You are on page 1of 16

Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT

PHẦN 2: PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM (1919 – 2000)


Chuyên đề 3: Việt Nam 1945 - 1954
A. Phạm vi kiến thức: Bài 24, bài 25, bài 26, bài 27 (SGK Lịch sử 9)
B. Câu hỏi cơ bản theo bài:
BÀI 24: CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ
VÀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1945 – 1946)
Câu 1: Tình hình nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (2/9/1945 -
19/12/1946) (Hoặc đề: Tại sao lại khẳng định sau cách mạng tháng Tám nước ta rơi vào “tình thế ngàn cân
treo sợi tóc”?. Theo anh (chị), khó khăn lớn nhất là gì? Nhiệm vụ cấp bách của các mạng Việt Nam thời điểm
đó là gì?
a) Khó khăn:
* Về chính trị:
Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật đã lũ lượt kéo vào nước ta. Từ vĩ tuyến 16
trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Chúng mang theo tay sai
thuộc các tổ chức phẩn động (Viêṭ Nam Quốc dân đảng và Viêṭ Nam Cách mạng đồng minh hô ̣i) về nước hòng cướp
chính quyền của ta. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại
xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp và chống
phá cách mạng.
Trên cả nước ta, có 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một bộ phận quân Nhật theo lệnh quân Anh đánh lại lực
lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu.
* Về kinh tế:
Nền kinh tế nông nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, hậu quả của nạn đói cuối năm
1944 đầu năm 1945 chưa khắc phục được. Tiếp đó là nạn lụt lớn, làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài,
khiến cho nửa tổng số ruộng đất không canh tác được. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở
công nghiệp của ta chưa kịp phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn.
*Về tài chính:
Ngân sách nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, kho bạc nhà nước chỉ có hơn 1,2 triệu đồng. Chính quyền cách
mạng chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Quân Trung Hoa Quốc dân đảng tung ra thị trường các lại tiền
Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
* Về văn hóa:
Tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề. Hơn 90% dân số không biết chữ.
Đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
b) Thuận lợi: Tuy nhiên, thuận lợi là rất cơ bản:
Nhân dân ta đã giành quyền làm chủ, bước đầu được hưởng quyền lợi do chính quyền cách mạng đưa lại nên rất
phấn khởi, gắn bó với chế độ.
Cách mạng nước ta có Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành và phát triển; phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở nhiều nước
thuộc địa và phụ thuộc; phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
c) Khó khăn lớn nhất: Đó là sự đe dọa của các thế lực đế quốc đối với nền độc lập dân tộc. Trong đó, kẻ thù
chính, nguy hiểm nhất là thực dân Pháp.
d) Nhiệm vụ cấp bách của các mạng Việt Nam thời điểm đó là:
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam “vẫn là giải phóng dân tộc”, khẩu hiệu của nhân dân là “dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết”
Bốn nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản, cải
thiện cho đời sống nhân dân. Trong đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của dân tộc ta là bảo vệ nền độc lập. Nếu giữ
vững được độc lập dân tộc thì sẽ giải quyết được các khó khăn còn lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này là: Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết.
Câu 2: Chính sách giải quyết khó khăn về đối nội của nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
nghị nhiều biện pháp nhằm xây dựng chính quyền, giải quyết trước mắt nạn đói, nạn dốt và những khó khăn về tài
chính.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page1
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
a) Xây dựng chính quyền cách mạng:
Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chính phủ Cách mạng lâm thời công bố Lệnh
Tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 6/1/1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu
được 333 đại biểu khắp Bắc – Trung – Nam.
Ý nghĩa của sự kiện 6/1/1946:
Đây là lần đâu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền công dân, bầu những đại biểu chân
chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Khẳng định quyền làm chủ của người dân.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc là một cuộc vận động chính trị rộng lớn, là cuộc biểu dương
sức mạnh và thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân Việt Nam là xây dựng một một nước Việt Nam thống nhất, độc
lập.
Cuộc bầu cử là căn cứ khẳng định nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - một
nhà nước của dân, do dân, vì dân; giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế quốc và
tay sai, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kì mới, góp phần nâng cao
uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.
b) Giải quyết nạn đói:
Biện pháp trước mắt:
Tổ chức quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ
gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước “nhường cơm sẻ áo”. Trên khắp cả nước, nhân dân ta lập “Hũ
gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm”, không dùng gạo, ngô, sắn… để nấu rượu.
Biện pháp lâu dài:
Tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Mô ̣t phong trào thi đua tăng gia sản xuất dấy lên
khắp cả nước với khẩu hiêụ “Tấc đất tấc vàng!”, “Không mô ̣t tấc đất bỏ hoang!”
Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ thuế thân và các thuế vô lí khác của chế độ cũ, giảm tô 25%, giảm thuế
ruộng đất 20%, tạm cấp ruộng đất bỏ hoang cho nông dân thiếu ruộng, chia lại ruộng đất cho công theo nguyên tắc
công bằng, dân chủ.
Nhờ các biêṇ pháp tích cực trên, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói dần được đẩy lùi.
c) Giải quyết nạn dốt:
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ - cơ quan chuyên trách về
chống “giặc dốt” và kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ.
Các cấp học đều phát triển mạnh. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân
tộc dân chủ.
d) Giải quyết khó khăn tài chính:
Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuô ̣c vâ ̣n đô ̣ng xây dựng
“Quỹ độc lập” và phong trào “Tuần lễ vàng”, đồng bào cả nước hăng hái đóng góp tiền của và vàng bạc.
Ngày 23/11/1946, quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước, thay cho tiền Đông Dương của
Pháp trước đây.
Câu 3: Chính sách giải quyết khó khăn về đối ngoại của nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong hơn một năm đầu (2/9/1945 – 19/12/1946) sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập,
cách mạng đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, có giải quyết được thì thành quả Cách mạng tháng Tám năm
1945 mới được giữ vững, đặc biệt là khó khăn về đối ngoại. Chúng ta cùng một lúc phải đối mặt với nhiều kẻ thù.
Vì vậy, việc tìm ra đối sách ngoại giao khôn ngoan và đúng đắn, phù hợp là việc làm quyết định đến sự an nguy của
quốc gia.
a. Nhâ ̣n diêṇ kẻ thù:
Kẻ thù của nhân dân ta tập trung ở 2 khu vực:
Miền Bắc: quân Trung Hoa Dân quốc (đứng sau là Mỹ) và tay sai;
Miền Nam: Anh, Pháp và tay sai.
Phân tích âm mưu của các đế quốc với Đông Dương, Trung ương Đảng đã nêu rõ: “Kẻ thù chính của ta lúc này
thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
b. Chủ trương, sách lược:
Để tránh phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng một lúc, ta đã đưa ra đối sách ngoại giao phù hợp với từng thời kỳ:
Hòa hoãn với Tưởng để tập trung đánh Pháp ở miền Nam (9/1945 - 3/1946)
Sau đó, hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng ra khỏi nước ta (6/3/1946 - 12/1946)
Thời kì từ 2/9/1945 – 6/3/1946: Hòa hoãn với Tưởng để tập trung đánh Pháp ở miền Nam
* Nguyên nhân vì sao lại đánh Pháp, hòa với Tưởng:
Giáo viên: Nguyễn Thu Hương
Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page2
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Trong hoàn cảnh cùng một lúc phải đối mặt với nhiều kẻ thù, trong thời gian từ tháng 9/1945 đến tháng 3/1946,
Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chủ trương hòa với Tưởng để tập trung đánh Pháp vì:
Về phía thực dân Pháp:
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thực dân Pháp đã có những
hành đô ̣ng trắng trợn: Ngày 2/9/1945, thực dân Pháp xả súng vào nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào
mừng “Ngày độc lập”. Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, được sự giúp đõ của quân Anh, thực dân Pháp cho quân đánh
úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ và Cơ quan tự vê ̣ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuô ̣c chiến tranh xâm lược nước ta
lần thứ hai.
Thực dân Pháp ráo riết gây chiến ở Nam Bộ bằng những hành động trắng trợn, bất chấp mọi phản ứng từ phía
Việt Nam. Vì thế, dù muốn hay không muốn, chúng ta cũng buộc phải đối mặt với cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp.
