You are on page 1of 23

UBND HUYỆN HOÀI ĐỨC

TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN TRẠM TRÔI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3
GIẢI TỐT BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN”

Lĩnh vực/ Môn: Toán


Cấp học: Tiểu học
Tên Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Hằng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Trạm Trôi
Thị trấn Trạm Trôi – Hoài Đức
Chức vụ: Giáo viên
NĂM HỌC 2020 - 2021
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
 ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Trường Tiểu học Thị Trấn Trạm Trôi

Họ và tên Ngày Nơi công tác Chức Trình độ Tên sáng kiến
tháng năm danh chuyên
sinh môn
Nguyễn 07/10/1996  Trường Tiểu Giáo  Cao đẳng “MỘT SỐ BIỆN
Thị Thanh học Thị Trấn viên  PHÁP GIÚP HỌC
Hằng  Trạm Trôi  SINH LỚP 3
GIẢI TỐT BÀI TOÁN
CÓ LỜI VĂN”
 

- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến


+ Môn toán: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI
TỐT BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN”
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
- Mô tả bản chất của sáng kiến:
Sau khi tìm hiểu thực tế và cùng với những kinh nghiệm giảng dạy của bản
thân,tôi đã nghiên cứu và tìm ra “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP
3 GIẢI TỐT BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Để học sinh lớp 3 giải toán có hiệu quả cao, các em cần nắm chắc phương
pháp giải của từng dạng toán điển hình.
Khi giải một bài toán phải tuân thủ theo các bước:
 Bước 1: Đọc kĩ bài đề phân tích các yếu tố của bài toán: Học sinh phải
đọc kĩ đề toán, nắm được dữ kiện của bài. Xác định yếu tố đã cho và yếu
tố cần tìm.
 Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng cách dễ hiểu nhất: Học sinh tiến hành tóm
tắt bài toán
 Bước 3: Phân tích bài toán để dựa vào đó tìm hướng giải: Giáo viên đưa
ra những câu hỏi gợi mở để học sinh hiểu rõ hơn đề bài.
 Bước 4: Dựa vào sơ đồ phân tích hướng giải để giải bài toán: Học sinh
suy nghĩ tìm cách giải.
 Bước 5: Trình bày bài giải: Học sinh tiến hành giải
 Bước 6: Kiểm tra kết quả: Học sinh kiểm tra lại xem kết quả tính đã đúng
chưa. Lời giải đã chuẩn và đáp số đầy đủ.
 Bước 7: Khai thác - mở rộng bài toán: Giáo viên hoặc học sinh tìm ra
nhiều cách giải khác.
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Các bài dạy điện tử, Sách giáo
khoa, vở hướng dẫn học, sách tham khảo.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả: Qua thời gian áp dụng, tôi nhận thấy các em học sinh đã
nắm chắc các bước để giải toán có lời văn. Kết quả môn toán được nâng cao và
cải thiện hơn.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu hoặc áp
dụng thử nếu có: Sáng kiến có thể áp dụng trong khối 3 và các khối khác trong
nhà trường để nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
 
  Hoài Đức ngày 26 tháng 4 Năm 2021
Người nộp đơn
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Thanh Hằng


TÊN CƠ QUAN CHỦ QUẢN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Đơn vị: Trường TH Thị Trấn Trạm Trôi Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BIÊN BẢN XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP TRƯỜNG

Tác giả :Nguyễn Thị Thanh Hằng


Đơn vị : Trường TH Thị Trấn Trạm Trôi
Tên SKKN : “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI TỐT BÀI TOÁN CÓ
LỜI VĂN”
Môn (hoặc Lĩnh vực): Toán

TT Nội dung Biểu Điểm Nhận xét


điểm được
đánh giá
I Điểm hình thức (2 điểm)
Trình bày đúng quy định về thể
thức văn bản (kiểu chữ, cỡ chữ, dãn 1
dòng, căn lề…)
Kết cấu hợp lý: Gồm 3 phần chính
(đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, kết 1
luận và khuyến nghị) 
II Điểm nội dung (18 điểm)
1 Đặt vấn đề (2 điểm)
Nêu lý do chọn vấn đề mang tính 1
cấp thiết
Nói rõ thời gian, đối tượng, phạm vi 1
nghiên cứu
2 Giải quyết vấn đề (14 điểm)
Tên SKKN, tên các giải pháp phù
1
hợp với nội hàm 
Nêu rõ cách làm cũ, phân tích nhược
điểm. Có số liệu khảo sát trước khi 3
thực hiện giải pháp
Nêu cách làm mới thể hiện tính sáng
tạo, hiệu quả. Có ví dụ và minh
7
chứng tường minh cho hiệu quả của
các giải pháp mới
Có tính mới, phù hợp với thực tiễn
của đơn vị và đối tượng nghiên cứu, 1
áp dụng
Có tính ứng dụng, có thể áp dụng
1
được ở nhiều  đơn vị.
Nội dung đảm bảo tính khoa học, 1
TT Nội dung Biểu Điểm Nhận xét
điểm được
đánh giá
chính xác
3 Kết luận và khuyến nghị (2 điểm)
Có bảng so sánh đối chiếu số liệu
trước và sau khi thực hiện các giải 1
pháp
Khẳng định được hiệu quả mà
0.5
SKKN mang lại.
Khuyến nghị và đề xuất với các cấp
quản lý về các vấn đề có liên quan 0.5
đến việc áp dụng và phổ biến SKKN
TỔNG ĐIỂM

