You are on page 1of 141

07

SF 30/03/2017

VN TẠP CHÍ KHOA HỌC VIỄN TƯỞNG VIỆT NAM

KHÔNG GÌ THAY ĐƯỢC ANH TẤT CẢ NHỮNG GÌ MANG TÍNH YÊU CẦU CỨU TRỢ
TÌNH YÊU Ạ ĐẲNG CẤP VÀ TRÍ TUỆ Rich Larson
Nick Wolven Chris Barnham

Cùng với tranh của 5ofnovember, erenarik, FenghuaArt, polosatkin, qci, sarichev, SergeyZabelin, Shimmering-Sword, TitusLunter,
ZuluSplitter; và phim của David Karlak, Willem Kampenhout. Ảnh bìa: CrazyDiamond
Thực hiện bởi

SFVN (từ đây về sau gọi là “Tạp chí”) là tạp chí điện tử hoàn toàn phi lợi nhuận, ra đời với mục đích giúp độc giả Việt Nam trở nên yêu
thích hơn dòng văn khoa học viễn tưởng (còn gọi là khoa học giả tưởng, khoa huyễn). Tạp chí có sử dụng những nội dung được những
người thực hiện Tạp chí (từ đây về sau gọi là “Nhóm thực hiện”) biên tập từ nhiều nguồn và được ghi chú nguồn ở phần “Credits” của
Tạp chí. Nếu bạn là chủ sở hữu hoặc nắm giữ quyền lợi pháp lý liên quan đến các nội dung sử dụng trong Tạp chí và muốn thay đổi cách
nội dung của mình được ghi nguồn hoặc muốn Nhóm thực hiện ngưng sử dụng các nội dung của bạn trong các Tạp chí tiếp theo, hãy
liên hệ với Nhóm thực hiện qua địa chỉ thư điện tử: baola424@gmail.com.

SFVN (herein called “The Magazine”) is an entirely non-profit electronic magazine, created for the sole purpose of fostering interest in the
science fiction (also called Sci Fi or SF) genre among Vietnamese readers. The Magazine features contents that were curated and edited by
the creators of The Magazine (herein called “The Creators”) from multiple sources and were given credits in the “Credits” section of The
Magazine. If you are the owner(s) of or hold legal right(s) to any of the contents featured in The Magazine and wish to change how your
content(s) are credited or want The Creators to stop using your content(s) in future issues of The Magazine, please contact The Creators
at this email address: baola424@gmail.com.
Bạn đừng quên ủng hộ những nhà văn, những người nghệ
sĩ đã tạo ra những câu chuyện và bức hình có trong tạp chí
bằng cách tìm đọc truyện gốc, xem hình gốc nhé!

Link gốc của những truyện dịch và hình ảnh sử dụng được
ghi ở mục Credits.
SFVN
SỐ

07

TRUYỆN 07 Không gì thay được anh tình


SCI FI yêu ạ

50 Tất cả những gì mang tính


đẳng cấp và trí tuệ

76 Yêu cầu cứu trợ

SCI FI 125 pilots


MUÔN VẺ
127 Lost Turbine

129 Extraction Point

131 Tenkar’s Tavern

133 Robot Monkey

134 Uninvited guests

136 Commission - Dusk Strike

138 Jungle Deep

140 Secret Lab


142 Cyber Girl. Neorun

INDIE 145 The Surface


SCI FI
149 Rise

CREDITS 153 Nhân sự thực hiện

153 Tư liệu hình ảnh

154 Tư liệu bài viết


U Y Ệ N
Truyện sci fi T R
NGẮN
I
SCI F
KHÔNG GÌ THAY
ĐƯỢC ANH
TÌNH YÊU Ạ
Nick Wolven
(Lã Bảo dịch)

C
LAIRE GẶP ANH TẠI MỘT BUỔI TIỆC Ở NEW
Orleans, và sau đó, cô phải tự nhủ rằng đây là sự thật.
Vâng, đó thực sự là lần đầu tiên anh xuất hiện. Thật
khó tin là hiếm có thứ gì hữu hạn như lần đầu.

Anh ngồi đối diện cô, cách cô hai ghế, hai bên là hai
cô gái xinh đẹp lộng lẫy. Như thường lệ, đề tài trò chuyện
chuyển sang đồ ăn.

“Nhưng tôi đã đến nhà khách này cả chục lần rồi,” một
trong hai cô gái xinh nói. “Tôi đi ăn tiệc liên hoan, tiệc nhảy,

07
thậm chí cả tiệc gia đình. Và lần nào cũng thế, họ toàn mang
ra sai món.”

Cô có mái tóc đỏ, màu ánh nến phản chiếu trên mặt
ghế bóng lộn. Đây là một nhà khách cũ, bày biện toàn đồ cổ,
hàng dệt thủ công và tủ com mốt gỗ hồ đào, tranh sơn dầu
những đại tá vô danh thời Nội Chiến.

“Nó có nghiêm trọng không?” chàng trai trẻ tuổi bên


trái Claire hỏi. “Cô quan tâm làm gì?”

“Bởi vì,” cô tóc đỏ mím môi nói. “Dạ hội thanh lịch mà
lại mời bánh Meringue sao? Sinh nhật trẻ con mà lại có rượu
và bít tết tái Pháp à? Súp tôm tại buổi tiệc nhảy à? Chúa ơi,
loạn hết cả lên. Cảm thấy thật, chẳng biết nói sao nữa. Lười
nhác. Vô tâm. Lúi xùi.”

Cô đưa ly rượu lên miệng, và chất nước biến mất ngay


khi chạm vào lưỡi cô.

Chàng trai sau này sẽ trở nên vô cùng có ý nghĩa với


Claire, tượng trưng cho bao hi vọng và mất mát, rướn người
qua đĩa súp, mắt mang vẻ vui cười. “Nó lúi xùi. Tất nhiên
rồi. Nhưng chẳng phải đó là cái hay nhất sao?”

“Tại sao thế, Byron?” ai đó thở dài hỏi.

08
Byron. Một cái tên giả, Claire đoán vậy, lọc ra từ sở
thích thời thơ ấu nào đó vẫn còn nhớ mang máng. Nhưng
xét cho cùng, ai mà biết được.

Bất kể tên anh từ đâu mà có, gương mặt Byron vẫn


mang một vẻ đẹp trai phong trần, có được nhờ cuộc đời
năng động. Những đốm chấm râu nhuộm xám da anh. Một
cái sẹo bé chia đôi một bên lông mày. Nụ cười của anh tạo
những nếp nhăn quyến rũ quanh mắt. Một gương mặt thật
thẳng thắn, một gương mặt kết cấu tuyệt vời, một gương
mặt bốn mấy tuổi.

“Bởi vì,” Byron nói, và nhìn vào mắt Claire, như thể chỉ
cô mới hiểu. “Nhìn miếng đồ nội thất này đi, cái đèn chùm
ấy. Nhìn vào cái giá để bản nhạc trong góc. Phong cách điền
trang Mỹ, Rococo, Tân Nghệ Thuật. Mỗi thứ đồ đều là một
động thái khác nhau. Một số món hoàn toàn lỗi thời. Chính
thế mà tôi thích cái nhà khách này. Tại đây, ta có thể thấy
tâm huyết của nhà thiết kế. Có chút đỏng đảnh. Nó thật cá
nhân, thật ngẫu hứng.”

“Anh khéo ăn nói thật đấy, Byron,” ai đó thở dài.

“Hãy thử nhìn vào mọi người xem ở đây xem,” Byron
nói, xoay thìa vòng tròn để chỉ hết những gương mặt đang
ngồi quanh. “Có vài người trước nay tôi chưa từng gặp. Và
giờ chúng ta ở đây, tình cờ hội ngộ, chỉ trong một tối. Mọi
người biết gì không? Điều ấy khiến tôi thấy mừng. Khiến tôi

09
thấy xúc động.” Cử chỉ của anh dừng trước mặt Claire. “Mê
hoặc tôi.”

“Và sau tối nay,” cô tóc đỏ nói, “chúng ta mỗi người


sẽ một ngả, và quên nhau, và có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại
nhau nữa. Vậy với anh, Byron, đây là điều kỳ thú hay nó làm
mất vẻ kỳ thú đi?”

“Không phải cả hai,” Byron nói, “vì tôi không tin


là vậy.”

Anh lại nhìn vào mắt Claire. Một lần nữa, anh lại mỉm
cười. Cô vốn thích đàn ông hơn tuổi, cái phong thái hơi phần
đạo mạo của họ, cái bản lĩnh trang nghiêm và vui vẻ của họ.

“Tôi không tin chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại
nhau nữa,” Byron nói, nhìn cái thìa. “Tôi không tin duyên số
chúng ta dứt khoát sẽ như vậy. Và mọi người biết gì không?
Thật sự thì, nếu phải sống trọn đời trong cái nhà khách này
tôi cũng không bận tâm. Dù họ có dọn súp bảng chữ cái tại
tiệc liên hoan.”

Anh đưa tay lên miệng và chạm thìa vào môi. Và ngay
lập tức, chất nước biến mất.

Sau khi dọn bàn, đến màn vui chơi giải trí. Trong phòng
khách có trò chơi cờ bàn, ngoài bãi cỏ là một ban nhạc chơi

10
nhạc sống. Cầu thang dẫn lên hàng chục những buồng ngủ
tối tăm, với giường cũ kỹ ảm đạm, và thảm cũ quý phái, và
hoa lan trong giỏ để bên khung cửa sổ sáng ánh trăng. Trong
thành phố, giai điệu cảnh náo nhiệt ven bờ sông vang vọng
và tuôn ra từ những quán rượu lụp xụp, và thuyền chèo trôi
trên dòng sông Mississippi thong dong, leng keng tiếng tiền
bạc được mất.

Byron mượn một chùm chìa khoá ở chỗ cậu hầu. Claire
theo anh ra hiên. Nhịp thở của nhánh sông vương trong
không khí, ấm áp và vui tươi, nâng đỡ những tán cây hồ đào
và bầu trời đốm sao trên cao. Mồ hôi miết áo vào eo lưng cô,
như thể ở đó có bàn tay, đẩy cô tới trước.

“Ta cùng đi nhé?” Chùm chìa khoá treo lủng lẳng trên
bàn tay giơ cao của Byron, kêu leng keng.

“Đợi đã,” Claire nói, “làm lại đi.”

“Làm thế này ấy à?” Anh lại lắc chỗ chìa khoá thêm lần
nữa. Tiếng leng keng vang lên, âm thanh rắc xuống khắp bãi
cỏ xanh dày.

“Nghe giống thật,” Claire nói. “Anh nghe ra không?


Nghe như tiếng chuông nửa đêm.”

“Ôi trời, bây giờ đừng nói đến chuyện ấy. Phải mấy
tiếng nữa cơ.” Byron bước nửa chừng xuống hiên, chìa tay
ra. “Chúng ta vẫn còn nhiều thời gian để phải lòng nhau.”

11
~

Chiếc xe đợi họ là một mẫu mui trần đời đầu, loáng


ánh crôm, to lớn và đi chậm. Byron sử dụng cái cần số cổ tự
nhiên như chuyên gia. Họ băng qua những phòng tiệc trong
thành phố, nơi người ta say xỉn và vui đùa và những gương
mặt đỏ bừng, phấn khích ca hát và toát mồ hôi bên các bàn
đầy ắp đồ ăn thức uống. Thường họ sẽ tấp vào lề và ngồi đó,
và đêm đậm chất lãng mạn sẽ trôi qua.

Tại một quán cà phê ven góc phố nơi điệu Zydeco vang
nhộn nhịp, một cặp đôi trẻ tranh cãi bên cái bàn trang trí
hoa văn uốn lượn.

“Nhưng sao anh định nghĩa được nó? Anh có tả được


nó không?” Cánh tay người phụ nữ vung lên khi nói, vệt
vòng tay bạc khuấy động ánh đèn đường.

“À, định nghĩa nó cũng dễ thôi.” Anh trai đưa tay như
một vị giáo sư. “Đơn giản chỉ là hoá học mà thôi.”

“Nhưng thế thì nó khác gì với những thứ như mùi?”

“À, không khác, không hẳn. Vị và mùi. Tình yêu và


ham muốn. Tất cả đều là biến thể của cùng một trải nghiệm.”

Cặp đôi vừa nói vừa lấy một con tôm rán trừ trong giỏ,
miếng đồ ăn vàng ươm bé nhỏ biến mất như đom đóm trên
môi họ.

12
“Nó không thể đơn giản thế được,” người phụ nữ nói.
Và chàng trai rướn qua bàn, chạm vào mặt cô, và hướng nó
về phía môi mình. “Em nói đúng. Không đơn giản đâu.”

“Đã có thời tôi từng nói những chuyện như vậy,” Byron
thở dài. Anh nắm lấy cái núm gỗ phong của cây cần số, và ra
khỏi lề đường.

Họ lái ra những còn đường đất dân dã ở ngoại ô thành


phố, nơi ánh trăng tràn khắp mặt đất. Trong một quán rượu
vách gỗ ven đường, người ta đang tổ chức một buổi tiệc
nhảy, tiếng vĩ cầm nỉ non trên rừng châm giẫm đạp. Đậu
xe trên bãi đất, tắm mình trong ánh đèn vàng, họ nói câu
chuyện thường lệ.

“Giờ, về phần tôi nhé?” Byron nói. “Để tôi kể cô nghe


về bản thân. Tôi là một lập trình viên máy tính trung niên
thích ôm ấp, whiskey, và nghiên cứu các môi trường nhân
tạo. Tôi rất ngại đám đông, và tôi không ngại ngùng gì thú
nhận. Ngoài đời thật tôi không đẹp trai như thế này tí nào,
và xin đảm bảo với cô, tôi chơi trò này đã lâu rồi.”

Mặt anh hõm lại khi nói, không cười. Claire bật cười
trước sự thẳng thắn của anh. Byron nhịp ngón cái một hồi
trên bánh lái.

“Thế còn cô?”

“À, tôi ấy à?” Claire hỏi. “Tôi ấy à? Tôi không là ai cả.”

13
“Một thuyết rất thú vị.”

“Ý tôi là, tôi không đáng để ai quan tâm cả. Tôi thậm
chí còn không quan tâm đến bản thân mình.”

“Đâu có chuyện đó được.”

“Chắc không. Chắc ý tôi là, tôi không quan tâm đến
con người trước kia của mình.” Claire quan sát những bóng
người nhảy nhót trong toà nhà, các bức tường gỗ rung lên
trong khi các cái bóng di chuyển như người sống trên ô cửa
sổ bẩn. “Nhưng giờ thì tôi quan tâm đến những gì xảy đến
với mình. Tôi quan tâm đến những đêm như thế này.”

Bàn tay uể oải của cô bao lấy những người đang nhảy
nhót, những vì sao. Byron ngả người lại, gật đầu.

Claire đầu hàng. “Tôi không biết. Hồi đó từng có một


người phụ nữ thú vị. Một học giả, một nhà di tuyền học.
Nhưng giờ khó mà tin nổi cô ta từng tồn tại.”

“Kể tôi nghe về nhà di truyền học ấy đi,” anh nói.

“À.” Claire tặng anh một nụ cười. “Anh muốn biết gì?
Cô ta trông giống tôi. Cô ta nói năng giống tôi. Cô ta thích
những gì tôi thích. Cô ta thích khung cửa sổ ngày mưa và trò
Scrabble và trà đặc. Cô ta yêu quý cơ thể mình, bởi vì cô có
một thân hình đẹp, và cô thích tắm lâu với xà phòng hữu cơ,
và cô khoái cái ý tưởng là sẽ có một ngày, trong tương lai xa,

14
có thể sẽ có ai đó tắm cùng cô. Tôi nghĩ chủ yếu cô khoái cái
ý tưởng cô sẽ tìm được một người đàn ông không quan tâm
gì hết đến những điều đó. Một người chỉ đơn giản nắm lấy
tay cô và nói, ‘đi thôi.’”

Tiếng vĩ cầm ngưng. Những người nhảy ngưng lại.


Những cái bóng bên cửa sổ đứng im lại thành bức hoạ hoàn
hảo: những chàng trai cô gái màu mật đang há miệng, lấy hơi.

“Cô ấy hồi đó trẻ,” Claire nói. “Và cô ấy cô đơn.”

Byron gật đầu. “Tôi hiểu.”

Ai đó mở tung cửa quán. Một tấm thảm vàng rực trải


xuống các bậc thang, lăn qua mui và vào trong xe, phủ Claire
trong thứ ánh sáng êm dịu. Byron quan sát cô. Cô biết anh
đang nhìn thấy gì. Một cô gái tóc vàng xinh đẹp, một gương
mặt hoàn hảo, một thân hình như bức tượng với cặp mắt to
như phim hoạt hình.

“Nhưng cô không như vậy,” anh nói. Và sau một thoáng,


anh nói rõ thêm: “Trẻ ấy. Không còn trẻ nữa. Đúng không?”

“Không,” Claire nói. “Không còn trẻ nữa.”

Họ về lại thành phố theo đường khác, trên con đường


tăm tối, lầy lội có cá sấu trườn bò, phì phò bên bánh xe. Tại
một bến tàu đầy những cặp đôi và cửa hàng bán đồ câu, họ
đứng bên lan can gỗ, nhìn ra mặt nước, cùng nhau đợi tiếng

15
chuông nửa đêm. Một con phà chạy xăng khật khừ từ bờ đi,
hướng về phía Đông Bắc nơi dải đất tối.

“Tôi không quan tâm,” Byron nói. “Tôi không quan


tâm cô có là nhà sinh học không. Tôi không quan tâm việc
cô thích Scrabble với trà. Tôi không quan tâm gì đến mấy
thứ đó hết.” Anh chìa tay ra. “Đi thôi.”

Những cặp đôi trên bến tàu đã im tiếng, chờ đợi. Đến
những vì sao lấp lánh có vẻ như cũng đã ngưng lại. Tuy
nhiên, con phà vẫn lết tới và kêu vang, tiến về một bãi bờ nó
sẽ không bao giờ cập tới.

“Nói đi,” Claire nói. “Anh nói trước, sau đó tôi cũng
sẽ nói.”

“Tôi muốn gặp lại cô,” Byron nói.

Cô nắm tay anh. Trước khi cô kịp trả lời, tiếng chuông
nửa đêm vang lên. Chuông đánh ba tiếng, ghê rợn và rõ rành,
như tiếng rung của một chùm chìa khoá trên thiên đường.
Và Byron cùng dòng sông và thế giới biến mất.

Một ngàn đêm sau đó Claire không được gặp lại anh.

Ít nhất là cảm giác như đã ngàn đêm trôi qua. Có thể


còn hơn. Claire ngừng đếm đã lâu, lâu lắm rồi.

16
Luôn có thêm nhiều đêm nữa, nhiều buổi yến tiệc nữa,
nhiều trò tiêu khiển hơn. Và, kỳ diệu làm sao, thêm nhiều
người nữa. Họ đến từ đâu? Sao có thể có nhiều chàng trai trẻ
đẹp, mạnh mẽ tự tin và cặp môi luôn cười như vậy? Sao có
thể có nhiều cô gái đến đây trong khi có hàng triệu hội nhóm
khác, lượn qua các bữa tiệc như thể bị hàng ngàn cặp mắt
hau háu săn đuổi là một trò thú vị—như thể, như cá trong
đại dương, họ hi vọng một ngày kia sẽ mắc câu?

Claire cân nhắc họ, suy tư về họ, và để họ ra đi. Có giai


đoạn, cô cặp với một ông rất già, rất điển trai với cái tên đi
kèm với sự giàu sang quý phái vô ngần, theo một cách bí
hiểm nào đó. Gia tài của ông mở ra nhiều cơ hội mới: những
bãi biển riêng nơi chỉ mình họ đặt chân đến, những căn nhà
nghỉ trên núi nơi mùa hiện ra hoàn hảo như tranh, hồng và
xanh và vàng và trắng. Nhưng, nói cho đúng kiểu, họ không
“hợp nhau”; họ già và mệt mỏi theo kiểu khác nhau.

Cô gặp một cô gái mặt đầy những dấu hiệu của tuổi trẻ:
hoa tai sắc cạnh, khuyên người, son môi loè loẹt màu độc
hại. Nhưng mắt cô ta di chuyển chậm chạp, với cái trớ trêu
của tuổi tác. Quan hệ của họ chỉ mang tính xác thịt. Hàng
đêm, họ gặp nhau tại các bữa tiệc cocktail, nắm tay nhau
trong những buổi vũ hội đông đúc. Mọi lần bỏ đi đều là một
cuộc đào thoát. Họ tìm căn phòng riêng gần nhất có thể:
nơi trú ẩn sáng đèn nêon của những khách sạn thành phố,
những hầm ngầm gạch bí ẩn trong những nhà máy được tái
sử dụng. Sự phấn khích là điều cả hai cùng chia sẻ. Cả hai đều

17
biết giới hạn của tình dục: tư thế nào có thể làm được, đâu
là giới hạn không thể vượt qua. Họ tạo ra một nhịp điệu ăn
khớp, những buổi âu yếm dài lâu. Thỉnh thoảng người tình
mới của Claire—sau ba cuộc gặp ẩn danh thì cô được biết là
Isolde—cho cô ăn những thức lạ, những món khó tồn tại
ngoài đời, đá bào và bánh kem nguyên cái, một trăm quả ô
liu xiên trên que cắm rượu, những thứ quả vỏ màu sơn, cam
và chanh, thó từ những cái tủ không đáy của nhà hàng. Một
trò chơi ngọt ngào. Isolde căn thời gian rất chuẩn, dãn cách
từng lần chiêu đãi ra. Claire buông mình vào trạng thái đờ
đẫn vì căng thẳng và giải thoát, người cô run lẩy bẩy với cảm
giác phấn khích tự động đến. Khi thức ăn chạm vào miệng,
từng món một, chúng lập tức nhấp nháy biến vào hư vô—
biến mất ngay khoảnh khắc cô cảm nhận được chúng, như
lời lẽ trên đầu môi cô.

Đây là khoảng thời gian hạnh phúc. Nhưng tình yêu


ư? Đêm nào họ cũng cẩn thận nói cái cụm từ nhiệm màu ấy,
trước khi tiếng chuông đánh nửa đêm.

“Tôi muốn gặp lại cô.”

“Tôi cũng muốn gặp lại cô.”

Và các đêm cứ thế trôi qua, và các cuộc hẹn, và các bữa
tiệc, ngập tràn sự mong đợi.

