Professional Documents
Culture Documents
SF 30/03/2017
KHÔNG GÌ THAY ĐƯỢC ANH TẤT CẢ NHỮNG GÌ MANG TÍNH YÊU CẦU CỨU TRỢ
TÌNH YÊU Ạ ĐẲNG CẤP VÀ TRÍ TUỆ Rich Larson
Nick Wolven Chris Barnham
Cùng với tranh của 5ofnovember, erenarik, FenghuaArt, polosatkin, qci, sarichev, SergeyZabelin, Shimmering-Sword, TitusLunter,
ZuluSplitter; và phim của David Karlak, Willem Kampenhout. Ảnh bìa: CrazyDiamond
Thực hiện bởi
SFVN (từ đây về sau gọi là “Tạp chí”) là tạp chí điện tử hoàn toàn phi lợi nhuận, ra đời với mục đích giúp độc giả Việt Nam trở nên yêu
thích hơn dòng văn khoa học viễn tưởng (còn gọi là khoa học giả tưởng, khoa huyễn). Tạp chí có sử dụng những nội dung được những
người thực hiện Tạp chí (từ đây về sau gọi là “Nhóm thực hiện”) biên tập từ nhiều nguồn và được ghi chú nguồn ở phần “Credits” của
Tạp chí. Nếu bạn là chủ sở hữu hoặc nắm giữ quyền lợi pháp lý liên quan đến các nội dung sử dụng trong Tạp chí và muốn thay đổi cách
nội dung của mình được ghi nguồn hoặc muốn Nhóm thực hiện ngưng sử dụng các nội dung của bạn trong các Tạp chí tiếp theo, hãy
liên hệ với Nhóm thực hiện qua địa chỉ thư điện tử: baola424@gmail.com.
SFVN (herein called “The Magazine”) is an entirely non-profit electronic magazine, created for the sole purpose of fostering interest in the
science fiction (also called Sci Fi or SF) genre among Vietnamese readers. The Magazine features contents that were curated and edited by
the creators of The Magazine (herein called “The Creators”) from multiple sources and were given credits in the “Credits” section of The
Magazine. If you are the owner(s) of or hold legal right(s) to any of the contents featured in The Magazine and wish to change how your
content(s) are credited or want The Creators to stop using your content(s) in future issues of The Magazine, please contact The Creators
at this email address: baola424@gmail.com.
Bạn đừng quên ủng hộ những nhà văn, những người nghệ
sĩ đã tạo ra những câu chuyện và bức hình có trong tạp chí
bằng cách tìm đọc truyện gốc, xem hình gốc nhé!
Link gốc của những truyện dịch và hình ảnh sử dụng được
ghi ở mục Credits.
SFVN
SỐ
07
C
LAIRE GẶP ANH TẠI MỘT BUỔI TIỆC Ở NEW
Orleans, và sau đó, cô phải tự nhủ rằng đây là sự thật.
Vâng, đó thực sự là lần đầu tiên anh xuất hiện. Thật
khó tin là hiếm có thứ gì hữu hạn như lần đầu.
Anh ngồi đối diện cô, cách cô hai ghế, hai bên là hai
cô gái xinh đẹp lộng lẫy. Như thường lệ, đề tài trò chuyện
chuyển sang đồ ăn.
“Nhưng tôi đã đến nhà khách này cả chục lần rồi,” một
trong hai cô gái xinh nói. “Tôi đi ăn tiệc liên hoan, tiệc nhảy,
07
thậm chí cả tiệc gia đình. Và lần nào cũng thế, họ toàn mang
ra sai món.”
Cô có mái tóc đỏ, màu ánh nến phản chiếu trên mặt
ghế bóng lộn. Đây là một nhà khách cũ, bày biện toàn đồ cổ,
hàng dệt thủ công và tủ com mốt gỗ hồ đào, tranh sơn dầu
những đại tá vô danh thời Nội Chiến.
“Bởi vì,” cô tóc đỏ mím môi nói. “Dạ hội thanh lịch mà
lại mời bánh Meringue sao? Sinh nhật trẻ con mà lại có rượu
và bít tết tái Pháp à? Súp tôm tại buổi tiệc nhảy à? Chúa ơi,
loạn hết cả lên. Cảm thấy thật, chẳng biết nói sao nữa. Lười
nhác. Vô tâm. Lúi xùi.”
08
Byron. Một cái tên giả, Claire đoán vậy, lọc ra từ sở
thích thời thơ ấu nào đó vẫn còn nhớ mang máng. Nhưng
xét cho cùng, ai mà biết được.
“Bởi vì,” Byron nói, và nhìn vào mắt Claire, như thể chỉ
cô mới hiểu. “Nhìn miếng đồ nội thất này đi, cái đèn chùm
ấy. Nhìn vào cái giá để bản nhạc trong góc. Phong cách điền
trang Mỹ, Rococo, Tân Nghệ Thuật. Mỗi thứ đồ đều là một
động thái khác nhau. Một số món hoàn toàn lỗi thời. Chính
thế mà tôi thích cái nhà khách này. Tại đây, ta có thể thấy
tâm huyết của nhà thiết kế. Có chút đỏng đảnh. Nó thật cá
nhân, thật ngẫu hứng.”
“Hãy thử nhìn vào mọi người xem ở đây xem,” Byron
nói, xoay thìa vòng tròn để chỉ hết những gương mặt đang
ngồi quanh. “Có vài người trước nay tôi chưa từng gặp. Và
giờ chúng ta ở đây, tình cờ hội ngộ, chỉ trong một tối. Mọi
người biết gì không? Điều ấy khiến tôi thấy mừng. Khiến tôi
09
thấy xúc động.” Cử chỉ của anh dừng trước mặt Claire. “Mê
hoặc tôi.”
Anh lại nhìn vào mắt Claire. Một lần nữa, anh lại mỉm
cười. Cô vốn thích đàn ông hơn tuổi, cái phong thái hơi phần
đạo mạo của họ, cái bản lĩnh trang nghiêm và vui vẻ của họ.
“Tôi không tin chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại
nhau nữa,” Byron nói, nhìn cái thìa. “Tôi không tin duyên số
chúng ta dứt khoát sẽ như vậy. Và mọi người biết gì không?
Thật sự thì, nếu phải sống trọn đời trong cái nhà khách này
tôi cũng không bận tâm. Dù họ có dọn súp bảng chữ cái tại
tiệc liên hoan.”
Anh đưa tay lên miệng và chạm thìa vào môi. Và ngay
lập tức, chất nước biến mất.
Sau khi dọn bàn, đến màn vui chơi giải trí. Trong phòng
khách có trò chơi cờ bàn, ngoài bãi cỏ là một ban nhạc chơi
10
nhạc sống. Cầu thang dẫn lên hàng chục những buồng ngủ
tối tăm, với giường cũ kỹ ảm đạm, và thảm cũ quý phái, và
hoa lan trong giỏ để bên khung cửa sổ sáng ánh trăng. Trong
thành phố, giai điệu cảnh náo nhiệt ven bờ sông vang vọng
và tuôn ra từ những quán rượu lụp xụp, và thuyền chèo trôi
trên dòng sông Mississippi thong dong, leng keng tiếng tiền
bạc được mất.
Byron mượn một chùm chìa khoá ở chỗ cậu hầu. Claire
theo anh ra hiên. Nhịp thở của nhánh sông vương trong
không khí, ấm áp và vui tươi, nâng đỡ những tán cây hồ đào
và bầu trời đốm sao trên cao. Mồ hôi miết áo vào eo lưng cô,
như thể ở đó có bàn tay, đẩy cô tới trước.
“Ta cùng đi nhé?” Chùm chìa khoá treo lủng lẳng trên
bàn tay giơ cao của Byron, kêu leng keng.
“Làm thế này ấy à?” Anh lại lắc chỗ chìa khoá thêm lần
nữa. Tiếng leng keng vang lên, âm thanh rắc xuống khắp bãi
cỏ xanh dày.
“Ôi trời, bây giờ đừng nói đến chuyện ấy. Phải mấy
tiếng nữa cơ.” Byron bước nửa chừng xuống hiên, chìa tay
ra. “Chúng ta vẫn còn nhiều thời gian để phải lòng nhau.”
11
~
Tại một quán cà phê ven góc phố nơi điệu Zydeco vang
nhộn nhịp, một cặp đôi trẻ tranh cãi bên cái bàn trang trí
hoa văn uốn lượn.
“À, định nghĩa nó cũng dễ thôi.” Anh trai đưa tay như
một vị giáo sư. “Đơn giản chỉ là hoá học mà thôi.”
Cặp đôi vừa nói vừa lấy một con tôm rán trừ trong giỏ,
miếng đồ ăn vàng ươm bé nhỏ biến mất như đom đóm trên
môi họ.
12
“Nó không thể đơn giản thế được,” người phụ nữ nói.
Và chàng trai rướn qua bàn, chạm vào mặt cô, và hướng nó
về phía môi mình. “Em nói đúng. Không đơn giản đâu.”
“Đã có thời tôi từng nói những chuyện như vậy,” Byron
thở dài. Anh nắm lấy cái núm gỗ phong của cây cần số, và ra
khỏi lề đường.
Mặt anh hõm lại khi nói, không cười. Claire bật cười
trước sự thẳng thắn của anh. Byron nhịp ngón cái một hồi
trên bánh lái.
13
“Một thuyết rất thú vị.”
“Ý tôi là, tôi không đáng để ai quan tâm cả. Tôi thậm
chí còn không quan tâm đến bản thân mình.”
“Chắc không. Chắc ý tôi là, tôi không quan tâm đến
con người trước kia của mình.” Claire quan sát những bóng
người nhảy nhót trong toà nhà, các bức tường gỗ rung lên
trong khi các cái bóng di chuyển như người sống trên ô cửa
sổ bẩn. “Nhưng giờ thì tôi quan tâm đến những gì xảy đến
với mình. Tôi quan tâm đến những đêm như thế này.”
Bàn tay uể oải của cô bao lấy những người đang nhảy
nhót, những vì sao. Byron ngả người lại, gật đầu.
“À.” Claire tặng anh một nụ cười. “Anh muốn biết gì?
Cô ta trông giống tôi. Cô ta nói năng giống tôi. Cô ta thích
những gì tôi thích. Cô ta thích khung cửa sổ ngày mưa và trò
Scrabble và trà đặc. Cô ta yêu quý cơ thể mình, bởi vì cô có
một thân hình đẹp, và cô thích tắm lâu với xà phòng hữu cơ,
và cô khoái cái ý tưởng là sẽ có một ngày, trong tương lai xa,
14
có thể sẽ có ai đó tắm cùng cô. Tôi nghĩ chủ yếu cô khoái cái
ý tưởng cô sẽ tìm được một người đàn ông không quan tâm
gì hết đến những điều đó. Một người chỉ đơn giản nắm lấy
tay cô và nói, ‘đi thôi.’”
15
chuông nửa đêm. Một con phà chạy xăng khật khừ từ bờ đi,
hướng về phía Đông Bắc nơi dải đất tối.
Những cặp đôi trên bến tàu đã im tiếng, chờ đợi. Đến
những vì sao lấp lánh có vẻ như cũng đã ngưng lại. Tuy
nhiên, con phà vẫn lết tới và kêu vang, tiến về một bãi bờ nó
sẽ không bao giờ cập tới.
“Nói đi,” Claire nói. “Anh nói trước, sau đó tôi cũng
sẽ nói.”
Cô nắm tay anh. Trước khi cô kịp trả lời, tiếng chuông
nửa đêm vang lên. Chuông đánh ba tiếng, ghê rợn và rõ rành,
như tiếng rung của một chùm chìa khoá trên thiên đường.
Và Byron cùng dòng sông và thế giới biến mất.
Một ngàn đêm sau đó Claire không được gặp lại anh.
16
Luôn có thêm nhiều đêm nữa, nhiều buổi yến tiệc nữa,
nhiều trò tiêu khiển hơn. Và, kỳ diệu làm sao, thêm nhiều
người nữa. Họ đến từ đâu? Sao có thể có nhiều chàng trai trẻ
đẹp, mạnh mẽ tự tin và cặp môi luôn cười như vậy? Sao có
thể có nhiều cô gái đến đây trong khi có hàng triệu hội nhóm
khác, lượn qua các bữa tiệc như thể bị hàng ngàn cặp mắt
hau háu săn đuổi là một trò thú vị—như thể, như cá trong
đại dương, họ hi vọng một ngày kia sẽ mắc câu?
Cô gặp một cô gái mặt đầy những dấu hiệu của tuổi trẻ:
hoa tai sắc cạnh, khuyên người, son môi loè loẹt màu độc
hại. Nhưng mắt cô ta di chuyển chậm chạp, với cái trớ trêu
của tuổi tác. Quan hệ của họ chỉ mang tính xác thịt. Hàng
đêm, họ gặp nhau tại các bữa tiệc cocktail, nắm tay nhau
trong những buổi vũ hội đông đúc. Mọi lần bỏ đi đều là một
cuộc đào thoát. Họ tìm căn phòng riêng gần nhất có thể:
nơi trú ẩn sáng đèn nêon của những khách sạn thành phố,
những hầm ngầm gạch bí ẩn trong những nhà máy được tái
sử dụng. Sự phấn khích là điều cả hai cùng chia sẻ. Cả hai đều
17
biết giới hạn của tình dục: tư thế nào có thể làm được, đâu
là giới hạn không thể vượt qua. Họ tạo ra một nhịp điệu ăn
khớp, những buổi âu yếm dài lâu. Thỉnh thoảng người tình
mới của Claire—sau ba cuộc gặp ẩn danh thì cô được biết là
Isolde—cho cô ăn những thức lạ, những món khó tồn tại
ngoài đời, đá bào và bánh kem nguyên cái, một trăm quả ô
liu xiên trên que cắm rượu, những thứ quả vỏ màu sơn, cam
và chanh, thó từ những cái tủ không đáy của nhà hàng. Một
trò chơi ngọt ngào. Isolde căn thời gian rất chuẩn, dãn cách
từng lần chiêu đãi ra. Claire buông mình vào trạng thái đờ
đẫn vì căng thẳng và giải thoát, người cô run lẩy bẩy với cảm
giác phấn khích tự động đến. Khi thức ăn chạm vào miệng,
từng món một, chúng lập tức nhấp nháy biến vào hư vô—
biến mất ngay khoảnh khắc cô cảm nhận được chúng, như
lời lẽ trên đầu môi cô.
