You are on page 1of 4

Nguyễn Duy Khang-1913697 Bài 2

Bài 2: LƯỢNG NƯỚC TIÊU CHUẨN VÀ CƯỜNG ĐỘ NÉN CỦA XI MĂNG

Phần A: Xác định lượng nước tiêu chuẩn của xi măng


I. Mục đích và ý nghĩa của thí nghiệm

+ Áp dụng kiến thức khoa học cơ bản để đánh giá tính chất cơ học của vật liệu xây
dựng.

+ Hiểu biết, sử dụng và vận hành các loại dụng cụ, thiết bị phục vụ cho quá trình xác
định và đánh giá các tính chất của vật liệu xây dựng.

+ Biết được ý nghĩa của quá trình thử nghiệm và tiêu chuẩn áp dụng.

+ Đánh giá được chất lượng của vật liệu xây dựng khi sử dụng trong công trình.

II. Dụng cụ, thiết bị và vật liệu thí nghiệm


+ Cân kỹ thuật, độ chính xác 1g
+ Ống đong có vạch chia, độ chính xác 1ml.
+ Máy trộn phù hợp với TCVN 6016 (ISO 679).
+ Đồng hồ bấm giây, có khả năng đo với độ chính xác đến ± 1 s.
+ Thước, có khả năng đo với độ chính xác đến ± 0,5 mm.
+ Nước.
+ Dụng cụ Vicat.
III. Trình tự thí nghiệm
Đầu tiên, chúng ta cân 500 g xi măng và 142,5g nước nhào trộn chính xác đến ± 1
gam. Nếu bạn sử dụng ống đong chia độ hoặc buret để đo nước, thì đong chính xác
đến ± 1mL. Hồ được trộn bằng máy trộn hồ.Thời gian của các giai đoạn trộn khác
nhau, bao gồm cả thời gian bật / tắt của công tắc máy trộn, chính xác trong phạm vi ±
2 s.
Sau đó ta tiến hành trộn xi măng, quy trình như sau:
Bước 1: Máy trộn ở trạng thái sẵn sàng hoạt động. Đổ nước vào cối trộn và thêm xi
măng cẩn thận để tránh thất thoát nước hoặc xi măng; quá trình đổ hoàn thành trong
vòng 10 giây.
Bước 2: Ngay lập tức bật máy trộn ở tốc độ thấp và bắt đầu tính thời gian cho giai
đoạn trộn. Đồng thời, ghi lại thời điểm, lấy đến phút gần nhất, làm thời điểm “không”.
(Thời điểm "không” là mốc để tính thời gian bắt đầu đông kết và thời gian kết thúc
đông kết.)
Nguyễn Duy Khang-1913697 Bài 2

Bước 3: Sau khi trộn được 90 giây, dừng máy trộn trong 30 giây. Trong giai đoạn này,
dùng bay cao su hoặc nhựa phù hợp để cạo hết phần keo dính trên thành và đáy của cối
trộn rồi đặt vào giữa cối trộn.
Bước 4: Bật lại máy trộn và chạy ở tốc độ thấp trong 90 giây. Tổng thời gian chạy của
máy trộn là 3 phút.
Sau khi trộn xong, chúng ta đổ ngay hỗn hợp hồ vào khuôn đặt trên một tấm đế phẳng.
Cả khuôn và tấm đế đều được tráng một lớp dầu mỏng. Đổ hồ đầy hơn vào khuôn mà
không nén hoặc rung quá mạnh. Gõ nhẹ vào thành khuôn để loại bỏ khoảng trống
trong hồ. Dùng một dụng cụ có cạnh thẳng để loại bỏ phần hồ thừa bằng thao tác cưa
nhẹ nhàng, sao cho lớp hồ lấp đầy toàn bộ bề mặt khuôn và bề mặt phải trơn.
IV. Kết quả thí nghiệm
Ta nhìn vào kim vica ta thấy kim cách đáy: 7mm (hay kim lún sâu vào 33mm)
Lượng nước tiêu chuẩn = (N/X).100% = 350,877 g
V. Nhận xét
Thông qua kết quả thí nghiệm ta thấy rằng với lượng nước nhào trộn là 142,5 g thì
kim Vica cách đáy 7 mm (nằm trong khoảng 6 ± 2 mm). Vậy hồ xi măng đạt độ dẻo
tiêu chuẩn
Phần B: Xác định cường độ chịu nén của xi măng.
II. Dụng cụ, thiết bị và vật liệu thí nghiệm
+ Cân kỹ thuật, độ chính xác 1g
+ Ống đong có vạch chia, độ chính xác 1ml
+ Máy trộn phù hợp với TCVN 6016 (ISO 679)
+ Khuôn 40x40x160mm
+ Thiết bị dằn
+ Dụng cụ thử cường độ uốn
+ Máy thử cường độ nén, gá định vị
+ Dụng cụ đo thời gian
+ Cát tiêu chuẩn
+ Xi măng, nước
+ Bể ngâm mẫu
III. Trình tự thí nghiệm
Đầu tiên, chúng ta cân (450 ± 2) g xi măng, (1350 ± 5) g cát và (225 ± 1) g nước.
Mỗi mẻ vữa được trộn bằng máy trộn. Thời gian của các giai đoạn trộn khác nhau
bao gồm thời gian bật / tắt công tắc máy trộn, sai số tính toán trong khoảng ± 2s..
Sau đó ta đổ nước vào vữa và thêm xi măng cẩn thận để không làm mất nước hoặc xi
măng.
Nguyễn Duy Khang-1913697 Bài 2