Đánh giá chung(Ghi tóm tắt những đánh giá chính):


................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................

Xếp loại :...............

Xếp loại A: Từ 17 đến 20 điểm


Xếp loại B : Từ 14 đến <17 điểm
Xếp loại C : Từ 10 đến <14 điểm
Không xếp loại: < 10 điểm

Ngày tháng năm 202..

Người chấm 1 Người chấm 2 Thủ trưởng đơn vị


(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên)
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ
Môn Toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng có vị trí và tầm quan
trọng rất lớn. Nó góp phần trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách học sinh . Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu
về số học, các số tự nhiên, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn có ứng
dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Đồng thời,
nó còn giúp học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá,
khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học Toán. Môn Toán
góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông
minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo; nó góp phần hình thành phẩm
chất cần cù, cẩn thận , có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch có nề nếp
và tác phong khoa học.
Đối với học sinh lớp 3, việc giải toán có lời văn có một vị trí rất quan trọng.
Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các
kiến thức về Số học, về Đo lường, về các yếu tố Đại số, về các yếu tố hình học
đã được học trong môn Toán ở Tiểu học. Hơn nữa, phần lớn các biểu tượng,
khái niệm, quy tắc, tính chất toán học đều đựơc tiếp thu qua con đường giải
toán.
Giải toán có lời văn lớp 3 không những giúp học sinh luyện giải các dạng
toán có lời văn đã học ở lớp 1, 2 mà các em còn được làm quen với nhiều dạng
toán mới: bài toán tìm một trong những phần bằng nhau của một số, gấp một số lên
nhiều lần, bài toán có liên quan đến rút về đơn vị…. Việc học tốt toán có lời văn ở
lớp 3 sẽ tạo nền móng vững chắc cho học sinh học tốt toán các lớp trên.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua thực tế giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy việc giải các bài toán có
lời văn (nhất là các bài toán kết hợp) không hề đơn giản. Kĩ năng giải toán có lời
văn của học sinh còn nhiều hạn chế. Nhiều em không nhớ và phân biệt được
dạng toán, không nhớ cách giải dạng bài toán đó. Có trường hợp, học sinh
không hiểu được bản chất của vấn đề trong bài toán đưa ra. Các em chưa biết
tìm sự liên quan của yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. Khi giải toán có lời văn, có
học sinh biết giải bài toán nhưng không biết tóm tắt bài toán, có trường hợp lời
giải không phù hợp với phép tính, hoặc lời giải và phép tính đúng nhưng lại
không xác định được tên đơn vị….
Trước thực trạng đó, tôi vô cùng băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để tìm
cách giúp học sinh giải tốt các bài toán có lời văn. Chính vì vậy, trong năm học
này, tôi quyết định đi sâu nghiên cứu để tìm ra đề tài:
“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn”
III. MỤC ĐÍCH VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Là một giáo viên tôi luôn ý thức rằng vai trò của người thầy là vô cùng
quan trọng. Một người giáo viên tâm huyết với nghề phải tìm ra cách dạy học tốt
nhất để nâng cao chất lượng giáo dục. Hơn thế nữa, môn Toán là môn học có
tầm quan trọng đối với học sinh, đặc biệt là các bài toán có lời văn. Vì vậy, tôi
nghiên cứu vấn đề này với mục đích giúp các em:
- Rèn kĩ năng giải toán thành thạo.
- Nắm chắc các dạng toán điển hình và phương pháp giải toán của từng
dạng bài.
- Mở rộng vốn kiến thức về giải toán.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Qua thực tế giảng dạy lớp 3, tôi đã nắm được những khó khăn khi dạy các
bài toán có lời văn và cũng đã học tập, tìm tòi cách khắc phục và thấy có hiệu
quả. Trong năm học này, tôi mạnh dạn áp dụng các biện pháp đã nghiên cứu đối
với học sinh lớp 3D do tôi chủ nhiệm trong năm học 2020 – 2021.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để nghiên cứu vấn đề này, tôi đã áp dụng phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp quan sát.
2. Phương pháp điều tra.
3. Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học
sinh lớp 3.
4. Phương pháp thực hành luyện tập.
5. Phương pháp thực nghiệm.
Ngoài ra, tôi còn tích cực dự giờ để học hỏi áp dụng kinh nghiệm của
đồng nghiệp.
VI . THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Đề tài này được áp dụng với học sinh lớp 3D
- Thời gian: Năm học 2020- 2021
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. KHẢO SÁT THỰC TẾ:


1. Tình trạng khi chưa thực hiện:
Để nắm rõ kĩ năng giải toán của học sinh lớp mình. Vào đầu tuần học
thứ tư của năm học, tôi đã tiến hành cho học sinh làm bài kiểm tra toán, với
nội dung là những kiến thức các em đã được học ở lớp 2 (tương tự nội dung
kiến thức của tiết “Luyện tập chung” - trang 18, sách Toán 3). Kết quả thu
được như sau:
Giải toán
Đúng và tương Đúng nhưng Làm bài còn Không làm
đối nhanh chậm hơn nhầm lẫn (lời được bài
Tổng số HS
giải, tên đơn vị)
SL % SL % SL % SL %
50 17 34 15 30 14 28 4 8

2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh giải toán chưa tốt là:
- Chưa đọc kĩ đề.
- Kĩ năng phân tích để tìm hướng giải còn hạn chế.
- Chưa chú ý vào những dữ kiện mà đầu bài cho.
- Chưa biết cách trả lời bài toán.
- Tính toán còn nhầm lẫn.
- Chưa biết tự kiểm tra lại kết quả.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Sau khi tìm hiểu thực tế và cùng với những kinh nghiệm giảng dạy của
bản thân tôi nhận thấy.
- Để học sinh lớp 3 giải toán có hiệu quả cao, các em cần nắm chắc
phương pháp giải của từng dạng toán điển hình.
- Khi giải một bài toán phải tuân thủ theo các bước:
Bước 1: Đọc kĩ bài đề phân tích các yếu tố của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng cách dễ hiểu nhất.
Bước 3: Phân tích bài toán để dựa vào đó tìm hướng giải.
Bước 4: Dựa vào sơ đồ phân tích hướng giải để giải bài toán
Bước 5: Trình bày bài giải.
Bước 6: Kiểm tra kết quả
Bước 7: Khai thác - mở rộng bài toán.
Sau đây là một số biện pháp tôi thực hiện rèn kĩ năng giải toán cho học
sinh lớp 3.
1. Kĩ năng đọc đề và phân tích các yếu tố của đề bài:
- Để hình thành thói quen đọc kĩ đề bài trước khi làm toán tôi yêu cầu học
sinh thực hiện các công việc sau:
+ Đọc đề thật chậm nhiều lần.
+ Xác định bài toán cho biết gì ? Hỏi gì ?
+ Gạch chân dưới các yếu tố quan trọng của đề toán.
+ Tự đặt câu hỏi tìm mối quan hệ giữa các yếu tố có trong bài, giải
thích mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 163 - Toán 3 - Tiết Chia số có năm chữ số cho số có một chữ
số)

Đề bài: Một kho hàng có 36550kg xi măng, đã bán số xi măng đó. Hỏi
cửa hàng còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?
* Học sinh đọc kỹ đề, xác định:
- Bài toán cho biết: Có 36550 kg xi măng

Đã bán số xi măng
- Bài toán hỏi: Còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?
* Học sinh đã xác định được các yếu tố cho biết và yếu tố cần tìm của
bài toán thì dùng thước kẻ, bút chì gạch chân dưới các yếu tố đó.
* Giải thích:

+ Đã bán số kg xi măng nghĩa là số kg xi măng được chia thành 5 phần


bằng nhau và số kg xi măng bán đi chiếm 1 phần trong số 5 phần đó.
* Đối với bài toán này nếu các em không đọc kĩ mà đọc lướt sẽ mắc sai
lầm như sau:
- Giải sai (giải bằng một phép tính)
Còn lại số ki – lô – gam xi măng là:
36550 : 5 = 7310 (kg)
Đáp số: 7310 kg xi măng
2. Chọn cách tóm tắt bằng cách dễ hiểu nhất:
Sau khi đọc kĩ đề toán các em cần phải biết sử dụng hình vẽ, ngôn ngữ, sơ
đồ, kí hiệu hoặc từ ngữ ngắn gọn nhất để tóm tắt đề bài. Việc tóm tắt đề là để
diễn tả trực quan các yếu tố của bài toán, lược bỏ những cái không thuộc bản
chất của đề mà chỉ tập trung vào những yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm của bài
toán. Nhờ đó các em nhìn bao quát được toàn bộ bài toán, tìm ra mối quan hệ
giữa các yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm, từ đó xác lập hướng suy nghĩ và đi đến
cách giải.
Ở chương trình Toán 3 các em được học các dạng toán điển hình: Gấp
một số lên nhiều lần, Giảm một số đi nhiều lần, Tìm một phần mấy của một số,
Bài toán hợp giải bằng hai phép tính, Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Đối với những bài toán có nhiều cách tóm tắt khác nhau thì các em phải
biết lựa chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu nhất. Chính vì vậy trong quá trình giảng
dạy tôi đã phân ra các dạng toán để giúp các em lựa chọn cách tóm tắt bài toán
một cách nhanh nhất.
a) Đối với dạng bài: Tìm một phần mấy của một số, Gấp một số lên
nhiều lần, Giảm một số đi nhiều lần hoặc Bài toán tìm số nhiều hơn, ít hơn
ta nên chọn cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng và kết hợp dùng ký hiệu
móc.
Ví dụ:
 Bài 2 (trang 50 - Toán 3 - Tiết: Bài toán giải bằng hai phép tính)
Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?
Tóm tắt: 18 l
Thùng thứ nhất:
6l ?l
Thùng thứ hai:
?l

 Bài 2 (trang 51 - Toán 3)


1
Đề bài: Một thùng đựng 24 lít mật ong, lấy ra số lít mật ong đó. Hỏi
3
trong thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong ?
Tóm tắt:
24 l

Lấy ra ?l

- Khi tóm tắt bằng sơ đồ các em có thể nhanh chóng xác lập được hướng
giải và giải bằng nhiều cách khác nhau.
b) Đối với những bài toán hợp giải bằng hai phép tính hoặc các bài
toán liên quan đến rút về đơn vị, nên dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để
tóm tắt. Thực chất là ta viết tắt các ý chính của toàn bài và phối hợp với ký
hiệu dấu móc để tóm tắt.
Ví dụ:
 Bài 2 (Trang 166 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập chung)
Đề bài: Nhà trường mua 105 hộp bánh, mỗi hộp có 4 cái bánh. Số bánh
này đem chia hết cho các bạn, mỗi bạn được 02 cái bánh. Hỏi có bao nhiêu bạn
được nhận bánh ?
Tóm tắt:
Có : 105 hộp bánh
Một hộp có : 4 bánh
Một bạn được : 2 bánh
Số bạn có bánh:....... bạn?
Nhìn vào phần tóm tắt các em có thể nhận ra bài toán được chia ra làm 2
bài toán nhỏ và xác định ngay được cách giải.
Bài 2 (Trang 129 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập)
Đề bài: Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi
muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch ?
Tóm tắt: 6 căn phòng : 2550 viên gạch
7 căn phòng : .... viên gạch?
- Nhìn vào phần tóm tắt, học sinh nhận ra ngay được dạng bài toán liên
quan đến rút về đơn vị.
c) Tóm tắt bằng Graph (lưu đồ) cũng là cách tóm tắt tiện lợi và có
hiệu quả giúp học sinh giải toán khá dễ.
Ví dụ:
Bài 89 (trang 14 - Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Tìm một số biết rằng nếu bớt số đó đi 45 sau đó giảm đi 3 lần,
cuối cùng thêm 17 thì được 26.
Tóm tắt
Gọi số phải tìm là a ta có hình vẽ:
-45 :3 +17