* Về phía quân Tưởng:
Chúng vào miền Bắc với danh nghĩa Đồng minh, có âm mưu là lật đổ chính phủ ta, chiếm miền Bắc. Nhưng
chúng không công khai, mà dùng bọn Việt Quốc, Việt cách để phá ta từ bên trong, đòi ta phải cải tổ chính phủ, gạt
những người cộng sản ra khỏi chính phủ, để cho chúng một số ghế trong quốc hội (không qua bầu cử), đòi giải tán
Đảng Cộng sản …Vì thế, việc đối phó với quân Tưởng đòi hỏi phải kết hợp giữa cứng rắn với mềm dẻo
* Chủ trương, sách lược, biê ̣n pháp đối phó: Hòa với Tưởng, tránh xung đột vũ trang ở miền Bắc, tập trung lực
lượng chống lại quân Pháp ở miền Nam.
Ở miền Nam: Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm lãnh đạo quân dân Nam Bộ
kháng chiến chống Pháp, đồng thời huy động lực lượng cả nước chi viện cho Nam bộ và Nam Trung Bộ.
Ở miền Bắc: tại kì họp đầu tiên (02/3/1946), Quốc hội khóa I đồng ý nhường cho các đảng Viêṭ Quốc, Viêṭ cách
70 ghế trong Quốc hô ̣i và mô ̣t số ghế bô ̣ trưởng trong chính phủ Liên hiệp. Ngoài ra, chúng ta còn nhân nhượng cho
quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng một số quyền lợi kinh tế như: Cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương
tiện giao thông, vận tải, cho phép lưu hành tiền Trung Quốc trên thị trường. Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố
“tự giải tán” (11/11/1945), nhưng sự thật là tạm thời rút vào hoạt động “bí mật”, tiếp tục lãnh đạo đất nước và chính
quyền cách mạng.
Mă ̣t khác, Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng, giam giữ những phần tử
chống đối nhà nước, lâ ̣p tòa án để trừng trị bọn phản cách mạng.
Thời kì từ 6/3/1946 đến 19/12/1946: Hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng ra khỏi nước ta
* Nguyên nhân vì sao ta hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng:
Vì đầu năm 1946, cách mạng nước ta tiêp̣ tục đối mă ̣t với quá nhiều khó khăn:Ở miền Nam: Pháp đã chiếm đóng
được các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung bộ. Chúng ráo riết mở rộng chiến tranh, thực hiện cuộc tiến quân ra Bắc
nhằm thôn tính cả nước ta.Ở miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng tiếp tục chiếm đóng, gây cho ta nhiều khó khăn về chính
trị, kinh tế, tài chính … lại là chỗ dựa của bọn phản cách mạng.
Pháp và Tưởng kí Hiệp ước Hoa – Pháp (28/2/1946 ). Hiệp ước Hoa – Pháp buộc nhân dân ta phải chọn một
trong hai con đường, hoặc cầm vũ khí chống lại thực dân Pháp khi chúng ra miền Bắc, hoặc là cùng hòa hoãn với
Pháp để nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc, tranh thủ thời gian hòa hoãn, xây dựng đất nước,
chuẩn bị lực lượng đối phó với cuộc chiến tranh của Pháp về sau.
* Chủ trương: hòa hoãn với Pháp để tránh đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc; mượn Pháp để đuổi 20 vạn
quân Tưởng ra khỏi nước ta và tiếp tục khắc phục khó khăn về kinh tế, tài chính, văn hóa…
Ngày 3/3/1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp “Hòa để tiến”.
Chiều ngày 6/3/1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ Việt Nam Dân chủ Cô ̣ng hòa kí với
G.Xanhtơni (Đại diện Chính phủ Pháp) bản Hiệp ước sơ bộ.
Sau khi kí Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây xung đột vũ trang ở Nam bộ, lập Chính phủ Nam Kì
tự trị, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến
tranh. Trước tình hình đó,Chủ tịch Hồ Chí Minh, bây giờ đang ở thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách của
Chính phủ Pháp, đã kí bản Tạm ước ngày 14/9/1946, tiếp tục nhân nhượng Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn
hóa ở Việt Nam.
BÀI 25: NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC
KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Câu 4: Từ kiến thức lịch sử về cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954),
em hãy:
a) Giải thích tại sao cuô ̣c kháng chiến toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bùng
nổ ngày 19-12-1946?
b) Phân tích đường lối kháng chiến do đảng ta xây dựng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
Giáo viên: Nguyễn Thu Hương
Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page3
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
a) Cuô ̣c kháng chiến toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bùng nổ ngày 19-12-
1946 vì:
- Về phía chính phủ và nhân dân Viê ̣t Nam:
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Chính phủ Viêṭ Nam mong muốn được các nước trên thế giới công nhâ ̣n nước
Viêṭ Nam Dân chủ Cô ̣ng hòa và cũng mong muốn có hòa bình để xây dựng đất nước.
Trong hoàn cảnh sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta cùng mô ̣t lúc phải đối mă ̣t với nhiều kẻ thù.
Trước những hành đô ̣ng chiến tranh xâm lược của kẻ thù, Chính phủ ta đã nỗ lực cứu vãn mô ̣t nền hòa bình dù rất
mong manh, nên ta đã chủ đô ̣ng đàm phán và kí với Pháp Hiêp̣ định Sơ bô ̣ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946).
Sau hiệp định sơ bộ 6/3 và tạm ước 14/9, chấp hành chủ trương của chính phủ, nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ
vững hòa bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp
lâu dài.
Mă ̣t khác, trong khi nỗ lực hòa bình dù hòa bình, Chính phủ Viêṭ Nam vẫn tích cực chuẩn bị mọi lực lượng đề
phòng tình huống bất trắc xảy ra. Tháng 5/1946, Vê ̣ quốc đoàn được đổi thành Quân đô ̣i Quốc gia Viêṭ Nam. Ngày
12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
- Về phía thực dân Pháp:
Trái ngược với thiêṇ chí hòa bình của Viêṭ Nam, thực dân Pháp vẫn ngoan cố bám giữ lâ ̣p trường thực dân, nuôi
hi vọng giành thắng lợi bằng quân sự. Với dã tâm cướp nước ta mô ̣t lần nữa, chúng đã trắng trợn xé bỏ những điều đã
cam kết với ta trong Hiêp̣ định Sơ bô ̣ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946).
Thực dân Pháp bội ước, chúng đã tăng cường các hoạt động khiêu khích, ngày 27/11/1946, Pháp chiếm đóng Hải
Phòng. Tại Hà Nội, ngày 17/12/1946, chúng cho quân bắn đại bác và súng cối vào thành phố Hàng Bún, chiếm trụ
sở bộ tài chính. Ngày 18/12/1946, chúng láo xược gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến
đấu và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng. Pháp tuyên bố: nếu ta không chấp nhận thì ngày 20/12/1946, chúng
sẽ hành động.
Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ còn có một con đường là cầm vũ khí kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ độc lập, tự do.
Trong hoàn cảnh đó, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngay trong đêm 19/12/1946. Lời
kêu gọi là tiếng gọi của non sông, là mệnh lệnh tiến công cách mạng, giục giã, soi đường cho nhân dân ta đứng lên
đánh giặc cứu nước.
b) Phân tích đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, Chỉ thị
toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và được giải thích cụ thể trong cuốn Kháng chiến nhất
định thắng lợi của Trường Chinh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.
Kháng chiến toàn dân: Nghĩa là mọi người dân đều tham gia đánh giặc, không phân biệt già trẻ, trai gái, thành
phần dân tộc … Mỗi người Việt Nam là một chiến sĩ. Bởi lúc đầu ta yếu hơn địch về quân sự, kinh tế nhưng ta chiến
đấu vì chính nghĩa, mọi người dân đều có tinh thần yêu nước, căm thù giặc, ai cũng một lòng kháng chiến. Vì vậy,
cần phải huy động toàn dân. Một khi toàn dân tham gia kháng chiến thì thực dân Pháp đặt chân đến đâu cũng bị dân
ta đánh và chính dân là nguồn cung cấp sức người, sức của dồi dào cho cuộc kháng chiến.
Kháng chiến toàn diện: Nghĩa là kháng chiến về mọi mặt: Kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa xã hội và ngoại
giao. Địch đánh ta không chỉ về quân sự mà còn đánh ta trên nhiều làm việc khác nhau, như: Phá hoại kinh tế, tìm
cách làm cho ta suy yếu về chính trị, dụ dỗ, ru ngủ dân ta, nhất là thanh thiếu niên quên đi nỗi nhục mất nước bằng
cách truyền bá văn minh đồi trụy, tìm cách cô lập nước ta với quốc tế. Mặt khác ta vừa phải kháng chiến, vừa kiến
quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Kháng chiến lâu dài: Sở dĩ như vậy là vì, trên thực tế vào lúc mở đầu chiến tranh, địch mạnh hơn ta rất nhiều về
quân sự. Chúng có cả đội quân xâm lược nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân lại có các đế quốc khác giúp đỡ.
