Professional Documents
Culture Documents
Họ và tên Ngày Nơi công tác Chức Trình độ Tên sáng kiến
tháng năm danh chuyên
sinh môn
Nguyễn 07/10/1996 Trường Tiểu Giáo Cao đẳng “MỘT SỐ BIỆN
Thị Thanh học Thị Trấn viên PHÁP GIÚP HỌC
Hằng Trạm Trôi SINH LỚP 3
GIẢI TỐT BÀI TOÁN
CÓ LỜI VĂN”
BIÊN BẢN XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP TRƯỜNG
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh giải toán chưa tốt là:
- Chưa đọc kĩ đề.
- Kĩ năng phân tích để tìm hướng giải còn hạn chế.
- Chưa chú ý vào những dữ kiện mà đầu bài cho.
- Chưa biết cách trả lời bài toán.
- Tính toán còn nhầm lẫn.
- Chưa biết tự kiểm tra lại kết quả.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Sau khi tìm hiểu thực tế và cùng với những kinh nghiệm giảng dạy của
bản thân tôi nhận thấy.
- Để học sinh lớp 3 giải toán có hiệu quả cao, các em cần nắm chắc
phương pháp giải của từng dạng toán điển hình.
- Khi giải một bài toán phải tuân thủ theo các bước:
Bước 1: Đọc kĩ bài đề phân tích các yếu tố của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng cách dễ hiểu nhất.
Bước 3: Phân tích bài toán để dựa vào đó tìm hướng giải.
Bước 4: Dựa vào sơ đồ phân tích hướng giải để giải bài toán
Bước 5: Trình bày bài giải.
Bước 6: Kiểm tra kết quả
Bước 7: Khai thác - mở rộng bài toán.
Sau đây là một số biện pháp tôi thực hiện rèn kĩ năng giải toán cho học
sinh lớp 3.
1. Kĩ năng đọc đề và phân tích các yếu tố của đề bài:
- Để hình thành thói quen đọc kĩ đề bài trước khi làm toán tôi yêu cầu học
sinh thực hiện các công việc sau:
+ Đọc đề thật chậm nhiều lần.
+ Xác định bài toán cho biết gì ? Hỏi gì ?
+ Gạch chân dưới các yếu tố quan trọng của đề toán.
+ Tự đặt câu hỏi tìm mối quan hệ giữa các yếu tố có trong bài, giải
thích mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
Ví dụ:
Bài 2 (trang 163 - Toán 3 - Tiết Chia số có năm chữ số cho số có một chữ
số)
Đề bài: Một kho hàng có 36550kg xi măng, đã bán số xi măng đó. Hỏi
cửa hàng còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?
* Học sinh đọc kỹ đề, xác định:
- Bài toán cho biết: Có 36550 kg xi măng
Đã bán số xi măng
- Bài toán hỏi: Còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?
* Học sinh đã xác định được các yếu tố cho biết và yếu tố cần tìm của
bài toán thì dùng thước kẻ, bút chì gạch chân dưới các yếu tố đó.
* Giải thích:
Lấy ra ?l
- Khi tóm tắt bằng sơ đồ các em có thể nhanh chóng xác lập được hướng
giải và giải bằng nhiều cách khác nhau.
b) Đối với những bài toán hợp giải bằng hai phép tính hoặc các bài
toán liên quan đến rút về đơn vị, nên dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để
tóm tắt. Thực chất là ta viết tắt các ý chính của toàn bài và phối hợp với ký
hiệu dấu móc để tóm tắt.
Ví dụ:
Bài 2 (Trang 166 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập chung)
Đề bài: Nhà trường mua 105 hộp bánh, mỗi hộp có 4 cái bánh. Số bánh
này đem chia hết cho các bạn, mỗi bạn được 02 cái bánh. Hỏi có bao nhiêu bạn
được nhận bánh ?
Tóm tắt:
Có : 105 hộp bánh
Một hộp có : 4 bánh
Một bạn được : 2 bánh
Số bạn có bánh:....... bạn?
Nhìn vào phần tóm tắt các em có thể nhận ra bài toán được chia ra làm 2
bài toán nhỏ và xác định ngay được cách giải.
Bài 2 (Trang 129 - Toán 3 - Tiết: Luyện tập)
Đề bài: Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi
muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch ?
Tóm tắt: 6 căn phòng : 2550 viên gạch
7 căn phòng : .... viên gạch?
- Nhìn vào phần tóm tắt, học sinh nhận ra ngay được dạng bài toán liên
quan đến rút về đơn vị.
c) Tóm tắt bằng Graph (lưu đồ) cũng là cách tóm tắt tiện lợi và có
hiệu quả giúp học sinh giải toán khá dễ.
Ví dụ:
Bài 89 (trang 14 - Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Tìm một số biết rằng nếu bớt số đó đi 45 sau đó giảm đi 3 lần,
cuối cùng thêm 17 thì được 26.
Tóm tắt
Gọi số phải tìm là a ta có hình vẽ:
-45 :3 +17
a 26
Số ngăn một tủ x số tủ
b) Tìm hướng giải cho bài toán ta cũng có thể phân tích từ các điều kiện
đã cho của bài toán, suy luận dần dần đến câu hỏi của bài toán. Đây là cách suy
luận theo đường lối tổng hợp.
Ví dụ: Bài 3 (trang 172 - Toán 3 - Tiết: Ôn tập bốn phép tính trong phạm vi
100000 (tiếp theo)
1
Đề bài: Một cửa hàng có 6450l dầu, đã bán số dầu đó. Hỏi cửa hàng đó còn
3
lại bao nhiêu lít dầu?