a 26

- Học sinh hiểu: Đem số a trừ xđi345 được số ở-17


+45 hình tròn thứ 2. Lấy số ở
hình tròn thứ hai chia cho 3 được số ở hình tròn thứ 3. Lấy số ở hình tròn thứ ba
cộng với 17 thì được số 26.
- Dựa vào lưu đồ này học sinh có thể tìm cách giải toán bằng cách đưa
mũi tên ở dưới theo chiều ngược lại với mũi tên ở trên và điền phép tính ngược
lại với phép tính ở trên để tìm kết quả: (26 - 17) x 3 + 45 = 72. Vậy số a bằng 72
3. Phân tích bài toán tìm hướng giải:
Sau khi học sinh tóm tắt bài toán các em cần phân tích các điều kiện bài
toán cho để tìm hướng giải. Quá trình phân tích bài toán là quá trình tách bài
toán ra thành nhiều bài toán nhỏ dễ giải hơn.
a) Thông thường khi phân tích bài toán ta thường tập trung suy nghĩ vào
các câu hỏi của bài toán, nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết
những gì và phải làm những phép tính gì ? Trong những điều kiện đã biết đó thì
yếu tố nào đã có sẵn trong đề toán, cái nào phải tìm. Muốn tìm cái này cần phải
biết những gì ? Làm phép tính gì ? ... Cứ như thế suy ngược lên từ câu hỏi bài
toán. Đây là đường lối suy nghĩ theo hướng phân tích.
Ví dụ:
Bài 3 (trang 82 - Toán 3)
Đề bài: Có 240 quyển sách xếp đều vào 2 tủ, mỗi tủ có 4 ngăn. Hỏi mỗi
ngăn có bao nhiêu quyển sách ? (biết rằng mỗi ngăn có số sách đều như nhau)
- Từ câu hỏi của bài toán có thể suy ngược lên như sau:
+ Muốn biết mỗi ngăn có bao nhiêu quyển sách là như thế nào ?
(Tổng số sách : tổng số ngăn)
+ Tổng số sách đó biết chưa ? Số ngăn đựng sách đó biết chưa ?
(Tổng số sách đó biết, số ngăn đựng sách chưa biết.)
+ Muốn tìm số ngăn sách đựng sách ta làm như thế nào ?
(Số ngăn của một tủ x số tủ)
- Từ đây học sinh thiết lập sơ đồ giải
Số sách một ngăn = tổng số sách : tổng số ngăn
||

Số ngăn một tủ x số tủ
b) Tìm hướng giải cho bài toán ta cũng có thể phân tích từ các điều kiện
đã cho của bài toán, suy luận dần dần đến câu hỏi của bài toán. Đây là cách suy
luận theo đường lối tổng hợp.
Ví dụ: Bài 3 (trang 172 - Toán 3 - Tiết: Ôn tập bốn phép tính trong phạm vi
100000 (tiếp theo)
1
Đề bài: Một cửa hàng có 6450l dầu, đã bán số dầu đó. Hỏi cửa hàng đó còn
3
lại bao nhiêu lít dầu?
- Từ các điều kiện đã cho của bài toán, ta suy luận dần đến câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì ?
1
(Có 6450l dầu, đã bán số dầu đó).
3
+ Trong các điều kiện đó cái gì đã cho sẵn, cái gì phải tìm ?
(Số lít dầu của cửa hàng đó biết (6450l ) số đã bán chưa biết)
+ Tìm số lít dầu đã bán làm như thế nào ?
(Lấy số lít dầu có ban đầu : số phần)
+ Biết số lít dầu ban đầu, và số đã bán, tìm số lít dầu còn lại làm
như thế nào ?
+ Bài toán thuộc dạng toán gì ? Liên quan dạng toán gì ?
c) Có những bài toán khó có thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng cả hai
phương pháp suy luận trên trong một bài toán để tìm hướng giải.
Ví dụ: Bài 147 (Sách: Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Có hai tấm vải dài 100m. Tấm vải thứ hai dài bằng ¼ tấm vải
thứ nhất. Nếu tấm vải thứ hai bán đi 9m thì tấm vải thứ nhất phải bán đi bao
nhiêu mét để số vải còn lại ở tấm thứ nhất gấp 6 lần số vải còn lại ở tấm thứ hai?