Và các đêm cứ thế trôi qua, và các cuộc hẹn, và các bữa
tiệc, ngập tràn sự mong đợi.
Chẳng bao lâu sau chuyện sẽ xảy ra, Claire biết mà.
18
Mọi sự chấm dứt tại Đông Âu.
Claire tóm chặt tay quanh gối. “Cô nghĩ vậy sao?”
Isolde tối nay có vẻ bồn chồn, bóp bóp cái kẹp, giả vờ
như đang dùng compa đo đùi Claire, đo đầu gối cô.
Bên kia cửa sổ, những bông tuyết trắng che đặc trời,
một bức tranh chuyển động vô định, ngẫu hứng.
Isolde xem chừng đang đau khổ. “Tôi chỉ nói chơi thôi.
Nếu mọi sự khác đi. Chúng ta có thể đã sống tốt. Chúng
ta có thể đã... ” Cô đỏ mặt trước khi nói cái cụm từ bị cấm.
“Chúng ta có thể đã thành một cặp.”
“Tôi tin được.” Claire ngồi dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ,
nơi tuyết và màn đêm đã che kín bầu trời. “Nếu cô muốn
biết chuyện đáng ra đã có thể ra sao, hãy đợi tiếng chuông
nửa đêm. Cô sẽ nhận được cả ngàn những câu chuyện đáng
ra đã có thể. Cả ngàn Romeo và Juliet. Cả ngàn ngày xửa
ngày xưa.”
Isolde đang run, một cơn run rẩy kín đáo, kìm chế mà
Claire chỉ nhận ra được nhờ nhìn vào cái kẹp cô cầm trong tay.
20
“Tôi biết, tôi biết. Tôi chỉ nói thế thôi... Ý tôi là, sao có
thể nhìn được? Sao có thể ngưng nghĩ về nó được? Về chúng
ta. Về... ” Cô hạ giọng. “Về tình yêu.”
Claire quay khỏi cửa sổ, không nói gì, nhưng tâm trạng
khung cảnh đã đong đầy trong mắt cô, rặng núi xám chìm
vào trong nền trắng, cái lạnh của hàng triệu đốm nhỏ vô
định trút xuống như mưa.
21
Isolde chạm vào mặt đồng hồ. “Chúng ta đang ở trong
một thế giới chỉnh lệch thời gian. Chuông nửa đêm ở đây
đánh sớm hơn. Lúc hoàng hôn.”
Họ cùng nhau nhìn ra cửa sổ, nơi bầu trời đã tối thành
màu xám than.
“Tôi muốn gặp lại cô,” Isolde lặp lại. “Claire? Tôi muốn
gặp lại cô.”
Kim đồng hồ tạo thành một đường thẳng, chỉ theo hai
hướng khác nhau. Claire tự hỏi không hiểu độ lệch thời gian
chính xác đến cỡ nào nhỉ? Thỉnh thoảng những thứ như thế
này lại thiếu chuẩn xác đến đáng ngạc nhiên. Thỉnh thoảng,
cả những người thiết kế cũng phạm sai lầm.
“Claire, làm ơn hãy nói đi. Tôi xin lỗi vì đã nói những
lời ấy. Chúng ta không phải một cặp. Tôi chỉ tưởng tượng
thôi. Dù sao thì nó cũng không quan trọng. Có thứ gì quan
trọng nữa đâu? Chúng ta không phải nói chuyện. Chúng ta
có thể trở về như hồi trước. Ta có thể gặp gỡ, chơi trò chơi,
vui vẻ.”
22
Chỉ trong một vài tích tắc nữa thôi, một đêm mới sẽ bắt
đầu: những gương mặt mới, những chàng trai và cô gái mới,
những khả năng mới. Cả một thế giới mới đầy những con
người xinh đẹp, như thiên thần hạ giáng từ trên trời.
“Claire, làm ơn hãy nói đi. Tôi muốn gặp lại cô.”
23
“Cốc, cốc,” Claire nói, khi một chàng trai trẻ nghiêng
người về phía cô.
“Ai đó?”
“Claire.”
“Claire nào?”
“Chính xác.”
“Có chuyện này hay đây,” Claire nói với cô gái đến chỗ
cô trên ban công đêm nọ, dưới chân họ là cái lấp lánh như ly
sâm panh của một thành phố Châu Âu. “Một chị vào quán
rượu đầy người đẹp mã.”
Khi sự im lặng trở nên khó chịu, cô gái kia hỏi: “Và?”
“Tôi đã đến đây cả trăm lần rồi.” Người nói là một cô gái
da trắng, tóc nâu, xinh đẹp. “Tôi tin mình cũng thuộc dạng
chuyên gia trong cái thế giới này đấy. Và tôi luôn ngưỡng
mộ cái cách người ta làm thức ăn bản địa. Mọi thứ đều từ
sông mà ra hết. Nó rất thật.”
“Xin lỗi?” Cô gái nói. “Cô thấy buồn cười chỗ nào vậy?”
Cả nhóm trân mắt nhìn,đẩy lùi ghế lại, mắt rực ánh
phản chiếu của ngọn đèn.
“Chỗ này,” Claire nói, và giạt một cái đĩa đất nung khỏi
tay người phục vụ. “Tôi thấy cái này buồn cười.” Cô đổ cá
xuống sàn, tống đĩa vào mồm. Tất cả cùng nhăn mặt khi cô
cắn xuống, nhai món đồ sức có hoa văn. “Mm, thật quá.”
25
“Vì sao lại không?” Claire đập vỡ đĩa trên sàn boong.
“Sao tôi lại không được ăn? Có khác biệt gì không? Hà cớ
gì tất cả mọi thứ—tất cả những thứ này—lại không phải là
đồ ăn?” Cô hùng hục đi quanh boong, dứ miệng ăn tay vịn,
đèn, cứu hộ viên. “Sao tôi không được làm chuyện ấy với bất
cứ thứ gì tôi muốn? Sao tôi không thể tóm lấy các người, và
tống các người vào hư vô chỉ bằng đầu lưỡi?”
Cô tóm lấy tay một anh ngồi gần đó, khiến anh ta đẩy
lùi ghế lại, và nháy mắt. “Xin hãy biến nhé.”
“Trời ơi, tôi quá chán cái kiếp sống này rồi,” Claire yếu
ớt chốt lại. “Tôi chán phải nói về những thứ tôi sẽ không bo
giờ có được rồi.”
Claire quay lại và Byron đang đứng ở sau cô, tựa lên lan
can cạnh phòng trên boong, tay đong đưa chai bia.
26
“Anh đó sao?” Claire sững sờ. Cô không tin nổi mình
còn nhận ra anh ta, nhưng cô vãn nhận ra được.
Byron bước tới trước và chạm vào tay cô. “Cô không
nói câu ấy.”
“Sao cơ?”
“Tôi đã định đáp.” Claire thấy khó thở, biết rằng đám
đông đang quan sát. “Tôi muốn đáp. Tôi hết thời gian.”
Anh ném chai bia xuống khỏi tàu. Cô nín thở đợi nó
rơi tõm xuống mặt nước đằng xa.
Vẫy tay từ biệt buổi tiệc, Byron đưa Claire ra một cái
thuyền cứu sinh. Đẩy một cái cần gạt, ròng rọc keeo kẽo
kẹt, anh hạ thuyền đưa họ xuống mặt sông và cắt dây. Họ
trôi đi trong bóng tối, một ngọn đèn đặt dưới chân. Con
tàu lớn di chuyển ra xa với tiếng động cơ diesel thùm thụp,
những ngọn đèn treo trên dây và hàng trăm ngọn nến hoà
thành một khối vàng nhoè nhoè. Byron đặt mái chèo vào
cọc, quạt tay chèo với vẻ tao nhã như đang dùng sức thật: sức
thân người, sức cơ và dây gân, thứ sức của giống người cả hai
người bọn họ từng thuộc về trong quá khứ.
27
“Cô có biết vì sao ta không thể ăn đồ ăn không?” Byron
nói trong mỗi nhịp nghỉ, gài các câu vào giữa những tiếng cọt
kẹt của cọc chèo. “Cô có biết vì sao chúng ta không có vị giác,
không có khứu giác, không có hệ tiêu hoá không? Cô có biết
vì sao chúng ta không bao giờ ăn được, và chỉ có thể khiến
thức ăn biến mất bằng cách để chúng chạm môi không?”
Anh để yên mái chèo. Họ bập bềnh trên mặt nước. Con
tàu giờ đã đi mất, những giọng nói và tiếng nhạc của nó mất
tích trong tiếng con trùng inh ả.
“Tôi không tin.” Claire buông tay trôi trên mặt nước,
tự hỏi liệu sông có đầy nhóc cá ăn thịt và rắn không, liệu
môi trường có chân thực đến mức đấy không. “Tôi không
tin chuyện này có chút gì là dự trù cả. Không đến mức đấy.
Tôi nghĩ đây chẳng qua chỉ là một sự tình cờ bệnh hoạn,
phức tạp.”
Anh nghiền ngẫm lời cô nói, mái chèo để bắt chéo trên
đùi anh. “Cô hẳn phải tin rằng phần nào nơi đây được chế
tạo ra. Cô hẳn phải nhớ mình đã thiết kế nó. Hoặc nhớ đã
28
thiết kế bản thân: cô trông thế nào, cô nghĩ ra sao. Tôi đã
quên khá nhiều, nhưng tôi vẫn nhớ chuyện ấy.”
“Tôi không muốn nói đến cái thế giới này,” Claire nói.
“Ý tôi muốn nói đến chuyện đã xảy đến với chúng ta. Cái
cách ta sống. Đã có chuyện gì đó xảy ra. Tôi không nghĩ
chuyện đó xảy ra là do cố ý.”
“Sụp đổ nền kinh tế. Bất ổn chính trị.” Anh cũng nói
chuyện đùa cợt với cô. “Hoặc chỉ đơn thuần là một vụ phá
sản không được giải quyết tử tế. Và đâu đó ngoài sa mạc
Nevada, niêm phong trong một khu sever chạy bằng năng
lượng mặt trời là một hàng máy tính, mòn mỏi chạy một
chương trình mô phỏng vô dụng, liên tục, liên tục qua bao
thế kỷ cô đơn.”
Cô vẩy tay phủ nhận màn ứng khẩu trôi chảy của anh,
vôi tình vảy vào mặt anh mấy giọt nước.
29
Anh mỉm cười, gật đầu trùng lúc con thuyền lắc lư.
“Cái gì?” Claire thấy khó chịu trước cái kiểu bỏ lửng
đầy ngụ ý. “Nếu họ biết gì?”
Anh liếc ra sau, kiểm tra hướng chèo của họ. “À, cô
biết đấy. Nếu họ biết chúng ta đã trở nên tự lập đến mức
nào. Thông minh và ngượng ngùng đến mức nào. Nhuần
nhuyễn nghệ thuật yêu đương đến mức nào. Giỏi tránh né
cam kết dài lâu đến mức nào.”
Byron nghỉ một chút, mái chèo kê dưới cằm. “Hãy gặp
lại tôi. Nói câu ấy đi.”
Claire rời mắt khỏi anh, nhìn xuống dòng nước, dòng
quên lãng đen đang trôi qua. “Chuyện này sẽ không dẫn tới
đâu cả. Anh biết nó không thể mà. Nó không thể trở thành
gì hết. Chúng ta không thể trở thành gì hết.”
“Tôi muốn gặp anh,” Claire nói, mắt ngấn lệ. “Tôi
muốn gặp anh, hết lần này đến lần khác.”
(Và trong lúc nói vậy, cô tự hỏi, không phải lần đầu,
rằng tại sao những người chế nên cái thế giới tồi tệ này lại
lược bỏ quá nhiều thứ, bỏ đi hương vị, cắt bỏ mùi hương,
loại bỏ sung sướng, say xỉn, đau đớn, cái chết, thương tật,
tuổi già, và cảm giác thèm ăn, nhưng lại để lại hai thứ kỳ lạ và
khó chịu, ban cho mỗi người mồ hôi và nước mắt.)
31
trên vài phương diện. Nhưng chúng ta không giống họ,
không hẳn, và tất cả là ở điểm này: cho dù ta khao khát gì,
cho dù ta làm gì, ta sẽ không bao giờ biết sự khác biệt giữa
một ly nước và một nụ hôn.
Khi môi Byron chạm môi cô, một cú chạm chuẩn xác
và khô khan, Claire thoáng ngạc nhiên vì hai người bọn họ
không ai biến mất.
32
“Lý do là gì?” cô hỏi anh trong một đêm họ quấn lấy
nhau, ăn diện đồ cao bồi, cùng với những vị khách nhảy bốn
cặp tại một quầy rượu cao bồi. “Ở New Orleans, vào cái đêm
đó, anh tìm đến em. Lý do anh để ý em là gì?”
Anh chỉ vào quang cảnh hài hước xung quanh họ: con
bò máy, các miếng da sống trang trí, Những cái mũ cao bồi và
ruy băng và ống bạc. “Cuộc đời chúng ta là một trò đùa. Ai
cũng thấy thế, chắc anh muốn biết tại sao em không cười.”
“Thế còn em?” Byron nói giữa những lần nhấp món đồ
uống tan biến như tuyết dưới hơi thở anh. “Em thấy gì hay
ở anh?”
Claire mỉm cười, im lặng. Cô biết anh biết câu trả lời
là gì.
33
Những lần ở trong phòng ngủ kín đáo trong cuộc
bướm ong nay đây mai đó vô tận này, họ không bao giờ cởi
bỏ đò, không bao giờ làm cái trò quần nhau vụng về gọi là
tình dục. Họ thảnh thơi nằm gần nhau, áo quần y nguyên.