Âm mưu của chúng là đánh nhanh, thắng nhanh để kết thúc chiến tranh. Ngược lại, quân đội ta còn non trẻ, vũ khí
thô sơ. Ta đánh lâu dài để vừa đánh vừa tiêu hao lực lượng địch, phát triển lực lượng của ta đợi tới khi mạnh hơn
địch mới đánh bại được chúng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: Nghĩa là, lấy chính sức người sức của bản thân và của toàn dân tộc để
phục vụ kháng chiến nhằm phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc; tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế nhưng không
ỷ lại vào sự giúp đỡ đó. “Lấy sức ta mà giải phóng cho dân ta” là quan điểm xuyên suốt trong tiến trình cách mạng
của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Đây là con đường duy nhất đúng đề phát huy tiềm năng vốn có của dân tộc.
Truyền thống yêu nước, tự lực tự cường … Sức mạnh nội sinh một khi được khơi dậy thị sự giúp đỡ bên ngoài mới
được phát huy.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page4
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Bốn mặt trên đây của đường lối kháng chiến là một thể thống nhất có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau. Đường lối kháng chiến đúng đắn đó được tiếp tục bổ sung trong suốt quá trình của cuộc kháng chiến, đã có ý
nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc cách mạng.
Câu 5: Tại sao cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra trước tiên ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến
16? Diễn biến và ý nghĩa của cuộc chiến đấu trong các đô thị?
a. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra trước tiên ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 vì:
Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3) và Tạm ước (14/9) đã được ký kết, thực dân Pháp ngang nhiên xé bỏ Hiệp định và
Tạm ước, thực hiện âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh”. Để thực hiện được âm mưu này, Pháp đã mở các cuộc tấn
công trước tiên vào các đô thị nhằm đánh úp cơ quan đầu não kháng chiến của ta tại Hà Nội, tiêu diệt lực lượng vũ
trang của ta ở các đô thị.
Ta thực hiện cuộc chiến đấu tại các đô thị để tiêu hao sinh lực địch, giam chân địch trong thành phố, đảm bảo cho
cơ quan đầu não kháng chiến của Đảng và Chính phủ rút về căn cứ cách mạng an toàn.
b. Diễn biến:
Ở Hà Nội, khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, cuộc chiến đấu bắt đầu. Nhân dân đã khiêng bàn ghế, giường, tủ, hạ
cây cối… làm thành những chướng ngại vâ ̣t hoă ̣c chiến lũy ngay trên đường phố để chống giă ̣c. Trung đoàn thủ đô
được thành lâ ̣p và tiến đánh những trâ ̣n quyết liêṭ ở Bắc Bô ̣ phủ, chợ Đồng Xuân, Nhà Bưu điên… ̣ Sau hai tháng
chiến đấu kiên cường, ngày 17/2/1947, quân ta rút khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ an toàn.
Ở các đô thị như Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng … quân dân ta bao vây, tiến công tiêu
diệt nhiều tên địch.
c. Ý nghĩa:
Cuô ̣c chiến đấu trong các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã kìm chân địch, không cho chúng mở rô ̣ng địa bàn chiếm
đóng; chă ̣n đứng âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp; bảo vê ̣ các cơ quan đầu não, nhân tài vâ ̣t lực của đất
nước, tạo điều kiêṇ cho cả nước bước vào kháng chiến lâu dài.
Câu 6: Nêu âm mưu và hành đô ̣ng của thực dân Pháp trong cuô ̣c tiến công căn cứ địa Viêṭ Bắc của ta.
Trình bày diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947
* Nêu âm mưu và hành động của thực dân Pháp trong cuộc tiến công căn cứ địa Viê ̣t Bắc của ta:
Để giải quyết khó khăn khi phạm vị chiếm đóng mở rô ̣ng và thực hiêṇ âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh”, tháng
3/1947, Chính phủ Pháp cử Bôlae làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ, thực hiêṇ kế hoạch tiến công
căn cứ địa Viêṭ Bắc nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Thực dân Pháp huy động 12 000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương, chia thành ba cánh quân tiến công căn
cứ địa Viêṭ Bắc từ ngày 7/10/1947 nhằm:
- Phá tan cơ quan đâu não kháng chiến của ta
- Tiêu diêṭ phần lớn bô ̣ đô ̣i chủ lực của ta
- Khóa chă ̣t biên giới Viêṭ Trung, ngăn chă ̣n liên lạc giữa ta và quốc tế...
* Chủ trương của ta:
Khi địch vừa tấn công Việt Bắc, Đảng ta đã có chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”.
Trên khắp các mặt trận, quân dân ta anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch.
* Diễn biến:
Quân dân ta chủ động bao vây và tiến công địch ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông (nay
thuô ̣c Bắc Kạn)… buộc Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã cuối tháng 11/1947.
Ở mặt trận hướng đông, quân dân ta phục kích chặn đánh địch trên đường số 4, tiêu biểu là mặt trận phục kích ở
đèo Bông Lau (30/10/1947), đánh trúng đoàn xe cơ giới của địch, thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng của địch.
Ở mặt trận hướng tây, quân dân ta phục kích đánh nhiều trận trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan Hùng, Khe Lau
đánh chìm nhiều tàu chiến, ca nô của địch.
Như vậy, hai gọng kìm Đông và Tây của Pháp bị bẻ gãy, không khép kín lại được. Sau hơn hai tháng, cuộc chiến
đấu giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quan Pháp khỏi Việt Bắc ngày 19/12/1947.
Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bắc, quân dân ta trên các chiến trường toàn quốc hoạt động mạnh, kiềm chế,
không cho địch tập trung lớn binh lực vào chiến trường chính
* Kết quả:
Cuô ̣c chiến đấu liên tục 75 ngay đêm đã kết thúc bằng cuô ̣c rút chạy của đại bô ̣ phâ ̣n quân Pháp khỏi Viêṭ Bắc.
Căn cứ địa Viêṭ Bắc trở thành mồ chôn của thực dân Pháp. Quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6000 địch, bắn
rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn.
Bộ đội chủ lực càng trưởng thành qua thực tiễn chiến đấu.
* Ý nghĩa:
Giáo viên: Nguyễn Thu Hương
Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page5
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Với chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bước
sang giai đoạn mới.
Sau thất bại ở Việt Bắc, Pháp buộc thay đổi chiến lược chiến tranh ở Đông Dương, từ “đánh nhanh, thắng nhanh”
sang “đánh lâu dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
BÀI 26: BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA
CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Câu 7: Chiến dịch nào là chiến dịch đầu tiên bô ̣ đô ̣i chủ lực của ta chủ đô ̣ng tấn công địch trong kháng
chiến chống Pháp 1945 – 1954. Trình bày hoàn cảnh lịch sử, diễn biến, kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến
dịch đó.
Chiến dịch đầu tiên bô ̣ đô ̣i chủ lực của ta chủ đô ̣ng tấn công địch trong kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954 là
Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950
* Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến:
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947, cuộc kháng chiến của nhân dân ta có thêm những thuận lợi, song
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới.
Ngày 1/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời.
Ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước. Sau đó, Chính
phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (18/1/1950), Chính phủ Liên Xô (30/1/1950) và các nước trong phe xã hội chủ
nghĩa trong vòng một tháng sau lần lượt công nhận và đặt quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 13/5/1949, với sự đồng ý của Mỹ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. Với kế hoạch này, Mỹ từng bước
can thiệp sâu và “dính líu trực tiếp” vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Thực hiện kế hoạch Rơ-ve, từ tháng 6/1949, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập
“Hành lang Đông – Tây” (Hải Phòng – Hà Nội - Hòa Bình – Sơn La). Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch
quy mô lớn tiến công Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Việc Pháp thực hiện kế hoạch Rơve đã làm cho vùng tự do của ta bị thu hẹp, căn cứ địa Việt Bắc bị bao vây…
Để khắc phục khó khăn, đưa cuộc kháng chiến phát triển thêm một bước mới, tháng 6/1950, Đảng và Chính phủ
quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông đường sang
Trung Quốc và thế giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tạo dà thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận để cùng Bộ chỉ huy chỉ đạo vào động viên bộ đội chiến đấu.
* Diễn biến:
Sáng 16/9/1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng toàn diệnận đánh vào Đông Khê. Đến
ngày 18/9/1950, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào
tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập.
Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yếm trợ cho cuộc rút
quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về.
Đón trước được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên Đường số 4 khiến
cho hai cánh quân này không gặp được nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Nà Sầm
(08/10/1950) và ngày 13/10/1950, chạy khỏi Nà Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái
Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh.