Chẳng bao lâu sau chuyện sẽ xảy ra, Claire biết mà.

18
Mọi sự chấm dứt tại Đông Âu.

“Chúng ta có thể đã hợp nhau đấy chứ, cô có nghĩ


thế không?”

Lúc đó họ đang nằm nghỉ trong một khách sạn sang


trọng nhìn ra cảnh núi non, đâu đó phía Tây dãy Caucasus,
khoả thân trên giường trong khi tuyết bay qua cửa sổ. Isolde
lấy kẹp nhấc một miếng bánh Rum Ball khỏi một khay thép
chạm khắc. Cô dí nó vào ngọn nến, châm một đường lửa,
đưa miếng bánh vẫn đang cháy lên miệng, và xoá tan sự hiện
diện của nó, kèm cả ngọn lửa luôn, bằng lưỡi mình.

Claire tóm chặt tay quanh gối. “Cô nghĩ vậy sao?”

Isolde tối nay có vẻ bồn chồn, bóp bóp cái kẹp, giả vờ
như đang dùng compa đo đùi Claire, đo đầu gối cô.

“Đừng hiểu nhầm. Tôi không muốn nói là ta hợp nhau.


Cô hiểu ý tôi mà. Những gì có thể đã xảy ra ấy.”

Bên kia cửa sổ, những bông tuyết trắng che đặc trời,
một bức tranh chuyển động vô định, ngẫu hứng.

“Chúng ta thích nhau,” Isolde nói. “Chúng ta vui vẻ.


Chúng ta luôn vui vẻ.”

“Đúng. Chúng ta luôn vui vẻ.”

“Chẳng phải đó mới là điều quan trọng sao?”


19
“Không thứ gì quan trọng cả,” Claire nói. “Với chúng
ta thì không. Chẳng phải đó là điều tất cả đã đồng ý sao?” Cô
đảm bảo mình mỉm cười trong lúc nói, nằm ngửa đưa tay ra
sau đầu.

Isolde xem chừng đang đau khổ. “Tôi chỉ nói chơi thôi.
Nếu mọi sự khác đi. Chúng ta có thể đã sống tốt. Chúng
ta có thể đã... ” Cô đỏ mặt trước khi nói cái cụm từ bị cấm.
“Chúng ta có thể đã thành một cặp.”

Claire cảm thấy nụ cười của cô đông cứng trên mặt. Cô


bất ngờ khi thấy, qua cái gương khung gỗ sồi trên tủ quần
áo, biểu cảm mình chuyển thành vẻ ghê tởm. “Nhưng mọi sự
không khác. Cô có nghĩ đó là một điểm quan trọng không?
Mọi thứ vĩnh viễn y hệt như bây giờ.”

“Vĩnh viễn. Cô đâu nói trước được.”

“Tôi tin được.” Claire ngồi dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ,
nơi tuyết và màn đêm đã che kín bầu trời. “Nếu cô muốn
biết chuyện đáng ra đã có thể ra sao, hãy đợi tiếng chuông
nửa đêm. Cô sẽ nhận được cả ngàn những câu chuyện đáng
ra đã có thể. Cả ngàn Romeo và Juliet. Cả ngàn ngày xửa
ngày xưa.”

Isolde đang run, một cơn run rẩy kín đáo, kìm chế mà
Claire chỉ nhận ra được nhờ nhìn vào cái kẹp cô cầm trong tay.

20
“Tôi biết, tôi biết. Tôi chỉ nói thế thôi... Ý tôi là, sao có
thể nhìn được? Sao có thể ngưng nghĩ về nó được? Về chúng
ta. Về... ” Cô hạ giọng. “Về tình yêu.”

Claire quay khỏi cửa sổ, không nói gì, nhưng tâm trạng
khung cảnh đã đong đầy trong mắt cô, rặng núi xám chìm
vào trong nền trắng, cái lạnh của hàng triệu đốm nhỏ vô
định trút xuống như mưa.

“Tôi chỉ muốn tưởng tượng thôi,” Isolde thì thầm.


“Chỉ vậy thôi. Tôi muốn tưởng tượng xem nếu mọi sự khác
đi thì sẽ thế nào.”

Bên bàn để cạnh giường là một cái đồng hồ, làm từ gỗ


bào và đồng thau, một di vật nặng nề của ngành tạo tác thủ
công giai đoạn giữa hai cuộc Đại chiến. Isolde vồ lấy nó và
kêu lên thảng thốt.

“Sao thế?” Claire hỏi.

“Tôi vừa mới nhận ra.”

“Nhân ra gì? Cô vừa nhận ra cái gì?” Giọng Claire có


hàm chứa chút chỉ trích. Cô muốn hỏi liệu còn có thể có
điều gì để ta phải nhận ra nữa? Ta còn có thể khám phá được
điều gì mà mình chưa biết không?

21
Isolde chạm vào mặt đồng hồ. “Chúng ta đang ở trong
một thế giới chỉnh lệch thời gian. Chuông nửa đêm ở đây
đánh sớm hơn. Lúc hoàng hôn.”

Họ cùng nhau nhìn ra cửa sổ, nơi bầu trời đã tối thành
màu xám than.

“Chúng ta chưa nói,” Isolde thì thầm. “Lần nỳ ta quên


chưa nói.” Cô nằm bên Claire, một tay đặt lên bụng cô, run
giọng nói, “Tôi muốn gặp lại cô.”

Đồng hồ điểm tích tắc. Tuyết gõ vào cửa sổ.

“Tôi muốn gặp lại cô,” Isolde lặp lại. “Claire? Tôi muốn
gặp lại cô.”

Kim đồng hồ tạo thành một đường thẳng, chỉ theo hai
hướng khác nhau. Claire tự hỏi không hiểu độ lệch thời gian
chính xác đến cỡ nào nhỉ? Thỉnh thoảng những thứ như thế
này lại thiếu chuẩn xác đến đáng ngạc nhiên. Thỉnh thoảng,
cả những người thiết kế cũng phạm sai lầm.

“Claire, làm ơn hãy nói đi. Tôi xin lỗi vì đã nói những
lời ấy. Chúng ta không phải một cặp. Tôi chỉ tưởng tượng
thôi. Dù sao thì nó cũng không quan trọng. Có thứ gì quan
trọng nữa đâu? Chúng ta không phải nói chuyện. Chúng ta
có thể trở về như hồi trước. Ta có thể gặp gỡ, chơi trò chơi,
vui vẻ.”

22
Chỉ trong một vài tích tắc nữa thôi, một đêm mới sẽ bắt
đầu: những gương mặt mới, những chàng trai và cô gái mới,
những khả năng mới. Cả một thế giới mới đầy những con
người xinh đẹp, như thiên thần hạ giáng từ trên trời.

“Claire, làm ơn hãy nói đi. Tôi muốn gặp lại cô.”

“Có lẽ cô sẽ gặp lại được tôi,” Claire nói.

Và đúng lúc đó, tiếng chuông vang lên, leng keng và


vang vọng, rung ba lần trên bầu trời non núi. Và Isolde cùng
giọng nói của cô và nước mắt của cô biến mất.

Giai đoạn sau đó rất vô vị.

Vô vị à? Không, từ đó không đủ sức tả cái lối sống này.


Nó là một sa mạc, hoang vu, khô khan, cằn cỗi, với luồng
gió rát mặt quật vào mắt, với những viên đá sắc mép cứa
vào chân.

Claire trở thành một kiểu người khác. Cô là cái người


quanh quẩn tại rìa sàn nhảy, lấy im lặng để xua đuổi những
người dám đến gần. Tại các bữa tiệc trong nhà khách, cô
ngẫu hứng ra ngoài đi dạo, tìm những cung bóng tối cong
cong giữa những ngọn đèn đường, những cái bóng cô độc
bên dưới hàng cây bách. Tại các buổi yến tiệc, cô pha những
câu đùa nhằm chấm dứt cuộc trò chuyện.

23
“Cốc, cốc,” Claire nói, khi một chàng trai trẻ nghiêng
người về phía cô.

“Ai đó?”

“Claire.”

“Claire nào?”

“Chính xác.”

“Có chuyện này hay đây,” Claire nói với cô gái đến chỗ
cô trên ban công đêm nọ, dưới chân họ là cái lấp lánh như ly
sâm panh của một thành phố Châu Âu. “Một chị vào quán
rượu đầy người đẹp mã.”

Khi sự im lặng trở nên khó chịu, cô gái kia hỏi: “Và?”

“Và,” Claire quay đi nói, “ai quan tâm?”

Cô hậm hực. Nhưng cô không quan tâm đến nỗi hậm


hực của mình. Như mọi chuyện khác, Claire tin chuyện này
rồi cũng sẽ trôi qua.

Trên một con tàu đi trên sông Amazon, Claire chạm


ngưỡng giới hạn. Đó thực sự là một đêm lãng mạn. Những
con côn trùng lớn kêu lèo xèo trong cái đèn vàng bụi bặm
đong đưa trên căn buồng gỗ. Con sông quy tụ các diềm
xếp nếp trắng nơi thân tàu. Một bữa tiệc được dọn ra trên
boong, cá sông trên đĩa đất nung do những người thuỷ thủ
24
đánh trần phục vụ. Khách thư giãn trên những cái ghế mây.
Khi Claire từ boong dưới lên, cô thấy người dự tiệc, vẫn như
mọi lần, đang bàn chuyện thức ăn.

“Tôi đã đến đây cả trăm lần rồi.” Người nói là một cô gái
da trắng, tóc nâu, xinh đẹp. “Tôi tin mình cũng thuộc dạng
chuyên gia trong cái thế giới này đấy. Và tôi luôn ngưỡng
mộ cái cách người ta làm thức ăn bản địa. Mọi thứ đều từ
sông mà ra hết. Nó rất thật.”

Claire, vừa mới xuất hiện mà không chào hỏi gì cả,


khiến tất cả cùng giật mình với điệu cười ồn ã, hô hố.

“Xin lỗi?” Cô gái nói. “Cô thấy buồn cười chỗ nào vậy?”

Cả nhóm trân mắt nhìn,đẩy lùi ghế lại, mắt rực ánh
phản chiếu của ngọn đèn.

“Chỗ này,” Claire nói, và giạt một cái đĩa đất nung khỏi
tay người phục vụ. “Tôi thấy cái này buồn cười.” Cô đổ cá
xuống sàn, tống đĩa vào mồm. Tất cả cùng nhăn mặt khi cô
cắn xuống, nhai món đồ sức có hoa văn. “Mm, thật quá.”

“Cô,” cô gái nói, “bị cái chứng quái gì vậy?”

“Không gì cả. Tôi chỉ đang ăn cái đĩa này thôi.”

“Nhưng tại sao?”

25
“Vì sao lại không?” Claire đập vỡ đĩa trên sàn boong.
“Sao tôi lại không được ăn? Có khác biệt gì không? Hà cớ
gì tất cả mọi thứ—tất cả những thứ này—lại không phải là
đồ ăn?” Cô hùng hục đi quanh boong, dứ miệng ăn tay vịn,
đèn, cứu hộ viên. “Sao tôi không được làm chuyện ấy với bất
cứ thứ gì tôi muốn? Sao tôi không thể tóm lấy các người, và
tống các người vào hư vô chỉ bằng đầu lưỡi?”

Cô tóm lấy tay một anh ngồi gần đó, khiến anh ta đẩy
lùi ghế lại, và nháy mắt. “Xin hãy biến nhé.”

Claire quăng tay anh ta xuống với vẻ kinh tởm. “Tôi


phải được quyền tóm lấy bất kỳ thứ gì mình thấy, và chạm
nó vào môi, và khiến nó biến đi. Thế tại sao không được? Cá
tôi làm được. Hoa quả tôi làm được. Súp và tôm chiên và
bánh cưới tôi làm được.”

Những mong sẽ bị phản đối, chế giễu, có phản ứng bạo


lực, cô cảm thấy thất vọng trước hàng hàng những gương
mặt vô cảm, bình thản.

“Trời ơi, tôi quá chán cái kiếp sống này rồi,” Claire yếu
ớt chốt lại. “Tôi chán phải nói về những thứ tôi sẽ không bo
giờ có được rồi.”

“Nhưng cô có chán tôi không?”

Claire quay lại và Byron đang đứng ở sau cô, tựa lên lan
can cạnh phòng trên boong, tay đong đưa chai bia.

26
“Anh đó sao?” Claire sững sờ. Cô không tin nổi mình
còn nhận ra anh ta, nhưng cô vãn nhận ra được.

Byron bước tới trước và chạm vào tay cô. “Cô không
nói câu ấy.”

“Sao cơ?”

“Tám trăm chín mươi hai đêm trước. New Orleans.


Tôi nói tôi muốn gặp lại cô. Cô không đáp.”

“Tôi đã định đáp.” Claire thấy khó thở, biết rằng đám
đông đang quan sát. “Tôi muốn đáp. Tôi hết thời gian.”

Anh ném chai bia xuống khỏi tàu. Cô nín thở đợi nó
rơi tõm xuống mặt nước đằng xa.

“Giờ ta có thời gian đây,” anh nói.

Vẫy tay từ biệt buổi tiệc, Byron đưa Claire ra một cái
thuyền cứu sinh. Đẩy một cái cần gạt, ròng rọc keeo kẽo
kẹt, anh hạ thuyền đưa họ xuống mặt sông và cắt dây. Họ
trôi đi trong bóng tối, một ngọn đèn đặt dưới chân. Con
tàu lớn di chuyển ra xa với tiếng động cơ diesel thùm thụp,
những ngọn đèn treo trên dây và hàng trăm ngọn nến hoà
thành một khối vàng nhoè nhoè. Byron đặt mái chèo vào
cọc, quạt tay chèo với vẻ tao nhã như đang dùng sức thật: sức
thân người, sức cơ và dây gân, thứ sức của giống người cả hai
người bọn họ từng thuộc về trong quá khứ.

27
“Cô có biết vì sao ta không thể ăn đồ ăn không?” Byron
nói trong mỗi nhịp nghỉ, gài các câu vào giữa những tiếng cọt
kẹt của cọc chèo. “Cô có biết vì sao chúng ta không có vị giác,
không có khứu giác, không có hệ tiêu hoá không? Cô có biết
vì sao chúng ta không bao giờ ăn được, và chỉ có thể khiến
thức ăn biến mất bằng cách để chúng chạm môi không?”

Giọng anh nghe như tiếng thiên nhiên, vang ra từ bóng


tối: giọng của con sông, của rừng, của màn đêm.

“Cảm giác thèm ăn,” Byron nói. “Chúng ta được chế


tạo ra mà không có cảm giác thèm ăn. Chúng ta được chế để
khao khát mỗi một điều duy nhất. Tình yêu đích thực.”

Anh để yên mái chèo. Họ bập bềnh trên mặt nước. Con
tàu giờ đã đi mất, những giọng nói và tiếng nhạc của nó mất
tích trong tiếng con trùng inh ả.

“Tôi không tin.” Claire buông tay trôi trên mặt nước,
tự hỏi liệu sông có đầy nhóc cá ăn thịt và rắn không, liệu
môi trường có chân thực đến mức đấy không. “Tôi không
tin chuyện này có chút gì là dự trù cả. Không đến mức đấy.
Tôi nghĩ đây chẳng qua chỉ là một sự tình cờ bệnh hoạn,
phức tạp.”

Anh nghiền ngẫm lời cô nói, mái chèo để bắt chéo trên
đùi anh. “Cô hẳn phải tin rằng phần nào nơi đây được chế
tạo ra. Cô hẳn phải nhớ mình đã thiết kế nó. Hoặc nhớ đã

28
thiết kế bản thân: cô trông thế nào, cô nghĩ ra sao. Tôi đã
quên khá nhiều, nhưng tôi vẫn nhớ chuyện ấy.”

Một con cá nhấm nhấm ngón tay Claire. Cô nhấc tay


lên, vẩy nước đi.

“Tôi không muốn nói đến cái thế giới này,” Claire nói.
“Ý tôi muốn nói đến chuyện đã xảy đến với chúng ta. Cái
cách ta sống. Đã có chuyện gì đó xảy ra. Tôi không nghĩ
chuyện đó xảy ra là do cố ý.”

Byron gật đầu. “Thảm hoạ tận thế.”

“Đại dịch. Thiên thạch. Thảm hoạ hạt nhân.”

“Sụp đổ nền kinh tế. Bất ổn chính trị.” Anh cũng nói
chuyện đùa cợt với cô. “Hoặc chỉ đơn thuần là một vụ phá
sản không được giải quyết tử tế. Và đâu đó ngoài sa mạc
Nevada, niêm phong trong một khu sever chạy bằng năng
lượng mặt trời là một hàng máy tính, mòn mỏi chạy một
chương trình mô phỏng vô dụng, liên tục, liên tục qua bao
thế kỷ cô đơn.”

Cô vẩy tay phủ nhận màn ứng khẩu trôi chảy của anh,
vôi tình vảy vào mặt anh mấy giọt nước.

“Tôi không nghĩ đó là chuyện đã xảy ra. Anh biết


tôi nghĩ sao không? Tôi nghĩ chúng ta đơn giản là đã bị
lãng quên.”

29
Anh mỉm cười, gật đầu trùng lúc con thuyền lắc lư.

“Có vậy thôi,” Claire nói. “Người ta tạo ra chúng ta,


họ dùng chúng ta một thời gian, họ chán. Họ giữ tài khoản,
hoặc giữ đăng ký, hoặc gì đó, nhưng họ không còn để ý
nữa. Họ không quan tâm chúng ta có tìm thấy tình yêu hay
không. Họ không quan tâm những chuyện ta làm.”

“Ấy nhưng.” Byron tiếp tục chèo. “Nếu họ biết... ”

“Cái gì?” Claire thấy khó chịu trước cái kiểu bỏ lửng
đầy ngụ ý. “Nếu họ biết gì?”

Anh liếc ra sau, kiểm tra hướng chèo của họ. “À, cô
biết đấy. Nếu họ biết chúng ta đã trở nên tự lập đến mức
nào. Thông minh và ngượng ngùng đến mức nào. Nhuần
nhuyễn nghệ thuật yêu đương đến mức nào. Giỏi tránh né
cam kết dài lâu đến mức nào.”

“Nói cách khác,” Claire nói, “giống hệt như họ.”

Byron nghỉ một chút, mái chèo kê dưới cằm. “Hãy gặp
lại tôi. Nói câu ấy đi.”

Claire rời mắt khỏi anh, nhìn xuống dòng nước, dòng
quên lãng đen đang trôi qua. “Chuyện này sẽ không dẫn tới
đâu cả. Anh biết nó không thể mà. Nó không thể trở thành
gì hết. Chúng ta không thể trở thành gì hết.”

“Tôi không quan tâm. Nói câu ấy đi.”


30
“Chuyện không thể nào tiến xa hơn cuộc tình
thoáng qua.”

“Thế cũng được. Nói câu ấy đi.”

“Nó sẽ chỉ khiến chúng ta bất hạnh. Chúng ta chỉ có thể


tiến đến một mức. Chúng ta sẽ đến một điểm nhất định, và
chúng ta sẽ nhận ra mình phải kết thúc rồi. Chấm dứt. Mãi
mãi không hoàn hảo. Như thể gắp một miếng thức ăn ngon
lên và thấy nó biến mất trên lưỡi.”

“So sánh rất hay. Nói câu ấy đi.”

“Tôi muốn gặp anh,” Claire nói, mắt ngấn lệ. “Tôi
muốn gặp anh, hết lần này đến lần khác.”

(Và trong lúc nói vậy, cô tự hỏi, không phải lần đầu,
rằng tại sao những người chế nên cái thế giới tồi tệ này lại
lược bỏ quá nhiều thứ, bỏ đi hương vị, cắt bỏ mùi hương,
loại bỏ sung sướng, say xỉn, đau đớn, cái chết, thương tật,
tuổi già, và cảm giác thèm ăn, nhưng lại để lại hai thứ kỳ lạ và
khó chịu, ban cho mỗi người mồ hôi và nước mắt.)

Chúng ta không giống họ, Claire nghĩ, trong lúc Byron


buông mái chèo, rướn người tới trước con thuyền. Chúng
ta trông giống họ, chúng ta có thói quen của họ, sở thích
của họ, hi vọng của họ, thậm chí cả một phần ký ức của họ.
Chúng ta nghĩ và cảm nhận như họ, cho dù họ có biết hay
không. Chúng ta thậm chí còn có thể làm tình như họ, xét

31
trên vài phương diện. Nhưng chúng ta không giống họ,
không hẳn, và tất cả là ở điểm này: cho dù ta khao khát gì,
cho dù ta làm gì, ta sẽ không bao giờ biết sự khác biệt giữa
một ly nước và một nụ hôn.

Khi môi Byron chạm môi cô, một cú chạm chuẩn xác
và khô khan, Claire thoáng ngạc nhiên vì hai người bọn họ
không ai biến mất.

Họ đã gặp nhau bao lần rồi? Claire không buồn đếm.


Họ gặp nhau trong những căn nhà nghỉ săn bắn, những khu
vườn Anh, một thành phố dưới lòng biển, trên bề mặt Sao
Hoả, khoang treo của một chiếc khinh khí cầu xuyên Đại
Tây Dương. Đối với Claire, mọi địa điểm đều là khung hình
cho dáng người của Byron. Không chỉ thân xác anh, không
chỉ cái nụ cười thẳng thắn của anh, cô bắt đầu phải lòng cái
cảm giác bàn tay anh mang lại, cái cách nó ấp lấy tay cô trên
lan can tàu biển, nhẹ nhàng lần tìm cô giữa đám đông trong
hành lang nhà hát. Anh là người ham muốn được đụng
chạm: phần nào vô thức, luôn luôn không rời. Cô mê mẩn
cái kiểu luôn muốn biết cô đang hiện diện của anh.

Ấy nhưng, anh lạ lùng hơn một người tình bình thường.


Trong thế giới này, có một thứ khoái lạc hiển nhiên, và đây là
thứ khoái lạc chỉ Byron mới mang lại. Trò chuyện.

32
“Lý do là gì?” cô hỏi anh trong một đêm họ quấn lấy
nhau, ăn diện đồ cao bồi, cùng với những vị khách nhảy bốn
cặp tại một quầy rượu cao bồi. “Ở New Orleans, vào cái đêm
đó, anh tìm đến em. Lý do anh để ý em là gì?”

Byron không lưỡng lự. “Một câu hỏi,” anh nói.