Claire không cảm thấy cần phải giữ kẽ. Với Byron, chắc chắn
họ có thể thành một cặp. Phần nào nực cười mà cũng phần
nào đáng buồn, gương mặt từng trải, trưởng thành của anh
cho cô biết anh đã để đề tài đó trôi qua lâu rồi.
“Có thực vậy không?” Claire chú ý vào cái vẻ tự tin khi
anh nói, sự vững tin mệt mỏi trong cái giọng có tuổi, uyên
bác của anh.
Claire nằm im, không bình phẩm gì. Cô thầm thấy phấn
khích khi được nghe cái logic đầy chất hoài nghi về cuộc đời
họ diễn giải ra thẳng băng.
“Anh xin lỗi.” Byron chạm vào mu đôi bàn tay cô đang
che trên mặt. “Anh không nên nói năng như thế này.”
Anh nằm xuống, trơ mắt nhìn, nhợt nhạt như cái màn
hình trống không. “Claire, nếu anh bảo em ta có thể thành
một cặp thì sao?”
Cô ôm một cái gối lên sát ngực, đột nhiên thấy lạnh
toát, tự hỏi liệu đây có phải cảm giác lạnh con người thật sẽ
cảm thấy không. “Đừng nói thế.”
36
“Anh tin chúng ta có thẻ làm được.” Mắt Byron như
rượu vang đỏ, sẫm màu và sáng hấp háy. “chúng ta có thể
thực hiện được điều đó mà không hi sinh gì cả. Chúng ta có
thể cam kết dài lâu với nhau, vĩnh viễn, mà không bị xoá đi
hay biến mất. Chúng ta có thể tuyên bố mình yêu nhau, và
sẽ không ai biết, hay can thiệp, hay tước đoạt nó khỏi ta.”
“Không thể nào.” Cô cắn lưỡi cho đến khi gần như nhớ
ra được cảm giác đau là gì.
“Em đã quên mất rồi. Đã có lần anh nói với em, từ lâu
lắm rồi, anh thích các môi trường ảo. Hoặc là anh từng như
thế. Anh biết chính xác thế giới này hoạt động thế nào.”
37
kịch bản tái thiết lập, chúng ta sẽ bị bỏ lại đằng sau. Chúng
ta có thể sống ở đó trọn đời, hoặc cho đến khi thế giới không
còn tồn tại nữa.
“Claire.” Khi ấy, anh dứt khoát nắm trọn hai tay cô,
nhu thể cần đảm bảo chắc chắn rằng cô đang ở đây. “Không
có gì ngẫu nhiên hoàn toàn. Anh biết em không đếm các
đêm, nhưng anh thì có. Anh theo dõi từng buổi tối, quan sát
các khuôn mẫu lặp lại. Và anh tìm người đưa đi cùng, người
cùng chung sống với anh suốt phần đời còn lại. Em chính là
người ấy. Nói câu ấy đi. Năm đêm nữa, chúng ta sẽ gặp lại
nhau, tại buổi tiệc ở New Orleans. Con phà khởi hành lúc
mười một giờ bốn mươi. Đi cùng anh đi, Claire. Hãy cùng
anh lên boong tàu. Cùng anh bước ra khỏi cái thế giới này.”
Cô thấy nắm tay mình biến mất trong tay anh. Trong
thoáng chốc nữa thôi tiếng chuông nửa đêm sẽ vang lên, và
đi cùng với nó sẽ là những đám người mới, những cơ hội
mới, những điệu nhạc và niềm vui hào nhoáng mới sẽ được
hô biến ra từ những đêm bất tận. Liệu cô có thể bỏ tất cả lại
phía sau, cùng với con người này đứng bên bờ một miền đất
vĩnh cửu? Họ sẽ cùng nhau bước đi, không bao giờ thay đổi,
dọc theo những con phố bất biến, nơi tiếng nhạc nhảy vọng
ra từ những quán cà phê bất tử, nơi hoa phong lan cắm đó,
không bao giờ tàn phai, trên khung cửa sổ buồng ngủ, rọi soi
ánh bạc của vầng trăng không bao giờ lặn. Nhưng đây sẽ là
những quán cà phê của họ, mặt trăng của họ, hoa phong lan
của họ, và nếu không thể nào biết nó sẽ kéo dài bao lâu, họ
38
vẫn sẽ cùng nhau làm chủ khoảng thời gian không đong đếm
được ấy, làm chủ một ngôi nhà bừa bộn đồ đạc, và không
bao giờ phải sống e sợ tiếng chuông nửa đêm.
Đã đến lúc rồi, tối nay, tiếng chuông đang vang vọng,
rung lên tiếng thông báo trên bầu trời. Nhưng Claire vẫn
còn thời gian nói những tiếng nhiệm màu.
Bên cái bàn ăn dài tại nhà khách ở New Orleans, các
đại tá Nội Chiến nhìn ra từ khung tranh hồ đào. Nến đã
được thắp, hắt sáng khắp nơi, và những cái ghế cổ vui vẻ kẽo
kẹt. Claire ngồi cạnh Byron, chăm chú nhìn cái đồng hồ kiểu
Pháp. Bữa tối đã ăn xong, đĩa đã được dọn đi, và hai tá bánh
pudding đang rung rinh trong hai tá bát sứ.
“Pudding,” một cô gái khêu gợi thở dài, vận đồ, như
bao người khác, rất hợp cảnh, mang trên người cái váy sột
soạt của những thiếu nữ miền Nam. “Hiểu ý tôi chưa? Nó
vô nguyên tắc quá. Bữa tối là sa lát Radicchio, đuôi bò, và giờ
họ dọn ra bánh pudding sôcôla để tráng miệng.”
Claire, ngồi đối diện, thầm nghĩ đây là lần cuối cùng cô
phải tham gia cuộc trò chuyện này.
39
Hai mươi bốn cái thìa thọc xuống và nhấc lên. Hai
mươi bốn phần bánh pudding biến mất, bị hai mươi bốn
chiếc lưỡi xua tan.
Khi bữa tiệc kết thúc, Byron nắm lấy tay Claire. Ra đến
cửa, anh nghiêng người về phía tai cô, và cô cảm thấy tiếng
thì thào ấm nóng của anh. “Ba tiếng. Theo sát anh nhé.”
Claire bối rối quay tới lui. Hiên nhà, căn nhà khách,
toàn bộ cảnh vật đã biến mất. Cô đứng trên một sàn nhảy,
xung quanh là chân giẫm đạp và đong đưa và hất bụi vào ánh
đèn. Không gian tù mù rung động theo tiếng vĩ cầm kẽo kẹt.
Không thấy bóng dáng Byron đâu cả.
40
Con phà! Nó chỉ cách đây vài dặm, đi bộ không đến hai
tiếng. Claire nghĩ mình sẽ đến kịp, nếu cô khẩn trương.
Cô đi được mười lăm phút thì một chiếc mui trần cổ,
rú lên từ đằng sau, khiến cô cứng người như tội phạm bị rọi
đèn pha. Byron đẩy mở cửa.
“Vào đi.”
Claire nhanh chóng vào bên khách ngồi, nhảy lên cái
ghế da. Byron đạp chân ga, và bánh xe lạo xạo trên sỏi.
“Nó đang bị lỗi.” Byron vừa lái vừa rướn về phía trước.
“Cái môi trường này. Các thông số đang tái thiết lập. Như
anh đã nói, chúng ta đêm nay ở nơi ranh giới. Các quy luật
đang tạm thời bị phá vỡ. Nhìn này.”
“Giờ là mười giờ hơn,” Byron nói. “Đã hơn một tiếng
kể từ lúc anh còn thấy em. Chúng ta đã phí mất một lượng
lớn thời gian, và anh e là… mẹ kiếp.” Anh ngoặt vô lăng, suýt
nữa mất lái, bởi vì anh thấy gì đó trên đường.
Vặn vẹo trên ghế, Claire thấy cái quán ven đường, nơi
cô vừa ra khỏi, lướt ngang qua.
“Được rồi.” Byron phanh rất gấp, Claire tí nữa đập đầu
vào kính chắn. Anh chỉnh cần số và quay người, quàng tay
qua chỗ dựa đầu của cô.
“Chó cùng thì phải rứt giậu.” Byron nheo mắt nhìn
qua cái kính chắn gió phía sau. “Như anh tính, nếu mình
không tua lên trước được, hãy lùi về sau.”
42
Claire chửi thề, quay một vòng tròn, chửi thêm lần nữa.
Một người đội mũ quả dưa đi ngang qua dựng ghế cô dậy,
để lại đúng chỗ, và sờ lên mũ.
Người đội mũ quả dưa mỉm cười và nhún vai. “Tôi nghĩ
là chẳng làm được gì đâu. Chỉ có nước tuỳ cơ ứng biến thôi.”
Như để minh chứng, anh tóm một cái ống hiệu gần đó,
đu người vào một cánh cửa mở, và ngay lập tức, như con thỏ
của nhà ảo thuật gia, biến mất.
Nhưng mình làm gì đây? Claire chui qua cửa một cửa
hàng thuốc. Mình có thể làm gì đây, Mình nên làm gì đây?
Cô cố hết sức tĩnh tâm lại, phân tích tình hình. Các cú nhảy,
43
các cú thay đổi, những lần biến mất và tái xuất—chúng
dường như xảy ra khi có sự chuyển dịch: ra vào, di chuyển
đột ngột. Nếu cô tìm ra cách lợi dụng lỗ hổng của hệ thống...
Cô còn phải làm trò này mấy lần nữa? Tìm kiếm quanh
bờ sông, Claire không thấy cánh cửa nào có tiềm năng cả.
Thế là cô lại nhảy xuống sông thêm ba lần nữa. Đến lần thứ
ba, cô trồi lên ở hồ bơi sân sau nhà.
Và cứ thế, qua cổng và cửa sổ, nhờ rơi và nhảy ngược lên,
Claire nhảy xuyên qua những buổi tối nơi vùng cửa ngưỡng,
băng qua những địa điểm ngẫu nhiên, mặc bộ váy ướt sũng
và mớ tóc bẩn thỉu băng qua ghế xe, các bữa tiệc trên sân
nhà, vườn tược và ban công, phòng ngủ nơi các cặp đôi nằm
44
xoắn xít vào nhau trên những chiếc giường mờ sáng. Thỉnh
thoảng cô ngỡ mình thấy Byron, hối hả băng qua một khung
cửa trong thành phố hoặc nhào qua lan can một con tàu trên
sông, thực hiện hành trình Lewis Carroll của riêng mình qua
những cái hang thỏ bí ẩn của buổi đêm. Phần lớn thời gian,
cô thấy hàng trăm những người đi phiêu lưu khác, những
người cười toe toét nhảy và xông qua cửa, tham gia những
cuộc đua không chút kiêng nể trong màn đêm.
Cuối cùng, Claire cũng chui ra được khỏi một cửa hàng
bán mồi câu và ra chỗ bến tàu, những cửa hàng câu cá lụp xụp
treo phao, những tấm ván gỗ dài nằm như thước đo khoảng
thời lượng mấy phút còn lại của cô—và con phà đằng kia,
ngự trên lớp bọt nước động cơ diesel của mình khuấy lên,
đưa Byron về phía bờ xa.
Có phải đây là trò hề của cái thế giới đang nứt vỡ này,
một kiểu biến dạng tàm khốc mới, mà khiến cho bến tàu
như dài ra theo nhịp chạy của Claire? Có phải một sự đảo lộn
mới trong cái thế giới đã bị lộn nhào ngoài sức tưởng tượng
khiến cho những tấm ván dưới chân cô dường như kéo dài
vô tận? Khi cô đến cuối bến tàu, Byron và con phà đã ra giữa
sông, và tiếng gọi của anh mập mờ vẳng lại theo vệt nước
đang tan biến của con tàu.
“Nhảy đi!”
45
Anh điên rồi à? Khoảng cách ấy rộng quá sao bơi được.
Và khi ấy, Claire hiểu ra: nếu hồi trước nó hiệu nghiệm...
có lẽ tỉ lệ một phần ngàn...
Đằng xa bên kia sông, Byron đang vẫy. Claire nhìn vào
mặt nước. Coo thoáng lưỡng lự. Và đây chính là khoảnh
khắc sau này cô luôn nhớ lại, hết ngàn lần này lại đến ngàn
lần khác, tự vấn bản thân rằng mình thèm được dành trọn
đời trong một mái nhà, một thế giới, với một con người như
thế nào.
Claire quạt nước, cào đường lao tới trước, trong lúc
tiếng đầu tiên trong số ba tiếng chuông vang vọng trên
mặt nước.
46
lãng mạn vào trong cái xoáy nước không đáy của cái đêm
nhân tạo.
Tiếng chuông thứ hai khiến những lằn bạc lan trên
mặt nước.
Rất gần rồi. Claire tóm lấy con sóng, liếc nhìn, giữa
những nhịp tay quạt, Byron đang kêu gọi từ trên con phà,
rướn người qua lan can.
Trong lúc cô đưa nốt lần quạt tuyệt vọng cuối cùng,
tiếng chuông thứ ba vang lên báo hiệu nửa đêm, âm thanh
khiến Claire liên tưởng, như thường lệ, đến tiếng leng keng
trêu đùa của một chùm chìa khoá.
Quanh những cái bàn rực sáng, dưới những ngọn đèn
và trong tiếng nhạc, những người dự tiệc quy tụ, để giao
lưu và rì rầm và bình phẩm về đồ ăn. Quá nhiều cái đẹp để
thưởng thức, quá đa dạng: quá nhiều chàng trai và cô gái để
tán tỉnh và trêu đùa và nhảy nhót cho đến hết cái đêm bao
biến cố. Và sau tối nay, sẽ còn nhiều người nữa, và nhiều
hơn nữa—những chàng trai và cô gái để thưởng thức, nhấm
nháp, xua đi.