- Từ các điều kiện đã cho của bài toán, ta suy luận dần đến câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì ?
1
(Có 6450l dầu, đã bán số dầu đó).
3
+ Trong các điều kiện đó cái gì đã cho sẵn, cái gì phải tìm ?
(Số lít dầu của cửa hàng đó biết (6450l ) số đã bán chưa biết)
+ Tìm số lít dầu đã bán làm như thế nào ?
(Lấy số lít dầu có ban đầu : số phần)
+ Biết số lít dầu ban đầu, và số đã bán, tìm số lít dầu còn lại làm
như thế nào ?
+ Bài toán thuộc dạng toán gì ? Liên quan dạng toán gì ?
c) Có những bài toán khó có thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng cả hai
phương pháp suy luận trên trong một bài toán để tìm hướng giải.
Ví dụ: Bài 147 (Sách: Học giỏi Toán 3)
Đề bài: Có hai tấm vải dài 100m. Tấm vải thứ hai dài bằng ¼ tấm vải
thứ nhất. Nếu tấm vải thứ hai bán đi 9m thì tấm vải thứ nhất phải bán đi bao
nhiêu mét để số vải còn lại ở tấm thứ nhất gấp 6 lần số vải còn lại ở tấm thứ hai?
Hướng dẫn: - Theo bài ra ta có thể tính ngay được:
+ Độ dài tấm vải thứ nhất
+ Độ dài tấm vải thứ hai
- Từ câu hỏi của đề bài suy ngược lên:
+ Để tính số mét vải cần bán của tấm thứ nhất sao cho phần còn lại
gấp 6 lần phần còn lại của tấm thứ hai cần tính:
Phần còn lại của tấm thứ hai: (20 - 9 = 11 )
Phần còn lại của tấm thứ nhất: (11 x 6 = 66 )
Số mét vải cần bán ở tấm thứ nhất: (80 - 66 = 14)
Từ hai phần suy luận trên, học sinh có thể tự giải.
Bài giải:
Độ dài tấm vải thứ hai là: 100: (4 + 1) = 20 (m)
Độ dài tấm vải thứ nhất là: 100 - 20 = 80 (m)
hoặc 20 x 4 = 80 (m))
Phần còn lại của tấm thứ hai là: 20 - 9 = 11 (m)
Phần còn lại của tấm thứ nhất là: 11 x 6 = 66 (m)
Số mét vải tấm thứ nhất bán là: 80 - 66 = 14 (m)
Đáp số: 14 m vải
Đối với những bài toán khó nên vận dụng cả hai phương pháp suy luận trên
để giải. Trong chương trình Toán lớp 3 ít khi sử dụng mà chỉ vận dụng khi hướng
dẫn học sinh khá giỏi giải toán nâng cao. Thông thường các bài toán điển hình ở
lớp 3 chỉ giải bằng một hoặc hai phép tính nên ta có thể chỉ vận dụng một trong hai
phương pháp trên trong một bài toán.
4. Trình bày bài giải:
Việc trình bày bài giải toán ở lớp 3 cũng giống như ở lớp 2 học sinh đã được
học. Thông thường một bài toán được trình bày bài giải theo thứ tự như sau:
+ Câu lời giải
+ Phép tính tương ứng (tên đơn vị được viết trong ngoặc đơn sau kết quả)
+ Đáp số (tên đơn vị được viết bình thường không có ngoặc)
Đối với học sinh lớp 3, các em đã được học phép chia có dư. Vì vậy, có một số
bài toán có lời văn xuất hiện các từ như: “nhiều nhất”, “ít nhất”, “thừa”, “dư”
Ví dụ: Bài 3 trang 70 - SGK toán 3: Có 31 m vải, may mỗi bộ quần áo hết 3m.
hỏi có thể may được nhiều nhất là mấy bộ quần áo và còn thừa mấy mét vải?
Hoặc bài 2 trang 71 – SGK toán 3: Một lớp học có 33 học sinh, phòng học
của lớp đó chỉ có loại bàn 2 chỗ ngồi. Hỏi cần có ít nhất bao nhiêu bàn học như
thế ?
Đối với những bài toán kiểu như trên thì không thể trình bày theo cách thông
thường, tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải theo thứ tự như sau:
+ Phép tính (không có tên đơn vị)
+ Câu trả lời (dựa vào kết quả phép tính)
+ Đáp số
Chẳng hạn đối với bài 3 – trang 70, SGK toán 3
Bài giải
Ta có 31: 3 = 10 (dư 1)
Vậy có thể may được nhiều nhất là 10 bộ quần áo và còn thừa 1 m vải.
Đáp số: 10 bộ quần áo, thừa 1m vải.
Mỗi khi gặp những bài toán có xuất hiện những từ ngữ “nhiều nhất”, “ít
nhất”, “dư” “thừa”, tôi yêu cầu học sinh nhắc lại cách trình bày bài toán để
giúp các con nhớ lại và làm bài cho đúng.
Trong phần trình bày bài giải, tôi cũng lưu ý học sinh viết tên đơn vị của bài
toán cho đúng. Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy có học sinh thực hiện phép tính
thì đúng nhưng khi viết tên đơn vị sau kết quả phép tính thì lại sai. Bởi các con
quen dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu lời giải một cách máy móc, chưa
hiểu bản chất bài toán nên khi câu hỏi bài toán không xuất hiện từ chỉ đơn vị
thì học sinh bị nhầm lẫn, đặc biệt là những bài toán liên quan đến tiền, những
bài toán có liên quan đến đơn vị đo độ dài, …