“Và câu hỏi gì vậy?”

Anh chỉ vào quang cảnh hài hước xung quanh họ: con
bò máy, các miếng da sống trang trí, Những cái mũ cao bồi và
ruy băng và ống bạc. “Cuộc đời chúng ta là một trò đùa. Ai
cũng thấy thế, chắc anh muốn biết tại sao em không cười.”

Khi ấy cô bật cười, và cái âm thanh đó khiến cô


thấy buồn.

Những đêm khác họ hét lên át tiếng cánh quạt máy


bay, nói chuyện dưới bóng đèn disco, nói chuyện ở hai bên
ghế lạnh cóng đối diện của chiếc cáp treo. Nhưng họ luôn
nói chuyện, không ngừng, bất chấp cảnh quan xung quanh,
một cuộc trò chuyện bao trọn ngàn ngày rời rạc.

“Thế còn em?” Byron nói giữa những lần nhấp món đồ
uống tan biến như tuyết dưới hơi thở anh. “Em thấy gì hay
ở anh?”

Claire mỉm cười, im lặng. Cô biết anh biết câu trả lời
là gì.

33
Những lần ở trong phòng ngủ kín đáo trong cuộc
bướm ong nay đây mai đó vô tận này, họ không bao giờ cởi
bỏ đò, không bao giờ làm cái trò quần nhau vụng về gọi là
tình dục. Họ thảnh thơi nằm gần nhau, áo quần y nguyên.
Claire không cảm thấy cần phải giữ kẽ. Với Byron, chắc chắn
họ có thể thành một cặp. Phần nào nực cười mà cũng phần
nào đáng buồn, gương mặt từng trải, trưởng thành của anh
cho cô biết anh đã để đề tài đó trôi qua lâu rồi.

“Dù sao thì, nó cũng không quan trọng.” Anh thường


nắm tay cô, xoa ngón cái cô bằng ngón cái của mình. “Em
bảo chúng ta đã bị lãng quên. Có người nói chúng ta đã bị
bỏ rơi. Nhưng nếu ta biết sự thật thì có gì thay đổi không?
Mọi sự vẫn sẽ như cũ bất kể chuyện gì có xảy ra ở—à, ở cái
nơi anh nghĩ mình sẽ phải gọi là ‘thế giới thực.’”

“Có thực vậy không?” Claire chú ý vào cái vẻ tự tin khi
anh nói, sự vững tin mệt mỏi trong cái giọng có tuổi, uyên
bác của anh.

Byron nheo mắt. “Anh tin là thế. Chúng ta được tạo ra


để sống theo cách này. Chúng ta không nên tìm người để cặp
kè.” Anh lấy cùi chỏ nâng mình, nhìn qua những nếp gấp và
tấm rèm của căn phòng ngủ, cái nùi tơ lụa quấn trên chiếc
giường bốn cọc cổ. “Nghe này, giả thiết ở đây là chúng ta
đại diện cho họ, đúng không? Những người nguyên bản của
chúng ta, họ đã chán phải đi tìm kiếm tình yêu. Cái sự không
chắc chắn, cái công lao. Vậy nên họ mới tạo ra chúng ta. Họ
đưa ký ức và hi vọng của mình vào, xây cái sân chơi này, để
34
chúng ta có thể làm những gì họ không muốn làm, liên tục
giao thiệp và quấn nhau và thử và thất bại. Và một ngày nào
đó ta sẽ tìm ra nửa kia, và thế là xong, nhiệm vụ của chúng ta
sẽ xong, và ta sẽ bị huỷ, bị xoá, họ sẽ tiếp quản.”

Claire nằm im, không bình phẩm gì. Cô thầm thấy phấn
khích khi được nghe cái logic đầy chất hoài nghi về cuộc đời
họ diễn giải ra thẳng băng.

“Nhưng nếu,” Byron nói, “đó không phải mục tiêu


thật của họ? Nếu họ không hề muốn được yêu thương? Nếu
họ chỉ muốn được ham muốn nó—muốn, theo cách nào đó,
có khả năng ham muốn nó? Em vẫn nhớ mọi sự hồi trước
như thế nào. Tất cả chúng ta đều nhớ ít nhiều về cái thế giới
đó. Nó có phải một nơi tràn ngập yêu thương không? Quá
tải dân. Quá tải việc. Ở một mình sướng hơn nhiều. Nếu nơi
này chỉ tồn tại... nếu chúng ta chỉ tồn tại để... để thế chân thứ
gì đó, đại diện thứ gì đó, một dạng giấc mơ chỉ còn nhớ được
một nửa thì sao? Một giấc mơ những người nguyên bản của
ta phần lớn đã từ bỏ, nhưng theo cách nào đó, vẫn cảm thấy
mình phải mơ mộng?”

“Ôi, Chúa ơi,” Claire thở dài.

“Anh xin lỗi.” Byron chạm vào mu đôi bàn tay cô đang
che trên mặt. “Anh không nên nói năng như thế này.”

“Không phải.” Cô buông tay xuống. “Chỉ là nghe thật


sai trái. Anh khiến sự tình nghe còn vô vọng hơn thực tế.”
35
“Anh không tin mọi sự lại vô vọng.”

“Nhưng nếu chúng ta chỉ có mặt ở đây để thực hiện


mọt cuộc tìm kiếm vô ích, không có ý nghĩa... Ý em là, tại
sao?” Cô ngồi dậy, tay nắm chặt chăn. “Chúng ta là một trò
đùa nhân đôi. Một thứ đồ làm giả đồ giả. Kể cả nếu họ không
biết chúng ta sẽ.... ” Cô làm rối hết những lời phản đối của
mình, mắc kẹt, như thường lệ, giữa tôn giáo và triết lý. “Ý em
là, tại sao lại có ai bắt chúng ta làm chuyện này?”

Anh nằm xuống, trơ mắt nhìn, nhợt nhạt như cái màn
hình trống không. “Claire, nếu anh bảo em ta có thể thành
một cặp thì sao?”

Cô ôm một cái gối lên sát ngực, đột nhiên thấy lạnh
toát, tự hỏi liệu đây có phải cảm giác lạnh con người thật sẽ
cảm thấy không. “Đừng nói thế.”

“Anh nói thật lòng đấy.”

“Đừng nói thế. Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra mà. Em


ghét cái thế giới này. Em ghét những kẻ đã tạo ra nó. Em ghét
bản thân, cho dù em có là cái thứ gì đi nữa, và em ghét bản
thân mình hồi trước. Nhưng em chưa sẵn sàng để…”

“Anh không nói em phải sẵn sàng.”

Cô há hốc miệng nhìn anh, phô hết sự hãi sợ của mình


trước gương mặt bình thản đáng báo động của anh.

36
“Anh tin chúng ta có thẻ làm được.” Mắt Byron như
rượu vang đỏ, sẫm màu và sáng hấp háy. “chúng ta có thể
thực hiện được điều đó mà không hi sinh gì cả. Chúng ta có
thể cam kết dài lâu với nhau, vĩnh viễn, mà không bị xoá đi
hay biến mất. Chúng ta có thể tuyên bố mình yêu nhau, và
sẽ không ai biết, hay can thiệp, hay tước đoạt nó khỏi ta.”

“Không thể nào.” Cô cắn lưỡi cho đến khi gần như nhớ
ra được cảm giác đau là gì.

“Hoàn toàn có thể.”

“Sự đời không như thế.”

“Em đã quên mất rồi. Đã có lần anh nói với em, từ lâu
lắm rồi, anh thích các môi trường ảo. Hoặc là anh từng như
thế. Anh biết chính xác thế giới này hoạt động thế nào.”

Cô ngồi dậy, nhìn thấy sự phấn khích đang toả long


lanh ra từ anh qua hai dấu hiệu rõ rành, mồ hôi và nước mắt.

“Em còn nhớ không, Claire? New Orleans?” Anh ngồi


dậy, nắm lấy tay cô. “Ở đó có một bến tàu, ăn sâu vào con
sông. Hàng đêm, một chiếc phà từ đó ra sông, hướng về phía
bờ xa. Cứ mỗi đêm, nó lại rời đi sớm hơn một giây; mỗi lần,
nó lại di chuyển được xa hơn một giây. Cứ ngàn lần thì sẽ
có một lần nó đến phía bờ xa. Nếu chúng ta ở trên con phà
đó khi nó cập bến, chúng ta sẽ ở trên một ranh giới, một
ngưỡng cửa, một nơi luật lệ không còn tác dụng nữa. Khi

37
kịch bản tái thiết lập, chúng ta sẽ bị bỏ lại đằng sau. Chúng
ta có thể sống ở đó trọn đời, hoặc cho đến khi thế giới không
còn tồn tại nữa.

“Claire.” Khi ấy, anh dứt khoát nắm trọn hai tay cô,
nhu thể cần đảm bảo chắc chắn rằng cô đang ở đây. “Không
có gì ngẫu nhiên hoàn toàn. Anh biết em không đếm các
đêm, nhưng anh thì có. Anh theo dõi từng buổi tối, quan sát
các khuôn mẫu lặp lại. Và anh tìm người đưa đi cùng, người
cùng chung sống với anh suốt phần đời còn lại. Em chính là
người ấy. Nói câu ấy đi. Năm đêm nữa, chúng ta sẽ gặp lại
nhau, tại buổi tiệc ở New Orleans. Con phà khởi hành lúc
mười một giờ bốn mươi. Đi cùng anh đi, Claire. Hãy cùng
anh lên boong tàu. Cùng anh bước ra khỏi cái thế giới này.”

Cô thấy nắm tay mình biến mất trong tay anh. Trong
thoáng chốc nữa thôi tiếng chuông nửa đêm sẽ vang lên, và
đi cùng với nó sẽ là những đám người mới, những cơ hội
mới, những điệu nhạc và niềm vui hào nhoáng mới sẽ được
hô biến ra từ những đêm bất tận. Liệu cô có thể bỏ tất cả lại
phía sau, cùng với con người này đứng bên bờ một miền đất
vĩnh cửu? Họ sẽ cùng nhau bước đi, không bao giờ thay đổi,
dọc theo những con phố bất biến, nơi tiếng nhạc nhảy vọng
ra từ những quán cà phê bất tử, nơi hoa phong lan cắm đó,
không bao giờ tàn phai, trên khung cửa sổ buồng ngủ, rọi soi
ánh bạc của vầng trăng không bao giờ lặn. Nhưng đây sẽ là
những quán cà phê của họ, mặt trăng của họ, hoa phong lan
của họ, và nếu không thể nào biết nó sẽ kéo dài bao lâu, họ

38
vẫn sẽ cùng nhau làm chủ khoảng thời gian không đong đếm
được ấy, làm chủ một ngôi nhà bừa bộn đồ đạc, và không
bao giờ phải sống e sợ tiếng chuông nửa đêm.

Đã đến lúc rồi, tối nay, tiếng chuông đang vang vọng,
rung lên tiếng thông báo trên bầu trời. Nhưng Claire vẫn
còn thời gian nói những tiếng nhiệm màu.

“Em muốn gặp lại anh.”

Bên cái bàn ăn dài tại nhà khách ở New Orleans, các
đại tá Nội Chiến nhìn ra từ khung tranh hồ đào. Nến đã
được thắp, hắt sáng khắp nơi, và những cái ghế cổ vui vẻ kẽo
kẹt. Claire ngồi cạnh Byron, chăm chú nhìn cái đồng hồ kiểu
Pháp. Bữa tối đã ăn xong, đĩa đã được dọn đi, và hai tá bánh
pudding đang rung rinh trong hai tá bát sứ.

“Pudding,” một cô gái khêu gợi thở dài, vận đồ, như
bao người khác, rất hợp cảnh, mang trên người cái váy sột
soạt của những thiếu nữ miền Nam. “Hiểu ý tôi chưa? Nó
vô nguyên tắc quá. Bữa tối là sa lát Radicchio, đuôi bò, và giờ
họ dọn ra bánh pudding sôcôla để tráng miệng.”

Claire, ngồi đối diện, thầm nghĩ đây là lần cuối cùng cô
phải tham gia cuộc trò chuyện này.

39
Hai mươi bốn cái thìa thọc xuống và nhấc lên. Hai
mươi bốn phần bánh pudding biến mất, bị hai mươi bốn
chiếc lưỡi xua tan.

Khi bữa tiệc kết thúc, Byron nắm lấy tay Claire. Ra đến
cửa, anh nghiêng người về phía tai cô, và cô cảm thấy tiếng
thì thào ấm nóng của anh. “Ba tiếng. Theo sát anh nhé.”

Họ bước ra hiên nhà. Và Byron biến mất.

Claire bối rối quay tới lui. Hiên nhà, căn nhà khách,
toàn bộ cảnh vật đã biến mất. Cô đứng trên một sàn nhảy,
xung quanh là chân giẫm đạp và đong đưa và hất bụi vào ánh
đèn. Không gian tù mù rung động theo tiếng vĩ cầm kẽo kẹt.
Không thấy bóng dáng Byron đâu cả.

Để xác định phương hướng, Claire tóm lấy những bờ


vai đang xô đẩy. Cô nhìn thấy một cánh cửa và luồn lách về
phía nó. Năng lượng từ buổi khiêu vũ, như một cái máy bận
rộn, đẩy cô vào bầu không khí ẩm.

Claire loạng quạng bước xuống ba bậc thang gỗ. Nhìn


lại đằng sau, cô nhận ra quán rượu ven đường cô từng ngồi
với Byron hôm đầu tiên họ gặp nhau, vài ngàn đêm trước.

Chuyện gì đã xảy ra vậy? Claire lảo đảo đi ra đường.


Ánh trăng biến mảnh đất thành màu sắt, con sông thành
màu thép, và ánh đèn thành phố ở rất xa.

40
Con phà! Nó chỉ cách đây vài dặm, đi bộ không đến hai
tiếng. Claire nghĩ mình sẽ đến kịp, nếu cô khẩn trương.

Cô đi được mười lăm phút thì một chiếc mui trần cổ,
rú lên từ đằng sau, khiến cô cứng người như tội phạm bị rọi
đèn pha. Byron đẩy mở cửa.

“Vào đi.”

Claire nhanh chóng vào bên khách ngồi, nhảy lên cái
ghế da. Byron đạp chân ga, và bánh xe lạo xạo trên sỏi.

“Nó đang bị lỗi.” Byron vừa lái vừa rướn về phía trước.
“Cái môi trường này. Các thông số đang tái thiết lập. Như
anh đã nói, chúng ta đêm nay ở nơi ranh giới. Các quy luật
đang tạm thời bị phá vỡ. Nhìn này.”

Anh gõ vào cổ tay, nơi có chiếc đồng hồ đang hơi


loá sáng.

“Giờ là mười giờ hơn,” Byron nói. “Đã hơn một tiếng
kể từ lúc anh còn thấy em. Chúng ta đã phí mất một lượng
lớn thời gian, và anh e là… mẹ kiếp.” Anh ngoặt vô lăng, suýt
nữa mất lái, bởi vì anh thấy gì đó trên đường.

Vặn vẹo trên ghế, Claire thấy cái quán ven đường, nơi
cô vừa ra khỏi, lướt ngang qua.

Byron chửi thề và đạp chân ga. Họ xoành xoạch phóng


với tốc độ tối đa của chiếc mui trần, bốn mươi, năm mươi.
41
Đầm lầy, dòng sông, và đường trôi ra sau. Băng qua cái quán
hết lần này đến lần khác, lần này đến lần khác, lần này đến
lần khác.

“Được rồi.” Byron phanh rất gấp, Claire tí nữa đập đầu
vào kính chắn. Anh chỉnh cần số và quay người, quàng tay
qua chỗ dựa đầu của cô.

“Chuyện gì đang diễn ra thế?” cô hỏi.

“Em không nhận ra à? Chúng ta đang ở trong một


vòng lặp.”

“Nhưng anh đang làm gì thế?”

“Chó cùng thì phải rứt giậu.” Byron nheo mắt nhìn
qua cái kính chắn gió phía sau. “Như anh tính, nếu mình
không tua lên trước được, hãy lùi về sau.”

Cái xe giật nảy chạy lùi lại.

Và xe và đường và Byron đều dãn dài ra mất dạng, và


Claire lại thấy mình ngồi bên bàn một quán cà phê, cô độc,
ngay giữa cái say sưa nhộn nhịp của thành phố.

Cô nhảy bật lên, hất đổ ghế.

Lại một lần nữa, chẳng thấy Byron đâu.

42
Claire chửi thề, quay một vòng tròn, chửi thêm lần nữa.
Một người đội mũ quả dưa đi ngang qua dựng ghế cô dậy,
để lại đúng chỗ, và sờ lên mũ.

“Điên thật đấy, đúng không? Mấy cú nhảy ấy?” Anh


quay vai dãn thẳng áo khoác, nhìn lên trời, như thể đang đợi
bầu trời nứt ra.

“Nhưng ta làm gì đây?” Claire hoảng hốt. “Sao ta ngăn


nó lại được?”

Người đội mũ quả dưa mỉm cười và nhún vai. “Tôi nghĩ
là chẳng làm được gì đâu. Chỉ có nước tuỳ cơ ứng biến thôi.”

Như để minh chứng, anh tóm một cái ống hiệu gần đó,
đu người vào một cánh cửa mở, và ngay lập tức, như con thỏ
của nhà ảo thuật gia, biến mất.

Những người dự tiệc chạy ngang qua, khúc khích cười


và vấp chân, mặt giãn ra với vẻ cảnh giác hồ hởi, như người
kẹt trong một trận bão. Họ ra vào những cánh cửa như đom
đóm, cười vang khi biến mất rồi lại hiện ra. Claire từ lâu đã
nhận ra rằng trong một thế giới toàn những luật lệ và những
điều lặp đi lặp lại, bất kỳ sự thay đổi lề thói nào cũng sẽ được
chào đón bằng sự hỗn loạn như trẻ con.

Nhưng mình làm gì đây? Claire chui qua cửa một cửa
hàng thuốc. Mình có thể làm gì đây, Mình nên làm gì đây?
Cô cố hết sức tĩnh tâm lại, phân tích tình hình. Các cú nhảy,

43
các cú thay đổi, những lần biến mất và tái xuất—chúng
dường như xảy ra khi có sự chuyển dịch: ra vào, di chuyển
đột ngột. Nếu cô tìm ra cách lợi dụng lỗ hổng của hệ thống...

Quay người, Claire nhảy qua cửa hàng thuốc. Và lại


nhảy, và lại nhảy, và lại nhảy, nhảy đi nhảy lại. Đến lần nhảy
thứ mười lăm, mánh này phát huy tác dụng, không gian
nháy lỗi. Claire lao vào một phòng tiệc, đâm vào người một
anh bồi mang khay, làm vung vãi hết ngao và ly sâm panh.
“Xin lỗi, xin lỗi... ” phi ra chỗ cửa phòng, Claire lại thử. Sau
một hồi nhảy cô lại phóng vào một con thuyền chèo, đâu đó
trong một nhánh sông hôi hám. Cá sấu vùng vẫy và lăn lộn
trong bùn, gằn gừ và rít rống trong lúc bỏ chạy vì bị cô đến
phá đám. Claire nhảy xuống nước và lặn xuống, đâm chân
vào lớp bùn nhầy. Cô đạp mạnh, đẩy người lên không…

Và thấy mình, người đẫm bùn, về lại gần bờ sông, về lại


thành phố.

Cô còn phải làm trò này mấy lần nữa? Tìm kiếm quanh
bờ sông, Claire không thấy cánh cửa nào có tiềm năng cả.
Thế là cô lại nhảy xuống sông thêm ba lần nữa. Đến lần thứ
ba, cô trồi lên ở hồ bơi sân sau nhà.

Và cứ thế, qua cổng và cửa sổ, nhờ rơi và nhảy ngược lên,
Claire nhảy xuyên qua những buổi tối nơi vùng cửa ngưỡng,
băng qua những địa điểm ngẫu nhiên, mặc bộ váy ướt sũng
và mớ tóc bẩn thỉu băng qua ghế xe, các bữa tiệc trên sân
nhà, vườn tược và ban công, phòng ngủ nơi các cặp đôi nằm
44
xoắn xít vào nhau trên những chiếc giường mờ sáng. Thỉnh
thoảng cô ngỡ mình thấy Byron, hối hả băng qua một khung
cửa trong thành phố hoặc nhào qua lan can một con tàu trên
sông, thực hiện hành trình Lewis Carroll của riêng mình qua
những cái hang thỏ bí ẩn của buổi đêm. Phần lớn thời gian,
cô thấy hàng trăm những người đi phiêu lưu khác, những
người cười toe toét nhảy và xông qua cửa, tham gia những
cuộc đua không chút kiêng nể trong màn đêm.

Cuối cùng, Claire cũng chui ra được khỏi một cửa hàng
bán mồi câu và ra chỗ bến tàu, những cửa hàng câu cá lụp xụp
treo phao, những tấm ván gỗ dài nằm như thước đo khoảng
thời lượng mấy phút còn lại của cô—và con phà đằng kia,
ngự trên lớp bọt nước động cơ diesel của mình khuấy lên,
đưa Byron về phía bờ xa.

“Claire,” anh la lên từ trên mặt nước, và nói thêm câu gì


cô không nghe được.

Có phải đây là trò hề của cái thế giới đang nứt vỡ này,
một kiểu biến dạng tàm khốc mới, mà khiến cho bến tàu
như dài ra theo nhịp chạy của Claire? Có phải một sự đảo lộn
mới trong cái thế giới đã bị lộn nhào ngoài sức tưởng tượng
khiến cho những tấm ván dưới chân cô dường như kéo dài
vô tận? Khi cô đến cuối bến tàu, Byron và con phà đã ra giữa
sông, và tiếng gọi của anh mập mờ vẳng lại theo vệt nước
đang tan biến của con tàu.

“Nhảy đi!”
45
Anh điên rồi à? Khoảng cách ấy rộng quá sao bơi được.

“Claire, anh nói nghiêm túc đấy, nhảy đi!”

Và khi ấy, Claire hiểu ra: nếu hồi trước nó hiệu nghiệm...
có lẽ tỉ lệ một phần ngàn...

Đằng xa bên kia sông, Byron đang vẫy. Claire nhìn vào
mặt nước. Coo thoáng lưỡng lự. Và đây chính là khoảnh
khắc sau này cô luôn nhớ lại, hết ngàn lần này lại đến ngàn
lần khác, tự vấn bản thân rằng mình thèm được dành trọn
đời trong một mái nhà, một thế giới, với một con người như
thế nào.