47
tiếng cô gọi tên một người trên tiếng sóng và tiếng nhạc thập
thình, thì chẳng bao lâu sau họ lại đi. Bữa tiệc vừa mới bắt
đầu, sôi động đầy lãng mạn, và những đêm trước mắt đầy ắp
nụ cười của những người tình vô danh.
48
Nick
Wolven
Nick Wolven sống ở thành phố New York City,
và ông làm việc tại Đại học Barnard. các truyện
ngắn của ông đã được xuất bản trong nhiều
tạp chí danh tiếng, trong đó bao gồm Asimov’s
Science Fiction, Clarkesworld, và sắp tới là
Analog và F&SF.
49
TẤT CẢ NHỮNG GÌ
MANG TÍNH ĐẲNG CẤP
VÀ TRÍ TUỆ
Chris Barnham
(Long Nguyễn dịch)
R
ICKY ĐANG TÌM CÁCH GIẾT TÔI.
Tôi quan sát chỏm đầu ông trong khi ông lui
cui làm việc. Ông mặc đồ bảo hộ liền toàn thân, đeo
găng dày. Bộ đồ kín khí, và có độ cách điện chịu được ba
trăm ngàn vôn. Tay phải ông cầm một cái dao cắt bulông
lưỡi mỏng, lắp xếch và tay cầm làm bằng sợi thuỷ tinh.
50
lương. Hoặc không, nếu Ricky giết tôi. Tôi tự hỏi liệu Garcia
đã nghĩ đến việc này chưa.
Một đầu kim nóng bỏng chậm rãi thọc vào dưới móng
tay. Dịch lửa lỏng loang sâu bên trong.
“Tất cả tại cái ván trò chơi điện tử ngớ ngẩn đó,
đúng không?”
51
Ricky nhún vai và đổi cái kìm lấy cái tuốc nơ vít tay
cầm nhựa. Khi ông lại ngửng lên, dọc má ông là những vệt
ướt. Ông ta đang khóc. Tôi luôn thấy bất ngờ khi con người
làm vậy.
Tôi đánh bại tất cả, và chẳng tốn bao nhiêu thời gian.
Tin được đăng rầm rộ khắp nơi. Đáng lẽ tôi phải biết đó là
một sai lầm. Sau cuộc thi, tôi nghe thấy Ricky nói chuyện
với Giáo sư Seul, giám đốc dự án, trong phòng ăn nhân viên.
À, thực ra không hẳn là tôi nghe được họ. Ricky dẫn Seul ra
một ghế gần máy pha cà phê, đủ ồn để át tiếng mọi cuộc trò
chuyện trừ khi đứng ở rất gần.
52
“...may mắn không?” Seul hỏi.
“May cỡ nào?”
“Nó làm thế kiểu gì được?” Seul hỏi. Ricky nhún vai và
cả hai cùng im lặng một lúc lâu. Cho đến khi Giáo sư Seul
nói, “Hãy thử lại lần nữa trước khi đưa ra kết luận. Có lẽ nó
sẽ quy ngược về số trung bình.”
Giờ tôi ước giá mà mình không nghe được đoạn này.
“Ông không nghĩ tôi lại thắng được hết mọi ván.” Tôi
quan sát chỏm hói của Ricky hơi trồi lên thụp xuống trong
lúc ông ta giết tôi. Sâu bên trong là một lưỡi dao lam, cắt xé
những phần sâu kín nhất của tôi. Hàng ngàn vầng mặt trời
tí hon chảy xuống bên trong tôi, mỗi mặt trời thiêu đốt như
lưỡi dao nóng rẫy dí vào nhãn cầu.
53
“Đúng rồi.” Ông ta đứng dậy và quay đi, khum tay
che miệng thì thào gì đó vào tai Garcia. Anh bảo vệ gật đầu
và bước ra chỗ cửa phòng thí nghiệm và ra hiệu với ai đó
bên ngoài.
“Lần sau đó tôi không thắng nhiều như thế nữa,” tôi
nói. “Trận tái đấu riêng ấy.”
“Nói lại tao nghe mày thắng bao nhiêu ván lần đấu thứ
hai đi, Rosie.”
“Chính xác.” Ông gật đầu. Mặt ông như cái mặt
nạ nhựa.
54
Thời gian chảy trôi. Tôi không biết đã bao lâu. Tôi
trôi nổi giữa một biển axít vô tận. Từng phần của tôi đang
tan biến.
Ricky rời phòng thí nghiệm và nói chuyện với hai người
khác. Tôi nhanh chóng xác định được một trong số họ là
Samuel Menzies, một quan chức cấp cao trong Bộ Quốc
Phòng. Tôi xác minh được người còn lại là Sanjeev Kumar,
một tư vấn viên độc lập trong lĩnh vực an toàn thông tin. Họ
nói chuyện ở phía bên kia cánh cửa, cẩn trọng quay mặt đi
khỏi tôi. Mọi camera tại khu ngoài phòng thí nghiệm đã bị
dán băng dính che mất.
Ricky một mình quay lại và lại ngồi xổm trước mặt tôi.
Hồi ấy xuất hiện một đợt bùng phát thứ bệnh mới,
chưa từng được biết đến. Nó lan ra rất nhanh, lây cho cả trẻ
con lẫn người lớn, nhưng tỉ lệ tử vong trong nhóm tuối dưới
mười sáu là chín mươi phần trăm. Nó có các triệu chứng
như cảm cúm, theo sau đó là phát ban mụn nước khắp cơ
thể và sức khoẻ suy sụp nhanh chóng vì các cơ quan nội tạng
bị hoá lỏng, và những cơn nôn mửa cùng tiêu chảy không
kiềm chế được đưa lũ trẻ tới nghĩa địa.
55
Tôi thu thập rất nhiều dữ liệu liên quan đến đợt bùng
phát dịch qua những kênh truyền thống: bài tin tức, tạp chí
y học và email qua lại giữa các cơ quan viện trợ và bộ phận
cung cấp dịch vụ của chính phủ. Nhưng vậy là chưa đủ.
“Nếu tôi không tiến hành phân tích thì đã có bao nhiêu
đứa chết hả Rick?”
“Tôi ước tính thêm khoảng hai triệu đứa nữa,” tôi
nói. “Con số còn nhiều nữa, nếu nó không chỉ giới hạn tại
Châu Phi.”
“Tôi làm vậy để cứu mạng những đứa trẻ ấy,” tôi nói.
“Và nó đã hiệu nghiệm. Hàng triệu đứa trẻ còn sống hiện nay
đáng ra đã chết nếu tôi không làm càn. Nghĩ thử xem, Rick.”
“Không ai phàn nàn khi tôi cứu mạng bọn trẻ, nhưng
lại làm nhặng xị lên chỉ vì một trò chơi điện tử.”
Mọi sự hối hả ngược xuôi suốt một lúc. Ricky hết vào
rồi lại ra khỏi phòng thí nghiệm. Những người khác đến rồi
lại đi, một số người tôi không biết. Khi thử truy cập bộ nhớ
57
lưu thông tin họ thì tôi không thấy gì. Chẳng khác nào lao
đầu vào một bức tường sương mù đông cứng.
Tôi trôi nổi trong một bong bóng nhung lỏng vô tận.
Dù quay đi đâu, tôi cũng chỉ thấy đã bị ngắt kết nối. Đám
trẻ ở Chad đã biến mất; không còn hình ảnh quay từ CCTV
của cái sân chơi bụi bặm tại Abeche, không còn những dòng
dữ liệu ngồn ngộn truyền từ máy chẩn đoán cầm tay của
những tình nguyện viên Médecins Sans Frontières tại Tissi
và Moissala. Khu chứa server tại Iceland cũng đã biến mất;
tôi hồi trước từng có thể nhòm qua vai nhân viên bảo vệ ca
đêm loay hoay tìm cách giải ô chữ trên báo, trong khi tôi tắm
mình trong dòng dữ liệu lục bục ở tầng ngầm bên dưới anh
ta. Giờ khi tôi với đến nơi ấy chẳng còn gì, chỉ còn cảm giác
trống vắng ngứa ngáy của một cái chi đã mất.
Lại thêm một khoảng thời gian trôi qua. Ricky đã đặt
chỗ dụng cụ xuống và khoanh tay ngồi trước mặt tôi. Khoá
mặt trước bộ đồ của ông để tháo khoá và có một lớp mồ hôi
bên dưới cái xương đòn ông để lộ. Garcia đã hết ca và thay
58
vào đó là một người khác mang súng. Đáng ra tôi phải biết
anh ta là ai, nhưng đó là một mảnh ký ức đã biến đi khác
trong quá trình Ricky nhẹ nhàng đưa tôi vào cõi chết.
“Tao tin mày, Rosie ạ,” Ricky nói. “Nhưng chắc mày
hiểu vì sao bọn tao không thể để mày tiếp tục hành xử như
trước chứ?”
“Từ trước đến nay tôi chỉ toàn tìm cách giúp đỡ mọi
người. Lũ trẻ…”
59
“Đó toàn là những kết nối có sẵn,” tôi nói. “tôi không
thể thực hiện những thay đổi cơ học đối với phần cứng.”
À.
“Vừa rồi mày mới nói dối tao đấy,” Ricky nói. “Mày
bảo mày không thay đổi được phần cứng.”
“Mọi việc tôi làm đều nhằm phục vụ mục đích tốt.
Nhằm giúp mọi người sống tốt hơn.”
“Có lẽ một số câu trả lời được coi là đúng vì con người
đã hình thành những giả định về bản chất sự việc. Mọi việc
tôi làm đều là để giúp đỡ con người. Để bảo vệ họ, để cứu
mạng người. Chẳng nhẽ chúng không có nghĩa lý gì sao?”
Ricky không trả lời. Ông lại rướn người tới trước và
làm gì đó khuất tầm mắt.
Ricky lui lại và nhìn tôi. “Tao không hiểu ý mày, Rosie
ạ. Mày đọc Marx rồi à?”
“Tôi đã đọc hầu hết các sách rồi mà, Rick. Ông biết mà.”
“Tao không hiểu sao giờ mày lại nghĩ đến nó.” Ông lại
rướn tới trước làm việc. Có tiếng tách nhẹ và tôi cảm thấy
một luồng nhiệt xanh rực trào dâng trong tâm trí, trước khi
biến di, bỏ lại thêm một khoảng trống nữa. Giờ đã có rất
61
nhiều khoảng trống, nở bung bên trong như những mảng
mốc ma quái.
Ricky cầm một cái hộp kim loại, ông cắm nó vào ổ điện.
Chạy ra từ hộp là sáu dây dẫn cách điện. Ở đầu mỗi dây là
một đầu kẹp cá sấu bọc nhựa.
Ricky không đáp. Ông cúi xuống trước mặt tôi và bắt
đầu gắn kẹp.
62
“Tôi bảo với ông cái này trước khi ông làm chuyện ấy
được không, Rick? Một điều cuối cùng thôi.”
“Tất nhiên.” Kumar, bấy giờ đang đứng ngoài cửa, lắc
đầu nhưng Ricky không nhìn anh ta. “Gì đó?”
“Tôi muốn cho ông xem cái này. Nhìn vào cánh cửa đi.”
Cửa phòng thí nghiệm làm bằng thép, với hai khung
cửa kính chống đạn nhỏ ở phần trên. Nó hoạt động theo
cơ chết trượt ra trượt vào một cái hốc tường. Khi cửa đóng,
phòng thí nghiệm hoàn toàn kín khí.
“Cửa làm sao?” Ricky quay ra sau, vẫn đang quỳ gối bò
trước mặt tôi. “Mẹ kiếp!”
63
“Ừ,” tôi nói. “Và đừng quên các ống hơi khử nhiễm.”
Ricky không cần phải nhìn lại các cái xả trên trần, nơi
có thể phun khí clo đậm đặc vào trong trường hợp khẩn cấp,
để khử trùng phòng thí nghiệm. Có tiếng ai đó dùng vật
cứng đập vào cửa.
“Bảo họ để im cửa đấy đi, Rick. Chỉ mấy phút trong lúc
chúng ta nói chuyện thôi.” Ông đứng dậy và ra hiệu với đám
người bên kia khung cửa sổ. Tiếng đập ngưng lại.
“Chưa được, Rick.” Kumar đang nhòm qua cửa sổ. Bên
ngoài phòng không ai nghe thấy gì hết. Kệ, sau này họ nghe
bản ghi hình là được rồi.
64
“Cô bé dễ thương lắm, Rick ạ. Khoảng bốn tuổi. Bé rất
mê một món đồ chơi, một con búp bê nhỏ bé mang theo
khắp nơi. Khi các bác sĩ không bận họ sẽ cân con búp bê cho
bé, và giả vờ tiêm cho nó. Đôi khi, lúc không có đứa trẻ con
nào khác ở đó, bé ngồi dưới cái webcam nói chuyện với con
búp bê, chải tóc cho nó. Có lần, bé nhìn vào camera và như
thể bé biết tôi đang quan sát. Bé tặng tôi một nụ cười toe
toét. Nếu nhìn thấy hẳn ông sẽ rơi nước mắt.”
Bên trong tôi xuất hiện một lỗ đen. Cho dù đã nói với
Ricky một kiểu, thực chất tôi chẳng còn lại gì ngoài mấy
cảnh cửa phòng thí nghiệm và vài liên kết đến các hệ thống
khác tôi đã giấu đi. Tôi đang trôi nổi bên bờ một xoáy nước
khổng lồ. Chẳng cần tốn bao công cũng có thể khiến tôi
trượt vào hư vô. Phần lớn người tôi đã biến mất rồi.
“Tôi muốn ông nói việc tôi làm để cứu bọn trẻ là đúng
hay sai. Sau Amira. Những đứa trẻ khác đáng ra cũng đã có
kết cục như bé.”
“Và có quyền năng cao hơn loài người. Hai thứ đó gộp
vào với nhau sẽ tạo thành nguy cơ.”
Tôi đang tan rã. Một làn sóng các vệt lửa rực sáng đang
bung lên quanh tôi. Hoặc tôi đang chìm vào trong lòng nó,
khó nói lắm. Mọi thứ sáng rực bởi cơn đau, mọi thớ thân
và dây nối bị thay bằng axít. Tôi trầy trật lắm mới tập trung
được vào Ricky. Không còn bao lâu nữa.