Hướng dẫn: - Theo bài ra ta có thể tính ngay được:
+ Độ dài tấm vải thứ nhất
+ Độ dài tấm vải thứ hai
- Từ câu hỏi của đề bài suy ngược lên:
+ Để tính số mét vải cần bán của tấm thứ nhất sao cho phần còn lại
gấp 6 lần phần còn lại của tấm thứ hai cần tính:
Phần còn lại của tấm thứ hai: (20 - 9 = 11 )
Phần còn lại của tấm thứ nhất: (11 x 6 = 66 )
Số mét vải cần bán ở tấm thứ nhất: (80 - 66 = 14)
Từ hai phần suy luận trên, học sinh có thể tự giải.
Bài giải:
Độ dài tấm vải thứ hai là: 100: (4 + 1) = 20 (m)
Độ dài tấm vải thứ nhất là: 100 - 20 = 80 (m)
hoặc 20 x 4 = 80 (m))
Phần còn lại của tấm thứ hai là: 20 - 9 = 11 (m)
Phần còn lại của tấm thứ nhất là: 11 x 6 = 66 (m)
Số mét vải tấm thứ nhất bán là: 80 - 66 = 14 (m)
Đáp số: 14 m vải
Đối với những bài toán khó nên vận dụng cả hai phương pháp suy luận trên
để giải. Trong chương trình Toán lớp 3 ít khi sử dụng mà chỉ vận dụng khi hướng
dẫn học sinh khá giỏi giải toán nâng cao. Thông thường các bài toán điển hình ở
lớp 3 chỉ giải bằng một hoặc hai phép tính nên ta có thể chỉ vận dụng một trong hai
phương pháp trên trong một bài toán.
4. Trình bày bài giải:
Việc trình bày bài giải toán ở lớp 3 cũng giống như ở lớp 2 học sinh đã được
học. Thông thường một bài toán được trình bày bài giải theo thứ tự như sau:
+ Câu lời giải
+ Phép tính tương ứng (tên đơn vị được viết trong ngoặc đơn sau kết quả)
+ Đáp số (tên đơn vị được viết bình thường không có ngoặc)
Đối với học sinh lớp 3, các em đã được học phép chia có dư. Vì vậy, có một số
bài toán có lời văn xuất hiện các từ như: “nhiều nhất”, “ít nhất”, “thừa”, “dư”
Ví dụ: Bài 3 trang 70 - SGK toán 3: Có 31 m vải, may mỗi bộ quần áo hết 3m.
hỏi có thể may được nhiều nhất là mấy bộ quần áo và còn thừa mấy mét vải?
Hoặc bài 2 trang 71 – SGK toán 3: Một lớp học có 33 học sinh, phòng học
của lớp đó chỉ có loại bàn 2 chỗ ngồi. Hỏi cần có ít nhất bao nhiêu bàn học như
thế ?
Đối với những bài toán kiểu như trên thì không thể trình bày theo cách thông
thường, tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải theo thứ tự như sau:
+ Phép tính (không có tên đơn vị)
+ Câu trả lời (dựa vào kết quả phép tính)
+ Đáp số
Chẳng hạn đối với bài 3 – trang 70, SGK toán 3
Bài giải
Ta có 31: 3 = 10 (dư 1)
Vậy có thể may được nhiều nhất là 10 bộ quần áo và còn thừa 1 m vải.
Đáp số: 10 bộ quần áo, thừa 1m vải.
Mỗi khi gặp những bài toán có xuất hiện những từ ngữ “nhiều nhất”, “ít
nhất”, “dư” “thừa”, tôi yêu cầu học sinh nhắc lại cách trình bày bài toán để
giúp các con nhớ lại và làm bài cho đúng.
Trong phần trình bày bài giải, tôi cũng lưu ý học sinh viết tên đơn vị của bài
toán cho đúng. Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy có học sinh thực hiện phép tính
thì đúng nhưng khi viết tên đơn vị sau kết quả phép tính thì lại sai. Bởi các con
quen dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu lời giải một cách máy móc, chưa
hiểu bản chất bài toán nên khi câu hỏi bài toán không xuất hiện từ chỉ đơn vị
thì học sinh bị nhầm lẫn, đặc biệt là những bài toán liên quan đến tiền, những
bài toán có liên quan đến đơn vị đo độ dài, …