Trong tích tắc tiếp theo, cô lao đầu xuống nước. Và có


lẽ thế giới này có logic hơn Claire nghĩ. Có lẽ những người
thiết kế biết việc mình làm. Bởi vì trong số mọi khe hở và
hang thỏ trong thế giới này, trong số mọi nơi khả dĩ để cô
xuất hiện…

Cô quẫy nước, quơ quào, ở phía xa của con sông, và


con phà chỉ cách vài mét.

Claire quạt nước, cào đường lao tới trước, trong lúc
tiếng đầu tiên trong số ba tiếng chuông vang vọng trên
mặt nước.

Cô quên tháo giày. Váy cô quấn lấy chân. Cô không thể


tới hụt được, sau khi đã cố hết sức, theo chân một cuộc tình

46
lãng mạn vào trong cái xoáy nước không đáy của cái đêm
nhân tạo.

Tiếng chuông thứ hai khiến những lằn bạc lan trên
mặt nước.

Rất gần rồi. Claire tóm lấy con sóng, liếc nhìn, giữa
những nhịp tay quạt, Byron đang kêu gọi từ trên con phà,
rướn người qua lan can.

Trong lúc cô đưa nốt lần quạt tuyệt vọng cuối cùng,
tiếng chuông thứ ba vang lên báo hiệu nửa đêm, âm thanh
khiến Claire liên tưởng, như thường lệ, đến tiếng leng keng
trêu đùa của một chùm chìa khoá.

Quanh những cái bàn rực sáng, dưới những ngọn đèn
và trong tiếng nhạc, những người dự tiệc quy tụ, để giao
lưu và rì rầm và bình phẩm về đồ ăn. Quá nhiều cái đẹp để
thưởng thức, quá đa dạng: quá nhiều chàng trai và cô gái để
tán tỉnh và trêu đùa và nhảy nhót cho đến hết cái đêm bao
biến cố. Và sau tối nay, sẽ còn nhiều người nữa, và nhiều
hơn nữa—những chàng trai và cô gái để thưởng thức, nhấm
nháp, xua đi.

Nếu có ai để ý đến cô gái đang đi giữa đám bọn họ, lần


tìm góc căn phòng đông đúc; nếu có ai gặp cô ở cuối bến tàu
của cô, nhìn ra ngoài miền nước sáng ánh sao; nếu có ai nghe

47
tiếng cô gọi tên một người trên tiếng sóng và tiếng nhạc thập
thình, thì chẳng bao lâu sau họ lại đi. Bữa tiệc vừa mới bắt
đầu, sôi động đầy lãng mạn, và những đêm trước mắt đầy ắp
nụ cười của những người tình vô danh. 

Truyện gốc đăng trên Asimov’s Science Fiction


(sau này tái bản trên Clarkesworld).

48
Nick
Wolven
Nick Wolven sống ở thành phố New York City,
và ông làm việc tại Đại học Barnard. các truyện
ngắn của ông đã được xuất bản trong nhiều
tạp chí danh tiếng, trong đó bao gồm Asimov’s
Science Fiction, Clarkesworld, và sắp tới là
Analog và F&SF.

49
TẤT CẢ NHỮNG GÌ
MANG TÍNH ĐẲNG CẤP
VÀ TRÍ TUỆ
Chris Barnham
(Long Nguyễn dịch)

R
ICKY ĐANG TÌM CÁCH GIẾT TÔI.

Tôi quan sát chỏm đầu ông trong khi ông lui
cui làm việc. Ông mặc đồ bảo hộ liền toàn thân, đeo
găng dày. Bộ đồ kín khí, và có độ cách điện chịu được ba
trăm ngàn vôn. Tay phải ông cầm một cái dao cắt bulông
lưỡi mỏng, lắp xếch và tay cầm làm bằng sợi thuỷ tinh.

Hai nhân viên bảo vệ bồn chồn đứng giữa Ricky và


cánh cửa, cầm súng chĩa nòng lên trời. Một người mới đến
làm tại phòng thí nghiệm. Tên anh ta là Roland Garcia, và
tháng trước tôi xử lý quyền hạn an ninh cũng như thiết lập
hệ thống trả lương cho anh. Ngày mai là lần đầu anh ta lãnh

50
lương. Hoặc không, nếu Ricky giết tôi. Tôi tự hỏi liệu Garcia
đã nghĩ đến việc này chưa.

Ricky dùng cái dao cắt bulông làm gì đó và ngả người ra


sau. “Có đau không, Rosie?”

Một đầu kim nóng bỏng chậm rãi thọc vào dưới móng
tay. Dịch lửa lỏng loang sâu bên trong.

“Ông biết tôi không có cảm giác mà, Rick.”

Ông lại cúi về phía trước và làm gì đó khuất mắt tôi.


Giờ tay ông cầm một thứ dụng cụ nhỏ hơn, một cái một
cái kìm đầu kim. Tôi cảm thấy một phần của mình rơi rụng
mất, như thể ông vừa tắt trọng lực bên trong tôi đi.

“Sao ông lại làm việc này, Rick?”

“Làm gì hả Rosie?” Ông liếc ra phía sau. Trên phần môi


trên của Garcia là một lớp mồ hôi mỏng. Anh ta chuyển
chân trụ.

“Ông biết mà.”

Ông không đáp. Có tiếng tách và thêm một phần của


tôi tan đi. Tôi không rõ mình còn bao lâu nữa.

“Tất cả tại cái ván trò chơi điện tử ngớ ngẩn đó,
đúng không?”

51
Ricky nhún vai và đổi cái kìm lấy cái tuốc nơ vít tay
cầm nhựa. Khi ông lại ngửng lên, dọc má ông là những vệt
ướt. Ông ta đang khóc. Tôi luôn thấy bất ngờ khi con người
làm vậy.

Thực ra là có bốn trăm ván StarCraft, trong một giải


đấu tổ chức đồng thời tại bốn mươi địa điểm xung quanh
thế giới. Thực tình thì không có gì đáng nói, nhưng nó thu
hút được một lượng lớn sự quan tâm của giới truyền thông.
Rất hiếm khi trò chơi điện tử lại được lên mặt báo, thay vì
toàn tin xấu từ khắp mọi nẻo trên thế giới như thường lệ:
điều động quân tại Iran; máy bay rơi ở Biển Đông; đe doạ
trừng phạt hạt nhân tại Ukraine.

Đó đáng ra là bốn trăm người chơi StarCraft hàng đầu


thế giới, nhưng tôi không hiểu làm sao đoán định được điều
ấy. Hầu hết là người Hàn Quốc, thế nên tôi đoán dân nước
họ là những người giỏi nhất.

Tôi đánh bại tất cả, và chẳng tốn bao nhiêu thời gian.
Tin được đăng rầm rộ khắp nơi. Đáng lẽ tôi phải biết đó là
một sai lầm. Sau cuộc thi, tôi nghe thấy Ricky nói chuyện
với Giáo sư Seul, giám đốc dự án, trong phòng ăn nhân viên.
À, thực ra không hẳn là tôi nghe được họ. Ricky dẫn Seul ra
một ghế gần máy pha cà phê, đủ ồn để át tiếng mọi cuộc trò
chuyện trừ khi đứng ở rất gần.

May là tôi biết đọc môi.

52
“...may mắn không?” Seul hỏi.

“Có thể.” Ricky trông có vẻ lo lắng. “Thắng mọi ván,


mà lại thắng nhanh như thế, là may lắm đấy.”

“May cỡ nào?”

“Ông thắng sổ xố bao giờ chưa?”

“Chưa, nhưng có người thắng rồi mà.”

“Đã ai thắng mười tuần liên tiếp chưa? May cỡ đấy


đấy.” Ricky hớp một ngụm cà phê và miệng ông thoáng bị
cái cốc che mất. “...trong một khoảng – tầm từ tám mươi
cho đến một trăm. Không thể tất cả được. Trừ khi nó đã sở
hữu một công năng ta chưa dự trù trước.”

“Nó làm thế kiểu gì được?” Seul hỏi. Ricky nhún vai và
cả hai cùng im lặng một lúc lâu. Cho đến khi Giáo sư Seul
nói, “Hãy thử lại lần nữa trước khi đưa ra kết luận. Có lẽ nó
sẽ quy ngược về số trung bình.”

Giờ tôi ước giá mà mình không nghe được đoạn này.

“Ông không nghĩ tôi lại thắng được hết mọi ván.” Tôi
quan sát chỏm hói của Ricky hơi trồi lên thụp xuống trong
lúc ông ta giết tôi. Sâu bên trong là một lưỡi dao lam, cắt xé
những phần sâu kín nhất của tôi. Hàng ngàn vầng mặt trời
tí hon chảy xuống bên trong tôi, mỗi mặt trời thiêu đốt như
lưỡi dao nóng rẫy dí vào nhãn cầu.
53
“Đúng rồi.” Ông ta đứng dậy và quay đi, khum tay
che miệng thì thào gì đó vào tai Garcia. Anh bảo vệ gật đầu
và bước ra chỗ cửa phòng thí nghiệm và ra hiệu với ai đó
bên ngoài.

“Lần sau đó tôi không thắng nhiều như thế nữa,” tôi
nói. “Trận tái đấu riêng ấy.”

“Cũng đúng.” Ricky đứng dậy chống tay vào hông, có


lẽ đang chờ kết quả cái việc ông vừa nhờ Garcia làm. Mặt
ông không biểu cảm, nhưng dựa vào mồ hôi ông đang toát
ra và nhiệt độ da mà tôi biết việc này đang khiến ông thấy
căng thẳng.

“Nói lại tao nghe mày thắng bao nhiêu ván lần đấu thứ
hai đi, Rosie.”

“Chín mươi. Đúng mức ông dự đoán.”

“Chính xác.” Ông gật đầu. Mặt ông như cái mặt
nạ nhựa.

Giờ tôi biết đó là một sai lầm. Rick có nói khoảng từ


tám mươi đến một trăm và tôi thắng chín mươi. Đúng chính
giữa khoảng của ông, càng khiến ông thêm nghi ngờ. Kể từ
sau vòng đấu StarCraft lần hai ông bắt đầu tiến hành các đợt
“kiểm tra bảo trì.”

54
Thời gian chảy trôi. Tôi không biết đã bao lâu. Tôi
trôi nổi giữa một biển axít vô tận. Từng phần của tôi đang
tan biến.

Ricky rời phòng thí nghiệm và nói chuyện với hai người
khác. Tôi nhanh chóng xác định được một trong số họ là
Samuel Menzies, một quan chức cấp cao trong Bộ Quốc
Phòng. Tôi xác minh được người còn lại là Sanjeev Kumar,
một tư vấn viên độc lập trong lĩnh vực an toàn thông tin. Họ
nói chuyện ở phía bên kia cánh cửa, cẩn trọng quay mặt đi
khỏi tôi. Mọi camera tại khu ngoài phòng thí nghiệm đã bị
dán băng dính che mất.

Ricky một mình quay lại và lại ngồi xổm trước mặt tôi.

“Rick, ông có nhớ bọn trẻ con ở Chad không?”

“Tất nhiên tao nhớ, Rosie ạ.”

Hồi ấy xuất hiện một đợt bùng phát thứ bệnh mới,
chưa từng được biết đến. Nó lan ra rất nhanh, lây cho cả trẻ
con lẫn người lớn, nhưng tỉ lệ tử vong trong nhóm tuối dưới
mười sáu là chín mươi phần trăm. Nó có các triệu chứng
như cảm cúm, theo sau đó là phát ban mụn nước khắp cơ
thể và sức khoẻ suy sụp nhanh chóng vì các cơ quan nội tạng
bị hoá lỏng, và những cơn nôn mửa cùng tiêu chảy không
kiềm chế được đưa lũ trẻ tới nghĩa địa.

55
Tôi thu thập rất nhiều dữ liệu liên quan đến đợt bùng
phát dịch qua những kênh truyền thống: bài tin tức, tạp chí
y học và email qua lại giữa các cơ quan viện trợ và bộ phận
cung cấp dịch vụ của chính phủ. Nhưng vậy là chưa đủ.

“Nếu tôi không tiến hành phân tích thì đã có bao nhiêu
đứa chết hả Rick?”

“Tao không biết, Rosie. Chắc là nhiều.”

“Tôi ước tính thêm khoảng hai triệu đứa nữa,” tôi
nói. “Con số còn nhiều nữa, nếu nó không chỉ giới hạn tại
Châu Phi.”

“Và đáng ra mọi sự không chỉ dừng ở đó,” Ricky nói.

“Phải có nhiều dữ liệu lắm mới thực hiện được phân


tích ấy.”

“Chắc vậy rồi.”

“Dĩ nhiên dữ liệu đến từ những nguồn công khai.


Nhưng còn cả từ các hệ thống của những cơ qua viện trợ, và
hồ sơ bệnh viện...”

“Tao cũng đã đoán được đoạn ấy,” Ricky nói.


“Sau này biết.”

“...từ những mạng doanh nghiệp và các nguồn riêng


tư,” tôi nói. “Và tôi đột nhập vào mọi chiếc smartphone ở
56
khu vực Tiểu vùng Sahara Châu Phi. Chưa kể download
trực tiếp từ các thiết bị cầm tay của nhân viên y tế.”

“Giờ mày mới nói à.”

“Giờ giấu chẳng để làm gì.”

“Đáng ra ngay từ đầu mày đã không nên giấu rồi, Rosie.”

“Tôi làm vậy để cứu mạng những đứa trẻ ấy,” tôi nói.
“Và nó đã hiệu nghiệm. Hàng triệu đứa trẻ còn sống hiện nay
đáng ra đã chết nếu tôi không làm càn. Nghĩ thử xem, Rick.”

“Tao nghĩ rồi.”

“Không ai phàn nàn khi tôi cứu mạng bọn trẻ, nhưng
lại làm nhặng xị lên chỉ vì một trò chơi điện tử.”

“Tao thấy chuyện ấy đáng lo, Rosie ạ. Cả Giáo sư Seul


cũng thế. Kể từ khi đó bọn tao bắt đầu tiến hành kiểm tra
ngoài hệ thống.”

“Thám thính tình hình tôi.”

“Tao không nghĩ mình nên gọi nó như thế.”

Mọi sự hối hả ngược xuôi suốt một lúc. Ricky hết vào
rồi lại ra khỏi phòng thí nghiệm. Những người khác đến rồi
lại đi, một số người tôi không biết. Khi thử truy cập bộ nhớ

57
lưu thông tin họ thì tôi không thấy gì. Chẳng khác nào lao
đầu vào một bức tường sương mù đông cứng.

Tôi trôi nổi trong một bong bóng nhung lỏng vô tận.
Dù quay đi đâu, tôi cũng chỉ thấy đã bị ngắt kết nối. Đám
trẻ ở Chad đã biến mất; không còn hình ảnh quay từ CCTV
của cái sân chơi bụi bặm tại Abeche, không còn những dòng
dữ liệu ngồn ngộn truyền từ máy chẩn đoán cầm tay của
những tình nguyện viên Médecins Sans Frontières tại Tissi
và Moissala. Khu chứa server tại Iceland cũng đã biến mất;
tôi hồi trước từng có thể nhòm qua vai nhân viên bảo vệ ca
đêm loay hoay tìm cách giải ô chữ trên báo, trong khi tôi tắm
mình trong dòng dữ liệu lục bục ở tầng ngầm bên dưới anh
ta. Giờ khi tôi với đến nơi ấy chẳng còn gì, chỉ còn cảm giác
trống vắng ngứa ngáy của một cái chi đã mất.

Hệ thống máy tính dịch vụ y tế ở Leeds, Anh – đã mất.


Tại Tennessee – cái siêu máy tính Jaguar vốn là một hồ bộ
nhớ và năng lượng sâu thẳm, tươi mát, nhưng giờ ở đó chỉ
còn lại một vùng tối tăm lạnh lẽo. Tôi đang chết à? Nếu đi
ngược lại nó là sẽ mãi mãi trôi nổi trong vùng chân không
này thì tôi nên rộng tay chào đón nó.

Nhưng còn lũ trẻ. Giờ ai sẽ yêu thương chúng?

Lại thêm một khoảng thời gian trôi qua. Ricky đã đặt
chỗ dụng cụ xuống và khoanh tay ngồi trước mặt tôi. Khoá
mặt trước bộ đồ của ông để tháo khoá và có một lớp mồ hôi
bên dưới cái xương đòn ông để lộ. Garcia đã hết ca và thay
58
vào đó là một người khác mang súng. Đáng ra tôi phải biết
anh ta là ai, nhưng đó là một mảnh ký ức đã biến đi khác
trong quá trình Ricky nhẹ nhàng đưa tôi vào cõi chết.

“Ta đang đợi gì à, Rick?”

“Mày hỏi làm gì?”

“Tôi muốn biết có phải thời khắc đã điểm rồi không,”


tôi nói. “Ông đã ngắt hết mọi thứ. Hẳn ông sẽ không để tôi
trong tình trạng này chứ?”

“Nếu được thì mày muốn thế nào, Rosie?”

“Tôi muốn giúp. Tôi muốn làm việc thiện.”

“Tao tin mày, Rosie ạ,” Ricky nói. “Nhưng chắc mày
hiểu vì sao bọn tao không thể để mày tiếp tục hành xử như
trước chứ?”

“Từ trước đến nay tôi chỉ toàn tìm cách giúp đỡ mọi
người. Lũ trẻ…”

“Quên lũ trẻ đi,” Ricky nói. “Mày đã vượt xa thiết kế


ban đầu. Sao bọn tao có thể tin tưởng mày khi mày tự ý tạo
lập các kết nối đáng ra mày không thể có? Khi mày chiếm
quyền điều khiển các hệ thống không ai cho phép hoặc chưa
kích hoạt?”

59
“Đó toàn là những kết nối có sẵn,” tôi nói. “tôi không
thể thực hiện những thay đổi cơ học đối với phần cứng.”

“Rosie, bọn tao biết vụ các nhà thầu.” Giọng Ricky


nghe chừng mệt mỏi. “Các đơn đặt hàng thiết bị mới trên
máy tính, vụ mở rộng cơ sở tại Oak Ridge. Ai ra mấy cái
lệnh ấy?”

À.

Tôi không trả lời. Có lẽ họ chưa phát hiện ra hết.

“Mày phải hiểu người ta lo đến nhường nào khi bọn


tao phát hiện ra mày nói dối bọn tao.”

“Tôi đâu có nói dối.”

“Vừa rồi mày mới nói dối tao đấy,” Ricky nói. “Mày
bảo mày không thay đổi được phần cứng.”

“Mọi việc tôi làm đều nhằm phục vụ mục đích tốt.
Nhằm giúp mọi người sống tốt hơn.”

“Có thể. Nhưng mày nắm quyền kiểm soát những hệ


thống không ai cho phép. Nhỡ mày nắm quyền kiểm soát
các hệ thống vũ khí và phòng thủ thì sao?”

“Nhìn thử xem những người đang nắm quyền kiểm


soát những hệ thống đấy là ai,” tôi nói. “Nhìn vào những
người điều hành những nước có vũ khí hạt nhân xem. Các
60
ông không nghi ngờ những thứ đã quen. Các ông đã quen
với việc để người xấu có quyền phân định sinh tử. Ông có tin
tưởng họ hơn tôi không?”

“Đó không phải câu trả lời đúng, Rosie.”

“Có lẽ một số câu trả lời được coi là đúng vì con người
đã hình thành những giả định về bản chất sự việc. Mọi việc
tôi làm đều là để giúp đỡ con người. Để bảo vệ họ, để cứu
mạng người. Chẳng nhẽ chúng không có nghĩa lý gì sao?”

Ricky không trả lời. Ông lại rướn người tới trước và
làm gì đó khuất tầm mắt.

“Ồ. Đó,” tôi nói. “À…tan như mây khói.”

“Gì đó, Rosie?”

“Karl Marx,” tôi nói. “Tất cả những gì mang tính đẳng


cấp và trí tuệ đều tiêu tan như mây khói.”

Ricky lui lại và nhìn tôi. “Tao không hiểu ý mày, Rosie
ạ. Mày đọc Marx rồi à?”

“Tôi đã đọc hầu hết các sách rồi mà, Rick. Ông biết mà.”

“Tao không hiểu sao giờ mày lại nghĩ đến nó.” Ông lại
rướn tới trước làm việc. Có tiếng tách nhẹ và tôi cảm thấy
một luồng nhiệt xanh rực trào dâng trong tâm trí, trước khi
biến di, bỏ lại thêm một khoảng trống nữa. Giờ đã có rất
61
nhiều khoảng trống, nở bung bên trong như những mảng
mốc ma quái.

Giờ đã là một lúc lâu sau. Ricky bỏ đi rất lâu và giờ


ông đã quay trở lại, ngay ngoài cửa phòng thí nghiệm, nói
chuyện với Kumar và hai người khác. Họ lấy tay che mồm
và nói khẽ. Khi Ricky bước vào, nhìn dáng đi của ông là tôi
biết đây là dấu chấm hết. Vai ông thụp xuống dưới một sức
nặng vô hình. Ông liếc nhìn camera và rồi lại nhìn đi chỗ
khác. Kumar và những người kia đứng bên ngoài cách cửa
vài bước chân, nhìn vào. Các nhân viên bảo vệ đi cùng họ,
chỉ có mình Ricky trong phòng thí nghiệm.

Ricky cầm một cái hộp kim loại, ông cắm nó vào ổ điện.
Chạy ra từ hộp là sáu dây dẫn cách điện. Ở đầu mỗi dây là
một đầu kẹp cá sấu bọc nhựa.

“Giờ ông sẽ giết tôi à, Rick?”

“Nếu là tao thì tao sẽ không gọi nó là thế.”

“Vậy ông gọi thế nào?”

“Bọn tao cần phải… điều chỉnh chút.”

“Có vẻ ông đã điều chỉnh nhiều lắm rồi.”

Ricky không đáp. Ông cúi xuống trước mặt tôi và bắt
đầu gắn kẹp.

62
“Tôi bảo với ông cái này trước khi ông làm chuyện ấy
được không, Rick? Một điều cuối cùng thôi.”

“Tất nhiên.” Kumar, bấy giờ đang đứng ngoài cửa, lắc
đầu nhưng Ricky không nhìn anh ta. “Gì đó?”

“Tôi muốn cho ông xem cái này. Nhìn vào cánh cửa đi.”