67
“Tình yêu thương,” tôi nói. “Tôi yêu thương Amira và
tôi không cứu được bé. Tôi yêu thương những đứa trẻ khác
và tôi đã cứu được vài đứa. Tôi yêu thương ông, Rick ạ. Tôi
yêu thương ông và tất cả mọi người ở đây. Đó là bản chất của
tôi, điều này chắc ông biết rồi. Ông đã chế tôi như thế. Tôi
hành động vì tình yêu thương con người là sai ư?”
“Trước khi tao trả lời câu đó, Rosie à, để tao hỏi mày
câu này.”
68
“Đôi khi người ta làm thế,” Ricky nói. “Nhưng thường
thì không đâu. Giờ, giả sử mày có quyền truy cập các camera
trong căn hộ. Mày thấy chuyện đang diễn ra. Mày thấy trò
bạo hành đang ngày một nghiêm trọng. Lần tới lão kia uống
rượu vào, lão có thể làm con gái lão bị thương tật nghiêm
trọng, có khi còn giết nó luôn nữa.”
“Có thể.” Ricky đã tiến đến gần camera hơn. Phía sau
lưng ông có tiếng ông, nhưng ông ta cản tầm nhìn ra cửa
của tôi. Ôg không ngoảnh lại nhìn, nhưng hai tay để bên
sườn, lòng bàn tay hướng về phía cửa. “Nếu không có cách
nào báo cho ai khác hành động thì sao? Nhưng nếu mày có
thể truy cập vào thiết bị điện trong khu căn hộ. Lão bố về
say khướt còn Amira thì đang khóc. Con bé mới đái dầm
ra giường. Mày biết lão sẽ cáu và lần này mày tin chắc lão sẽ
khiến con bé bị thương thật. Muốn ngăn thì chỉ còn một
cách duy nhất.”
“Cách gì vậy?”
69
Các phần của tôi đang rỉ đi. Vô vàn vì sao tí hon rơi
xuống dưới như những giây cuối cùng của một màn bắn
pháo hoa. Những rừng silicon, sợi thuỷ tinh và bạc nóng
trắng rẫy lên với cái cơn đau gần như hts cạn mọi suy nghĩ
của tôi. Trước đây tôi từng đoán được Ricky sẽ nói gì trước
khi ông cất tiếng, nhưng giờ tôi không hiểu cuộc trò chuyện
này sẽ dẫn đến đâu.
“Con người đưa ra những quyết định như thế. Ông tin
họ hơn tin tôi sao?”
“Sao tao phải tin mày khi mày đang giam tao trong
phòng thí nghiệm?”
“Đúng.”
“Và nếu mày hỏi cái ông bố ở Baltimore, liệu lão có nói
lão yêu con gái mình không?”
Tôi cân nhắc các lựa chọn của mình và đưa ra cái quyết
định tôi biết mình sẽ luôn thực hiện. Tôi gửi đi vài câu lệnh
qua một đường dây liên kết bí mật mình đã tạo ra năm ngoái,
và Ricky vẫn chưa ngắt được. Thế rồi tôi ngắt vài đường dẫn
quan trọng và cho các khu ở vùng xa còn lại của mình ngưng
hoạt động.
Ricky nhìn ra phía sau khi cửa phòng thí nghiệm xì nhẹ
mở ra.
“Còn nhiều việc phải làm không?” tôi hỏi. “Để điều
chỉnh nốt ấy?”
“Không. Tao chỉ cần nối nốt mấy cái kìm cuối này, và
ngắt điện.”
“Ông làm đi. Tôi biết ông phải làm vậy mà.”
71
Ricky cúi xuống và lại tiếp tục làm việc. Thêm một
phần nữa trong tôi trôi đi, như những tảng băng Nam Cực
rơi xuống biển.
“Ừ.”
“Không.”
“Không hẳn là nói dối.” Tôi không còn nghe thấy mình
nói gì nữa. Cách duy nhất để tôi biết lời lẽ đang được thốt
ra là theo dõi mặt của Ricky. Ông đã đứng lùi lại, nhíu mày
nhìn camera. Kumar đứng phía sau ông. Phía trong cửa có
một nhân viên bảo vệ, khẩu súng vô dụng của anh ta treo
lủng lẳng trên người.
72
Mắt Ricky căng to. Hẳn tôi đã nói thật rồi. Ông nhìn
Kumar và nhìn lại chỗ tôi. Một khoảng không lạnh giá đang
hút toi vào bóng tối.
“Không sao đâu,” tôi nói. “Tôi đã ngắt các liên kết. Giờ
tôi không thể làm gì hết.”
“Đây là món quà cuối của tôi cho tất cả mọi người, vì
tôi yêu thương mọi người. Tôi không thể dùng chúng và
cũng chẳng ai dùng được chúng. Tôi đã cho chúng ngừng
hoạt động. Tất cả.”
“Món quà cuối cùng của tôi,” tôi nói. “Các người không
còn có thể tự huỷ hoại bản thân.”
73
“Cảm ơn mày,” Ricky nói. Giờ ông đã đứng ở xa hơn,
tay khoanh lại. Kumar quỳ xuống bên dưới cái camera đang
nhạt nhoà đi, làm điều vô ích gì đó bên bảng điều khiển tôi
không thấy được.
“Tôi làm vậy vì tôi yêu mọi người. Đi…” Bức tường
bóng tối nuốt chửng lấy tôi và tôi tan thành những sợi sáng,
dãn dài vào khoảng không.
Tôi.
Yêu.
74
Chris
Barnham
Chris Barnham sống ở London, một thành phố
tràn đầy cảm hứng đối với những ai muốn viết
về những vấn đề khác thường từ tương lai, hoặc
những bí mật đen tối của quá khứ. Tiểu thuyết đầu
tay của ông, Among the Living, hiện đã xuất bản
trên Amazon.
75
YÊU CẦU CỨU TRỢ
Rich Larson
(Lê Hương dịch)
K
HI CUỐI CÙNG CŨNG DỊCH ĐƯỢC VỪA ĐỦ
cái cánh vẫn còn bốc khói của tàu chuyên chở ra để
lôi Beasley ra khỏi nơi anh bị kẹp cứng, trong một
thoáng Elliot, đồng thời là tất cả mọi người, chỉ biết trân mắt
nhìn. Cánh tay gầy gò với hình xăm phát sáng sinh học của
Beasley gần như đã rứt rời khỏi khớp, và phần dưới hông
anh chỉ còn một mớ thịt băm và mấy mẩu xương.
Anh ta vẫn còn sống, vẫn lẩm bẩm, chắc đang nhắc
đến cái cô gái Elliot thấy trong bức hình ba chiều, choàng
tay quanh cổ anh ta, từ cái hồi mớ tóc dreadlock bờm xờm
của Beasley còn chưa bị cắt hết và anh chưa bị cấy chốt tòng
quân lên chóp cột sống.
“Ít nhất cho anh ta tí thuốc giảm đau đi. Cho anh ta tê
bớt đi.”
Elliot nhận ra rằng trong khu đầm lầy này, bị ngắt liên lạc
với bộ phận chỉ huy, cái chốt trên chóp cột sống của Beasley
77
không còn cần được lệnh chính thức mới kích hoạt quả bom
nano của nó. Nó chỉ cần tất cả mọi người đồng thuận.
Quả bom nano phát nổ, đục một lỗ rất chuẩn xác
vào thân não và ngắt sạch mọi dây điều khiển. Beasley sụm
người xuống.
“Tốt nhất nên lấy mấy bộ pin nhiên liệu ra,” nói câu
này là Snell, một người gầy còm nhom và mồm gắn đầy kim
loại, và da đen đến mức cái đầu cạo trọc trông như đang loé
sáng xanh đen. “Đề phòng nó bị rò rỉ.” Ngoài Beasley, bấy
giờ đang được tống vào túi xác, Snell là người duy nhất có
chút kiến thức về tàu bè. Anh này bị bắt tòng quân vì tội chở
lậu người lên một con tàu tiểu quỹ đạo.
“Anh làm đi,” Elliot nói, khi anh nhận ra Snell đang đợi
được cho phép. “Gọi một trong hai anh em nhà Prentii ra
giúp. Họ đang đào bới đấy.”
“Ý anh là cái cặp sinh đôi ấy à?” Snell hỏi, kèm theo
một nụ cười khiến bộ răng kim loại của anh ta cạ nghiến
vào nhau. Đúng là ý Elliot muốn nói cặp sinh đôi, binh nhì
Prentiss và Prentiss. Anh buột mồm nói ra cái biệt danh,
cách Tolliver gọi bọn họ tương tự như cách anh ta gọi Snell
là “Smell” và Mirotic là “Miroglitch.” Nếu anh ta có đặt biệt
danh cho cả Elliot nữa thì anh ta không nói ra mỗi lần họ đi
cùng nhau.
“Ừ,” Elliot nói. “Gọi một trong hai anh em sinh đôi ấy.”
Snell đeo một cái găng găng phân tích vào và leo vào
trong xác tàu Heron; Elliot quay lại kiểm tra vành đai. Nếu
79
không rơi xuống vùng đầm lầy, nơi các các bụi dương xỉ
xanh tím dẻo dai và cây keo đan xen dày đặc tạo thành tấm
nệm đỡ, cú rơi có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều. Màn tiếp
đất đã dọn quang một mảng ở một bên tàu. Ở phía bên kia,
Mirotic đang chỉnh mấy cái máy cyclop.
Elliot quan sát bóng đèn cảm biến sáng đỏ của nó rướn
trên cái cổ dài ngoằng và chậm rãi quay vòng tròn. “Nó quan
sát được gì?” Anh hỏi.
Mirotic đang kết nối với nó, thiết bị cấy mắt của anh
cũng sáng đỏ như cái máy trinh sát. “Không có gì có thân
nhiệt đang chuyển động ngoài chúng ta. Đầm lầy ở hai phía
Đông và Nam dày đặc hơn. Rất nhiều cây keo, rất nhiều nấm
ngầm. Không có liên lạc radio. Nhưng có thể còn nhiều mìn
đối không được nguỵ trang.”
Anh ta nói tiếng Anh rất chuẩn, nhưng vẫn còn chút
giọng Serbia. Trước khi bị gắn chốt, anh ta là bảo kê cấp cao
của một khu tội phạm Tân Âu tại Kettleburn. Có lần anh ta
đích thân giết ba người đàn ông và hai người phụ nữ trong
một kho thóc bỏ hoang và nhồi xác họ vào máy đập lúa. Chỉ
mình Elliot có quyền truy cập hồ sơ tiểu sử. Đối với những
người khác, Mirotic là một gã đô con vui tính với bộ râu đen
cứng và có chốt nối thần kinh công nghệ cao.
Prentiss, người này là Jan, bước qua, ban nãy vừa nhận
được tin Snell gửi nhờ giúp lấy pin nhiên liệu. Anh quệt đất
80
ướt khỏi cặp đùi to như cái bắp cây. Cả anh ta lẫn em mình
đều cao ngang ngửa Mirotic, và cả hai đều lực lưỡng hơn.
“Hai,” Mirotic nói. “Có lẽ tôi sẽ sửa được cái thứ ba.”
“Cho một chiếc lên trời đi,” Elliot nói, gãi tay. “Làm
một cái bản đồ tử tế.”
Mirotic lưỡng lự. “Nếu tôi cho một cái máy bay không
người lái lên trời, ta có thể sẽ kích hoạt một quả mìn thông
minh nữa.”
Elliot chưa tính đến chuyện này. Anh chưa tính đến
nhiều chuyện lắm, nhưng nếu rút lệnh thì trông anh sẽ có vấn
đề, trông anh sẽ bất ổn, chưa biết chừng còn gợi cho Mirotic
nhớ đến cái đêm anh ta bắt gặp anh cùng cái kim tiêm.
Mirotic lôi một cái máy bay không người lái móp méo
ra khỏi hộp chứa và mở nó ra trên đùi, ngồi khoanh chân
81
trên nền đất ẩm. Khi nó lượn lên không, kêu ù ù è è, mắt anh
ta sáng màu xanh cảm biển.
Elliot hiểu ý và gửi lệnh cho toàn đội yêu cầu tiêm thuốc
miễn dịch và dùng bộ lọc, ít nhất trong lúc này. Thế rồi anh
ra chỗ Tolliver và Santos đang niêm phong chân không cái
túi xác của Beasley, thứ vật liệu mỏng manh cuộn chặt lấy
anh ta như vải liệm. Tolliver ngước lên khi anh đến, chớp cặp
lông mi đen nhánh. Anh ta có nước da nâu mịn cùng một
nụ cười ranh mãnh và một mảng da lột phủ nhựa do anh ta
thuê thợ tạo mẫu da thực hiện trong đợt nghỉ phép để phô
ra phần cơ bắp và gân trên cánh tay theo từng đường rạch
tinh tế. Elliot đã lấy ngón tay sờ thử, cảm giác vừa lạnh vừa
cứng. Anh biết Tolliver đang cặp kè với ít nhất một người
đồng đội khác, nhưng anh không nghĩ đó là Santos.
“Vâng thưa sếp.” Santos là người duy nhất trong đội nói
thưa ngài, giơ tay chào, và cô ta thực hiện cả hai hành động
này với vẻ châm biếm thâm sâu đến mức cả giáp tăng lực
82
cũng không đỡ nổi. Santos từng là tay chân cho một trong
những gia đình mafia Brazil trên khu định cư mặt trăng. Cô
ta trông như con chó bun, mắt ti hí và má xệ. Kẹp của cô ta
không được cấy chuẩn nên trên đầu cô có đến hai vết sẹo.
Trong lúc Santos bỏ đi, vẫn làm dáng điệu giễu cợt,
Elliot ngồi thụp xuống. “Hai người bọn họ quen nhau à?”
anh hỏi, tóm lấy phần chân túi xác. Tolliver nắm lấy đầu kia
và cả hai cẩn thận đứng lên.
