You are on page 1of 3

CHƯƠNG VII-3

III-Tự động hoá quá trình truyền khối.


1-Tự động hoá quá trình sấy.
Sấy là quá trình dùng nhiệt khử nước vật liệu cứng bằng cách làm bay hơi và
tách ẩm. Khi đó, trong vật liệu diễn ra quá trình dẫn nhiệt và khuếch tán ẩm. Độ dài
quá trình sấy được xác định bằng khoảng thời gian cần thiết để làm giảm hàm lượng
ẩm của vật liệu từ giá trị đầu Mđ đến giá trị cuối Mc.
Trong công nghiệp hóa chất, phổ biến nhất là sấy đối lưu được thực hiện trong
thiết bị sấy thùng quay và sấy tầng sôi.
Mục đích điều khiển quá trình sấy là đảm bảo làm khô vật liệu đến hàm lượng
ẩm cho trước với năng suất xác định theo nguyên liệu ẩm. Nhiễu cơ bản trong quá trình
sấy là biến đổi lưu lượng, độ ẩm ban đầu, kích cỡ hạt vật liệu rắn; biến đổi lưu lượng
và nhiệt độ ban đầu của tác nhân sấy. Đại lượng điều chỉnh chính của quá trình là độ
ẩm còn lại của vật liệu khô. Do không có dụng cụ đo độ ẩm tin cậy cho vật liệu rắn,
cho nên người ta thường sử dụng đại lượng điều chỉnh là nhiệt độ (hoặc độ ẩm) của tác
nhân sấy. Điều này rất hiệu quả cả dưới góc độ động học, do các đại lượng này phản
ứng với tác động nhiễu nhanh hơn.
Trong thiet bị sấy thùng quay (hình 1), vật liệu ẩm từ phễu (1), qua bộ định
lượng (2), đi vào thùng quay (5) cùng với dòng khí nóng được gia nhiệt trong buồng
đốt (3) nhờ đốt khí nhiên liệu.
Khi thùng quay, các hạt vật liệu rắn dịch chuyển dọc theo trục của nó. Chuyển
động cùng chiều với vật liệu, không khí nóng cấp nhiệt và làm bốc hơi ẩm trong vật
liệu. Vật liệu khô được lấy ra từ thùng bằng phễu (6); không khí qua xiclon (7) đi ra
ngoài nhờ quạt hút (8). Thời gian sấy trong thùng khoảng vài chục phút, thời gian
không khí nóng đi qua được tính bằng giây.
Quá trình sấy thường được điều chỉnh theo độ ẩm của tác nhân sấy ở đầu ra
của thùng quay. Bộ điều chỉnh độ ẩm tác động lên van trên ống dẫn nhiên liệu cấp cho
buồng đốt. Do phân bổ nhiệt độ theo chiều dài thùng của tác nhân sấy gần tương ứng
với phân bổ độ ẩm tuyệt đối của vật liệu rắn; vì vậy lưu lượng nhiên liệu được điều
chỉnh theo nhiệt độ không khí ẩm ở đầu ra của thùng. Để tăng chất lượng sấy, cần hiệu
chỉnh bằng tay giá trị đặt của bộ điều chỉnh nhiệt độ (hoặc độ ẩm) tác nhân sấy theo số
liệu phân tích độ ẩm còn lại của vật liệu khô.
Để đốt cháy hết nhiên liệu trong buồng đốt, cần đưa dòng không khí thứ nhất (1)
với số lượng được duy trì ổn định bằng bộ điều chỉnh lưu lượng. Nhiệt độ cần thiết của
không khí vào thùng quay được điều chỉnh bằng cách thay đổi lưu lượng dòng không
khí thứ hai (2) vào buồng trộn (4).
Tải trọng thiết bị sấy theo nguyên liệu ẩm được ổn định nhờ hệ thống tự động
điều chỉnh lưu lượng gồm có dụng cụ đo khối lượng vật liệu trên băng tải, bộ điều
chỉnh tự động, đồng hồ đo có trạm điều khiển, bộ định lượng băng tải có điều chỉnh tốc
độ chuyển động. Khi lượng vật liệu rắn trên băng tải giảm so với giá trị đặt, bộ điều
chỉnh phát tín hiệu làm chuyển động băng nhanh lên và ngược lại. Kết quả là đảm bảo
ổn định lưu lượng vật liệu rắn vào thùng sấy.

1
PRC
1

2 PR 8
4
5 7
FRC

3 TR buïi

FRC

1/
FR
TRC 6
2/
vaät lieäu thoâ
MRC

1- Phễu chứa vật liệu ẩm 5- Thùng sấy


2- Bộ định lượng 6- Phễu chứa vật liệu khô
3- Buồng đốt 7- Xiclon
4- Buồng trộn 8- Quạt hút

Hình 5.6 Sơ đồ điều chỉnh thiết bị sấy thùng quay.