Ví dụ: Khi dạy bài 4 – trang 160 , SGK- toán 3:


Mua 5 cái com pa phải trả 10 000 đồng. Hỏi mua 3 cái com pa cùng loại phải
trả bao nhiêu tiền?
Có một số học sinh trình bày bài giải như sau:
Mỗi com pa mua hết số tiền là:
10000 : 5 = 2000 (tiền)
Ba com pa mua hết số tiền là:
2000 x 3 = 6000 (tiền)
Đáp số: 6000 (tiền)
Ở đây, học sinh đã dựa vào câu hỏi “phải trả bao nhiêu tiền?” để ghi lời giải và
ghi tên đơn vị của phép tính mà không hiểu được bản chất đơn vị của tiền Việt
Nam là đồng vì vậy đã dẫn đến nhầm lẫn như trên. Để khắc phục tình trạng
này, tôi yêu cầu cả lớp phải đọc kĩ đề, suy nghĩ kĩ, xác định tên đơn vị cho
chính xác.
5. Kiểm tra kết quả:
Kiểm tra kết quả là công việc thường xuyên trong khi giải toán. Sau mỗi bài toán
làm xong các em có thể tự kiểm tra lại kết quả bài làm của mình bằng các cách như
sau:
- Tính ngược lên.
- Thay đáp số vào đầu bài tính lại.
- Tìm cách giải khác.
Ví dụ:
Bài 2 (Trang 162 - Toán 3)
Thử lại bằng cách tính ngược lên:
29240 + 7310 = 36550 (kg)
Thử lại bằng cách giải khác:
36550 : 5 x (5 - 1) = 29240
Bài 89 (Học giỏi Toán 3)
Thử lại bằng cách thay đáp số để tính
(72 - 45) : 3 + 17 = 26
6. Khai thác, mở rộng bài toán:
Đối với học sinh khá giỏi ngoài việc các em giải bài toán và tìm đúng đáp số
bài toán các em còn cần phải biết khai thác bài toán mình vừa làm. Đây là giai đoạn
làm việc hoàn toàn có tính sáng tạo nhằm giúp học sinh tìm hiểu sâu thêm bài toán,
“học một hiểu mười”. Đây là giai đoạn làm việc hoàn toàn tự nguyện, tự giác.
a) Giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau:
Ví dụ: Bài 2 (trang 163 - Toán 3)
- Sau khi các em giải bài toán bằng 2 phép tính thông thường em còn cách
giải nào khác ?
Cách 2: Giải bằng cách gộp hai phép tính thành biểu thức
36550 - 36550: 5
Cách 3: So sánh số phần chỉ số xi măng còn lại nhiều gấp 4 lần số xi măng
đã bán nên có thể giải:
Số xi măng đã bán: 36550 : 5 = 7310 (kg)
Số xi măng còn lại: 7310 x (5 - 1) = 29240 (kg)
Khi các em tìm được các cách giải khác nhau cần nhận xét, so sánh tìm cách
giải hay nhất, ngắn gọn nhất.
Trong bài này tôi có thể gợi mở cho học sinh cách giải thứ 3 chính là dạng
toán "Tìm hai số biết tổng và tỷ số của hai số" các em sẽ được học ở lớp trên.
Vậy là với việc tìm nhiều cách giải khác nhau cho một bài toán đã góp phần
to lớn trong việc rèn kĩ năng củng cố kiến thức, phát huy trí thông minh và óc sáng
tạo cho học sinh.
b) Tự đặt đề toán bằng cách thay đổi số liệu đó cho đối tượng trong đề toán
Ví dụ: Bài 4 (Trang 105 - Toán 3)
Đề bài: Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 lít dầu, buổi chiều bán được
gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
* Thay đổi số liệu - > cách giải không đổi
Một cửa hàng buổi sáng bán 325 lít dầu, buổi chiều bán được gấp 3 lần buổi
sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
* Thay đổi thuật ngữ toán học - Nội dung bài không thay đổi
Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 lít dầu và bán bằng 1/2 số dầu buổi
chiều. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
* Thay đổi từ chỉ quan hệ "nhiều hơn" - Nội dung bài thay đổi
Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 lít dầu, buổi chiều bán nhiều hơn buổi
sáng 2 lít. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán bao nhiêu lít dầu ?
Tóm lại: Việc khai thác bài toán giúp cho học sinh hiểu sâu thêm bài toán,
tích luỹ được nhiều kinh nghiệm giải toán. Việc khai thác sâu các bài toán chính là
rèn cho các em sự sáng tạo và khả năng suy nghĩ linh hoạt.
7. Tổ chức trò chơi học tập tạo không khí học tập thoải mái
Với nhận thức tâm sinh lý của học sinh Tiểu học là luôn luôn hiếu động,
ham chơi thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Đối với trẻ trò chơi là một phát
hiện mới, kích thích tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Thông qua trò chơi học
sinh nắm được kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, phát huy tính tích cực
của học sinh trong học tập. Chính vì vậy, tôi đã thiết kế một số trò chơi và áp
dụng trong tiết dạy học giải toán.
Ví dụ: Trò chơi: Hái hoa toán học:
* Mục đích: Giúp học sinh nhớ lâu các công thức tính chu vi, diện tích của
hình chữ nhật, hình vuông. Từ đó vận dụng linh hoạt, kết hợp với kĩ năng tính
nhẩm để tính chu vi, diện tích của hình với số đo cho trước …
- Phát triển khả năng diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.
* Chuẩn bị: Giáo viên soạn trò chơi trên PowerPoint
(Tuỳ theo nội dung bài học để giáo viên chọn nội dung ghi trong hoa)
Ví dụ: Khi dạy các bài toán với mục tiêu rèn kĩ năng tính chu vi, diện tích của
hình vuông, hình chữ nhật tôi đã chọn một số nội dung sau:
1. Muốn tính diện tích hình vuông
Một cạnh nhân bốn ra ngay khó gì ?
Bạn hãy cho biết hai câu thơ trên đúng hay sai? Hãy tính nhẩm nhanh
diện tích hình vuông có cạnh bằng 5 cm?
Đáp án: Câu thơ trên sai vì diện tích hình vuông bằng cạnh nhân với cạnh.
Diện tích hình vuông có cạnh bằng 5 xăng - ti - mét là:
5 x 5 = 25 (cm2)
2. Muốn tính chu vi hình vuông ta làm thế nào?
3. Đố bạn điền tiếp những từ thích hợp và chỗ trống trong bài thơ sau:
Diện tích chữ nhật là gì?
Lấy dài………….tức thì ra ngay.
Chu vi chữ nhật dễ thay.
Lấy ……………nhân hai là thành.
Đáp án: Diện tích chữ nhật là gì ?
Lấy dài nhân rộng tức thì ra ngay.
Chu vi chữ nhật dễ thay.
Lấy dài cộng rộng nhân hai là thành.
4. Một hình chữ nhật có số đo cạnh dài bằng 2 dm, cạnh rộng bằng 6 cm.
Bạn A nói: Diện tích hình chữ nhật bằng 120 cm2
Bạn B nói: Diện tích hình chữ nhật bằng 12cm2
Theo bạn ai nói đúng? ai nói sai ? vì sao ?
Đáp án: Bạn A nói đúng , bạn B nói sai .
8 cm
5. Hình bên tên gọi là gì ?
5 cm Chu vi, diện tích em thì tính mau?
Đáp án: Hình bên là hình chữ nhật.
Chu vi = (8 + 5) x 2 = 26 (cm).
Diện tích = 8 x 5 = 40 (cm2)