Quân Pháp trở lên hoảng loạn, phải rút chay, đường số 4 hoàn toàn được giải phóng ngày 22/10/1950.
* Kết quả:
Sau hơn một tháng chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 tên địch, giải phóng dải biên giới Việt –
Trung từ Cao Bằng tới Đình Lập với 35 vạn dân, chọc thủng "Hành lang Đông – Tây” của Pháp. Thế bao vây cả
trong lẫn ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơve bị phá sản.
* Ý nghĩa:
Với chiến thắng biên giới, con đường liên lạc của ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông; quân đội ta
đã trưởng thành, giành được thế chủ động trên khắp chiến trường chính (Bắc Bộ); mở ra bước phát triển mới của
cuộc kháng chiến.
Câu 8: Vì sao trong chiến dịch Biên giới thu - đông 1950 ta chọn Đông Khê mở màn cho chiến dịch? Diễn
biến của trận đánh đó?
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947, cuộc kháng chiến của nhân dân ta có thêm những thuận lợi, song
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Việc Pháp thực hiện kế hoạch Rơve đã làm cho vùng tự do của ta bị thu
hẹp, căn cứ địa Việt Bắc bị bao vây… Để khắc phục khó khăn, đưa cuộc kháng chiến phát triển thêm một bước mới,
tháng 6/1950, Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch, khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tạo đà thúc đẩy
cuộc kháng chiến tiến lên.
Giáo viên: Nguyễn Thu Hương
Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page6
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
* Sở dĩ, quân tachọn Đông Khê mở màn cho chiến dịch vì:
Đông Khê là vị trí chiến lược quan trọng trên đường số 4.
Đánh Đông Khê nhằm cắt đứt hệ thống phòng ngự của địch ra làm đôi.
Đánh Đông Khê là cả nghê ̣ thuâ ̣t quân sự của ta. Khi ta chiếm được Đông Khê đẩy quân địch vào thế nguy khôn:
Thất Khê bị uy hiếp, thị xã Cao Bằng bị cô lập; thế phòng thủ đường số 4 bị lung lay. Ta đoán trước được ý đồ của
địch sẽ cho quân từ Cao Bằng xuống và Thất Khê lên để chiếm lại Đông Khê. Sau đó, quân ta chủ động mai phục,
chặn đánh địch nhiều nơi trên Đường số 4 khiến cho hai cánh quân này không gặp được nhau và sẽ dễ dàng chiếm
được cả Cao Bằng và Thất Khê. Khi đã chiếm được ba cứ điểm Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê thì viêc̣ phá tan hê ̣
thống phòng thủ còn lại của địch trên đường số 4 chỉ còn là vấn đề thời gian.
* Diễn biến của trận đánh:
Mờ sáng ngày 16/9/1950, quân ta nổ súng tân công vào cứ điểm ở Đông Khê, mở màn cho chiến dịch.Sau 54 giờ
chiến đấu, sáng ngày 18/9, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê, đẩy quân địch vào thế nguy
khôn: Thất Khê bị uy hiếp, thị xã Cao Bằng bị cô lập; thế phòng thủ đường số 4 bị lung lay.
Câu 9: Vì sao thu đông năm 1950 ta quyết định mở chiến dịch Biên giới? Nhằm mục đích gì? Thắng lợi
này có ý nghĩa như thế nào đối với tiến trình phát triển của cuô ̣c kháng chiến chống Pháp?
Thu đông năm 1950 ta quyết định mở chiến dịch Biên giới vì:
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947, cuộc kháng chiến của nhân dân ta có thêm những thuận lợi, song
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới.
Thuận lợi: Ngày 1/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời.
Ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước. Sau đó, Chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (18/1/1950), Chính phủ Liên Xô (30/1/1950) và các nước trong phe xã hội chủ
nghĩa trong vòng một tháng sau lần lượt công nhận và đặt quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thách thức: Ngày 13/5/1949, với sự đồng ý của Mỹ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. Với kế hoạch này,
Mỹ từng bước can thiệp sâu và “dính líu trực tiếp” vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Thực hiện kế hoạch Rơ-ve,
từ tháng 6/1949, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông – Tây” (Hải
Phòng – Hà Nội - Hòa Bình – Sơn La). Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến công Việt Bắc
lần thứ hai, mong giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Việc Pháp thực hiện kế hoạch Rơve đã làm cho vùng tự do của ta bị thu hẹp, căn cứ địa Việt Bắc bị bao vây…
Để khắc phục khó khăn, đưa cuộc kháng chiến phát triển thêm một bước mới, tháng 6/1950, Đảng và Chính phủ
quyết định mở chiến dịch Biên giới
Ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm mục đích:
Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch,
Khai thông con đường liên lạc quốc tế giữa nước ta với Trung Quốc và các nước dân chủ trên thế giới
Mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc,
Tạo đà thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
Ý nghĩa của thắng lợi này đối với tiến trình phát triển của cuô ̣c kháng chiến chống Pháp:
Sau hơn một tháng chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 tên địch, giải phóng dải biên giới Việt –
Trung từ Cao Bằng tới Đình Lập với 35 vạn dân, chọc thủng "Hành lang Đông – Tây” của Pháp. Thế bao vây cả
trong lẫn ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơve bị phá sản. Mục tiêu đă ̣t ra của ta đã đạt.
Với chiến thắng biên giới, cuô ̣c kháng chiến của ta đã chuyển sang mô ̣t giai đoạn mới: quân đội ta đã trưởng
thành, giành được thế chủ động trên khắp chiến trường chính (Bắc Bộ).
Trên cơ sở đó, thắng lợi của chiến dịch Biên giới đã tạo đà cho quân ta giữ vững và phát huy quyền chủ đô ̣ng
đánh địch trên chiến trường, liên tiếp mở những chiến dịch tiếp theo tiến công vào các phòng tuyến của địch ở các
chiến trường vùng rừng núi, trung du và đồng bằng, nhằm phá âm mưu đẩy mạnh chiến tranh của Pháp – Mĩ (chiến
dịch Trung du, Đường số 18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào từ cuối 1950 đến 4/1953). Trên đà
thắng lợi đó, chúng ta đã tiến hành cuô ̣c tiến công chiến lược ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương vào Đông –
Xuân 1953 – 1954 và đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điêṇ Biên Phủ, kết thúc kháng chiến chống Pháp.
Như vâ ̣y, chiến dịch Biên giới 1950 là mô ̣t bước ngoă ̣t của cuô ̣c kháng chiến (giành thế chủ đô ̣ng), và tạo đà đi
đến những thắng lợi tiếp theo.
Câu 10: Sau thất bại trong Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, thực dân Pháp và can thiêp̣ Mĩ có âm mưu
gì ở Đông Dương?
Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương. Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh:
Từ tháng 5/1949, Mỹ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Ngày 23/12/1950,
Mỹ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương. Đây là hiệp định viện trợ quân sự, kinh tế - tài chính
của Mỹ cho Pháp và tay sai, qua đó Mỹ từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.
Giáo viên: Nguyễn Thu Hương
Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page7
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Tháng 9 năm 1951, Mỹ kí với Bảo Đại Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt – Mỹ nhằm mục đích trực tiếp ràng buộc
chính phủ Bảo Đại vào Mỹ.
Dựa vào viện trợ của Mỹ, cuối năm 1950, Pháp đề ra kế hoạch Đờ lát đờ Tátxinhi, mong muốn kết thúc nhanh
chiến tranh với 4 điểm chính:
- Gấp rút tập trung quân Âu – Phi nhằm xây một lực lượng cơ động mạnh, ra sức phát triển ngụy quân.
- Xây dựng phòng tuyến công sự xi măng cốt sắt, thành lập “vành đai trắng” bao quanh trung du và đồng bằng
Bắc Bộ.
- Tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng tạm chiến.
- Đánh phá hậu phương của ta bằng biệt kích, thổ phỉ, gián điệp;kết hợp phi pháo với chiến tranh tâm lý và chiến
tranh kinh tế.
Kế hoạch Đờ lát đờ Tátxinhi đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương lên quy mô lớn, làm cho
cuộc kháng chiến của nhân dân ta, nhất là ở vùng sau lưng địch, trở lên khó khăn, phức tạp.
Câu 11: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2/1951)
Từ ngày 11 đến ngày 19/ 2 /1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở
Vinh Quang (Chiêm Hóa, Tuyên Quang).
* Nội dung:
Đại hội đã thông qua hai bản báo cáo quan trọng:
Báo cáo chính trị cho chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của Đảng qua các chặng
đường lịch sử đấu tranh oanh liệt kể từ ngày ra đời, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.
Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam cho tổng bí thư Trường Chinh trình bày, trong đó nêu rõ nhiệm vụ cơ bản
của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho dân tộc,
xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng”, phát triển chế độ làm chủ
nhân dân, gây dựng cơ sở cho Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một
đảng Mác - Lênin riêng, có cương lĩnh phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc.
Ở Việt Nam, đại hội quyết định đưa đảng ra hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, tiếp tục
đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới; quyết định xuất bản báo Nhân dân – cơ quan ngôn
luận của Đảng.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành trung ương Đảng và bộ chính trị. Hồ Chí Minh được bầu giữa chức chủ tịch Đảng,
Trường Chinh được bầu làm tổng bí thư của Đảng.
* Ý nghĩa:
Đại hội đại biểu lần thứ hai đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình trưởng thành và lãnh đạo cách mạng
của Đảng ta, là “Đại hội kháng chiến thắng lợi”.
Câu 12: Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (02/1951), hậu phương của ta đã phát triển
về mọi mặt như thế nào từ năm 1951 – 1953?
* Về chính trị:
Từ ngày 3 đến ngày 7/3/1951, Đại hội toàn quốc thống nhất hai mặt trận Việt Minh và hội Liên hiệp Việt Nam
thành một mặt trận duy nhất, lấy tên là mặt trận Liên hợp Quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt) do Tôn Đức
Thắng làm chủ tịch, Hồ Chí Minh làm chủ tịch danh dự.
Ngày 11/3/1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme Ítxarắc, Mặt trận Lào Ítxala họp Hội nghị đại biểu để thành
lập liên minh nhân dân Việt – Miên - Lào.
Ngày 1/5/1952, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất đã tổng kết, tuyên dương phong trào
thi đua ái quốc và chọn được 7 anh hùng (Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô
Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.
* Về kinh tế:
Năm 1952, Chính phủ mở cuộc vận động lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm. Cuộc vận động đã thu hút
mọi giới, mọi ngành tham gia.
Năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở ra đã sản xuất được 2 757 000 tấn thóc và hơn
65 vạn tấn hoa màu.
Sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp về cơ bản đáp ứng được về những yêu cầu công cụ sản xuất và những
mặt hàng thiết yếu về đời sống.
Năm 1953, ta sản xuất được 3 500 tấn vũ khí đạn dược, cung cấp tạm đủ cho bộ đội về thuốc men, quân trang,
quân dụng.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page8
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Chính phủ còn đề ra những chính sách nhằm chấn chỉnh chế độ thuế khóa, xây dựng nền tài chính, ngân hàng,
thương nghiệp.
Từ năm 1953, Đảng và chính phủ quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng
đất ở vùng tự do Thái Nguyên, Thanh Hóa.
* Về văn hóa, giáo dục, y tế:
Tiếp tục công cuộc cái cách giáo dục, thực hiện theo ba phương châm “phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh,
phục vụ sản xuất”; nhà trường gắn với đời sống xã hội.
Văn nghệ sĩ hăng hái thâm nhập mọi mặt của cuộc sống, chiến đấu và sản xuất.
Công tác vận động vệ sinh phòng bệnh, thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan ngày càng có tính chất
quần chúng rộng hơn.
Công tác chăm lo sức khỏe của nhân dân được coi trọng, bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được
xây dựng.
BÀI 27: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC KẾT THÚC (1953 – 1954)
Câu 13. Hoàn cảnh lịch sử và nô ̣i dung kế hoạch Na-va của Pháp. Nhâ ̣n xét của em về kế hoạch này?
* Hoàn cảnh lịch sử:
Qua 8 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp thiệt hại ngày càng lớn. Đến năm 1953, Pháp bị loại
khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân, tiêu tốn hơn 2000 tỉ Phrăng. Vùng Pháp chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp
trên chiến tranh ngày càng lâm vào thế phòng ngự bị động.
Trước tình thế Pháp sa lầy và thất bại, Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài
và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp.
Ngày 7/5/1953, với thỏa thuận của Mỹ, chính phủ Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp ở Đông Dương. Nava đề ra kế hoạch quân sự với hy vọng xoay chuyển cục diêṇ chiến tranh, trong vòng 18
tháng sẽ giành lấy một phần thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
* Nội dung kế hoạch Na-va:
Kế hoạch Nava chia làm hai bước:
Bước thứ nhất, trong thu – đông năm 1953 và xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công
chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương.
Bước thứ 2, từ thu – đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố
giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc
chiến tranh.
Nhận xét:
Về phía Pháp: kế hoạch này phiêu lưu, mạo hiểm vì chúng không thể khắc phục giữa phân tán và tâ ̣p trung lực
lượng.
Về phía ta: đây là mô ̣t thử thách lớn. Muốn phát huy thế chủ đông đã có và đi đến kết thúc chiến tranh đòi hỏi
chúng ta phải kịp thời đề ra được chủ trương sáng suốt, quyết tâm cao.
Câu 14. Chủ trương và diễn biến của cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953 – 1954.
Cuối tháng 9/1953, bộ Chiến tranh Ban Chấp hành trung ương Đảng họp ở Việt Bắc để bàn về kế hoạch quân sự
trong đông – xuân 1953-1954
Chủ trương:
Phương hướng chiến lược của ta “tập trung lực lượng, mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng
viêc̣ chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc chúng
phải bị đông, phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng ta không thể bỏ, do phải
phân tán lực lượng tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực địch”.
Diễn biến:
Thực hiện quyết định của bộ chính trị, trong đông xuân 1953-1954, quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công ở
hầu khắp các chiến trường Đông Dương:
Ngày 10/12/1953, một bộ phận quân chủ lực của ta tiến công thị xã Lai Châu, loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội
địch, giải phóng Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ). Na-va tăng cường 6 tiểu đoàn cho Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ trở
thành một nơi tập trung quân thứ 2 của Pháp.
Đầu tháng 12/1953, liên quân Lào – Việt mở cuộc tiến công địch ở Trung Lào, tiêu diệt 3 tiểu đoàn Âu – Phi, giải
phóng 4 vạn km2 và thị xã Thà Khẹt, bao vây uy hiếp Xavannakhét và căn cứ Xênô. Nava tăng cường lực lượng cho
Xênô, Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của Pháp.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page9
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Cuối tháng 1/1954, liên quân Lào – Việt tiến công địch ở Thượng Lào giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, toàn
tỉnh Phongxalì. Căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào được mở rộng thêm 1 vạn km 2. Na-va tăng cường cho Luông
Phabăng và Mường sài. Luông Phabăng và Mường sài trở thành nơi tập trung quân thứ tư của Pháp.
Đầu tháng 2/1954, quân ta tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, loại khỏi vòng chiến đấu 2000 địch, giải phóng
toàn tỉnh Kon Tum, một vùng rộng lớn với 20 vạn dân, bao vây uy hiếp Plâyku. Pháp tăng cường lực lượng cho
Plâyku. Plâyku trở thành nơi tập trung quân thứ năm của Pháp.
Phối hợp với mặt trận chính, ở vùng sau lưng địch, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở Nam Bộ,
Nam Trung Bộ, Bình – Trị - Thiên và đồng bằng Bắc Bộ.
Thắng lợi trong đông – xuân 1953-1954 đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân và dân ta mở cuộc tiến
công quyết định vào Điện Biên Phủ.
Câu 15: Âm mưu và hành đô ̣ng của Pháp - Mĩ ở Điện Biên Phủ. Trình bày chủ trương và chuẩn bị của ta,
diễn biến, kết quả của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954.
* Âm mưu và hành động của Pháp - Mĩ ở Điện Biên Phủ:
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía Tây rung núi Tây – Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí
chiến lược then chốt ở Đông Dương và cả ở Đông Nam Á nên Pháp cố nắm giữ.
Na-va xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tổng số binh lực ở đây có tới
16 200 quân, được bố trí thành ba phân khu: phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo; phân khu Trung
tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy, có trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay, tập trung 2/3 lực lượng;
phân khu Nam đặt tại Hồng Cúm, có trận địa pháo, sân bay. Tổng số cả ba phân khu có 49 cứ điểm.
Pháp và Mĩ đều coi Điện Biên Phủ là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”.
* Chủ trương của ta:
Đầu tháng 12/1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp, quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của
chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch ở đấy, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.