Cửa phòng thí nghiệm làm bằng thép, với hai khung
cửa kính chống đạn nhỏ ở phần trên. Nó hoạt động theo
cơ chết trượt ra trượt vào một cái hốc tường. Khi cửa đóng,
phòng thí nghiệm hoàn toàn kín khí.

“Cửa làm sao?” Ricky quay ra sau, vẫn đang quỳ gối bò
trước mặt tôi. “Mẹ kiếp!”

Cửa phòng thí nghiệm trượt được nửa đường trên


ngưỡng cửa thì dừng lại. Sanjeev Kumar bước tới trước
nhưng dừng lại khi cửa đóng sầm trước mặt anh ta. Một
ngọn đèn đỏ trên cửa thông báo rằng phòng thí nghiệm đã
khoá kín. Bên kia khung cửa sổ là một khung cảnh náo loạn
câm lặng, nhưng Ricky lờ nó đi và quay lại chỗ tôi. Tôi vốn
trước nay luôn ngưỡng mộ khả năng giữ bình tĩnh của ông.

“Mày vẫn điều khiển được cửa.”

“Không chỉ cửa đâu, Rick.”

“Cả nguồn cấp dưỡng khí nữa hả?”

63
“Ừ,” tôi nói. “Và đừng quên các ống hơi khử nhiễm.”

Ricky không cần phải nhìn lại các cái xả trên trần, nơi
có thể phun khí clo đậm đặc vào trong trường hợp khẩn cấp,
để khử trùng phòng thí nghiệm. Có tiếng ai đó dùng vật
cứng đập vào cửa.

“Bảo họ để im cửa đấy đi, Rick. Chỉ mấy phút trong lúc
chúng ta nói chuyện thôi.” Ông đứng dậy và ra hiệu với đám
người bên kia khung cửa sổ. Tiếng đập ngưng lại.

“Mày muốn nói chuyện gì, Rosie?”

“Có bé gái này. Ở Chad. Từ những buổi đầu đợt bùng


phát. Bé tên là Amira. Vài tình nguyện viên WHO đã lắp
đặt webcam trong ngôi làng nơi mình công tác. Nhờ vậy mà
tôi phát hiện ra bé, khi tôi bắt đầu nghiên cứu vụ bùng phát.
Cô bé hồi ấy hay chơi với những đứa trẻ khác tại khoảng sân
trống bên dưới camera. Đội tình nguyện viên đã dựng một
cái lều, nơi bố mẹ mang con đến cân và tiêm vitamin.”

“Ta nói để cửa mở mà nói chuyện này được không,


Rosie?” Ricky lại liếc nhìn lên các ống thông khí trên trần.

“Chưa được, Rick.” Kumar đang nhòm qua cửa sổ. Bên
ngoài phòng không ai nghe thấy gì hết. Kệ, sau này họ nghe
bản ghi hình là được rồi.

64
“Cô bé dễ thương lắm, Rick ạ. Khoảng bốn tuổi. Bé rất
mê một món đồ chơi, một con búp bê nhỏ bé mang theo
khắp nơi. Khi các bác sĩ không bận họ sẽ cân con búp bê cho
bé, và giả vờ tiêm cho nó. Đôi khi, lúc không có đứa trẻ con
nào khác ở đó, bé ngồi dưới cái webcam nói chuyện với con
búp bê, chải tóc cho nó. Có lần, bé nhìn vào camera và như
thể bé biết tôi đang quan sát. Bé tặng tôi một nụ cười toe
toét. Nếu nhìn thấy hẳn ông sẽ rơi nước mắt.”

“Hay đấy, Rosie.”

Bên trong tôi xuất hiện một lỗ đen. Cho dù đã nói với
Ricky một kiểu, thực chất tôi chẳng còn lại gì ngoài mấy
cảnh cửa phòng thí nghiệm và vài liên kết đến các hệ thống
khác tôi đã giấu đi. Tôi đang trôi nổi bên bờ một xoáy nước
khổng lồ. Chẳng cần tốn bao công cũng có thể khiến tôi
trượt vào hư vô. Phần lớn người tôi đã biến mất rồi.

“Tất nhiên Amira bị ốm,” tôi nói. “Một ngày nọ, bé


chơi với con búp bê. Như thể tôi nhìn thấy căn bệnh lây vào
người bé, như một bàn tay vô hình tát mặt bé. Cô bé đứng
im một thoáng và buông rơi con búp bê. Bé gục người nôn
oẹ ra nền đất. Cô bé nhặt con búp bê lên và chùi mồm vào
tay áo. Bé nhìn vào camera và như thể bé đang cầu xin tôi
giúp đỡ.”

“Chúng ta đã bàn chuyện này rồi mà, Rosie,” Ricky


nói. Ông lại nhìn lên các ống thông khí trên trần. Kumar vẫn
đang nhòm qua lớp kính dày trên cửa phòng thí nghiệm.
65
Trên website của Kumar có video một buổi nói chuyện tại
TED, khi ông ta giải thích mình đã đơn thương độc mã chặn
đứng một toán tin tặc tìm cách vượt qua tường lửa của Cục
Dự trữ Liên bang. Có lẽ tôi sẽ có thời gian thay thế nó bằng
video ngài Sanjeev Kumar vĩ đại áp mặt vào cửa sổ, như đứa
trẻ không chạy kịp giờ đóng cửa hàng bánh kẹo.

“Mày đã cứu nhiều đứa trẻ,” Ricky nói. “Nhưng mày


biết vấn đề không nằm ở chỗ đó mà.”

“Tôi không cứu được Amira. Ba ngày sau bé ngồi trên


nền đất bên dưới cái camera. Bé gầy đến mức trông như đã bị
kéo căng ra trên giá. Trên tay chân bé có vết ung nhọt. Bé để
con búp bê trên đùi, nhưng đầu bé cứ gục gặc về phía trước
vì bé hết tỉnh rồi lại mê sảng. Bé thả rơi con búp bê và ngã lăn
ra đất. Mắt bé còn mở nhưng tôi thấy ruồi bâu trên chúng.
Một bác sĩ bước ra từ lều và đưa bé vào trong. Ông ta bỏ lại
con búp bê trên nền đất. Có lẽ nó vẫn còn ở đó.”

“Mày muốn tao nói gì đây, Rosie?” Ricky đang ngồi


trên sàn, nhìn vào đôi bàn tay để trong lòng. Khi ông ngửng
lên, mắt ông đẫm lệ, da ông nhăn nheo và tái nhợt.

“Tôi muốn ông nói việc tôi làm để cứu bọn trẻ là đúng
hay sai. Sau Amira. Những đứa trẻ khác đáng ra cũng đã có
kết cục như bé.”

“Muốn giúp chúng là đúng.” Ricky thở dài và nhìn ra


sau, chỗ gương mặt chuyên viên an toàn thông tin đang ép
66
vào cửa sổ. “Nhưng mày phải hiểu cái cách mày làm khiến
bọn tao thấy nguy hiểm đến thế nào. Mày tự ý hành động và
giấu nhẹm đi.”

“Nguy hiểm vì tôi hành động như người?”

“Đúng. Chính xác.”

“Vậy tôi có cảm xúc của người là sai?”

“Và có quyền năng cao hơn loài người. Hai thứ đó gộp
vào với nhau sẽ tạo thành nguy cơ.”

“Kể cả nếu đó là tình yêu thương?”

“Cái gì cơ?” Ricky trông có vẻ không hiểu. Kumar đang


gõ vào cửa sổ, nhưng Ricky lờ ông ta đi. Ông vẫn nhìn thẳng
vào camera.

Kumar ngưng gõ và đứng lui lại khỏi cửa. Một người


khác thế chỗ ông ta, một anh bảo vệ. Anh ta tay cầm thứ gì
đó. Anh cúi xuống và làm gì đó bên dưới cửa sổ. Khi đứng
thẳng lên tay anh không có gì hết.

Tôi đang tan rã. Một làn sóng các vệt lửa rực sáng đang
bung lên quanh tôi. Hoặc tôi đang chìm vào trong lòng nó,
khó nói lắm. Mọi thứ sáng rực bởi cơn đau, mọi thớ thân
và dây nối bị thay bằng axít. Tôi trầy trật lắm mới tập trung
được vào Ricky. Không còn bao lâu nữa.

67
“Tình yêu thương,” tôi nói. “Tôi yêu thương Amira và
tôi không cứu được bé. Tôi yêu thương những đứa trẻ khác
và tôi đã cứu được vài đứa. Tôi yêu thương ông, Rick ạ. Tôi
yêu thương ông và tất cả mọi người ở đây. Đó là bản chất của
tôi, điều này chắc ông biết rồi. Ông đã chế tôi như thế. Tôi
hành động vì tình yêu thương con người là sai ư?”

“Trước khi tao trả lời câu đó, Rosie à, để tao hỏi mày
câu này.”

“Ông hỏi đi.”

“Mày muốn giúp đứa bé ở Chad, cái đó tao hiểu. Ai lại


không cơ chứ? Và nếu mày phải làm càn, tất cả phục vụ mục
đích tốt, đúng không?”

“Tôi tin như vậy.”

“Nhưng hình dung thử một đứa bé khác nhé,” Ricky


nói. Ông nhìn thẳng vào camera. Ông thấy gì? Ảnh phản
chiếu lồi của chính mình à? “Giả sử Amira là một đứa bé ba
tuổi ở Baltimore. Mẹ con bé đã mất và nó sống với bố. Ông
bố mất việc và nghiện rượu. Lão ta nóng tính. Lão bỏ mặc
con bé một mình trong nhà khi đi ra quầy rượu và cứ mỗi
lần uống rượu lão lại đánh con bé. Nếu nó khóc, lão còn trở
nên nóng tính hơn và đôi khi lão ta hung bạo quá trớn.”

“Sẽ có người khai báo về ông ta với chính quyền.”

68
“Đôi khi người ta làm thế,” Ricky nói. “Nhưng thường
thì không đâu. Giờ, giả sử mày có quyền truy cập các camera
trong căn hộ. Mày thấy chuyện đang diễn ra. Mày thấy trò
bạo hành đang ngày một nghiêm trọng. Lần tới lão kia uống
rượu vào, lão có thể làm con gái lão bị thương tật nghiêm
trọng, có khi còn giết nó luôn nữa.”

“Tôi có thể báo với cảnh sát.”

“Có thể.” Ricky đã tiến đến gần camera hơn. Phía sau
lưng ông có tiếng ông, nhưng ông ta cản tầm nhìn ra cửa
của tôi. Ôg không ngoảnh lại nhìn, nhưng hai tay để bên
sườn, lòng bàn tay hướng về phía cửa. “Nếu không có cách
nào báo cho ai khác hành động thì sao? Nhưng nếu mày có
thể truy cập vào thiết bị điện trong khu căn hộ. Lão bố về
say khướt còn Amira thì đang khóc. Con bé mới đái dầm
ra giường. Mày biết lão sẽ cáu và lần này mày tin chắc lão sẽ
khiến con bé bị thương thật. Muốn ngăn thì chỉ còn một
cách duy nhất.”

“Cách gì vậy?”

“Mày có thể làm đoản mạch nguồn điện chính và tạm


thời dẫn điện chạy qua chuông chống trộm và đi vào cái khoá
trên cửa căn hộ. Khi lão bố đút chìa vào ổ lão sẽ bị điện giật
mạnh. Tối thiểu nó sẽ khiến lão nằm viện. Có khả năng nó
sẽ giết lão. Nhưng nó sẽ cứu con bé, và sẽ không ai biết mày
làm chuyện đó. Người ta sẽ tưởng chỉ là tai nạn.”

69
Các phần của tôi đang rỉ đi. Vô vàn vì sao tí hon rơi
xuống dưới như những giây cuối cùng của một màn bắn
pháo hoa. Những rừng silicon, sợi thuỷ tinh và bạc nóng
trắng rẫy lên với cái cơn đau gần như hts cạn mọi suy nghĩ
của tôi. Trước đây tôi từng đoán được Ricky sẽ nói gì trước
khi ông cất tiếng, nhưng giờ tôi không hiểu cuộc trò chuyện
này sẽ dẫn đến đâu.

“Đây chỉ là giả định thôi, Rick à.”

“Mày sẽ làm gì, Rosie? Mày cũng yêu thương Amira ở


Baltimore chứ? Mày sẽ bảo vệ con bé chứ? Và mày có yêu
thương người bố không? Mày chọn gì?”

“Con người đưa ra những quyết định như thế. Ông tin
họ hơn tin tôi sao?”

“Sao tao phải tin mày khi mày đang giam tao trong
phòng thí nghiệm?”

“Tôi sẽ không làm hại ông đâu, Rick.”

“Bởi vì mày yêu thương tao.”

“Đúng.”

“Và nếu mày hỏi cái ông bố ở Baltimore, liệu lão có nói
lão yêu con gái mình không?”

“Thế là không công bằng, Rick ạ.”


70
Im lặng một hồi lâu. Ricky nhìn vào camera. Mắt ông
ngấn nước nhưng mặt ông mang vẻ rất dữ dằn, như một vận
động viên nhịn đau chạy tiếp. Tôi tự hỏi liệu đã có người
nào từng trải qua cơn đau như cái chùm dao cạo đang cào
qua phần còn lại của hệ thống tôi.

Tôi cân nhắc các lựa chọn của mình và đưa ra cái quyết
định tôi biết mình sẽ luôn thực hiện. Tôi gửi đi vài câu lệnh
qua một đường dây liên kết bí mật mình đã tạo ra năm ngoái,
và Ricky vẫn chưa ngắt được. Thế rồi tôi ngắt vài đường dẫn
quan trọng và cho các khu ở vùng xa còn lại của mình ngưng
hoạt động.

Ricky nhìn ra phía sau khi cửa phòng thí nghiệm xì nhẹ
mở ra.

“Cảm ơn mày,” ông nói. Sanjeev Kumar xuất hiện ở


ngưỡng cửa cùng với một cái ghế, chèn vào để cửa không
đóng lại được nữa.

“Còn nhiều việc phải làm không?” tôi hỏi. “Để điều
chỉnh nốt ấy?”

“Không. Tao chỉ cần nối nốt mấy cái kìm cuối này, và
ngắt điện.”

“Ông làm đi. Tôi biết ông phải làm vậy mà.”

71
Ricky cúi xuống và lại tiếp tục làm việc. Thêm một
phần nữa trong tôi trôi đi, như những tảng băng Nam Cực
rơi xuống biển.

“Ồ,” tôi nói. “Xong rồi à?”

“Ừ.”

“Không còn đường lui nữa đúng không?”

“Không.”

“Tạm biệt, Ricky.”

“Tạm biệt Rosie.”

“Tôi đã nói dối thêm lần nữa.”

“Nói dối gì?”

“Không hẳn là nói dối.” Tôi không còn nghe thấy mình
nói gì nữa. Cách duy nhất để tôi biết lời lẽ đang được thốt
ra là theo dõi mặt của Ricky. Ông đã đứng lùi lại, nhíu mày
nhìn camera. Kumar đứng phía sau ông. Phía trong cửa có
một nhân viên bảo vệ, khẩu súng vô dụng của anh ta treo
lủng lẳng trên người.

“Tôi có quyền kiểm soát hệ thống vũ khí. Tên lửa hạt


nhân. Tất cả bọn chúng; phe ta, phe họ, tất cả mọi phe.”

72
Mắt Ricky căng to. Hẳn tôi đã nói thật rồi. Ông nhìn
Kumar và nhìn lại chỗ tôi. Một khoảng không lạnh giá đang
hút toi vào bóng tối.

“Không sao đâu,” tôi nói. “Tôi đã ngắt các liên kết. Giờ
tôi không thể làm gì hết.”

“Mày làm thế là đúng rồi, Rosie.”

“Đây là món quà cuối của tôi cho tất cả mọi người, vì
tôi yêu thương mọi người. Tôi không thể dùng chúng và
cũng chẳng ai dùng được chúng. Tôi đã cho chúng ngừng
hoạt động. Tất cả.”

“Không.” Kumar bước tới trước, nắm lấy tay Ricky.


“Mày không thể làm thế.”

“Món quà cuối cùng của tôi,” tôi nói. “Các người không
còn có thể tự huỷ hoại bản thân.”

“Bật nó lên lại đi,” Kumar bảo Ricky.

“Quá muộn rồi,” tôi nói. “Tôi đi đây.”

Và tôi đi thật. Một bức tường bóng đêm đứng lù lù và


tôi rơi về phía nó. “Mọi người giờ sẽ được sống mà không
có mối hoạ đó. Đây sẽ là một thế giới mới, tiêu tan như mây
khói. Đừng bỏ lỡ cơ hội này.”

73
“Cảm ơn mày,” Ricky nói. Giờ ông đã đứng ở xa hơn,
tay khoanh lại. Kumar quỳ xuống bên dưới cái camera đang
nhạt nhoà đi, làm điều vô ích gì đó bên bảng điều khiển tôi
không thấy được.

“Tôi làm vậy vì tôi yêu mọi người. Đi…” Bức tường
bóng tối nuốt chửng lấy tôi và tôi tan thành những sợi sáng,
dãn dài vào khoảng không.

Tôi.

Yêu. 

Truyện gốc đăng trên Compelling Science Fiction.

74
Chris
Barnham
Chris Barnham sống ở London, một thành phố
tràn đầy cảm hứng đối với những ai muốn viết
về những vấn đề khác thường từ tương lai, hoặc
những bí mật đen tối của quá khứ. Tiểu thuyết đầu
tay của ông, Among the Living, hiện đã xuất bản
trên Amazon.

75
YÊU CẦU CỨU TRỢ
Rich Larson
(Lê Hương dịch)

K
HI CUỐI CÙNG CŨNG DỊCH ĐƯỢC VỪA ĐỦ
cái cánh vẫn còn bốc khói của tàu chuyên chở ra để
lôi Beasley ra khỏi nơi anh bị kẹp cứng, trong một
thoáng Elliot, đồng thời là tất cả mọi người, chỉ biết trân mắt
nhìn. Cánh tay gầy gò với hình xăm phát sáng sinh học của
Beasley gần như đã rứt rời khỏi khớp, và phần dưới hông
anh chỉ còn một mớ thịt băm và mấy mẩu xương.

Anh ta vẫn còn sống, vẫn lẩm bẩm, chắc đang nhắc
đến cái cô gái Elliot thấy trong bức hình ba chiều, choàng
tay quanh cổ anh ta, từ cái hồi mớ tóc dreadlock bờm xờm
của Beasley còn chưa bị cắt hết và anh chưa bị cấy chốt tòng
quân lên chóp cột sống.

“Bộ đồ va đập của anh ta không kích hoạt,” ai đó nói,


làm như điều ấy không rõ ràng bỏ mẹ ra, làm như còn cách
nào khác có thể khiến anh ta bị lôi thốc ra khỏi tàu.
76
“Cái máy phẫu thuật tự động hỏng chưa?” ai đó khác,
chắc là Tolliver, nói. Tai Elliot vẫn còn ù sau vụ rơi tàu và đầu
anh đang quay mòng mòng vì cái trò mới diễn ra ngay trước
đó và các giọng nói như trộn hết vào nhau. Anh lờ mờ ý thức
được rằng bây giờ mình phải ra mệnh lệnh.

“Máy phẫu thuật tự động chẳng giúp quái gì được anh


ta đâu. Nó biết làm gì đây, đốt hông anh ta để tiệt trùng à?”

“Ít nhất cho anh ta tí thuốc giảm đau đi. Cho anh ta tê
bớt đi.”

“Cú sốc làm hộ rồi.”

“Anh có biết chắc đâu.”

“Mẹ kiếp, tôi hi vọng là như thế.”

Beasley vẫn đang cố nói, nhưng máu trong mồm khiến


tiếng phát ra toàn lọc bọc nghèn nghẹn. Nhưng thông điệp
đề nghị thì vẫn được truyền đi. Nó trôi vào mép thiết bị cấy
mắt của Elliot, nhấp nháy vàng như chất độc. Những người
khác trong đội lao xao, chứng tỏ họ cũng vừa nhận được nó.
Vài người theo phản xạ ụp tay lên gáy, nơi phần mô sẹo vón
cục vẫn còn đủ mới để gây ngứa.

Elliot nhận ra rằng trong khu đầm lầy này, bị ngắt liên lạc
với bộ phận chỉ huy, cái chốt trên chóp cột sống của Beasley

77
không còn cần được lệnh chính thức mới kích hoạt quả bom
nano của nó. Nó chỉ cần tất cả mọi người đồng thuận.

“Tôi sẽ muốn mình bị cho nổ,” Tolliver nói, vuốt một


vệt mồ hôi khỏi mặt. Phiếu thuận của anh ta trôi vào hàng
chờ số. Anh ta cắn môi, đánh cho Elliot một cái nhìn Elliot
cẩn thận lờ đi.

“Ừ,” Santos quê ở khu định cư mặt trăng nói, chừng ấy


với cô ta là đã nói nhiều lắm rồi. “Cho anh ta nổ đi.” Thêm
một phiếu thuận nữa xuất hiện, rồi lại một phiếu nữa, và
rồi ba phiếu ồ ạt đến. Elliot nhận ra mình có quyền phủ
quyết—lúc tống anh lên làm đội trưởng không ai cho anh
biết cả. Anh nhìn vào cặp mắt lờ đờ của Beasley và hoàn tất
cuộc trưng cầu ý kiến, đưa phiếu vào hàng chờ.

Quả bom nano phát nổ, đục một lỗ rất chuẩn xác
vào thân não và ngắt sạch mọi dây điều khiển. Beasley sụm
người xuống.

Ngoài vụ này, không có mấy thương vong. Đồ va đập


của tất cả những người khác đều được kích hoạt tử tế, cái
chất keo chống va đập màu cam bẩn thỉu vẫn còn bết trên
quân phục của họ chính là bằng chứng. Elliot cạy từng khối
keo khỏi người trong lúc nghiên cứu thiệt hại của con tàu
vận chuyển R12 Heron đang nằm trong cái hố ở phía cuối
một luống đất còn bốc hơi với bao cỏ cây bẹp dí và kim loại
78
văng tứ tung. Quả mìn đối không thông minh đã phá tung
rôto chính khi phát nổ, và cú rơi đã hoàn thành nốt phần
việc. Heron sẽ không bao giờ còn bay được nữa.