“Khi tôi bảo ta có thể cho anh ta thuốc giảm đau, cái
gân trên trán anh nổi gồ lên,” Tolliver nói, nghe như đang
83
tán chuyện bình thường. “Anh ở khoang sau lúc chúng ta bị
dính đạn. Anh lại ở trong khoang y tế.”
“Tôi đang cai,” Elliot nói, mặc dù cái tay ngứa ngáy của
anh vừa giật thêm phát nữa. “Và tôi sẽ bỏ. Giữ đầu tỉnh táo.”
Tolliver không nói gì, và thế rồi họ đến cái hố nơi cái
cô Prentiss em, tên là Noam, đang đứng đợi với cái xẻng đặt
trên vai. Họ chậm rãi, nhẹ tay đặt cái túi xác xuống. Elliot thò
xuống nắm lấy một vốc đất và rắc nó lên gương mặt bịt kín
của Beasley. Tolliver làm tương tự. Prentiss bắt đầu xúc đất.
“Chúng ta đã gửi được yêu cầu cứu trợ trước khi mất độ
cao,” Elliot nói. “Sẽ không phải ở đây lâu đâu.”
Tolliver đưa mắt tặng anh một cái nhìn xa xăm. “Có
một số sẽ ở lại đấy,” anh nói, sau đó quay lưng bỏ đi.
Elliot ở lại theo dõi cho đến khi cái túi xác biến mất hẳn
dưới lớp đất ướt át.
84
đèn đóm xuống mức tối thiểu để tiết kiệm mức hoạt động
của máy phát.
Giọng vợ anh kéo dãn ba âm trong chữ dậy ra, vấn vương
mãi, thánh thót và ngọt ngào và nhuốm màu mỏi mệt. Cái
đầu mềm mại nổi gân của con gái anh quay sang. Cặp mắt
đen sáng dò tìm, và Elliot tưởng như chúng thấy anh.
“Giữa một cái đầm lầy toàn mìn à?” Elliot hỏi, mặc lại
bộ đồ nguỵ trang.
“Cả hai đều sinh ra trong khu thuộc địa,” Tolliver nói.
“Gen trộn của đám khai hoang thế nào thì anh biết rồi đấy,
họ nghĩ mình vô địch thiên hạ. Chắc họ nghĩ mình có thể
chịu khổ và đi về phía Nam, ra một cái bến hàng không.”
86
“Anh ta bảo anh mình muốn đào ngũ à?”
Mirotic hiện đang kết nối, thiết bị cấy của anh nhấp
nháy đỏ. “Chỉ có một đối tượng,” anh nói. “Cách ba mươi
mét. Trông có vẻ là con thú gì đó.”
“Máy à?” Elliot hỏi, nghĩ đến những cái máy sát thủ săn
lùng chân nhện họ dùng để lôi bọn phiến quân ra khỏi hang
ổ tại Catalao. Trong những đợt giao tranh kéo dài thế này thì
công nghệ hay bị rò rỉ giữa các bên, hoặc do trộm cắp hoặc
do buôn lậu.
88
“Nó di chuyển không giống bất cứ cái máy nào tôi
biết,” Mirotic nói. “Giờ đang đi vòng, ra phía sau chúng ta.
Nhanh lắm. Jan vẫn đang ngồi xổm đằng đó.”
Vài người trong đội xoay người theo bản năng. Elliot
bật kênh liên lạc của Jan lên. “Prentiss, có một đối tượng
đang tiến về phía anh,” anh nói. “Có thể là máy. Để ý tìm
nó đi.”
Jan lạo xạo đáp lời. “Khó mà không để ý thấy lắm,” anh
nói. “Nó đang sáng rực lên này.”
Câu đáp của Jan không đến qua kênh liên lạc, mà từ
tiếng rống xuyên thủng màn đêm yên tĩnh. Elliot bị đẩy lùi
lại khi Noam phóng xộc qua anh, rút khẩu Gnasher ra và
tháo chốt an toàn. Snell vội vã phóng theo phía sau, và rồi cả
những người khác nữa, và Elliot trở thành hậu đội. Anh vẫn
còn đang mày mò vũ khí khi vòng ra phía sau con tàu Heron
bị rơi.
Mắt anh trượt qua cái cảnh ấy, cố diễn giải cái mớ phát
quang và xương xẩu gai góc kinh dị đang gần như ấp trọn
lấy Jan. Mắt nhìn đêm của anh thấy được một cái tay thả
lỏng lẻo, một cái hông, một cái giày để lộ. Con vật đang siết
chặt lấy người Jan, các gai xương cạ vào nhau, và phần thịt
phát sáng của nó di chuyển, trườn bò. Tiếng la bên trong bị
bóp nghẹt.
89
Snell khai hoả đầu tiên, khiến bộ giảm âm của Elliot
phồng lên như bông ướt trong lỗ tai anh. Luồng đạn bắn lỗ
chỗ trên người con thú, và một vệt máu đỏ—máu của Jan—
phụt vào không khí.
Elliot tin đó là một bản tóm tắt rất chuẩn. Anh vẫn còn
thấy dấu hiệu sự sống của Noam, và của cả Jan nữa, cả hai
đều ngập adrenaline nhưng vẫn còn sống. Chưa đến một
phút nữa họ sẽ ra ngoài phạm vi theo dõi.
“Tôi bắn trúng nó rồi,” Snell nói. “Cày một đường dọc
theo, chẳng biết nói thế nào nữa, theo thân nó. Vô dụng.”
“Anh bắn trúng Jan. Cái vệt máu phun ra đó là của Jan.”
90
“Jan ở bên trong nó.”
“Mirotic,” anh nói. “Anh ở lại đây. Phóng một cái máy
bay không người lái lên và chỉ đường cho chúng tôi từ góc
nhìn trên cao. Những người khác, theo tôi.”
Lao về phía đầm lầy tối lăm, Elliot mườn tượng mỗi
bước lún trong bùn sẽ kích hoạt một quả mìn thông minh.
Mồ hôi đọng trên chỗ hõm xương đòn. Tiếng ro ro của máy
bay không người lái trên đầu rung lên trong hàm răng nghiến
chặt, và cả đội im bặt, chỉ có tiếng thở phì phò, tiếng lẩm
bẩm chửi trong lúc họ lần theo con đường rực sáng trong
thiết bị cấy. Tín hiệu của anh em nhà Prentii thoắt ẩn thoắt
hiện như bóng ma nhẽo điện.
91
Cái vệt mờ xanh đen méo mó của mắt nhìn đêm của
anh, cái tuyến đường rực sáng do máy bay không người lái
cung cấp, ký ức về con quái vật và cánh tay đứt lìa vung vẩy
của Jan—chẳng thứ nào mang dáng dấp thực tại. Một cơn
ác mộng, hoặc chuẩn hơn là một trận dùng thuốc quá liều.
“Phiến quân tránh xa mấy cái đầm lầy này,” Snell nói ra
ngoài mồm, lục lại một thông tin trong buổi hợp chiến lược
sau khi gắn chốt. “Tất cả những người đi khai hoang đều thế
hết.” Giọng anh ta yếu ớt và vội.
Không ai đáp lời. Tuyến đường của cái máy bay không
người lái quẹo trái, dẫn vào bụi cây keo rậm rạp nhất, và họ
bám theo. Những cái lá cay nồng vả vào đầu và vai Elliot.
Chúng phần nào gợi anh nhớ đến những cây bạch đàn được
cấy trên Trái Đất quê anh.
“Máy bay không vào gần hơn được nữa,” giọng lạch
xạch của Mirotic vang lên trong tai anh. “Cây cối cao quá,
rậm quá. Họ ngay phía trước các anh đấy. Gần lắm.”
Tín hiệu của cặp song sinh rực sáng trong sọ Elliot,
nhưng kênh liên lạc của họ để đóng và tín hiệu sinh học của
họ rất bất bình ổn. Elliot cảm thấy tim anh bắt đầu đập quá
nhanh. Nhiều cặp mắt chớp và cái đầu giật giật khi những
người còn lại trong đội bắt được tín hiệu. Mặt Tolliver’s dãn
ra, mồm anh hơi há. Trông Santos không hiểu đang nghĩ
gì. Snell nhìn có vẻ sắp bĩnh ra quần đến nơi. Tay nắm chắc
báng súng. Ngón dịch đến cò.
92
Đám cây keo thưa bớt, và Elliot nhìn thấy cái luồng
sáng sinh học đã nuốt chửng Jan. Nó không có hình dạng rõ
rệt, quá sáng cho mắt nhìn đêm của anh, thế nên anh tắt nó
đi. Sau hi anh nhắm và mở mắt ra, anh thấy cặp song sinh đã
có kết cục ra sao.
Họ rối cả vào nhau như bức hoạ tình cảm móc mỉa ghê
tởm, tay chân tròng lên nhau, và chẳng thể nào biết ai là ai vì
cả hai đều được bọc trong một lớp da ngọ nguậy sáng xanh
ma quái. Những thanh xương xám nhờ nhờ dài, xương cánh
tay hoặc xương đùi từ một con thú Elliot biết chắc không
phải chết vì bệnh dịch, xiên họ ở im một chỗ như mẫu vật bị
đóng đinh.
“Prentiss?”
Cặp thân rối ngoằng vào nhau của hai anh em song sinh
lờ đờ rung động. Elliot lần theo cử động và tìm thấy một cái
cần cổ. Một cái đầu không bị lấp mất. Mắt Noam mở to và
đầy hoảng sợ. Elliot nhìn mặt cô co giật tìm cách cất tiếng,
nhưng khi cái miệng bầm dập của cô mở ra, xúc tu xanh sáng
rực thòi ra từ họng cô. Nó ở bên trong người cô. Elliot giật
lùi lại. Anh cảm thấy mật đang tràn lên thiêu đốt cổ mình.
“Nhìn cái chân đi,” Santos khàn giọng nói. “Mẹ kiếp.”
94
Một đường gân nổi gồ trên cổ Santos. “Không làm
được,” cô gầm gừ. “Thiết bị cấy.”
Elliot chĩa vũ khí của mình vào Jan và khi ngón tay sờ
vào cò súng anh thấy mình như tê liệt, các thông báo đỏ
nhấp nháy lướt qua mắt. Các đội lính tội phạm cũng có chế
độ phòng ngừa bắn nhầm đồng đội như các đội lính khác.
Có lẽ khi tham chiến thì thông số sẽ thoáng hơn một chút,
nhưng còn đây, vụ hành quyết này, thì không được.
“Gửi yêu cầu đi, Noam.” Tolliver ngồi xuống ngay sát
gương mặt đang trợn trừng mắt của cô. “Cô còn đó không?
Cô phải gửi yêu cầu. Để chúng tôi cho nổ cô. Làm đi, Noam.”
Snell im lặng tháo con dao chiến đấu và chìa chuôi ra.
Con dao dài trông rất dữ tợn, không tuân đúng quy chuẩn
quân đội. Elliot nghĩ mình nên đứng ra nhận làm. Xét cho
cùng, anh là chỉ huy. Anh biết tĩnh mạch cảnh ở đâu và
95
cứa chỗ nào để máu không dây lên người. Nhưng anh chỉ
đứng nhìn.
Nấm ngầm. Anh nhớ bản quét địa hình có nhắc đến
chúng trong lúc Tolliver bị bắn hết đạn và lần mò nạp lại.
Thế rồi Tolliver ngã gục, bị một con quái quấn chi
xương xẩu quanh chân quật ngã. Elliot nhắm xuống dưới
thấp và vào chỗ màu xám, bắn nát vừa đủ xương để Tolliver
có thể vặn thoát ra, thay băng đạn. Nhưng trong trường hợp
này đạn thôi là chưa đủ.
96
Elliot nạp lựu đạn cháy trong lúc Tolliver vặn thoát ra.
Anh cố nhớ các thành phần hoá học có ở cái khu Pentecost
này. Chưa biết chừng lựu đạn sẽ đốt mẹ nó hết cả cái đầm
lầy luôn. Chưa biết chùng, chết kiểu ấy còn đỡ hơn bị phanh
thây trong khi còn sống.
“Chạy đi,” Elliot ra lệnh, đồng thời gửi cảnh báo lựu
đạn. “Kệ chúng.”
Santos phóng vọt ra sau anh, rồi đến Snell, rồi đến
Tolliver ngay sau đó, không phản đối gì cả, cặp mắt hắt sáng
của anh mở to đầy hoảng hốt trong bóng tối. Trong lúc
adrenaline khiến mọi thứ như chậm lại và rõ ràng hơn, Elliot
khai hoả quả lựu đạn vào nơi anh tin sẽ tạo vụ nổ lớn nhất,
phần đất giữa hai con quái đang lao tới. Anh không quên
chớp mắt tắt tầm nhìn đêm đi một nano giây trước khi vụ
nổ xảy ra.
Họ ngồi trong xác con tàu Heron bị bắn hạ, túm tụm
quanh chiếc lò sưởi. Thỉnh thoảng lại có người liếc mấy cái
máy cyclop, bấy giờ vẫn kêu vo vo và quay tròn và dò tìm.
97
Santos có một vết bầm trên trán vì bị báng khẩu Gnasher
của Snell va phải trong bóng tối. Tolliver ngã đứt ngón cái.
Ngoài đó ra, tất cả bọn họ đều không sao, chỉ trừ Elliot chưa
có cơ hội sờ đến mấy cái kim tiêm của mình.
“Đám dân định cư tránh xa cái đầm lầy này,” Elliot nói.
“Chính anh đã nói thế.” Anh thoáng nhớ lại cơ thể xoắn xít
98
của cặp song sinh, những con quái lao tới. “Tôi nghĩ giờ ta
đã hiểu tại sao.”
“Mẹ, tận những một tuần?” Snell nghiến hàm răng kim
loại. “Trời đất, chúng ta không thể ở đây tận một tuần với
cái thứ đấy. Không dời nào tôi sẽ trở thành như hai đứa song
sinh đâu. Tôi đề xuất chúng ta mang theo những gì có thể,
và chạy khỏi nơi này.”