* Chuẩn bị của ta:
Ta huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch, gồm 4 đại đoàn bộ binh, 1 địa đoàn công pháo và nhiều
tiểu đoàn công binh, vận tải, quân y… với tổng số 55 000 quân; hàng chục nghìn tấn vũ khí đạn dược, 27 000 tấn
gạo với 628 ô tô tải, 21 000 xe đạp, hàng nghìn xe ngựa, trâu, bò…. chuyển ra mặt trận.
Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ.
* Diễn biến của chiến dịch:
Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia thành ba đợt:
Đợt 1(từ ngày 13 đến ngày 17/3/1954): quân ta tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu
Bắc. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 2000 tên địch.
Đợt 2 (từ ngày 30/3 đến 26/4/1954): quân ta tiến công các căn cú phía đông khu Trung tâm Mường Thanh như
E1, D1, C1, A1, … Ta chiếm phần lớn các căn cứ của địch. Mỹ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom
nguyên tử ở Điện Biên Phủ. Ta kịp thời khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi.
Đợt 3 (từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954): quân ta tiến công khu Trung tâm và phân khu Nam. Chiều ngày 7/5, quân
ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, Tướng Đờ Caxtơri cùng toàn bộ Ban Tham mưu của
địch đầu hàng và bị bắt sống.
Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
* Kết quả:
Cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953-1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, ta đã loại
khỏi vòng chiến đấu 128 200 quân địch, thu 19 000 súng các loại, phá 162 máy bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều
vùng rộng lớn trong cả nước.
Riêng tại Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16 200 quân địch, trong đó có một thiếu tướng, bắn rơi
và phá hủy 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
Câu 16: Nội dung, ý nghĩa và hạn chế của Hiệp định Giơnevơ 1954
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được kí kết.
Nội dung của Hiệp định Giơnevơ:
- Các nước dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Việt Nam, Lào là độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
- Các bên tham chiến di chuyển và tâ ̣p kết quân đô ̣i ở hai vùng: quân đội Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp
tập kết ở hai miền Bắc – Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page10
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
- Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tuyển cử tự do trong cả nước, sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956 dưới sự
kiểm soát và giám sát của Ủy ban quốc tế.
* Ý nghĩa:
- Hiêp̣ định Giơ-ne-vơ cùng với chiến thắng Điêṇ Biên Phủ đã chấm dứt cuô ̣c chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp và can thiêp̣ Mĩ ở Viêṭ Nam, Lào, Campuchia.
- Là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các
cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng.
- Pháp phải buộc chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội về nước. Mỹ thất bại trong âm mưu kéo dài,
mở rộng quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương
* Hạn chế:
Nó đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng
xã hô ̣i chủ nghĩa. Song chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được miền Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn phải tiếp tục
nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Câu 17: Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).
Phân tích một nguyên nhân có tính chất quyết định nhất.
a) Ý nghĩa lịch sử:
Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ
trên đất nước ta. Miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở
để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Trung Quốc.
Giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau chiến tranh thế giới thứ
hai, góp phần làm tan rã thuộc địa của chúng.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Tuy vậy, miền Nam nước ta chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh gian khổ chống
đế quốc Mỹ nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước.
b) Nguyên nhân thắng lợi:
Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự và
đường lối kháng chiến, sáng tạo.
Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược trong điều kiện có hệ thống chính quyền dân
chủ nhân dân trong cả nước, có mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, có lực lượng vũ trang ba thứ
quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, có hậu phương rộng lớn, vững chắc về nhiều mặt.
Sự liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung. Sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
của Trung Quốc, Liên xô và của các nước dân chủ nhân dân khác, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.
Phân tích một nguyên nhân có tính chất quyết định nhất:
Trong các nguyên nhân nêu trên thì nguyên nhân về sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là
nguyên nhân quyết định nhất.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Đường lối đó được áp dụng trong suốt tiến
trình cách mạng từ năm 1946 đến năm 1954. Nhờ có đường lối đó, Đảng ta đã đoàn kết được một lực lượng cách
mạng của đông đảo quần chúng để thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân và đã tiến hành kháng chiến trên các mặt
trận kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự. Cũng nhờ có đường lối đó mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu lâu
dài, bền bỉ, lần lượt đánh bại từng âm mưu của địch để tiến lên đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp có sự giúp sức của Mĩ.
Sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hổ Chí Minh với đường lối cách mạng đúng đắn đã giúp cho toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta chiến đấu với tinh thần "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ". Với tinh thần ấy, cuộc chiến đấu dù lâu dài, dựa vào sức mình là chính nhưng chúng ta
đã giành được thắng lợi cuối cùng, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của ba nước Đông Dương.
C. Câu hỏi nâng cao:
Câu 18: Chứng minh chủ trương “mềm dẻo về sách lược và cứng rắn về nguyên tắc” của chính phủ ta đối
với quân Tưởng và thực dân Pháp từ ngày 2/9/1945 – 19/12/1946.
Trong hơn một năm đầu (2/9/1945 – 19/12/1946) sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập,
cách mạng đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, trong đó khó khăn lớn nhất là cùng mô ̣t lúc phải đối mă ̣t với

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page11
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
rất nhiều kẻ thù. Để tránh mô ̣t lúc đụng đô ̣ với nhiều kể thù, Chính phủ ta đã đề ra chủ trương đấu tranh “mềm dẻo về
sách lược và cứng rắn về nguyên tắc”.
1. Đối với quân Tưởng:
*Mềm dẻo về sách lợi:
Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, tại kì họp đầu tiên (02/3/1946). Quốc hội
khóa I đồng ý nhường cho các đảng Viêṭ Quốc, Viêṭ cách 70 ghế trong Quốc hô ̣i và 4 ghế bô ̣ trưởng trong chính phủ
Liên hiệp, Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước.
Nhân nhượng cho quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng một số quyền lợi kinh tế như: Cung cấp một phần lương
thực, thực phẩm, phương tiện giao thông, vận tải, cho phép lưu hành tiền Trung Quốc trên thị trường.
Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” (11/11/1945), nhưng sự thật là tạm thời rút vào hoạt động “bí
mật”, tiếp tục lãnh đạo đất nước và chính quyền cách mạng.
*Cứng rắn về nguyên tắc:
Chúng ta nhân nhượng cho Trung Hoa Dân quốc nhưng phải đảm bảo nguyên tắc: độc lập chủ quyền của dân tộc
phải được giữ vững, Đảng lãnh đạo chính quyền, Hồ Chí Minh là người đứng đầu Đảng và Chính phủ.
Chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của
chúng. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh
nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
2. Đối với quân Pháp:
*Cứng rắn về nguyên tắc: Ngay từ đầu khi thực dân Pháp lô ̣ rõ dã tâm xâm lược nước ta mô ̣t lần nữa (bằng
những hành đô ̣ng trắng trợn vi phạm chủ quyền dân tô ̣c như 2/9; 23/9...), Đảng và Chính phủ ta đã kiên quyết phát
đô ̣ng toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp xâm lược ở Nam Bô ̣ (từ ngày 23/9/1945 – 6/3/1946).
*Mềm dẻo về sách lợi:
Viêc̣ Pháp kí Hiệp ước với Tưởng (28/2/1946) đặt Việt Nam trước một số cuộc chiến tranh với Pháp trên quy mô
cả nước. Chính phủ khai thác mọi khả năng, chủ động đàm phán để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tiếp tục phát triển
thực lực cách mạng mọi mặt làm cơ sở đấu tranh ngoại giao.
Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ. Theo đó Chính phủ Pháp công nhận Việt
Nam là một quốc gia tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính riêng nằm trong khối Liên Hiệp Pháp; Chính
phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15 000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng; hai bên ngừng bắn, tạo không
khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán chính thức ở Pa-ri.
Tiếp tục hòa hoãn, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu cử đoàn đại biểu tham gia đàm phán Việt –
Pháp tại Phông-ten-nơ-blô, do Pháp ngoan cố nên đàm phán thất bại. Quan hệ Việt – Pháp trở nên căng thẳng, chiến
tranh có thể xảy ra.
Trước tình hinh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang ở thăm nước Pháp, đàm phán và kí với đại diện chính phủ Pháp
Tạm ước 14-9-1946, tiếp tục nhân nhượng Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hóa nhằm kéo dài thời gian hòa
hoãn.
*Cứng rắn về nguyên tắc:
Sau hiệp định sơ bộ 6/3 và tạm ước 14/9, chấp hành chủ trương của chính phủ, nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ
vững hòa bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp
lâu dài.
Thực dân Pháp bội ước, chúng đã tăng cường các hoạt động khiêu khích.Trước những hành động ngang ngược
của thực dân Pháp trong tháng 11 và 12, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngay trong đêm
19/12/1946.