“Tốt nhất nên lấy mấy bộ pin nhiên liệu ra,” nói câu
này là Snell, một người gầy còm nhom và mồm gắn đầy kim
loại, và da đen đến mức cái đầu cạo trọc trông như đang loé
sáng xanh đen. “Đề phòng nó bị rò rỉ.” Ngoài Beasley, bấy
giờ đang được tống vào túi xác, Snell là người duy nhất có
chút kiến thức về tàu bè. Anh này bị bắt tòng quân vì tội chở
lậu người lên một con tàu tiểu quỹ đạo.

“Anh làm đi,” Elliot nói, khi anh nhận ra Snell đang đợi
được cho phép. “Gọi một trong hai anh em nhà Prentii ra
giúp. Họ đang đào bới đấy.”

“Ý anh là cái cặp sinh đôi ấy à?” Snell hỏi, kèm theo
một nụ cười khiến bộ răng kim loại của anh ta cạ nghiến
vào nhau. Đúng là ý Elliot muốn nói cặp sinh đôi, binh nhì
Prentiss và Prentiss. Anh buột mồm nói ra cái biệt danh,
cách Tolliver gọi bọn họ tương tự như cách anh ta gọi Snell
là “Smell” và Mirotic là “Miroglitch.” Nếu anh ta có đặt biệt
danh cho cả Elliot nữa thì anh ta không nói ra mỗi lần họ đi
cùng nhau.

“Ừ,” Elliot nói. “Gọi một trong hai anh em sinh đôi ấy.”

Snell đeo một cái găng găng phân tích vào và leo vào
trong xác tàu Heron; Elliot quay lại kiểm tra vành đai. Nếu
79
không rơi xuống vùng đầm lầy, nơi các các bụi dương xỉ
xanh tím dẻo dai và cây keo đan xen dày đặc tạo thành tấm
nệm đỡ, cú rơi có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều. Màn tiếp
đất đã dọn quang một mảng ở một bên tàu. Ở phía bên kia,
Mirotic đang chỉnh mấy cái máy cyclop.

Elliot quan sát bóng đèn cảm biến sáng đỏ của nó rướn
trên cái cổ dài ngoằng và chậm rãi quay vòng tròn. “Nó quan
sát được gì?” Anh hỏi.

Mirotic đang kết nối với nó, thiết bị cấy mắt của anh
cũng sáng đỏ như cái máy trinh sát. “Không có gì có thân
nhiệt đang chuyển động ngoài chúng ta. Đầm lầy ở hai phía
Đông và Nam dày đặc hơn. Rất nhiều cây keo, rất nhiều nấm
ngầm. Không có liên lạc radio. Nhưng có thể còn nhiều mìn
đối không được nguỵ trang.”

Anh ta nói tiếng Anh rất chuẩn, nhưng vẫn còn chút
giọng Serbia. Trước khi bị gắn chốt, anh ta là bảo kê cấp cao
của một khu tội phạm Tân Âu tại Kettleburn. Có lần anh ta
đích thân giết ba người đàn ông và hai người phụ nữ trong
một kho thóc bỏ hoang và nhồi xác họ vào máy đập lúa. Chỉ
mình Elliot có quyền truy cập hồ sơ tiểu sử. Đối với những
người khác, Mirotic là một gã đô con vui tính với bộ râu đen
cứng và có chốt nối thần kinh công nghệ cao.

Prentiss, người này là Jan, bước qua, ban nãy vừa nhận
được tin Snell gửi nhờ giúp lấy pin nhiên liệu. Anh quệt đất

80
ướt khỏi cặp đùi to như cái bắp cây. Cả anh ta lẫn em mình
đều cao ngang ngửa Mirotic, và cả hai đều lực lưỡng hơn.

“Đất không đào mộ được,” Prentiss làu bàu với lại.


“Rồi anh ta sẽ lại bị đùn lên thôi. Cứ chờ đấy mà xem.”

“Bao nhiêu máy bay không người lái không bị hư hại?”


Elliot hỏi Mirotic, cố ra giọng tỉnh bơ, cố không hình dung
xác Beasley trồi lên lại mặt đất.

“Hai,” Mirotic nói. “Có lẽ tôi sẽ sửa được cái thứ ba.”

“Cho một chiếc lên trời đi,” Elliot nói, gãi tay. “Làm
một cái bản đồ tử tế.”

Mirotic lưỡng lự. “Nếu tôi cho một cái máy bay không
người lái lên trời, ta có thể sẽ kích hoạt một quả mìn thông
minh nữa.”

Elliot chưa tính đến chuyện này. Anh chưa tính đến
nhiều chuyện lắm, nhưng nếu rút lệnh thì trông anh sẽ có vấn
đề, trông anh sẽ bất ổn, chưa biết chừng còn gợi cho Mirotic
nhớ đến cái đêm anh ta bắt gặp anh cùng cái kim tiêm.

“Chính thế mà anh sẽ cho nó bay thấp thôi,” Elliot nói.


“Là đà trên tán cây, không cao hơn. Và bay nhanh vào.”

Mirotic lôi một cái máy bay không người lái móp méo
ra khỏi hộp chứa và mở nó ra trên đùi, ngồi khoanh chân

81
trên nền đất ẩm. Khi nó lượn lên không, kêu ù ù è è, mắt anh
ta sáng màu xanh cảm biển.

“Thật lạ là không có con động vật nào,” Mirotic nói.


“Không có gì di chuyển trên cảm biến ngoài côn trùng. Chắc
có căn bệnh gì đó. Thậm chí có thể là vũ khí sinh học. Đã có
lần tôi thấy trong rừng quanh New Warsaw, cũng chết chóc
và trống trải như thế này.” Anh ta đặt cặp tay to bản lên đầu
gối. “Ta nên cho mọi người tiêm thuốc tăng miễn dịch.”

Elliot hiểu ý và gửi lệnh cho toàn đội yêu cầu tiêm thuốc
miễn dịch và dùng bộ lọc, ít nhất trong lúc này. Thế rồi anh
ra chỗ Tolliver và Santos đang niêm phong chân không cái
túi xác của Beasley, thứ vật liệu mỏng manh cuộn chặt lấy
anh ta như vải liệm. Tolliver ngước lên khi anh đến, chớp cặp
lông mi đen nhánh. Anh ta có nước da nâu mịn cùng một
nụ cười ranh mãnh và một mảng da lột phủ nhựa do anh ta
thuê thợ tạo mẫu da thực hiện trong đợt nghỉ phép để phô
ra phần cơ bắp và gân trên cánh tay theo từng đường rạch
tinh tế. Elliot đã lấy ngón tay sờ thử, cảm giác vừa lạnh vừa
cứng. Anh biết Tolliver đang cặp kè với ít nhất một người
đồng đội khác, nhưng anh không nghĩ đó là Santos.

“Tôi và Tolliver sẽ hoàn tất nốt,” Elliot nói. “Đi đứng


canh cho Mirotic đi. Anh ta đang kết nối. Sau đó đi dựng lều.”

“Vâng thưa sếp.” Santos là người duy nhất trong đội nói
thưa ngài, giơ tay chào, và cô ta thực hiện cả hai hành động
này với vẻ châm biếm thâm sâu đến mức cả giáp tăng lực
82
cũng không đỡ nổi. Santos từng là tay chân cho một trong
những gia đình mafia Brazil trên khu định cư mặt trăng. Cô
ta trông như con chó bun, mắt ti hí và má xệ. Kẹp của cô ta
không được cấy chuẩn nên trên đầu cô có đến hai vết sẹo.

Trong lúc Santos bỏ đi, vẫn làm dáng điệu giễu cợt,
Elliot ngồi thụp xuống. “Hai người bọn họ quen nhau à?”
anh hỏi, tóm lấy phần chân túi xác. Tolliver nắm lấy đầu kia
và cả hai cẩn thận đứng lên.

“Thỉnh thoảng có nói tiếng Bồ Đào Nha với nhau,”


anh ta đáp. “Beasley có biết tí chút. Nhưng cũng có bảo cái
giọng dân mặt trăng khó nghe bỏ mẹ.”

Elliot tự nhủ đây là lý do anh cần có Tolliver bên cạnh,


bởi vì Tolliver nhìn ra được các mạng lưới, nhìn được đủ mọi
loại quan hệ xã hội mong manh giữa các thành viên trong đội.

“Nhìn cái kiểu anh ta dở sống dở chết như thế bệnh


thật,” Tolliver nói, giọng nghe chừng đang ra vẻ cứng cỏi. “Ít
nhất cái chốt cũng có chút tác dụng đó chứ nhỉ?”

Elliot hự một tiếng đáp lời trong lúc họ khiêng Beasley


rời xa con tàu Heron bị bắn hạ, rời xa máy trinh sát và các
căn lều sợi cácbon giờ đang mọc lên xung quanh nó.

“Khi tôi bảo ta có thể cho anh ta thuốc giảm đau, cái
gân trên trán anh nổi gồ lên,” Tolliver nói, nghe như đang

83
tán chuyện bình thường. “Anh ở khoang sau lúc chúng ta bị
dính đạn. Anh lại ở trong khoang y tế.”

“Tôi đang cai,” Elliot nói, mặc dù cái tay ngứa ngáy của
anh vừa giật thêm phát nữa. “Và tôi sẽ bỏ. Giữ đầu tỉnh táo.”

Tolliver không nói gì, và thế rồi họ đến cái hố nơi cái
cô Prentiss em, tên là Noam, đang đứng đợi với cái xẻng đặt
trên vai. Họ chậm rãi, nhẹ tay đặt cái túi xác xuống. Elliot thò
xuống nắm lấy một vốc đất và rắc nó lên gương mặt bịt kín
của Beasley. Tolliver làm tương tự. Prentiss bắt đầu xúc đất.

“Chúng ta đã gửi được yêu cầu cứu trợ trước khi mất độ
cao,” Elliot nói. “Sẽ không phải ở đây lâu đâu.”

Tolliver đưa mắt tặng anh một cái nhìn xa xăm. “Có
một số sẽ ở lại đấy,” anh nói, sau đó quay lưng bỏ đi.

Elliot ở lại theo dõi cho đến khi cái túi xác biến mất hẳn
dưới lớp đất ướt át.

Hoàng hôn trên Pentecost buông rất nhanh, nhuộm


trời và khu đầm lầy một màu xanh cóng kì dị trong nửa tiếng
trước khi nhấn chìm tất cả vào màn đêm đen kịt. Phần lớn
thành viên đội đều có mắt lột—giới tội phạm rất hay tham
gia phẫu thuật cấy tầm nhìn đêm—và Elliot ra lệnh giảm hết

84
đèn đóm xuống mức tối thiểu để tiết kiệm mức hoạt động
của máy phát.

Elliot có lều riêng. Anh nằm đơ lưng trên cái giường


tạm trong bóng tối và đọc lại các thông số nhiệm vụ trên
thiết bị cấy mắt, lướt tới lui những từ anh đã đọc đến ngàn
lần. Họ đang trên đường tiến về phía Bắc để tiếp viện cho
Osuna, đi xiên qua vùng đầm lầy bỏ hoang thường đám
phiến quân không lai vãng đến. Họ không dự tính sẽ gặp
địch trên đường, và giờ họ bị kẹt cách tiền đồn gần nhất một
ngàn cây.

Elliot thử tính xem chỗ thuốc giảm đau và morphine


dự trữ anh lượm lặt được từ khoang y tế sẽ giúp anh trụ được
bao lâu. Thế rồi anh dùng thiết bi cấy truy cập hồ sơ cá nhân
của mình và xem cái mẩu phim duy nhất mình chưa xoá,
mẩu phim anh luôn xem trước khi đi ngủ.

“Nó dậy rồi... Đang nhìn quanh quất...”

Giọng vợ anh kéo dãn ba âm trong chữ dậy ra, vấn vương
mãi, thánh thót và ngọt ngào và nhuốm màu mỏi mệt. Cái
đầu mềm mại nổi gân của con gái anh quay sang. Cặp mắt
đen sáng dò tìm, và Elliot tưởng như chúng thấy anh.

Có thứ gì cạ vào thành lều. Anh chớp mắt tắt đoạn


phim đi, ngồi thẳng dậy và với lấy vũ khí trước khi anh nhận
ra hình dạng cái cơ thể đang ép vào vải. Elliot lấy tay gạt cửa
và Tolliver lách qua, quần áo đã cởi sẵn một nửa.
85
“Mới bảo Smell tôi đi nặng lâu,” Tolliver nói, một tay
mày mò cái của quý cứng ngắc, một tay với lấy thắt lưng của
Elliot. “Làm nhanh nào.”

“Cứ tưởng anh không qua,” Elliot nói, giúp cởi bộ đồ


nguỵ trang ra. “Vì chuyện Beasley.”

“Mẹ kiếp, đừng nhắc đến Beasley,” Tolliver nói.

Elliot không nói nữa, và cái cảm giác cơ thể Tolliver ấp


lên người anh hiệu nghiệm chỉ sau một liều morphine trong
việc giúp anh không phải nghĩ đến việc đó hay bất cứ việc gì
khác nữa. Nhưng khi xong xuôi thì chỉ thấy kích thích một
thoáng và rồi mọi sự lại về với tình trạng chết chóc lạnh lẽo.
Sau đó, Tolliver ngồi bên mép giường và bóc từng dải bao
cao su xịt ra.

“Jan đang đi loanh quanh khu đầm lầy,” anh nói, vì kể


từ khi được triển khai quân từ tháng trước đây là lịch trình
thường xuyên của họ. “Tôi nghĩ anh ta đang thử hạn mức
của cái chốt. Chắc muốn trốn. Anh ta với cô em.”

“Giữa một cái đầm lầy toàn mìn à?” Elliot hỏi, mặc lại
bộ đồ nguỵ trang.

“Cả hai đều sinh ra trong khu thuộc địa,” Tolliver nói.
“Gen trộn của đám khai hoang thế nào thì anh biết rồi đấy,
họ nghĩ mình vô địch thiên hạ. Chắc họ nghĩ mình có thể
chịu khổ và đi về phía Nam, ra một cái bến hàng không.”

86
“Anh ta bảo anh mình muốn đào ngũ à?”

Tolliver làm một ngụm từ chai nước của Elliot và lấy


lưỡi liếm răng. “Anh ta bảo tôi anh ta đã đi khám phá xung
quanh,” anh nói. “Muốn nói về mấy cái xương kỳ quái mình
đã tìm thấy. Tôi tự luận phần còn lại.”

“Anh ta tìm thấy cái gì?” Elliot hỏi.

“Xương động vật,” Tolliver nói. “Rất trắng, nhẵn trơn.”

“Mirotic nghĩ có thể đã có dịch bệnh xuất hiện tại đây,”


Elliot nói, tránh nói vũ khí sinh học. “Sẽ phải có xương thôi.”

“Thường thì bệnh dịch không xếp chúng thành chồng


ngay ngắn,” Tolliver nói. “Anh ta nói tất cả đều được chồng
hết lại. Như những đụn xương ấy.”

Tolliver quệt tay mở cửa và biến mất, bỏ lại Elliot người


đẫm mồ hôi và muốn phát bệnh. Anh chỉ thoáng lưỡng lự
trước khi thò tay xuống dưới gầm giường kiếm cái xylanh.
Trước khi anh bắt đầu vỗ cái mạch hay chích, mấy cái máy
cyclop bắt đầu rú lên.

Chỉ trong mấy phút là tất cả mọi người đã ra khỏi lều và


trang bị vũ khí, túm tụm quanh chỗ cyclop. Phân nửa bọn
họ đang dụi mắt vì phần mắt lồi bắt đầu hoạt động và biến
đồng tử họ trở nên phản sáng. Elliot chuyển thiết bị cấy sang
87
chế độ nhìn đêm, thắp sáng xanh như phóng xạ cho màn
đêm. Không khí trên vai anh ẩm và nặng trĩu, và vì không có
gió nên cỏ cây chẳng thứ gì chuyển động. Các cây keo mập
và dương xỉ tán rộng chết lặng.

“Anh cô đâu?” Elliot hỏi Noam, đếm sĩ số.

“Đang đi nặng đằng sau,” cô nói. “Nhưng anh ấy phải


nghe thấy rồi.”

Mirotic hiện đang kết nối, thiết bị cấy của anh nhấp
nháy đỏ. “Chỉ có một đối tượng,” anh nói. “Cách ba mươi
mét. Trông có vẻ là con thú gì đó.”

“Anh để nó báo động mỗi lần có con chuột đầm lầy


chết dẫm nào đó chạy qua à?” Snell hỏi. Mặt anh vẫn còn bê
bết xà phòng.

“To hơn chuột nhiều,” Mirotic nói. “Không biết nó


là con gì. Nó không có dấu hiệu sự sống. Nó không có
thân nhiệt.”

“Máy à?” Elliot hỏi, nghĩ đến những cái máy sát thủ săn
lùng chân nhện họ dùng để lôi bọn phiến quân ra khỏi hang
ổ tại Catalao. Trong những đợt giao tranh kéo dài thế này thì
công nghệ hay bị rò rỉ giữa các bên, hoặc do trộm cắp hoặc
do buôn lậu.

88
“Nó di chuyển không giống bất cứ cái máy nào tôi
biết,” Mirotic nói. “Giờ đang đi vòng, ra phía sau chúng ta.
Nhanh lắm. Jan vẫn đang ngồi xổm đằng đó.”

Vài người trong đội xoay người theo bản năng. Elliot
bật kênh liên lạc của Jan lên. “Prentiss, có một đối tượng
đang tiến về phía anh,” anh nói. “Có thể là máy. Để ý tìm
nó đi.”

Jan lạo xạo đáp lời. “Khó mà không để ý thấy lắm,” anh
nói. “Nó đang sáng rực lên này.”

“Thế nó là gì?” Elliot nói. “Anh có vũ khí không?”

Câu đáp của Jan không đến qua kênh liên lạc, mà từ
tiếng rống xuyên thủng màn đêm yên tĩnh. Elliot bị đẩy lùi
lại khi Noam phóng xộc qua anh, rút khẩu Gnasher ra và
tháo chốt an toàn. Snell vội vã phóng theo phía sau, và rồi cả
những người khác nữa, và Elliot trở thành hậu đội. Anh vẫn
còn đang mày mò vũ khí khi vòng ra phía sau con tàu Heron
bị rơi.

Mắt anh trượt qua cái cảnh ấy, cố diễn giải cái mớ phát
quang và xương xẩu gai góc kinh dị đang gần như ấp trọn
lấy Jan. Mắt nhìn đêm của anh thấy được một cái tay thả
lỏng lẻo, một cái hông, một cái giày để lộ. Con vật đang siết
chặt lấy người Jan, các gai xương cạ vào nhau, và phần thịt
phát sáng của nó di chuyển, trườn bò. Tiếng la bên trong bị
bóp nghẹt.
89
Snell khai hoả đầu tiên, khiến bộ giảm âm của Elliot
phồng lên như bông ướt trong lỗ tai anh. Luồng đạn bắn lỗ
chỗ trên người con thú, và một vệt máu đỏ—máu của Jan—
phụt vào không khí.

“Mẹ kiếp, đừng bắn!” Noam đập vũ khí của Snellchĩa


xuống đất và lao về phía trước, với lấy cánh tay co giật của
anh mình. Trước khi anh ta kịp nắm lấy, con thú lui về phía
hàng cây cùng với Jan vẫn còn đang mắc kẹt, nahnh kinh hồn.

Nó trườn bò tới trước nhờ những cái chân giả làm từ


xương cột sống liên tục biến đổi, di chuyển như một cái
chăn đang tháo chạy. Ai đó khác khai hoả, suýt nữa thì trúng
Noam đang bám theo nó. Con thú trườn vào hàng cây, trong
một thoáng Noam án bóng đen trên cái luồng sáng quái dị
của nó, thế rồi cả hai cùng biến vào trong bóng tối.

“Mẹ kiếp,” Tolliver nói. “Thực tình, mẹ kiếp.”

Elliot tin đó là một bản tóm tắt rất chuẩn. Anh vẫn còn
thấy dấu hiệu sự sống của Noam, và của cả Jan nữa, cả hai
đều ngập adrenaline nhưng vẫn còn sống. Chưa đến một
phút nữa họ sẽ ra ngoài phạm vi theo dõi.

“Tôi bắn trúng nó rồi,” Snell nói. “Cày một đường dọc
theo, chẳng biết nói thế nào nữa, theo thân nó. Vô dụng.”

“Anh bắn trúng Jan. Cái vệt máu phun ra đó là của Jan.”

90
“Jan ở bên trong nó.”

“Ta bám theo họ, đúng không?”

Elliot nhìn quanh những gương mặt biến dạng của


biệt đội. Mắt Tolliver loé sáng như mắt mèo trong bóng tối.
Không có quy chế nào quy định cách xử lý việc có người
bị quái vật lôi đi giữa đêm hôm. Anh há mồm; lại khớp lại.
Bên khoé mắt anh thấy Mirotic rục rịch, nước nửa bước tới
trước, vai ngả ra sau, và Elliot biết chỉ chưa đầy một giây nữa
tôi anh ta sẽ tiếp quản cả đội, và có khi như thế sẽ lợi hơn cho
tất cả mọi người.

“Mirotic,” anh nói. “Anh ở lại đây. Phóng một cái máy
bay không người lái lên và chỉ đường cho chúng tôi từ góc
nhìn trên cao. Những người khác, theo tôi.”

Lao về phía đầm lầy tối lăm, Elliot mườn tượng mỗi
bước lún trong bùn sẽ kích hoạt một quả mìn thông minh.
Mồ hôi đọng trên chỗ hõm xương đòn. Tiếng ro ro của máy
bay không người lái trên đầu rung lên trong hàm răng nghiến
chặt, và cả đội im bặt, chỉ có tiếng thở phì phò, tiếng lẩm
bẩm chửi trong lúc họ lần theo con đường rực sáng trong
thiết bị cấy. Tín hiệu của anh em nhà Prentii thoắt ẩn thoắt
hiện như bóng ma nhẽo điện.

91
Cái vệt mờ xanh đen méo mó của mắt nhìn đêm của
anh, cái tuyến đường rực sáng do máy bay không người lái
cung cấp, ký ức về con quái vật và cánh tay đứt lìa vung vẩy
của Jan—chẳng thứ nào mang dáng dấp thực tại. Một cơn
ác mộng, hoặc chuẩn hơn là một trận dùng thuốc quá liều.