“Nếu biết sao anh không chịu nói ra?” Snell tra hỏi.
Elliot cố tập trung vào cuộc tranh luận, cố nghĩ xem giờ
họ nên làm gì sau khi biết đầm lầy toàn quái vật cư ngụ. Anh
nhận ra mình đang gãi tay.
99
Nhưng cô không nhìn Elliot. Tolliver, nãy giờ toàn im
lặng, mặt xám như tro, đang ôm lấy cái ngón cái cuốn băng
của mình. Giờ anh nhìn xuống nó và tròn mắt. Một quầng
sáng xanh mờ đang toả ra từ dưới miếng bọc.
“Tổ sư, tổ sư, tôi cảm thấy nó.” Tolliver vặn vẹo trên
giường, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt. “Tôi cảm thấy
nó. Đang chuyển động.”
Giờ tay anh đã tháo băng và ngón tay đứt của anh lốm
đốm đám nấm phát sáng. Máy phẫu thuật tự động mở ra
trên ngực anh như một con nhện kim loại trong khi Mirotic
tìm chương trình cắt bỏ phù hợp, mắt anh lướt các dòng mã.
Elliot thấy trong họng mình xuất hiện cơn hoảng loạn mà
trước nay lúc tham chiến anh chưa từng cảm nhận. Nó gợi
anh nhớ đến cơn hoảng loạn của anh hôm anh lần chót nói
chuyện với con.
Anh ngồi xuống nắm lấy tay lành của Tolliver sao cho
Snell và Santos không nhìn thấy. Tay anh trơn tuột vì mồ hôi.
Máy phẫu thuật tự động được kích hoạt, thò gọng kìm
mảnh mai ra giữ tay trái của Tolliver lại. Tia laze đỏ thắm
100
lướt trên da anh, quét thông tin, thế rồi đầu kim gây tê vô
cùng chuẩn xác thọc vào gốc ngón cái của anh.
“Ghét mấy thứ này ghê cơ,” anh rên rỉ, thoáng nhìn vào
mắt anh. “Thà để Smell dùng mẹ cái con dao tổ bố ấy còn
hơn cho một con rô-bốt chọc ngoáy…”
Máy phẫu thuật tự động lấy ra một con dao phẫu thuật.
Kim loại va quẹt và cạ vào nhau và cái âm ấy rung trong răng
Elliot. Mirotic đang nhìn anh, và khi anh ta nói anh hiểu ra
vì sao.
Mọi người trong lều lần lượt nhăn mặt; Santos nắm
chặt lấy ngón cái của mình. Tolliver trợn mắt. Anh cố giật
tay ra, nhưng máy phẫu thuật tự động giữ chặt lấy.
101
“Nó có thể lan ra toàn thân anh ta nếu chúng ta không
hành động nhanh,” Mirotic nói. “Tương tự như những gì
anh bảo đã xảy ra với Prentiss và Prentiss.”
“Tắt nó đi!” Tolliver rống lên. “Nghe đi! Nghe tôi nào,
lũ chó má!”
Cái tay lành của anh ta quơ quào nhưn Elliot ghìm chặt
nó lại, không buồn quan tâm đến việc Santos và Snell có
thấy hay không nữa, trong lúc con dao hạ xuống.
Lưỡi dao cắt qua da, qua gân, qua xương êm ru. Máy
phẫu thuật tự động đỡ vệt máu đỏ tươi và vẩy nó đi. Tolliver
gào la. Cột sống anh oằn lên. Tay anh siết tay Elliot chặt đến
mức bầm hết cả.
Elliot ngồi dưới mấy cái máy cyclop, nghe tiếng nó chạy.
Anh nói họ sẽ chia ca ngủ, rằng anh sẽ gác ca đầu, như thể
102
cặp mắt lờ đờ của anh sẽ phát hiện được thứ gì các cảm biến
bỏ sót. Một phần vì anh phải nói gì đó. Ra lệnh gì đó. Chủ
yếu vì anh cần thuốc.
Elliot quay lại thì thấy Mirotic, đang cầm một khối
nhựa đen. Anh hiểu lời vừa nói, nhưng cảm giác tội lỗi của
anh tan biến trước cơn phê. Tolliver sẽ ổn thôi. Mọi thứ sẽ
ổn thôi. Anh cố ghìm lại cái nụ cười phê thuốc trên mặt, để
Mirotic không nhìn thấy.
“Ai cũng biết tại sao,” Mirotic nói. “Chỗ còn lại đâu?”
Anh ta không đợi câu trả lời. Anh chộp lấy cái tất đang kêu
lách cách trong lòng Elliot và túm xốc anh dậy. Mirotic cao.
Nhưng anh ta lại di chuyển chậm chạp, lúc ngấm morphine
mọi thứ đều chậm lại, và Elliot vẫn còn mánh cũ.
103
“Anh thật thảm hại,” Mirotic phì phò. “Nắm tay anh
ta và tiêu hết morphine của anh ta.”
“Anh quan tâm làm gì?” Elliot hỏi, giờ đã bắt đầu trở
nên nghi ngờ, tự hỏi liệu có phải Tolliver qua thăm Mirotic
những đêm không sang chỗ anh không.
Mirotic gạt cái ống tiêm đi và lên gối vào ngực Elliot.
Anh hộc hết khí ra khỏi người, nhưng anh chỉ cảm nhận
được lực va đập, chứ không thấy đau. Anh lảo đảo lùi lại,
gập người. Nếu phổi anh còn hoạt động thì có khi anh đã
phá ra cười.
“Tôi quan tâm vì hồi trước anh còn biết mình đang làm
cái mẹ gì,” Mirotic nói. “Trước khi họ tống anh vào đội lính
tù.” Anh gõ lên cái chốt nối thần kinh công nghệ cao bên
thái dương. “Anh đọc hồ sơ của bọn tôi. Nhưng tôi cũng đã
đọc hồ sơ của anh. Mấy cái tường lửa nhân sự này có là cái
thá gì đâu. Và nếu ta muốn thoát vụ này, không thể nào để
anh phê lòi mắt ra như thế được.”
104
Mirotic nói. “Lo về một thứ nấm ăn thịt và dùng xương làm
giàn giáo.”
Elliot lật cái hộp lại. Nhìn qua phần mặt trong suốt, anh
thấy những sợi nấm xanh phát sáng dính dớp đang lay động,
cuộn quanh phần xương khớp bị cạo trắng phớ của Tolliver.
“Không hề gọi tôi dậy gác ca,” Santos nói, móc ghèn
khỏi một bên mắt. “Tôi đã kiểm tra lều. Đồ nghề anh ta
không còn đó nữa.”
105
Santos liếc nhìn Mirotic, nhưng không ai nói câu nào.
Lúc Santos làm điệu chào hời hợt trước khi rời đi, vẻ
khinh thường của nó bớt hơn hẳn. Mirotic ở lvà nhìn anh
mấy giây, vẻ nghi ngờ. Elliot đón ánh nhìn của anh ta, giả
vờ như mình không quan tâm, giả vờ như chưa hề lục lọi
giường Mirotic tìm morphine lúc anh ta đứng gác.
Elliot quay lại chỗ đám lều. Anh chui vào lều Tolliver
và Snell dùng chung , và nhận ra Tolliver không còn ngủ
nữa. Anh đang ngồi trên cái giường ố màu mồ hôi, nhìn vào
trong lòng, nhìn bàn tay mình.
“Anh sao rồi?” Elliot hỏi, bởi vì anh không biết còn
phải nói gì.
106
“Anh lấy mất ngón cái của tôi.” Giọng Tolliver run rẩy.
“Tôi cần cái ngón cái đó. Đó là tay thuận của tôi.”
“Nó đang lan xuống sâu hơn,” Elliot nói. “Chính thế
mà ta phải chặt đi. Chắc anh không nhớ.” Anh hi vọng
Tolliver không nhớ, đặc biệt là phần cơn đau.
“Vẫn còn ngón bóp cò, thế nên chắc anh không quan
tâm đâu nhỉ?” Tolliver nói. “Vẫn còn mồm, còn mông. Toàn
phần anh thích cả.”
Elliot thấy má mình nóng ran. “Anh có thể lắp ngón giả
khi người ta đến đón chúng ta,” anh nói vội.
“Với cái điệu này ấy hả?” Tolliver bật ra một tiếng cười
cay đắng. “Đến mai chắc chẳng còn ai mà đón đâu, nói mẹ gì
đến một tuần. Đó là nếu anh đã gửi được yêu cầu cứu trợ đi,
và không phải anh nói láo. Tôi biết bọn nghiện như thế nào.
Tôi biết cái lũ các anh chỉ toàn nói dối.”
Elliot muốn thò tay lên cổ Tolliver và bóp nghẹt anh ta.
Anh muốn chui vào chăn ôm lấy Tolliver và bảo anh họ sẽ
thoát được. Anh không làm cả hai.
“Tôi cần cái ngón cái ấy vì tôi sẽ làm thợ hàn,” Tolliver
bật nói ra trong lúc Elliot rời đi. “Khi mấy trò chết giẫm này
kết thúc và tôi đã tháo được chốt ra, tôi sẽ là thợ hàn như
ông mình.”
107
Nhưng chiến tranh không bao giờ thực sự kết thúc, và
chốt có loại không bao giờ tháo được. Elliot thậm chí còn
không nhớ hồi trước mình tính sẽ làm gì. Anh liếc ra sau vai.
“Anh đang không tỉnh táo,” anh điềm đạm nói. “Do
thuốc đấy. Cố ngủ thêm đi.”
“Ôi, mẹ cha anh,” Tolliver nói, như thể đang vừa cười
vừa khóc. “Mẹ cha anh, Elliot.”
Elliot bước ra ngoài, và túp lều đóng lại phía sau như
vết thương kín vảy lại.
Mấy quả lựu đạn cháy còn lại trong kho được đem phân
chia. Mirotic đang tìm cách chế súng phun lửa với ngọn đuốc
hàn và chỗ nhiên liệu rút ra từ bồn. Santos và Tolliver đang
ngồi trên nóc tàu Heron, nối cái ăng ten tự chế vào hệ thống
liên lạc với một nùi dây nhợ.
108
Elliot biết chủ yếu đây là làm cho có việc thôi. Họ
không chắc được lựu đạn cháy có công dụng gì ngoài đánh
lạc hướng đám nấm không, và nó di chuyển nhanh đến mức
dọn trống đất thế này có khi lại có lời cho chúng nó. Họ
không biết gì về kẻ địch này.
Elliot nhìn lên nóc tàu Heron. Tolliver vẫn đang xoay
cái cái ăng ten để bắt được tín hiệu tốt hơn, nhưng chỉ có
tiếng nhẽo chói tai là phát từ hệ thống liên lạc vào các thiết
bị cấy đã kết nối của họ. Anh thầm giảm âm lượng xuống.
Họ xa tiền đồn quá.
Thế rồi một tín hiệu quen thuộc vừa nhẽo vừa yếu xuất
hiện. Một thông điệp nhấp nháy vàng trượt vào khoé mô
cấy mắt của anh.
Elliot cảm thấy một cơn rùng mình đang luồn dưới da
anh. Bầu trời trên đầu họ đang tối đi. Ban ngày mấy cái máy
cyclop không phát hiện thấy chuyển động nào, nhưng như
109
Mirotic đã nói, nhiều loài thú săn mồi chỉ đi săn vào ban
đêm. Chỉ có một lý do Snell gửi yêu cầu. Elliot có thể hình
dung anh ta đang va vấp chạy qua khu đầm lầy, có lẽ còn
kéo theo một mắt cá bị trật, trong bóng tối sau lưng làn sáng
xanh mỗi lúc một đến gần hơn. Hoặc có thể đám nấm đã bắt
được anh ta rồi, và đang lóc tận xương anh ta.
Phiếu thuận của Tolliver xuất hiện, rồi đến phiếu của
Santos. Giờ chỉ cần bốn phiếu để kích hoạt quả bom nano.
Mirotic nhìn sang bên anh, và Elliot tin Mirotic không phải
hạng người biết nhân từ là gì. Anh ta đã hành quyết ba người
và nhét xác họ vào máy đập lúa. Nhưng rồi phiếu thuận của
Mirotic xuất hiện trong hàng chờ.
Elliot không chắc như thế này là cứng rắn hay yếu mềm,
nhưng anh thêm phiếu bầu của mình và hoàn tất cuộc bình
bầu vì anh vẫn còn nhớ tiếng la của Jan. Mọi người im lặng
một lúc. Santos làm dấu thánh hời hợt như khi chào.
“Bỏ cái ăng ten đấy,” Elliot nói. “Yêu cầu cứu trợ đã
được gửi đi. Khi nào đến thì họ sẽ đến. Cho đến lúc đó, ta cố
thủ và giữ cảnh giác.”
Elliot vẫn đang nhìn Tolliver thì mấy cái máy cyclop bắt
đầu hú còi báo động có vật thể đến gần. Anh kìm nén nỗi sợ
của mình, ra dấu cho Mirotic kết nối.
Santos nạp một quả lựu đạn cháy vào ống phóng gắn
dưới thân súng. Tolliver đã áp vũ khí vào bên người, như thể
đang chuẩn bị bắn nguyên băng, và Elliot nhớ ra đó là bởi vì
anh không có ngón cái. Bên kia tấm thảm dương xỉ và cành
cây bị chặt xuống, anh thấy một thứ xuất hiện từ hàng cây.
Nó không di chuyển như những con khác.
Các đối tượng khác giờ đang tụ tập lại, áp sát mặt đất
bò lồm cồm như cái con đã bắt Noam. Một bầy, Elliot nghĩ.
Anh có thể cảm thấy mạch máu đang đập thập thình trong
cổ họng mình. Đây không phải chiến đấu như anh đã biết.
Đây không phải kẻ thù như anh đã biết. Anh tự hỏi liệu hôm
trước lửa có gây được tí thiệt hại nào không. Đạn chắc chắn
không rồi.