Ngay khi nước và xi măng tiếp xúc với nhau, khởi động ngay máy trộn ở tốc độ thấp,
trong khi bắt đầu tính thời gian của các giai đoạn trộn, đồng thời ghi lại thêm thời
điểm lấy đến phút gần nhất làm "thời điểm không". Sau 30 s trộn, thêm cát từ từ
trong suốt 30 s tiếp theo. Bật máy trộn để ở tốc độ cao và tiếp tục trộn thêm 30s.
("Thời điểm không" là mốc để tính toán thời gian tháo khuôn và tuổi thử cường độ)
Ta dừng máy trong 90 s. Trong 30 s đầu, dùng bay cao su hoặc bay nhựa để cạo phần
vữa dính vào thanh và đáy cối đến giữa cối. Tiếp tục trộn ở tốc độ cao trong 60 s.
(Quá trình trộn có thể được điều khiển tự động hoặc thủ công)
Ta tiến hành đúc mẫu ngay sau khi chuẩn bị vữa. Khuôn và phễu được kẹp chặt trên
bàn dằn, dùng xẻng nhỏ thích hợp, xúc một lần hoặc nhiều lần, rải lớp vữa đầu tiên
vào từng ngăn khuôn (mỗi ngăn khoảng 300 gam), lấy trực tiếp ra từ máy trộn.
Dùng bay lớn để trải đều, bay được đặt gần như thẳng đứng, vai chạm đỉnh phễu và
được đậy lên phía trước và phía sau dọc theo từng ngăn khuôn. Sau đó dùng thiết bị
dằn để lèn lớp vữa thứ nhất 60 lần. Đổ thêm lớp vữa thứ hai để đảm bảo phải có
lượng vữa thừa nhô lên bề mặt khuôn, dùng thìa dàn đều vữa rồi đầm vữa này 60 lần.
Nhẹ nhàng nhấc khuôn ra khỏi bàn dằn và tháo phễu. Ngay sau đó, dùng thanh kim
loại loại bỏ vữa thừa, thanh kim loại được giữ gần như thẳng đứng nhưng nghiêng
theo gạt. Di chuyển từ từ theo kiểu cưa ngang, mỗi chiều một lần. Lặp lại quy trình
gạt bỏ vữa thừa bằng cách nghiêng thêm thanh kim loại theo hướng gạt để làm nhẵn
bề mặt.
Sau đó ta thực hiện quy trình tháo khuôn với các lưu ý:
Phải cẩn thận khi tháo rời để không làm hỏng mẫu thử. Khi tháo khuôn, có thể sử
dụng búa cao su hoặc nhựa hoặc các công cụ đặc biệt. Đối với các phép thử ở tuổi 24
giờ, thời gian tháo khuôn không được trước 20 phút trước khi mẫu thử được thử. Đối
với các phép thử ở tuổi lớn hơn 24 giờ, việc tháo rời được thực hiện trong khoảng
thời gian từ 20 đến 24 giờ sau khi đúc..
Nếu vữa không đạt cường độ cần thiết ở tuổi 24 để tránh làm hỏng mẫu thử sau 24
giờ, khuôn có thể được lấy ra sau 24 giờ. Việc tháo khuôn muộn này phải được ghi
lại trong báo cáo thử nghiệm.
Các mẫu thử đã tháo khỏi khuôn và được chọn để thử vào lúc 24h (hoặc 48h khi việc
tháo khuôn muộn là cần thiết), được phủ bằng vải ấm cho tới lúc thử. Còn các mẫu
thử được chọn để ngâm trong nước, được đánh dấu bằng mực chịu nước hoặc bút sáp
màu trước khi ngâm để tiện nhận biết sau này.
Để kiểm tra độ trộn, độ đầm và hàm lượng bọt khí trong vữa, nên cân mẫu thử sau
khi tháo khuôn.
Cuối cùng ta đến với quá trình bảo dưỡng mẫu thử trong nước:
Nguyễn Duy Khang-1913697 Bài 2