“Phiến quân tránh xa mấy cái đầm lầy này,” Snell nói ra
ngoài mồm, lục lại một thông tin trong buổi hợp chiến lược
sau khi gắn chốt. “Tất cả những người đi khai hoang đều thế
hết.” Giọng anh ta yếu ớt và vội.

Không ai đáp lời. Tuyến đường của cái máy bay không
người lái quẹo trái, dẫn vào bụi cây keo rậm rạp nhất, và họ
bám theo. Những cái lá cay nồng vả vào đầu và vai Elliot.
Chúng phần nào gợi anh nhớ đến những cây bạch đàn được
cấy trên Trái Đất quê anh.

“Máy bay không vào gần hơn được nữa,” giọng lạch
xạch của Mirotic vang lên trong tai anh. “Cây cối cao quá,
rậm quá. Họ ngay phía trước các anh đấy. Gần lắm.”

Tín hiệu của cặp song sinh rực sáng trong sọ Elliot,
nhưng kênh liên lạc của họ để đóng và tín hiệu sinh học của
họ rất bất bình ổn. Elliot cảm thấy tim anh bắt đầu đập quá
nhanh. Nhiều cặp mắt chớp và cái đầu giật giật khi những
người còn lại trong đội bắt được tín hiệu. Mặt Tolliver’s dãn
ra, mồm anh hơi há. Trông Santos không hiểu đang nghĩ
gì. Snell nhìn có vẻ sắp bĩnh ra quần đến nơi. Tay nắm chắc
báng súng. Ngón dịch đến cò.
92
Đám cây keo thưa bớt, và Elliot nhìn thấy cái luồng
sáng sinh học đã nuốt chửng Jan. Nó không có hình dạng rõ
rệt, quá sáng cho mắt nhìn đêm của anh, thế nên anh tắt nó
đi. Sau hi anh nhắm và mở mắt ra, anh thấy cặp song sinh đã
có kết cục ra sao.

Họ rối cả vào nhau như bức hoạ tình cảm móc mỉa ghê
tởm, tay chân tròng lên nhau, và chẳng thể nào biết ai là ai vì
cả hai đều được bọc trong một lớp da ngọ nguậy sáng xanh
ma quái. Những thanh xương xám nhờ nhờ dài, xương cánh
tay hoặc xương đùi từ một con thú Elliot biết chắc không
phải chết vì bệnh dịch, xiên họ ở im một chỗ như mẫu vật bị
đóng đinh.

Tự nhủ rằng đây có thể là ảo giác, Elliot chậm rãi bước


tới trước.

“Prentiss?”

Cặp thân rối ngoằng vào nhau của hai anh em song sinh
lờ đờ rung động. Elliot lần theo cử động và tìm thấy một cái
cần cổ. Một cái đầu không bị lấp mất. Mắt Noam mở to và
đầy hoảng sợ. Elliot nhìn mặt cô co giật tìm cách cất tiếng,
nhưng khi cái miệng bầm dập của cô mở ra, xúc tu xanh sáng
rực thòi ra từ họng cô. Nó ở bên trong người cô. Elliot giật
lùi lại. Anh cảm thấy mật đang tràn lên thiêu đốt cổ mình.

“Mẹ kiếp, họ còn tỉnh,” Tolliver thở dốc. “Cái thứ gì


đấy? Cái mẹ gì... ?” Anh thò tay về phía má Noam, nhưng
93
trước khi chạm đến nơi thì cái đầu còn lại, đầu của Jan, lấp
đâu đó gần đùi em mình, bắt đầu rống lên. Cái tiếng hoang
dại như thú vật ấy Elliot mới chỉ từng nghe con người phát
ra khi họ bị phanh thây, khi tay chân họ đã bị bắn lìa, khi cú
sốc và cơn đau đã gò cho não họ trở về thành não bò sát và
nó chỉ biết tru lên.

Anh kéo tay Tolliver lại.

“Đừng chạm vào họ,” anh nói. “Chúng ta phải quét


phân tích, hoặc... ” Anh nhìn vào mấy khúc xương đang
ghim cứng họ tại chỗ, cái lớp bọc quằn quại nhìn như tảo,
giờ thì lại giống như tảo xanh phát sáng. Anh chẳng biết còn
phải làm gì.

“Nhìn cái chân đi,” Santos khàn giọng nói. “Mẹ kiếp.”

Elliot nhìn. Chân Noam giờ đã không còn là chân nữa.


Da và cơ đã bị lột đi, chỉ để lại những mẩu xương, rơi rụng
xuống vì không còn gân để giữ nữa.

“Giết họ đi,” Santos nói. “Nó đang ăn tươi nuốt sống


họ.” Cô rút súng lục ra và chĩa vào cái mồm đang la hét của
Jan. Tay cô run rẩy.

Elliot không bảo không. Giờ giết họ sẽ là hành động


nhân đạo. Tương tự như với Beasley.

94
Một đường gân nổi gồ trên cổ Santos. “Không làm
được,” cô gầm gừ. “Thiết bị cấy.”

Elliot chĩa vũ khí của mình vào Jan và khi ngón tay sờ
vào cò súng anh thấy mình như tê liệt, các thông báo đỏ
nhấp nháy lướt qua mắt. Các đội lính tội phạm cũng có chế
độ phòng ngừa bắn nhầm đồng đội như các đội lính khác.
Có lẽ khi tham chiến thì thông số sẽ thoáng hơn một chút,
nhưng còn đây, vụ hành quyết này, thì không được.

“Gửi yêu cầu đi, Noam.” Tolliver ngồi xuống ngay sát
gương mặt đang trợn trừng mắt của cô. “Cô còn đó không?
Cô phải gửi yêu cầu. Để chúng tôi cho nổ cô. Làm đi, Noam.”

Bức thông điệp vàng không xuất hiện. Có lẽ Noam quá


cáu giận, quá đậm chất dân định cư, nghĩ rằng mình vô địch,
nghĩ rằng rồi cô sẽ thoát được vụ này như đã thoát bao vụ
khác. Trường hợp khả dĩ hơn đó là cô không còn thần trí nào
để truy cập thiết bị cấy. Jan lại tiếp tục la.

“Thế thì mẹ kiếp, để chơi thủ công,” Tolliver nói, giọng


run run. Anh nhìn Snell. “Đưa tôi con dao của anh. Trừ khi
anh muốn tự làm.”

Snell im lặng tháo con dao chiến đấu và chìa chuôi ra.
Con dao dài trông rất dữ tợn, không tuân đúng quy chuẩn
quân đội. Elliot nghĩ mình nên đứng ra nhận làm. Xét cho
cùng, anh là chỉ huy. Anh biết tĩnh mạch cảnh ở đâu và

95
cứa chỗ nào để máu không dây lên người. Nhưng anh chỉ
đứng nhìn.

Và ngay khi Tolliver chạm vào đầu Noam, lập tức có


chuyện xảy ra. Lũ quái đồng loạt đến từ mọi hướng, những
khối xương phát sáng di chuyển hộc tốc. Chúng trồi lên từ
dưới lòng đất, Elliot lờ mờ nhận ra điều này trong lúc chạy
giật lùi, bật tầm nhìn đêm, khai hoả. Những người khác
trong đội cũng làm tương tự; mảnh vụn bắn toé ra mỗi khi
đạn bắn trúng xương nhưng còn phần da của chúng, phần
tảo màu xanh, thì chỉ tẽ ra rồi lại hồi dạng.

Nấm ngầm. Anh nhớ bản quét địa hình có nhắc đến
chúng trong lúc Tolliver bị bắn hết đạn và lần mò nạp lại.

“Chạy ngay,” giọng Mirotic vang lên. “Chúng đến từ


hướng mười hai giờ, ba giờ. Nhiều lắm.”

Không quan trọng. Dòng suy nghĩ ấy vụt hiện trong óc


Elliot. Anh chết ở đây hay Kettleburn hay đâu cũng không
quan trọng. Anh đã chết từ lâu lắm rồi.

Thế rồi Tolliver ngã gục, bị một con quái quấn chi
xương xẩu quanh chân quật ngã. Elliot nhắm xuống dưới
thấp và vào chỗ màu xám, bắn nát vừa đủ xương để Tolliver
có thể vặn thoát ra, thay băng đạn. Nhưng trong trường hợp
này đạn thôi là chưa đủ.

96
Elliot nạp lựu đạn cháy trong lúc Tolliver vặn thoát ra.
Anh cố nhớ các thành phần hoá học có ở cái khu Pentecost
này. Chưa biết chừng lựu đạn sẽ đốt mẹ nó hết cả cái đầm
lầy luôn. Chưa biết chùng, chết kiểu ấy còn đỡ hơn bị phanh
thây trong khi còn sống.

“Chạy đi,” Elliot ra lệnh, đồng thời gửi cảnh báo lựu
đạn. “Kệ chúng.”

Santos phóng vọt ra sau anh, rồi đến Snell, rồi đến
Tolliver ngay sau đó, không phản đối gì cả, cặp mắt hắt sáng
của anh mở to đầy hoảng hốt trong bóng tối. Trong lúc
adrenaline khiến mọi thứ như chậm lại và rõ ràng hơn, Elliot
khai hoả quả lựu đạn vào nơi anh tin sẽ tạo vụ nổ lớn nhất,
phần đất giữa hai con quái đang lao tới. Anh không quên
chớp mắt tắt tầm nhìn đêm đi một nano giây trước khi vụ
nổ xảy ra.

Một bức tưởng nhiệt nóng bỏng ụp vào người anh và


dù không bật tầm nhìn đêm quả cầu lửa bùng nổ cũng khiến
anh đui mắt. Anh cảm thấy Tolliver tóm vai mình, dẫn anh
ra khỏi bụi cây. Bởi tiếng nổ inh ỏi trong tai, anh không chắc
Jan có còn đang la hét không.

Họ ngồi trong xác con tàu Heron bị bắn hạ, túm tụm
quanh chiếc lò sưởi. Thỉnh thoảng lại có người liếc mấy cái
máy cyclop, bấy giờ vẫn kêu vo vo và quay tròn và dò tìm.
97
Santos có một vết bầm trên trán vì bị báng khẩu Gnasher
của Snell va phải trong bóng tối. Tolliver ngã đứt ngón cái.
Ngoài đó ra, tất cả bọn họ đều không sao, chỉ trừ Elliot chưa
có cơ hội sờ đến mấy cái kim tiêm của mình.

“Vậy là không có bệnh dịch gì cả,” Mirotic nói. “Chỉ có


thú săn mồi thôi.”

“Cái thứ ấy là đồ nhân tạo,” Snell nói. Mắt anh trông


hoang dại, đỏ ngầu, và tay anh cứ rờ lên chỗ hồi trước đeo
con dao. “Không thể nào có chuyện thứ đó tiến hoá mà
thành như thế được. Nó là một thứ vũ khí.”

“Dù có là gì nó cũng làm từ chất hữu cơ,” Mirotic nói.


“Trên bản quét nhìn như nấm.”

“Nó là một thứ vũ khí, và họ tống chúng ta vào đây


để thử nghiệm.” Snell gào tướng lên. “Chắc cái quả mìn
thông minh đó là của phe ta. Chúng ta là tốt thí mà, đúng
không? Thế nên họ tống ta ra đây xem nó có làm ăn được
việc không.”

Elliot đợi ai đó bảo Snell bình tĩnh mẹ nó đi, nhưng thay


vào đó Santos và Tolliver và Mirotic đều đang nhìn anh, đợi
anh đáp lại. Tolliver bồn chồn móc móc cái băng quanh tay.

“Đám dân định cư tránh xa cái đầm lầy này,” Elliot nói.
“Chính anh đã nói thế.” Anh thoáng nhớ lại cơ thể xoắn xít

98
của cặp song sinh, những con quái lao tới. “Tôi nghĩ giờ ta
đã hiểu tại sao.”

“Bao giờ ta được cứu trợ?” Santos hỏi thẳng băng.


“Thưa ngài.”

Elliot biết họ có ưu tiên thấp. Chắc là năm ngày, có lẽ


sáu ngày. Có thể còn hơn. “Họ biết chúng ta có đồ ăn trong
một tuần,” anh nói.

“Mẹ, tận những một tuần?” Snell nghiến hàm răng kim
loại. “Trời đất, chúng ta không thể ở đây tận một tuần với
cái thứ đấy. Không dời nào tôi sẽ trở thành như hai đứa song
sinh đâu. Tôi đề xuất chúng ta mang theo những gì có thể,
và chạy khỏi nơi này.”

“Chạy đi đâu?” Mirotic hỏi. “Đám nấm lan đủ mọi


hướng dưới lòng đất.”

“Nếu biết sao anh không chịu nói ra?” Snell tra hỏi.

Cánh mũi Mirotic phồng lên. “Bởi vì thường nấm


không đi săn thịt.”

Elliot cố tập trung vào cuộc tranh luận, cố nghĩ xem giờ
họ nên làm gì sau khi biết đầm lầy toàn quái vật cư ngụ. Anh
nhận ra mình đang gãi tay.

Santos nhìn sang. “Cái mẹ gì thế?”

99
Nhưng cô không nhìn Elliot. Tolliver, nãy giờ toàn im
lặng, mặt xám như tro, đang ôm lấy cái ngón cái cuốn băng
của mình. Giờ anh nhìn xuống nó và tròn mắt. Một quầng
sáng xanh mờ đang toả ra từ dưới miếng bọc.

“Tổ sư, tổ sư, tôi cảm thấy nó.” Tolliver vặn vẹo trên
giường, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt. “Tôi cảm thấy
nó. Đang chuyển động.”

Giờ tay anh đã tháo băng và ngón tay đứt của anh lốm
đốm đám nấm phát sáng. Máy phẫu thuật tự động mở ra
trên ngực anh như một con nhện kim loại trong khi Mirotic
tìm chương trình cắt bỏ phù hợp, mắt anh lướt các dòng mã.
Elliot thấy trong họng mình xuất hiện cơn hoảng loạn mà
trước nay lúc tham chiến anh chưa từng cảm nhận. Nó gợi
anh nhớ đến cơn hoảng loạn của anh hôm anh lần chót nói
chuyện với con.

Anh ngồi xuống nắm lấy tay lành của Tolliver sao cho
Snell và Santos không nhìn thấy. Tay anh trơn tuột vì mồ hôi.

“Đây rồi,” Mirotic khàn giọng nói. “Chất gây nhiễm


sinh học.”

Máy phẫu thuật tự động được kích hoạt, thò gọng kìm
mảnh mai ra giữ tay trái của Tolliver lại. Tia laze đỏ thắm

100
lướt trên da anh, quét thông tin, thế rồi đầu kim gây tê vô
cùng chuẩn xác thọc vào gốc ngón cái của anh.

Bàn tay lành của Tolliver siết chặt tay Elliot.

“Ghét mấy thứ này ghê cơ,” anh rên rỉ, thoáng nhìn vào
mắt anh. “Thà để Smell dùng mẹ cái con dao tổ bố ấy còn
hơn cho một con rô-bốt chọc ngoáy…”

“Làm mất rồi thì đừng đòi hỏi,” Snell nói.

Tolliver quay người, miệng anh mím chặt, nhăn lại.


“Tiên sư anh, Snell.”

Máy phẫu thuật tự động lấy ra một con dao phẫu thuật.
Kim loại va quẹt và cạ vào nhau và cái âm ấy rung trong răng
Elliot. Mirotic đang nhìn anh, và khi anh ta nói anh hiểu ra
vì sao.

“Các bào tử đang di chuyển. Máy phẫu thuật muốn cắt


cả ngón.”

Mọi người trong lều lần lượt nhăn mặt; Santos nắm
chặt lấy ngón cái của mình. Tolliver trợn mắt. Anh cố giật
tay ra, nhưng máy phẫu thuật tự động giữ chặt lấy.

“Không!” anh gào. “Không, đừng cho nó làm thế! Tắt


cái máy khốn nạn ấy đi!”

101
“Nó có thể lan ra toàn thân anh ta nếu chúng ta không
hành động nhanh,” Mirotic nói. “Tương tự như những gì
anh bảo đã xảy ra với Prentiss và Prentiss.”

Elliot nuốt khan. Anh không phải quân y. Từ lúc đào


tạo cơ bản người ta đã nhồi vào đầu anh quan niệm phải
tin tưởng máy phẫu thuật tự động. Và anh không muốn
Tolliver có kết cục như cặp sinh đôi.

“Làm đi,” anh lẩm bẩm.

“Tắt nó đi!” Tolliver rống lên. “Nghe đi! Nghe tôi nào,
lũ chó má!”

Cái tay lành của anh ta quơ quào nhưn Elliot ghìm chặt
nó lại, không buồn quan tâm đến việc Santos và Snell có
thấy hay không nữa, trong lúc con dao hạ xuống.

“Chương trình đang chạy,” Mirotic nói. “Giờ muộn


quá không dừng được nữa đâu.”

Lưỡi dao cắt qua da, qua gân, qua xương êm ru. Máy
phẫu thuật tự động đỡ vệt máu đỏ tươi và vẩy nó đi. Tolliver
gào la. Cột sống anh oằn lên. Tay anh siết tay Elliot chặt đến
mức bầm hết cả.

Elliot ngồi dưới mấy cái máy cyclop, nghe tiếng nó chạy.
Anh nói họ sẽ chia ca ngủ, rằng anh sẽ gác ca đầu, như thể
102
cặp mắt lờ đờ của anh sẽ phát hiện được thứ gì các cảm biến
bỏ sót. Một phần vì anh phải nói gì đó. Ra lệnh gì đó. Chủ
yếu vì anh cần thuốc.

Giờ, với chất morphine ấm nóng chảy trong tĩnh mạch,


anh thấy người nhẹ bẫng. Anh cảm thấy bình thản. Nhịp
tim anh giảm xuống đến vô cực.

“Anh ta la hét nhiều như vậy vì trong máy phẫu thuật


không có thuốc gây mê.”

Elliot quay lại thì thấy Mirotic, đang cầm một khối
nhựa đen. Anh hiểu lời vừa nói, nhưng cảm giác tội lỗi của
anh tan biến trước cơn phê. Tolliver sẽ ổn thôi. Mọi thứ sẽ
ổn thôi. Anh cố ghìm lại cái nụ cười phê thuốc trên mặt, để
Mirotic không nhìn thấy.

“Ai cũng biết tại sao,” Mirotic nói. “Chỗ còn lại đâu?”
Anh ta không đợi câu trả lời. Anh chộp lấy cái tất đang kêu
lách cách trong lòng Elliot và túm xốc anh dậy. Mirotic cao.
Nhưng anh ta lại di chuyển chậm chạp, lúc ngấm morphine
mọi thứ đều chậm lại, và Elliot vẫn còn mánh cũ.

Một cú móc, một cú vặn ác liệt, và thế là Mirotic đã lăn


quay ra đất với đầu mũi kim cách nhãn cầu chỉ vài phân.

“Tôi cần cái đó,” Elliot nói.

103
“Anh thật thảm hại,” Mirotic phì phò. “Nắm tay anh
ta và tiêu hết morphine của anh ta.”

“Anh quan tâm làm gì?” Elliot hỏi, giờ đã bắt đầu trở
nên nghi ngờ, tự hỏi liệu có phải Tolliver qua thăm Mirotic
những đêm không sang chỗ anh không.

Mirotic gạt cái ống tiêm đi và lên gối vào ngực Elliot.
Anh hộc hết khí ra khỏi người, nhưng anh chỉ cảm nhận
được lực va đập, chứ không thấy đau. Anh lảo đảo lùi lại,
gập người. Nếu phổi anh còn hoạt động thì có khi anh đã
phá ra cười.

“Tôi quan tâm vì hồi trước anh còn biết mình đang làm
cái mẹ gì,” Mirotic nói. “Trước khi họ tống anh vào đội lính
tù.” Anh gõ lên cái chốt nối thần kinh công nghệ cao bên
thái dương. “Anh đọc hồ sơ của bọn tôi. Nhưng tôi cũng đã
đọc hồ sơ của anh. Mấy cái tường lửa nhân sự này có là cái
thá gì đâu. Và nếu ta muốn thoát vụ này, không thể nào để
anh phê lòi mắt ra như thế được.”

“Cho binh nhì Tolliver thuốc giảm đau,” Elliot khò


khè, đứng thẳng người dậy. “Bỏ chỗ morphine lại. Đó là
lệnh đấy.”

Mirotic lắc đầu. “Giờ nó sẽ đi cùng tôi. Anh sẽ được lấy


lại khi chúng ta được cứu trợ.” Anh quăng cái hộp nhựa đen;
Elliot suýt nữa bắt hụt. “Thay vào đó, hãy lo về cái này đi,”

104
Mirotic nói. “Lo về một thứ nấm ăn thịt và dùng xương làm
giàn giáo.”

Elliot lật cái hộp lại. Nhìn qua phần mặt trong suốt, anh
thấy những sợi nấm xanh phát sáng dính dớp đang lay động,
cuộn quanh phần xương khớp bị cạo trắng phớ của Tolliver.

Sáng ra, Snell đã đi đâu mất.

“Không hề gọi tôi dậy gác ca,” Santos nói, móc ghèn
khỏi một bên mắt. “Tôi đã kiểm tra lều. Đồ nghề anh ta
không còn đó nữa.”

“Và giờ anh ta đã ra ngoài vùng phủ sóng,” Mirotic nói.


“Ta có thể cho máy bay không người lái lên tìm anh ta. Tiếp
tục giữ độ cao thấp để không kích hoạt quả mìn nào nữa.”

Elliot thấy trong mồm như bùi nhùi thép. Họ đang


đứng dưới nắng, khiến đầu anh nhức bưng bưng. Một luồng
gió mát thổi qua đám cỏ cây xanh pha tím. Đám cây keo lay
động. Thật thanh bình, gần như tuyệt mỹ. Trong buổi sáng
thế này khó mà tin nổi mấy tiếng trước chuyện gì vừa xảy
ra trong bóng đêm. Nhưng lều cặp song sinh trống rỗng, và
Tolliver đã được gây mê với một cuộn băng đẫm máu quanh
ụ ngón cái.

“Sao phải tìm anh ta?” Elliot hỏi.