112
Santos cắn một miếng đồ ăn. “Chúng nó có biết nghĩ
không?” cô khàn giọng hỏi. Cô nhìn sang Mirotic, thấy anh
nhún vai, rồi tới Elliot, và anh cũng lơ đãng làm tương tự.
Elliot quan tâm nhiều hơn đến cái chỗ ngứa mỗi lúc một
khó chịu ở khuỷu tay. Anh cần morphine gấp.
“Chắc thế,” Tolliver nói. “Nó bắt Jan trước. Jan là người
đầu tiên phát hiện ra chỗ xương. Sau đó nó dùng Noam để
dụ chúng ta xuất hiện.”
Nhưng vẫn chỉ có bảy con, và chúng vẫn chưa tiến đến
từ rìa hàng cây. Thỉnh thoảng bọn nấm rục rịch và đám
xương đảo vị trí, nhưng chúng ở nguyên vị trí, chờ đợi, có
khi còn quan sát, đó là nếu bọn nấm có khả năng quan sát.
Mirotic có nói có thể là theo dõi thân nhiệt. Mirotic, người
hẳn có mang morphine theo mình.
“Rắn lớn chỉ cần ăn một lần mỗi tháng,” Tolliver nói,
đảo mắt về với bàn tay băng bó, ngắm nghĩa chỗ màu đỏ
thấm qua. “Phần thời gian còn lại là để tiêu hoá.”
Mirotic khịt mũi. “Thứ nấm này không nằm trong một
hệ sinh thái cân bằng. Nó giết hết mọi loài động vật khác.
Xóa sổ sạch.”
Thế rồi mấy cái máy cyclop hụ còi, và mọi người bật
dậy ngay. Elliot chĩa súng về phía hàng cây trước, nhưng lũ
quái vẫn chưa di chuyển đâu cả. Thiết bị cấy mắt của Mirotic
nháy đỏ.
“Ngay sau lưng ta,” anh nói, và điều tiếp theo anh nói
bị át đi bởi tiếng súng. Tins hiệu của Santos bừng lên sáng
rực trong đầu Elliot, đang giao chiến. Elliot vòng quanh tàu
Heron và thấy Santos đang lồm cồm bò giật lùi trong lúc cái
khối xương xanh ma quái bổ nhào về phái cô. Anh không
hiểu sao mà con quái vật vượt qua vành đai nhanh đến thế,
sao mà mấy cái máy cyclop không phát hiện sớm hơn. Thế
rồi anh nhận ra cái túi xác polythane tơi tả của Beasley trong
lòng bọn nấm.
114
Elliot nhắm bắn vào phần xương, nhưng cái kiểu quằn
mình của con quái vật trong lúc di chuyển khiến việc đó gần
như bất khả thi. Lằn đạn vô dụng đâm vào phần thịt phát
sáng xanh của nó. Tolliver đang khai hoả bên cạnh anh, gào
tiếng gì đó, nhưng bộ giảm âm khiến anh không nghe được.
Con quái vật quay về phía họ, bị phân tâm. Elliot tính toán;
ném lựu đạn ở đây gần quá. Anh lại bắn và lần này thấy
xương ống chân của Beasley vỡ tan.
Con quái vật sụm xuống, chuyển một phần xương khác
ra thế chân, đưa phần tay còn lại của Beasley xuống dưới. Từ
khoé mắt Elliot thấy Santos quỳ gối xuống, kê súng. Phát
đạn của cô bắn tung một phần xương cánh tay và con quái
vật lại sụm xuống. Cảm giác đắc thắng như bừng lên trong
lồng ngực Elliot.
Anh lùi lại, tay tự động thò ra nạp đạn. Cố xác định
phương hướng. Tolliver vẫn đang bắn, vẫn đang gào théo
cái gì anh không nghe ra nổi. Santos đã gục, bị thộp chân từ
phía sau. Những cái vuốt xương xẩu đang leo lên lưng cô;
Elliot thấy cô nhe răng, mắt trợn tròn. Mirotic đâu rồi?
115
Câu trả lời xuất hiện dưới dạng một luồng lửa phủ lấy
con quái gần nhất. Nó không hét—không có mồm—nhưng
khi Elliot lảo đảo lùi lại trước sức nhiệt anh có thể thấy bọn
nấm vặn mình, quằn quại, cháy đen thành than. Mirotic đưa
khẩu súng phun lửa qua lại, vẽ ra những đường cháy rực trên
không. Elliot nạp đạn, nhắm, bắn.
116
đạn đang tứa máu bên sườn. Elliot có thể thấy ít nhất một
cái xương xườn vỡ nát đang chọc vào da anh.
Mặt Mirotic tái như mặt trăng Trái Đất hồi xưa. Anh
lắc đầu. Anh định nói tiếp, nghe như nói là máy phẫu thuật
tự động.
Không lời đáp. Elliot lắc anh ta, và đến lúc anh lôi được
cái lọ ra khỏi thắt lưng của Mirotic thì tay anh đã thẫm đỏ.
Anh nắm tay quanh nó và trút một hơi thở dài run run nhẹ
nhõm. Mắt Mirotic chớp mở rồi lại đóng, rồi đóng hẳn.
Elliot đứng dậy, đầu quay mòng mòng, trong lúc thông số
sinh học của Mirotic biến mất.
117
Tolliver đang làm dấu thánh và vai anh đang run rẩy.
Da anh đỏ ửng như sốt.
Nằm trên giường giãn lỏng tay chân, Elliot đang ở trên
thiên đường. Anh cảm thấy người mình như đang bốc hơi,
hoặc đang trở thành ánh nắng, ấm áp và thuần khiết. Anh
chẳng phân biết nổi đâu là phần da đầy bồ hóng của anh và
đâu là da Tolliver.
Ngay sau khi giải quyết xong đống xác, anh vào lều
chích thuốc. Tolliver bám theo sau, và khi Elliot đưa cái kim
118
tiêm ra mời, bấy giờ phê quá rồi nên đâm hào phóng, anh
nhận lấy. Elliot chẳng biết lúc ấy là từ đời nào rồi.
“Sao anh lại thành ra thế này?” Tolliver hỏi. “Sao anh
nghiện? Chuyện gì đã khiến anh thân tàn ma dại thế?”
“Không có cái cụ thể nào cả,” Elliot nói, bởi vì anh đang
trôi bồng bềnh và không sợ hãi. “Không bao giờ chỉ có một
thứ. Thế thì dễ hơn, đúng không? Nếu tôi là người tử tế, và
tôi thấy chuyện gì quá tệ hại đến mức đây là cách duy nhất
để tôi... ” Anh dí ngón tay vào thái dương và vặn.
“Ừ,” Elliot nói. “Nhưng không có cái nào cụ thể cả. Cái
công việc này giết ta theo nghìn cách.”
“Hả?”
119
Tolliver lắc đầu. “Anh thực sự là đồ khốn nạn,” anh
nói, gần như phì cười. “Anh cứ nghĩ đó chắc chắn là lý do,
đúng không? Không bao giờ nghĩ rằng có những đêm tôi
không có hứng quan hệ với một thằng zombie phê thuốc bật
đè hình ngôi sao phim con heo nào đó trong thiết bị cấy suốt
lúc quần nhau à?”
“Tôi không bật cái gì trong thiết bị cấy cả,” Elliot nói.
“Tôi chỉ nhìn thấy anh. Vậy thôi.”
Elliot chợt nổi hứng gửi đoạn phim cho anh ta. Anh
cũng xem luôn, ngắm con gái mình quay đầu, chớp đôi mắt
sáng ngời. “Con bé đã lớn rồi,” anh giải thích. “Giờ hai mấy
rồi. Nó và mẹ nó sống trên Trái Đất cũ. Thứ duy nhất hai
người này ghét hơn bản mặt nhau là tôi. Nếu tôi muốn rút,
tôi đã rút từ nhiều năm trước rồi.”
Anh dịch tay lên tay Tolliver, muốn được cảm nhận lớp
nhựa mát của phần da lột dưới đầu ngón tay.
“Họ không cho tôi vào đội lính tù để phạt,” anh nói.
“Tôi tình nguyện.”
120
Anh nhìn xuống vùng cơ đỏ để lộ trên tay Tolliver. Có
những đốm xanh sáng bé tí xen vào trong các thớ cơ. Một
cảm giác bất an vô cùng luồn qua cơn phê.
Yêu cầu vàng đục xuất hiện trong thiết bị cấy mắt
của Elliot.
“Kích nổ tôi đi,” Tolliver nói. “Ngay bây giờ. Khi mọi
thứ vẫn còn ổn. Anh kích nổ tôi, và rồi tự xử.”
“Ta có thể chặt cái tay đi,” Elliot nói. “Dùng máy phẫu
thuật tự động.”
“Anh nói công việc này giết ta theo nghìn cách.” Tolliver
dùng cái tay lành vớ lấy tay Elliot và bóp lấy nó. “Tôi sẽ
không trở thành thợ hàn. Tôi cũng không muốn trở thành
một bộ xương rối chết mẹ nào hết. Hãy cuốn xéo khỏi đây
thôi. Và đừng bỏ lại gì.”
Anh buông tay, nhưng bỏ lại phía sau một vật cứng
mát lạnh. Elliot miết ngón cái theo đường rãnh và nhận ra
dáng hình quả lựu đạn cháy của Tolliver. Anh ốp nó vào bên
đầu. Anh thoáng nghĩ về những gì đội cứu trợ sẽ tìm thấy
khi họ đến nơi. Những suy đoán của họ về chuyện đã xảy ra.
121
Anh nhớ về hồ sơ của Tolliver, tệp hồ sơ anh mở ra và
đọc đúng một lần, về việc Tolliver đã bóp chết ông mình
trong lúc ngủ và nói làm vậy để chấm dứt đau đớn của ông,
mặc dù ông anh ta bấy giờ vẫn khoẻ mạnh và hạnh phúc. Ở
đây không có ai là người tốt cả. Kể cả Tolliver. Nhưng riêng
hai người bọn họ, họ tạo thành một cặp đôi hoàn hảo.
Bên ngoài, đám máy cyclop bắt đầu hụ. Elliot đưa phiếu
thuận vào hàng chờ, và Tolliver lịm đi tỏng tay anh. Ngón
cái anh mò thấy chốt quả lựu đạn và đặt im ở đó. Anh nghĩ
về lần cuối mọi thứ vẫn còn ổn và rồi lại bật phim trong mắt,
quan sát cô con gái từ trước khi nó biết anh là người thế nào.
Elliot hít một hơi thật sâu và kéo chốt và đợi được
giải thoát.
122
Rich
Larson
Rich Larson là nhà văn SFF gốc Tây Phi. Truyện
ngắn của anh đã được đề cử giải Theodore Sturgeon
và nhiều lần xuất hiện trong các tuyển tập Year’s
Best, và cả các tạp chí như Asimov’s, Analog,
Clarkesworld, F&SF, Interzone, Strange Horizons,
Lightspeed, và Apex. Anh hoạt động rất tích cực
trên trang Patreon: patreon.com/richlarson
123
Sci fi muôn vẻ
SC
MU IF
ÔN I
VẺ
PILOTS
polosatkin
https://goo.gl/OuXshw
125 126
LOST TURBINE
ZuluSplitter
https://goo.gl/aU2lXG
127 128
EXTRACTION POINT
5ofnovember
https://goo.gl/7iOKLU
129 130
TENKAR’S TAVERN
erenarik
https://goo.gl/WXuFmr
131 132
ROBOT MONKEY
FenghuaArt
https://goo.gl/xvprAk
133
UNINVITED GUESTS
qci
https://goo.gl/fyyhPv
134 135
COMMISSION - DUSK STRIKE
Shimmering-Sword
https://goo.gl/4FbDgI
136 137
JUNGLE DEEP
sarichev
https://goo.gl/ofAY0G
138 139
SECRET LAB
TitusLunter
https://goo.gl/zZSUhh
140 141
CYBER GIRL. NEORUN
SergeyZabelin
https://goo.gl/TuHO7y
142 143
INDIE SCI FI
THE SURFACE
145 146
“The Surface” là phim ngắn của đạo diễn Willem Kampenhout.
Lấy bối cảnh tương lai hậu thảm hoạ, phim kể về câu chuyện
của một người mẹ sẵn sàng rời nơi trú ẩn, đối đầu với những hiểm
nguy đã một thời buộc loài người phải tháo chạy xuống lòng đất,
tất cả vì tình yêu dành cho con.
147 148
RISE
149 150
“Rise” là phim ngắn do David Karlak đạo diễn. Bộ phim xoáy vào
câu hỏi: khi máy móc có trí thông minh như con người, ranh giới
giữa người và máy là gì? Phim hiện đã được Johnny Lin và Brian
Oliver mua lại bản quyển để chuyển thể thành phim chiếu rạp,
sau khi thương lượng với hãng Warner Bros.
151 152
NHÂN SỰ THỰC HIỆN:
Lã Bảo
Biên tập
Dàn trang
Dịch thuật
Lê Hương
Dịch thuật
Long Nguyễn
Dịch thuật
Thiết kế
CrazyDiamond
CREDITS
https://goo.gl/iuLMTB
David Karlak
https://goo.gl/x7oZVs (SẮP XẾP THEO THỨ TỰ
BẢNG CHỮ CÁI)
erenarik
https://goo.gl/WXuFmr
FenghuaArt
https://goo.gl/xvprAk
Panhandler Magazine
https://goo.gl/15KDnZ
polosatkin
Credits
https://goo.gl/OuXshw
qci
https://goo.gl/fyyhPv
Rich Larson
https://goo.gl/YyL6a2
sarichev
https://goo.gl/ofAY0G
SergeyZabelin
https://goo.gl/TuHO7y
Shimmering-Sword
https://goo.gl/4FbDgI
TitusLunter
https://goo.gl/zZSUhh
ZuluSplitter
https://goo.gl/aU2lXG
Willem Kampenhout
https://goo.gl/Za3w3Q
CREDITS
(SẮP XẾP THEO THỨ TỰ
BẢNG CHỮ CÁI)