Mẫu đã đánh dấu được nhúng ngay vào nước, theo chiều ngang hoặc chiều dọc, tùy
ý. Với nhiệt độ trong bể mẫu là (27 ± 1) ° C. Nếu ngâm mẫu nằm ngang thì để các
mặt bên thành đúc theo đúng hướng thẳng đứng và mặt gạt vữa lên.
Đặt mẫu thử trên lưới cách xa nhau sao cho nước có thể vào được cả sáu mặt mẫu
thử. Trong thời gian ngâm, không có lúc nào khoảng cách giữa các mẫu thử hay độ
sâu của nước trên bề mặt mẫu thử nhỏ hơn 5 mm.
Việc ngâm riêng là bắt buộc, trừ khi đã xác định được qua thực nghiệm là thành phần
của xi măng đang thử nghiệm không ảnh hưởng tới sự phát triển cường độ của xi
măng khác được ngâm chung, xi măng có chứa hàm lượng ion clo lớn hơn 0,1% phải
ngâm riêng.
Dùng nước máy đổ bể lần đầu và thỉnh thoảng thêm nước để giữ cho mực nước
không thay đổi. Trong quá trình ngâm, khoảng cách giữa các mẫu hoặc độ sâu của
nước trên bề mặt mẫu không được nhỏ hơn 5mm.
Dùng nước máy đổ bể lần đầu và thỉnh thoảng thêm nước để giữ cho mực nước
không thay đổi. Trong quá trình ngâm mẫu, lượng nước không được quá 50% mỗi
lần thay nước.
Hệ thống tuần hoàn nước được lắp đặt trong bể ngâm sẽ đảm bảo nhiệt độ ngâm
đồng nhất; nếu có hệ thống như vậy trong bể, sử dụng tốc độ dòng chảy thấp nhất có
thể và sẽ không gây ra chuyển động trộn. Lấy mẫu ở bất kỳ độ tuổi nào (trừ 24 giờ
hoặc 48 giờ sau khi khô) ra khỏi nước trước 15 phút trước khi tiến hành thử nghiệm.
Loại bỏ các chất lắng đọng trên bề mặt mẫu. Che mẫu bằng vải ấm cho đến khi thử
nghiệm.
VI. Kết quả thí nghiệm
Cường độ nén 1 = (P1+ P2+ P3+ P4+ P5+ P6)/6 = 6000 kgf
Cường độ nén 2 = (P1+ P2+ P3+ P5+ P6)/5 = 6394 kgf
VII. Nhận xét
Nhìn vào tải trọng phá hoạt của 6 mẫu ta thấy mẫu P4 = 4030 (không thuộc trong
khoảng 6000 ± 600). Vậy ta loại bỏ mẫu thử số 4. Nhìn vào tải trọng phá hoạt của 5
mẫu còn lại ta thấy cả 5 mẫu đều thuộc trong khoảng 6394 ± 639,4. Vậy cường độ
chịu nén của 5 mẫu còn lại đều đạt tiêu chuẩn.

You might also like