Với những sự kiêṇ trên đã chứng tỏ Đảng và chính phủ ta đã có những chủ trương sáng suốt tài tình đưa nhân dân
ta vượt qua những thử thách to lớn lúc đó (cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp, biết lợi dụng mâu
thuẫn kẻ thù không cho chúng tâ ̣p trung lực lượng chống phá ta...) để sẵn sàng bước vào cuô ̣c chiến đấu mà ta biết
chắc không thể tránh khỏi.
Câu 19: Tại sao ta chọn Điện Biên Phủ làm điểm "quyết chiến chiến lược" với địch? Nguyên nhân thắng
lợi và ý nghĩa lịch sử của chiến dịch lịch sử Điêṇ Biên Phủ 1954
* Ta chọn Điện Biên Phủ làm điểm "quyết chiến chiến lược" với địch vì:
Trước sự phá sản bước đầu trong kế hoạch quân sự Nava, địch quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh ở
Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành một "pháo đài không thể công phá", "một vecđoong" của thế kỉ XX "một
con nhím khổng lồ" ở rừng núi Tây Bắc. Và biến Điện Biên Phủ thành trung tâm điểm của kế hoạch Nava. Vì vậy,
muốn kết thúc chiến tranh phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page12
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Vào ngày 6/12/1953, Trung ương Đảng đã họp và nhận định: Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng
thế yếu của địch ở Điện Biên Phủ dễ bị cô lập, chỉ tiếp tếđược bằng đường không, nếu ta cắt đứt đường hàng không,
địch sẽ rơi vào thế "tử lộ".
Quân đội ta đã trưởng thành và có kinh nghiệm có thể đánh địch ở tập đoàn cứ điểm.
Hậu phương của ta đã vững mạnh, có thể khắc phục những khó khăn đảm bảo chi viện cho chiến trường.
Trên cơ sở phân tích tình hình, Trung ương Đảng đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, biến Điện Biên
Phủ thành điểm "quyết chiến chiến lược giữa ta và địch".
* Nguyên nhân thắng lợi:
Sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh và vị tướng cầm quân là Võ Nguyên Giáp trong
viêc̣ đề ra quyết tâm và nghê ̣thuâ ̣t quân sự đúng đắn, sáng tạo đánh vào tâ ̣p đoàn cứ điểm này.
Công cuô ̣c chuẩn bị cho chiến đấu chu đáo.
Tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí của quân đô ̣i ta.
* Ý nghĩa lịch sử:
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn
toàn kế hoạch Nava; giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp; làm xoay chuyển cục diện chiến
tranh ở Đông Dương;
Tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi: khiến cho Pháp – Mĩ không thể
ngoan cố được nữa, buô ̣c phải kí với ta Hiêp̣ định Giơ-ne-vơ.
Cổ vũ các dân tô ̣c bị áp bức đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tô ̣c.
Báo hiêụ sự mở đầu sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Câu 20: Chứng minh Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ làm “chấn động địa cầu”
(Cách hỏi khác: Tác động của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đối với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới)
Thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của các dân tộc thuộc địa vùng
lên đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân để giành lấy quyền sống, quyền làm người. Điện Biên Phủ đã đi
vào ý thức về độc lập dân tộc đối với các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa. Như Alen Hêghen (Camơrun) đã phát
biểu: “Thắng lợi của Việt Nam ở Điện Biên Phủ có tính chất quyết định làm thức tỉnh ý thức dân tộc và lòng yêu
nước của nhân dân các nước thuộc địa Pháp ở châu Phi”
Thứ nhất, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ được coi như mốc mở đầu quá trình phá sản của chủ nghĩa thực
dân trên phạm vi toàn thế giới. Lăcbi Bahali, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Angiêri viết: “Điện Biên Phủ... tiếng
chuông báo giờ chết của chủ nghĩa thực dân Pháp không những ở Việt Nam mà cả bộ phận còn lại khối thuộc địa
của nó”.
Thứ hai, Điện Biên Phủ đã đem lại cho phong trào giải phóng dân tộc nửa sau thế kỉ XX những bài học kinh
nghiệm quý giá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Thủ tướng
Ben Benlla cho rằng: “Tin chiến thắng Điện Biên Phủ đến với chúng tôi cho thấy rõ con đường đi đến thắng lợi,
nên chúng tôi quyết định đấu tranh vũ trang. Ngày 7/5/1954 chiến thắng ở Điện Biên Phủ thì ngày 7/7/1954, Ủy
ban cách mạng Angiêri họp phát động đấu tranh vũ trang”
Thứ ba, Điện Biên Phủ chứng minh một cách hùng hồn cho chân lí của thời đại ngày nay rằng, một dân tộc dù
nhỏ, khi đã đoàn kết đứng lên theo một đường lối đúng đắn cho độc lập tự do thì đủ khả năng chiến thắng đội quân
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, thực dân hung hãn nhất.
Điện Biên Phủ có dấu ấn sâu sắc về nhiều mặt đối với đối với phong trào giải phóng dân tộc nửa sau thế kỉ XX,
và như là một tất yếu, Điện Biên Phủ trở thành một vật báu, một niềm tự hào lớn lao đối với các dân tộc đang chiến
dấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi chủ nghĩa thực dân. Báo Sự thật cách mạng tháng Tư của Ápganixtan ra
đời ngày 7/5/1984 viết: “Chiến thắng Điện Biên Phủ không những là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam anh
hùng, mà còn là di sản quý báu của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc, 30 năm
qua những bài học và kinh nghiệm quý báu của Điện Biên Phủ vẫn còn mang tính thời đại nóng hổi”.
Câu 21: Bằng hiểu biết của mình em hãy chỉ ra từng bước Kế hoạch Nava phá sản như thế nào?
Trải qua 8 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân Pháp trên chiến tranh ngày càng lâm vào thế phòng ngự bị
động. Trước tình thế đó, Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngày 7/5/1953, với thỏa thuận của
Mỹ, chính phủ Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Nava đề ra Kế
hoạch Nava với hy vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy một phần thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh
trong danh dự”.
Những thắng lợi của ta trong đông - xuân 1953 - 1954 đã làm cho kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản, tức là
Nava không thể tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ mà phải phân tán lực lượng để đối phó với ta ở những vị trí
xung yếu.
Giáo viên: Nguyễn Thu Hương
Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page13
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Sau đó, Nava cho tập trung lực lượng ở Điện Biên Phủ, xây dựng Điện Biên Phủ thành hệ thống phòng ngự kiên
cố, và chính Nava cũng như các tướng ta của Pháp, Mĩ đều chủ quan cho rằng, Điện Biên Phủ là "một pháo đài
không không thể công phá".
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: phải đánh địch ở Điện Biên Phủ. Đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
(13/3 – 7/5/1954). Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông – xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava.
Câu 22: Mối quan hê giữa ̣ chiến thắng Điêṇ Biên Phủ và Hô ̣i nghị Giơnevơ
Đây là sự phối hợp chă ̣t chẽ giữa cuô ̣c đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao. Thắng lợi vĩ đại ở Điêṇ Biên
Phủ đã đâ ̣p tan ý chí xâm lược của đế quốc Pháp, buô ̣c chúng phải ký kết Hiêp̣ định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh ở Đông Dương.
Viêc̣ ký Hiêp̣ định Giơnevơ 1954 là biểu hiêṇ ý chí hòa bình của ta và sự lớn mạnh về quân sự của cuô ̣c kháng
chiến chống Pháp. Trong suốt cuô ̣c đấu tranh giành đô ̣c lâ ̣p, ta luôn luôn nêu cao ý chí hòa bình trong viêc̣ giải quyết
vấn đề Viêṭ Nam với Chính phủ Pháp. Hòa bình phải đi liền với đô ̣c lâ ̣p, thống nhất Tổ quốc. Chúng ta cần hòa bình,
nhưng không cầu xin hòa bình, và bọn đế quốc cũng không bao giờ để hòa bình cho kẻ cầu xin. Muốn có hòa bình
phải đấu tranh mới có thể giành và giữ hòa bình. Thực tế lịch sử chúng ta chứng minh rằng, có đánh tan ý chí xâm
lược của kẻ địch thì chúng mới chịu thương lượng thực sự để chấm dứt chiến tranh, lâ ̣p lại hòa bình. Thắng lợi ở bàn
hô ̣i nghị chỉ có thể đạt được khi chúng ta có thực lực, khi chúng ta đã thắng, đã mạnh và hòa bình đối với chúng ta
chỉ có ý nghĩa khi nền đô ̣c lâ ̣p và chủ quyền dân tô ̣c được giữ vững. Vì vậy, thắng lợi ở Điêṇ Biên Phủ trên mặt trận
quân sự đã có tính chất quyết định đến đến thắng lợi của Hô ̣i nghị Giơnevơ.