Tải trọng theo tác nhân sấy (không khí) được duy trì ở giá trị không đổi nhờ bộ
điều chỉnh chân không của không khí trong buồng trộn (4) bằng tác động lên van trên
ống xả khí sau xiclon.
Quá trình truyền khối phổ biến rộng rải trong công nghệ hóa học và được sử
dụng với mục đích phân tách hỗn hợp các chất hoặc thu nhận sản phẩm mục tiêu với
nồng độ cxác định bằng cách dịch chyển một hoặc nhiều cấu tử từ pha này vào pha
khác.
Đại lượng điều chỉnh cơ bản trong quá trình này là nồng độ cấu tử xác định
trong sản phẩm hoặc hàm lượng tạp chất được xác định bằng các bộ phân tích chất
lượng. Trong một số trường hợp, quá trình truyền khối được điều chỉnh tốt theo các đại
lượng gián tiếp (tỉ trọng, tỉ số phản xạ ánh sáng,…) mà không cần sử dụng các bộ phân
tích đắt tiền.
Cường độ diễn biến các quá trình truyền khối phù thuộc vào chế độ thủy động
của các dòng lưu chất trong thiết bị công nghệ, cũng như các quá trình trao đổi chất,
nhiệt giữa các dòng lưu chất. Thiết bị truyền khối có quán tính và độ trễ lớn.
Khi sức cản thủy lực của thùng quay không đổi và không có không khí vào từ
môi trường, hệ thống điều chỉnh chân không đảm bảo ổn định vân tốc chuyển động của
tác nhân sấy dọc theo thùng quay. Giá trị tối ưu của vận tốc không khí được xác lập
theo hai yếu tố trái ngược nhau: khi gia tăng vận tốc không khí thì tốc độ sấy tăng lên
nhưng đồng thời cũng làm tăng mất nhiệt theo dòng khí đi ra.
Cần kiểm tra và ghi lại lưu lượng nhiên liệu và dòng không khí thứ 2, cả độ
chân không và nhiệt độ trong phễu chứa vật liệu khô.

2
Sơ đồ ổn định thiết bị sấy thùng quay đảm bảo sấy vật liệu ẩm khô đến độ ẩm
còn lại nhất định chỉ khi dao động giá trị đại lượng các đại lượng vào của quá trình sấy
không lớn.
Do độ trễ trong đối tượng lớn, điều chỉnh quá trình chỉ có thể đạt chất lượng nhờ
hệ thống nhiều vòng. Một trong các sơ đồ điều chỉnh thiết bị sấy thùng quay được thể
hiện trên hình (2). Ở đây việc cấp khí nhiên liệu vào thiết bị được điều khiển bằng hệ
thống điều chỉnh nhiệt độ không khí vào thùng quay (Bộ điều chỉnh ổn định). Có hiệu
chỉnh theo độ ẩm không khí đi ra khỏi thiết bị sấy (bộ điều chỉnh hiệu chỉnh). Trường
hợp có dụng cụ tin cậy đo độ ẩm vật liệu sấy thì có thể đưa vào hệ thêm một vòng với
bộ điều chỉnh độ ẩm vật liệu rắn. Có tín hiệu ra làm giá trị đặt cho bộ điều chỉnh độ ẩm
tác nhân sấy. Khi không có dụng cụ đo tin cậy và cần thiết thì phải định kỳ điều chỉnh
giá trị đặt cho bộ điều chỉnh độ ẩm tác nhân sấy theo số liệu phân tích thí nghiệm.

Hình 2 (VII 29, 265)

Hình 2: Sơ đồ nhiều vòng điều chỉnh quá trình sấy trong


thiết bị sấy thùng quay
Để tăng thêm độ nhạy cho hệ thống điều chỉnh nhiệt độ không khí, cảm biến
(cặp nhiệt) được đặt trong 1/3 đọan đầu của chiều dài thùng quay, do ở đầu thiết bị,
nhiệt độ tác nhân nhiệt thây đổi mạnh hơn ở phần cuối. Khi đó, độ trễ của đối tượng
được giảm xuống. Cặp nhiệt được gắn trực tiếp trên bề mặt của thùng quay. Trường
hợp cần bù trừ dao động tải trong theo lưu lượng vật liệu ẩm, có thể xem xét thêm vòng
điều chỉnh ổn định nhiễu này.
Đốt hoàn toàn khí nhiên liệu được đảm bảo nhờ hệ thống điều chỉnh tỷ lệ lưu
lượng khí nhiên liệu và không khí thứ nhất, bằng cách thay đổi lượng không khí cấp
vào lò. Khi có biến đổi khả năng sinh nhiệt của nhiên liệu, cần hiệu chỉnh tỷ lệ này theo
hàm lượng oxy trong khí lò.

You might also like