III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN, CÓ SO SÁNH ĐỐI CHIẾU:


Trên đây là một số biện pháp dạy tốt nội dung giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 3 mà tôi đã tiến hành từ đầu năm đến nay. Với những biện pháp sát thực
của giáo viên và sự nỗ lực của học trò việc giải các bài toán có lời văn của lớp
tôi đã có tiến triển tốt.
Cho đến nay, tất cả học sinh trong lớp đã biết giải toán có lời văn, tuy nhiên
vẫn còn một số em giải chậm hơn bạn cần phải có sự hướng dẫn của cô giáo khi
có bài toán phức tạp. Song kết quả đạt được này đã cho thấy các em có tiến bộ
đáng mừng. Dưới sự hướng của cô, các học sinh lớp tôi đã hào hứng hơn khi
học toán. Những học sinh yếu đã mạnh dạn, tự tin hơn, kết quả học tập có nhiều
tiến bộ. Để có kết quả cụ thể hơn, tôi đã tổ chức cho học sinh lớp mình làm bài
kiểm tra giải toán. Kết quả đạt được như sau:
Giải toán
Đúng và tương Đúng nhưng chậm Làm bài còn nhầm lẫn
Tổng số HS đối nhanh hơn (lời giải, tên đơn vị)
SL % SL % SL %
50 35 70 10 20 5 10
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
1. KẾT LUẬN
Để giúp học sinh có những kĩ năng giải toán thành thạo thì cả giáo viên và
học sinh cần đảm bảo các yêu cầu sau:
a. Giáo viên:
- Luôn đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng phương pháp dạy học tối ưu
và có hiệu quả cao.
- Là người hướng dẫn, gợi mở cho học sinh.
- Quan tâm tới mọi đối tượng học sinh. Với mỗi đối tượng phải có phương
pháp dạy khác nhau và phù hợp.
- Chú trọng việc xây dựng cho học sinh thói quen thực hiện các bước giải
một bài toán.
b. Học sinh:
- Tuân thủ tốt các bước khi giải một bài toán.
- Tự chiếm lĩnh kiến thức, chủ động, linh hoạt khi giải toán.
- Mỗi học sinh phải nhận thức tự giác việc học tập của mình, ý thức được
việc học tập là cần thiết đối với bản thân. Phải kiên trì và quyết tâm trong học tập.
2. ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ:
- Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn các cuộc thi Toán học để các em hào
hứng tham gia nhằm củng cố kiến thức về Toán.
- Cấp trên cần tổ chức nhiều chuyên đề dạy toán để giáo viên học tập.
- Tổ chức phổ biến rộng rãi những sáng kiến kinh nghiệm chất lượng để
giáo viên học tập, áp dụng trong dạy học.
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân nhận thấy tuy đề tài mang tên
"Sáng kiến kinh nghiệm" song nội dung còn hạn chế, không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong được sự giúp đỡ, góp ý, bổ sung của lãnh đạo nhà trường để sáng
kiến đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Toán 3 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.


2. Sách giáo viên Toán 3 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Học giỏi Toán 3 - Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục.
5. Hỏi đáp về dạy học Toán 3 - Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Tạp chí Giáo dục Tiểu học.

You might also like