Chiến thắng Điêṇ Biên Phủ và thắng lợi của Hô ̣i nghị Giơnevơ đã kết thúc cuô ̣c chiến trường kỳ của dân tô ̣c ta
chống đế quốc Pháp và can thiêp̣ Mĩ, mở ra mô ̣t giai đoạn mới, trong đó nhân dân miền Bắc phấn đấu tiến lên chủ
nghĩa xã hô ̣i và nhân dân miền Nam tiếp tục hoàn thành sự nghiêp̣ cách mạng dân tô ̣c, dân chủ tiến tới hòa bình
thống nhất nước nhà.
Hô ̣i nghị Giơnevơ về Đông Dương cùng với chiến thắng Điêṇ Biên Phủ còn là sự cổ vũ lớn đối với nhân dân các
nước thuô ̣c địa, nửa thuô ̣c địa đang đấu tranh giải phóng dân tô ̣c, làm cho họ tin tưởng vào tiền đồ của cuô ̣c đâu tranh
giải phóng dân tô ̣c, làm cho họ tin tưởng vào tiền đồ của cuô ̣c đấu tranh giành đô ̣c lâ ̣p của mình.
D. Câu hỏi vận dụng:
Câu 23: Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn viết:"Chúng ta muốn
hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Hãy nêu những sự kiện lịch sử thể hiện thiện chí của ta và dã tâm xâm lược
của thực dân Pháp trước ngày 19/12/1946.
Câu 24: Các văn kiê ̣n ngoại giao được kí kết trong giai đoạn 1945 – 1946? Trình bày hoàn cảnh, nô ̣i dung, ý
nghĩa của các văn kiêṇ đó
Câu 25: Trước và sau hiêp̣ định Sơ bô ̣ 6/3/1946, chủ trương và sách lược của Đảng, Chính phủ ta đối phó với
quân Pháp và Tưởng có gì khác nhau? Vì sao có sự khác nhau? Ý nghĩa lịch sử của những chủ trương, sách lược
đó?
Câu 26: Tại sao Pháp và Tưởng kí với nhau Hiệp ước Hoa – Pháp ngày 28/2/1946? Đảng và Chính phủ ta thực
hiện sách lược gì trước tình hình thế do Hiệp định đó đặt ra?
Câu 27: Tại sao lại khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947, đến chiến thắng Biên giới thu - đông
1950 là một bước phát triển của cuộc kháng chiến?
Câu 28: Hoàn thành bảng so sánh giữa chiến dịch Viêṭ Bắc thu đông 1947 với chiến dịch Biên giới thu – đông
1950.
Chiến dịch Viêṭ Bắc Chiến dịch Biên giới
Nô ̣i dung
thu đông 1947 thu đông 1950
Thế – lực của ta và địch trước
khi mở chiến dịch
Kết quả
Qua bảng so sánh em có nhâ ̣n xét gì?
Câu 29: Điểm khác nhau cơ bản giữa Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954). Tại sao
lại có sự khác nhau đó?
Câu 30: Dựa vào ba sự kiêṇ sau đây: Chiến dịch Viê ̣t Bắc (1947), Chiến dịch Biên giới (1950) và chiến thắng
Điê ̣n Biên Phủ (1954), em hãy làm sáng tỏ các bước phát triển của cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page14
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
Câu 31: Nêu và phân tích những sự kiện trên thế giới đã tác động đến cách mạng Việt Nam trong một năm
đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Câu 32: Em hãy nhận diện các thê lực đế quốc có mặt trên đất nước ta sau ngày Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công. Đế quốc nào là kẻ thù chính? Tại sao?
Câu 33: Sự cấu kết giữa thực dân Pháp với quân Anh và quân Trung Hoa dân quốc trong việc xâm lược
Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra như thế nào?
Câu 34: Lựa chọn kiến thức lịch sử để hoàn thành bảng sau:
Chiến dịch Viê ̣t Bắc Chiến dịch Biên giới Chiến dịch Điện
Nội dung
thu đông 1947 thu đông 1950 biên Phủ 1950
Thế – lực của ta và
địch trước khi mở
chiến dịch
Mục tiêu
Thời gian
Cách đánh
Kết quả
Ý nghĩa
Qua bảng so sánh em có nhận xét gì?
Câu 35: Trên cơ sở phân tích cục diện chiến trường Đông Dương, em hãy trình bày và nhận xét bản chất
các kế hoạch chiến tranh xâm lược của Pháp – Mĩ trong các năm 1953 – 1954
Câu 36: Trên cơ sở phân tích cục diện chiến trường Đông Dương, em hãy nêu và nhận xét hướng tiến công
chiến lược của bộ đội chủ lực Việt Nam từ mùa đông năm 1953 đến xuân – hè 1954
Câu 37:Tóm tắt những hoạt động ngoại giao của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa nhằm bảo
vệ chủ quyền dân tộc từ 12/1946 đến 7/1954. Liên hệ đến chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước hiện
nay trong việc giải quyết chủ quyền biển đảo.
Câu 38: Phân tích sự kết hợp đấu tranh quân sự với ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân Việt Nam (1945 – 1954)
Câu 39: Thiện chí của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhằm giải quyết mối quan hệ với Pháp
bằng con đường hòa bình trong những năm 1945 – 1954 thể hiện như thế nào? Hiện nay, Đảng và Chỉnh phủ
nước CHXHCNVN đã vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm đối ngoại trong giai đoạn này như thế
nào?
Câu 40: Nêu và phân tích những điều kiện lịch sử dẫn đến việc triệu tập và ký kết Hiệp định Giownevơ về
Đông Dương.
Câu 41: Cho bảng dữ liệu sau đây:
Thời gian Sự kiện
Ngày Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” nhưng thực chất là tạm thời rút
11.11.1945 vào hoạt động “bí mật”.
Từ 1945 – 1945 Ban hành các sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng
Ngày 6.1.1946 Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Quốc hội họp phiên đầu tiên, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến
- Đồng ý nhường cho các đảng Việt quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội không
thông qua bầu cử, 4 ghế Bộ trưởng, Nguyễn Hải Thần (Lãnh tụ Việt Cách) giữ chức
Ngày 2.3.1946
Phó chủ tịch nước.
- Chấp nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận
tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường.
Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí với đại diện Chính phủ Pháp bản
Ngày 6.3.1946
Hiệp định Sơ bộ.
Ngày 22.5.1946 Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Ngày 14.9.1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với Mutê – Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp bản Tạm ước
Ngày 9.11.1946 Quốc hội thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho đồng tiền
23.11.1946 Đông Dương.
(SGK Lịch sử lớp 9 NXB Giáo dục, năm 2012)

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page15
Phần 2: Lịch sử Việ t Nam Tài liệ u luyệ n thi chuyên Sử 10 THPT
a. Dựa vào bảng dự liệu trên, anh/chị hãy lựa chọn những sự kiện thể hiện chủ trương “mềm dẻo về sách
lược và cứng rắn về nguyên tắc” của Đảng, Chính phủ đối với Trung Hoa Dân quốc và tay sai. Tại sao Đảng lại
đề ra chủ trương này?
b. Suy nghĩ của em về việc vận dụng những bài học kinh nghiệm đó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội Chủ nghĩa hiện nay
Câu 42:
a. Có ý kiến cho rằng: Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương đã chia Việt Nam thành hai quốc
gia với đường biên giới là vĩ tuyến 17. Căn cứ vào nội dung Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương,
em hãy phát biểu suy nghĩ về ý kiến trên.
b. Từ những nhân tố chủ quan đảm bảo thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam
(1945 – 1954), hãy lựa chọn một nhân tố cần phát huy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Theo em, thanh
niên Việt Nam cần làm gì để củng cố và phát triển nhân tố đó?
Câu 43: Ngày 26.11.1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nếu chính phủ Pháp rút ra được bài học
trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải
quyết các vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng
tiếp ý muốn đó”. (SGK Lịch sử 12 NC, 205)
a. Bằng những sự kiện có chọn lọc từ năm 1945 đến năm 1954, anh/chị hãy làm sáng tỏ quan điểm trên của
Đảng và Chính phủ.
b. Hiện nay quan điểm đó được Đảng và Nhà nước ta thể hiện như thế nào trong chính sách đối ngoại.

Giáo viên: Nguyễn Thu Hương


Trường THPT Chuyên Hà Nộ i - Amsterdam Page16

You might also like