)
Các điều khoản xem xét lại (Review Clauses)
Các điều khoản điều chỉnh tự động (Automatic Adjustment Clauses)
Điều khoản kỳ hạn mở (Open-term Provisions)
Điều khoản đàm phán lại (Renegotiation Clauses)