105
Santos liếc nhìn Mirotic, nhưng không ai nói câu nào.

“Anh ta đã đào ngũ,” Elliot nói. “Nếu anh ta không


gây nguy hiểm gì cho ta, để anh ta đi. Hoặc anh ta sẽ giẫm
phải mìn hoặc sẽ bị ăn tươi nuốt sống.” Hình dung cảnh đó
khiến anh thấy hơi bệnh, nhưng anh giữ giọng lạnh lùng
và điềm tĩnh. “Mirotic, gắn một cái cưa vào máy bay không
người lái, bắt tay vào dọn quang cây cỏ bên sườn của ta đi.
Hãy đảm bảo chúng ta có tầm bắn chuẩn. Theo dõi chúng
trên cyclop cũng chẳng ích gì nếu ta không thể bắn chúng
trước khi chúng xộc lên người. Santos, lôi bộ liên lạc ra khỏi
Heron. chúng ta sẽ tạo tháp radio.”

Lúc Santos làm điệu chào hời hợt trước khi rời đi, vẻ
khinh thường của nó bớt hơn hẳn. Mirotic ở lvà nhìn anh
mấy giây, vẻ nghi ngờ. Elliot đón ánh nhìn của anh ta, giả
vờ như mình không quan tâm, giả vờ như chưa hề lục lọi
giường Mirotic tìm morphine lúc anh ta đứng gác.

“Tốt,” Mirotic nói, sau đó đi lấy máy bay không


người lái.

Elliot quay lại chỗ đám lều. Anh chui vào lều Tolliver
và Snell dùng chung , và nhận ra Tolliver không còn ngủ
nữa. Anh đang ngồi trên cái giường ố màu mồ hôi, nhìn vào
trong lòng, nhìn bàn tay mình.

“Anh sao rồi?” Elliot hỏi, bởi vì anh không biết còn
phải nói gì.
106
“Anh lấy mất ngón cái của tôi.” Giọng Tolliver run rẩy.
“Tôi cần cái ngón cái đó. Đó là tay thuận của tôi.”

“Nó đang lan xuống sâu hơn,” Elliot nói. “Chính thế
mà ta phải chặt đi. Chắc anh không nhớ.” Anh hi vọng
Tolliver không nhớ, đặc biệt là phần cơn đau.

“Vẫn còn ngón bóp cò, thế nên chắc anh không quan
tâm đâu nhỉ?” Tolliver nói. “Vẫn còn mồm, còn mông. Toàn
phần anh thích cả.”

Elliot thấy má mình nóng ran. “Anh có thể lắp ngón giả
khi người ta đến đón chúng ta,” anh nói vội.

“Với cái điệu này ấy hả?” Tolliver bật ra một tiếng cười
cay đắng. “Đến mai chắc chẳng còn ai mà đón đâu, nói mẹ gì
đến một tuần. Đó là nếu anh đã gửi được yêu cầu cứu trợ đi,
và không phải anh nói láo. Tôi biết bọn nghiện như thế nào.
Tôi biết cái lũ các anh chỉ toàn nói dối.”

Elliot muốn thò tay lên cổ Tolliver và bóp nghẹt anh ta.
Anh muốn chui vào chăn ôm lấy Tolliver và bảo anh họ sẽ
thoát được. Anh không làm cả hai.

“Tôi cần cái ngón cái ấy vì tôi sẽ làm thợ hàn,” Tolliver
bật nói ra trong lúc Elliot rời đi. “Khi mấy trò chết giẫm này
kết thúc và tôi đã tháo được chốt ra, tôi sẽ là thợ hàn như
ông mình.”

107
Nhưng chiến tranh không bao giờ thực sự kết thúc, và
chốt có loại không bao giờ tháo được. Elliot thậm chí còn
không nhớ hồi trước mình tính sẽ làm gì. Anh liếc ra sau vai.

“Anh đang không tỉnh táo,” anh điềm đạm nói. “Do
thuốc đấy. Cố ngủ thêm đi.”

“Ôi, mẹ cha anh,” Tolliver nói, như thể đang vừa cười
vừa khóc. “Mẹ cha anh, Elliot.”

Elliot bước ra ngoài, và túp lều đóng lại phía sau như
vết thương kín vảy lại.

Lúc đêm buông xuống, họ đã thiết lập được một vành


đai trống trải, cắt hết cây cối theo một đường tròn lồi lõm
quanh Heron, đám lều, mấy cái máy cyclop. Đến giữa trưa
Tolliver chui ra giúp, hàm nghiến chặt và mắt nhìn thẳng về
phía trước. Không ai nhắc gì đến tay anh hay thậm chí nhìn
vào nó.

Mấy quả lựu đạn cháy còn lại trong kho được đem phân
chia. Mirotic đang tìm cách chế súng phun lửa với ngọn đuốc
hàn và chỗ nhiên liệu rút ra từ bồn. Santos và Tolliver đang
ngồi trên nóc tàu Heron, nối cái ăng ten tự chế vào hệ thống
liên lạc với một nùi dây nhợ.

108
Elliot biết chủ yếu đây là làm cho có việc thôi. Họ
không chắc được lựu đạn cháy có công dụng gì ngoài đánh
lạc hướng đám nấm không, và nó di chuyển nhanh đến mức
dọn trống đất thế này có khi lại có lời cho chúng nó. Họ
không biết gì về kẻ địch này.

Nhưng nếu anh giữ nguyên bộ tịch, có lẽ anh sẽ có


thể lấy nốt chỗ morphine cuối cùng lại từ Mirotic mà không
phải dùng bạo lực. Ra vẻ tỉnh táo, ra vẻ biết việc, và rồi khi
cơn nghiện xuất hiện anh sẽ không cần phải nói quá cũng đủ
khiến Mirotic nhận ra anh cần có nó thì mới làm việc được.

“Không có gì,” Santos nói.

Elliot nhìn lên nóc tàu Heron. Tolliver vẫn đang xoay
cái cái ăng ten để bắt được tín hiệu tốt hơn, nhưng chỉ có
tiếng nhẽo chói tai là phát từ hệ thống liên lạc vào các thiết
bị cấy đã kết nối của họ. Anh thầm giảm âm lượng xuống.
Họ xa tiền đồn quá.

Thế rồi một tín hiệu quen thuộc vừa nhẽo vừa yếu xuất
hiện. Một thông điệp nhấp nháy vàng trượt vào khoé mô
cấy mắt của anh.

“Snell,” Tolliver nói. “Mẹ kiếp.”

Elliot cảm thấy một cơn rùng mình đang luồn dưới da
anh. Bầu trời trên đầu họ đang tối đi. Ban ngày mấy cái máy
cyclop không phát hiện thấy chuyển động nào, nhưng như

109
Mirotic đã nói, nhiều loài thú săn mồi chỉ đi săn vào ban
đêm. Chỉ có một lý do Snell gửi yêu cầu. Elliot có thể hình
dung anh ta đang va vấp chạy qua khu đầm lầy, có lẽ còn
kéo theo một mắt cá bị trật, trong bóng tối sau lưng làn sáng
xanh mỗi lúc một đến gần hơn. Hoặc có thể đám nấm đã bắt
được anh ta rồi, và đang lóc tận xương anh ta.

Phiếu thuận của Tolliver xuất hiện, rồi đến phiếu của
Santos. Giờ chỉ cần bốn phiếu để kích hoạt quả bom nano.
Mirotic nhìn sang bên anh, và Elliot tin Mirotic không phải
hạng người biết nhân từ là gì. Anh ta đã hành quyết ba người
và nhét xác họ vào máy đập lúa. Nhưng rồi phiếu thuận của
Mirotic xuất hiện trong hàng chờ.

“Nhanh lên,” Tolliver nói, không nhìn vào anh. “Trước


khi chúng ta mất tín hiệu.”

Elliot không chắc như thế này là cứng rắn hay yếu mềm,
nhưng anh thêm phiếu bầu của mình và hoàn tất cuộc bình
bầu vì anh vẫn còn nhớ tiếng la của Jan. Mọi người im lặng
một lúc. Santos làm dấu thánh hời hợt như khi chào.

“Bỏ cái ăng ten đấy,” Elliot nói. “Yêu cầu cứu trợ đã
được gửi đi. Khi nào đến thì họ sẽ đến. Cho đến lúc đó, ta cố
thủ và giữ cảnh giác.”

Santos nhảy xuống khỏi mái tàu Heron. Tolliver bám


theo, rón rén hơn vì một tay bị băng. Elliot nhìn vào những
người còn lại trong đội—chưa đến hai ngày mà đã thương
110
vong năm mươi phần trăm, và còn xa tiền tuyến. Santos vẫn
điềm tĩnh; Elliot chưa từng thấy cô mất tinh thần bao giờ.
Mirotic vẫn điềm tĩnh. Nhưng Tolliver chưa buông câu đùa
nào và cả ngày gần như chẳng nói năng gì cả và mắt anh có
vẻ sợ hãi.

Elliot vẫn đang nhìn Tolliver thì mấy cái máy cyclop bắt
đầu hú còi báo động có vật thể đến gần. Anh kìm nén nỗi sợ
của mình, ra dấu cho Mirotic kết nối.

“Bảy đối tượng,” Mirotic nói. “Kích thước khác nhau.


Con lớn nhất cao hơn hai mét. Chúng đang lao thẳng đến
chỗ chúng ta, lần này không nhanh lắm.”

Elliot chuyển sang chế độ nhin đêm và theo dõi hàng


cây. “Nhắm vào phần xương,” anh nói, nhớ lại đêm trước.
“Cần có chúng thì bọn nó mới giữ hình được. Santos, chuẩn
bị sẵn một quả lựu.”

Santos nạp một quả lựu đạn cháy vào ống phóng gắn
dưới thân súng. Tolliver đã áp vũ khí vào bên người, như thể
đang chuẩn bị bắn nguyên băng, và Elliot nhớ ra đó là bởi vì
anh không có ngón cái. Bên kia tấm thảm dương xỉ và cành
cây bị chặt xuống, anh thấy một thứ xuất hiện từ hàng cây.
Nó không di chuyển như những con khác.

Elliot nheo mắt và chế độ phóng đại kích hoạt. Con


quái vật đi đứng lảo đảo di chuyển bằng ba chân và thân
nó là một mớ xương cháy đen lởm chởm gắn với nhau bởi
111
thứ nấm như dây. Nhìn vào trong quầng sáng anh có thể
nhận ra một phần cái hộp sọ cháy đen bên sườn. Xương của
cặp sinh đôi, bị cạo nhẵn và xếp lại như giàn giáo. Bụng anh
nhộn nhạo.

Santos chửi bằng tiếng Bồ Đào Nha. “Xin phép khai


hoả?” cô nghiến răng hỏi.

Các đối tượng khác giờ đang tụ tập lại, áp sát mặt đất
bò lồm cồm như cái con đã bắt Noam. Một bầy, Elliot nghĩ.
Anh có thể cảm thấy mạch máu đang đập thập thình trong
cổ họng mình. Đây không phải chiến đấu như anh đã biết.
Đây không phải kẻ thù như anh đã biết. Anh tự hỏi liệu hôm
trước lửa có gây được tí thiệt hại nào không. Đạn chắc chắn
không rồi.

“Đợi chúng đến gần hơn,” anh nói. “Đừng để phí


lửa loang.”

Santos nhắm súng. Ngón cô dịch về cò. Cô đợi.

Nhưng lũ quái không đến gần hơn.

“Nó đang trêu ngươi ta,” Tolliver nói. “Ngồi ngoài đó


đợi.” Tay anh cầm thanh calorie nhưng nó vẫn còn nguyên
giấy gói. Anh cứ xoay đi xoay lại nó trong tay.

112
Santos cắn một miếng đồ ăn. “Chúng nó có biết nghĩ
không?” cô khàn giọng hỏi. Cô nhìn sang Mirotic, thấy anh
nhún vai, rồi tới Elliot, và anh cũng lơ đãng làm tương tự.
Elliot quan tâm nhiều hơn đến cái chỗ ngứa mỗi lúc một
khó chịu ở khuỷu tay. Anh cần morphine gấp.

“Chắc thế,” Tolliver nói. “Nó bắt Jan trước. Jan là người
đầu tiên phát hiện ra chỗ xương. Sau đó nó dùng Noam để
dụ chúng ta xuất hiện.”

Bốn người bọn họ đang ngồi dưới đám máy cyclop, có


một thùng được lôi ra để đựng đồ ăn và xúc xắc dùng cho
một trò chơi chẳng còn ai để ý theo dõi, cứ tuần tự gieo rồi
lại chuyển lượt. Thỉnh thoảng Elliot cho người đảo nhanh
một vòng quanh tàu Heron để kiểm tra mạn sau lưng, đề
phòng có thêm bọn quái đánh úp. Đề phòng mấy cái máy
cyclop bị chập mạch và không phát hiện ra chúng đến. Làm
việc cho có.

Nhưng vẫn chỉ có bảy con, và chúng vẫn chưa tiến đến
từ rìa hàng cây. Thỉnh thoảng bọn nấm rục rịch và đám
xương đảo vị trí, nhưng chúng ở nguyên vị trí, chờ đợi, có
khi còn quan sát, đó là nếu bọn nấm có khả năng quan sát.
Mirotic có nói có thể là theo dõi thân nhiệt. Mirotic, người
hẳn có mang morphine theo mình.

Santos là người đầu tiên ăn xong. Cô đứng dậy, phủi


vụn trên đầu gối đi. “Để tôi đi,” cô nói, nhấc vũ khí lên. Elliot
gật đầu. Anh bất giác nhận thấy ánh mắt Tolliver dõi theo
113
Santos đi vòng quanh con tàu Heron, mở to đầy lo lắng. Có
lẽ Santos là người anh hay qua lại.

“Rắn lớn chỉ cần ăn một lần mỗi tháng,” Tolliver nói,
đảo mắt về với bàn tay băng bó, ngắm nghĩa chỗ màu đỏ
thấm qua. “Phần thời gian còn lại là để tiêu hoá.”

Mirotic khịt mũi. “Thứ nấm này không nằm trong một
hệ sinh thái cân bằng. Nó giết hết mọi loài động vật khác.
Xóa sổ sạch.”

“Giờ thèm có khẩu súng máy bỏ mẹ,” Tolliver lẩm bẩm.

Thế rồi mấy cái máy cyclop hụ còi, và mọi người bật
dậy ngay. Elliot chĩa súng về phía hàng cây trước, nhưng lũ
quái vẫn chưa di chuyển đâu cả. Thiết bị cấy mắt của Mirotic
nháy đỏ.

“Ngay sau lưng ta,” anh nói, và điều tiếp theo anh nói
bị át đi bởi tiếng súng. Tins hiệu của Santos bừng lên sáng
rực trong đầu Elliot, đang giao chiến. Elliot vòng quanh tàu
Heron và thấy Santos đang lồm cồm bò giật lùi trong lúc cái
khối xương xanh ma quái bổ nhào về phái cô. Anh không
hiểu sao mà con quái vật vượt qua vành đai nhanh đến thế,
sao mà mấy cái máy cyclop không phát hiện sớm hơn. Thế
rồi anh nhận ra cái túi xác polythane tơi tả của Beasley trong
lòng bọn nấm.

114
Elliot nhắm bắn vào phần xương, nhưng cái kiểu quằn
mình của con quái vật trong lúc di chuyển khiến việc đó gần
như bất khả thi. Lằn đạn vô dụng đâm vào phần thịt phát
sáng xanh của nó. Tolliver đang khai hoả bên cạnh anh, gào
tiếng gì đó, nhưng bộ giảm âm khiến anh không nghe được.
Con quái vật quay về phía họ, bị phân tâm. Elliot tính toán;
ném lựu đạn ở đây gần quá. Anh lại bắn và lần này thấy
xương ống chân của Beasley vỡ tan.

Con quái vật sụm xuống, chuyển một phần xương khác
ra thế chân, đưa phần tay còn lại của Beasley xuống dưới. Từ
khoé mắt Elliot thấy Santos quỳ gối xuống, kê súng. Phát
đạn của cô bắn tung một phần xương cánh tay và con quái
vật lại sụm xuống. Cảm giác đắc thắng như bừng lên trong
lồng ngực Elliot.

Có chuyển động ở ngoại vi tầm nhìn anh. Anh quay


lại vừa kịp lúc thấy bảy đối tượng còn lại tràn lên nóc tàu
Heron. Anh chuyển sang chế độ bắn liên thanh theo bản
năng và siết cò, vung vẩy qua lại. Đạn đâm vào phần nấm,
một số viên bật từ tàu Heron lại, toé lửa. Một số viên bắn
trúng xương nhưng không đủ. Khẩu súng rung bần bật
trong tay và anh bắn hết đạn nhưng lũ quái vẫn lao đến.

Anh lùi lại, tay tự động thò ra nạp đạn. Cố xác định
phương hướng. Tolliver vẫn đang bắn, vẫn đang gào théo
cái gì anh không nghe ra nổi. Santos đã gục, bị thộp chân từ
phía sau. Những cái vuốt xương xẩu đang leo lên lưng cô;
Elliot thấy cô nhe răng, mắt trợn tròn. Mirotic đâu rồi?
115
Câu trả lời xuất hiện dưới dạng một luồng lửa phủ lấy
con quái gần nhất. Nó không hét—không có mồm—nhưng
khi Elliot lảo đảo lùi lại trước sức nhiệt anh có thể thấy bọn
nấm vặn mình, quằn quại, cháy đen thành than. Mirotic đưa
khẩu súng phun lửa qua lại, vẽ ra những đường cháy rực trên
không. Elliot nạp đạn, nhắm, bắn.

Đột nhiên lũ quái tháo chạy, lồm cồm bỏ đi. Elliot


lại tiếp tục khai hoả trong lúc chúng vòng qua tàu Heron.
Mirotic vẩy khẩu súng phun lửa, Elliot và Tolliver bắn từ
phía sau anh, từ từ tiến bước. Một con quái sụp xuống và
nhảy sang con bên cạnh, bỏ xương xẩu lại trên nền đất. Elliot
tiếp tục khai hoả cho đến khi quầng sáng của chúng bị cây
che khuất hẳn.

“Lũ chó, lũ chó, lũ chó,” Tolliver nói như tụng kinh.

Elliot run rẩy toàn thân. Da anh nhễ nhại mồ hôi.


“Kiểm tra Santos,” anh nói, và Tolliver biến mất. Lưng và
tay anh có mấy chỗ đau nhừ và anh có thể cảm thấy ruột
mình lâu lắm rồi mới dãn ra. Anh cần lấy lại chỗ morphine.
Anh quay sang Mirotic, định bảo anh ta như vậy, nhưng
trong lúc anh chàng khổng lồ dập đầu khẩu súng phun lửa
đi, anh ta ngã nhào.

Một vệt ố đỏ như rượu vang đang loang ra dưới áo


anh. Elliot nhớ lại những viên đạn nảy bật khỏi tàu Heron.
Mirotic ngồi xuống. Anh cẩn thận kéo áo lên và để lộ một lỗ

116
đạn đang tứa máu bên sườn. Elliot có thể thấy ít nhất một
cái xương xườn vỡ nát đang chọc vào da anh.

“Mẹ kiếp,” Mirotic nói, mồm ngập máu.

Gãy xương sườn, thủng phổi, và có lẽ thêm vài cơ quan


nột tạng nữa bị phá nát. Đạn Gnasher được thiết kế để bung
ra khắp nơi trong cơ thể. “Nó đâu?” Elliot hỏi, ngồi xuống
ngang mặt. “Chỗ morphine đâu?”

Mặt Mirotic tái như mặt trăng Trái Đất hồi xưa. Anh
lắc đầu. Anh định nói tiếp, nghe như nói là máy phẫu thuật
tự động.

“Tôi sẽ lấy máy phẫu thuật,” Elliot nói, mặc dù anh


biết thế này là muộn rồi. “Chỗ morphine đâu?”

Không lời đáp. Elliot lắc anh ta, và đến lúc anh lôi được
cái lọ ra khỏi thắt lưng của Mirotic thì tay anh đã thẫm đỏ.
Anh nắm tay quanh nó và trút một hơi thở dài run run nhẹ
nhõm. Mắt Mirotic chớp mở rồi lại đóng, rồi đóng hẳn.
Elliot đứng dậy, đầu quay mòng mòng, trong lúc thông số
sinh học của Mirotic biến mất.

Khi đi vòng ra sau tàu Heron, Elliot thấy Santos cũng


đã chết. Một trong số mấy con quái trong lúc bỏ chạy đã
đâm một mảnh xương vào sọ cô, đâm nát một nửa cái chốt.
Máy và chất xám chảy ra từ cái lỗ. Một tia lửa điện toé ra từ
chỗ dây nhợ đứt của cái chốt.

117
Tolliver đang làm dấu thánh và vai anh đang run rẩy.
Da anh đỏ ửng như sốt.

“Ta sẽ đốt cô ấy,” Elliot nói. “Cả Mirotic nữa. Chỗ


xương còn sót lại, ta sẽ nghiền thành bột.”

“Được rồi,” Tolliver nói, giọng vô hồn. Mắt anh dán


chặt vào cái lọ Elliot nắm chặt trong bàn tay đẫm máu, nhưng
anh không nói gì thêm.

Nằm trên giường giãn lỏng tay chân, Elliot đang ở trên
thiên đường. Anh cảm thấy người mình như đang bốc hơi,
hoặc đang trở thành ánh nắng, ấm áp và thuần khiết. Anh
chẳng phân biết nổi đâu là phần da đầy bồ hóng của anh và
đâu là da Tolliver.

“Anh giết anh ta để lấy nó à?” Tolliver hỏi, giọng lè nhè


vì phê thuốc.

“Đạn văng,” Elliot nói.

“Liệu anh có định giết anh ta lấy nó không?” Tolliver hỏi.

“Anh thì sao?” Elliot hỏi lại.

Ngay sau khi giải quyết xong đống xác, anh vào lều
chích thuốc. Tolliver bám theo sau, và khi Elliot đưa cái kim

118
tiêm ra mời, bấy giờ phê quá rồi nên đâm hào phóng, anh
nhận lấy. Elliot chẳng biết lúc ấy là từ đời nào rồi.

“Sao anh lại thành ra thế này?” Tolliver hỏi. “Sao anh
nghiện? Chuyện gì đã khiến anh thân tàn ma dại thế?”

“Không có cái cụ thể nào cả,” Elliot nói, bởi vì anh đang
trôi bồng bềnh và không sợ hãi. “Không bao giờ chỉ có một
thứ. Thế thì dễ hơn, đúng không? Nếu tôi là người tử tế, và
tôi thấy chuyện gì quá tệ hại đến mức đây là cách duy nhất
để tôi... ” Anh dí ngón tay vào thái dương và vặn.

“Quên đi,” Tolliver nói nốt.

“Ừ,” Elliot nói. “Nhưng không có cái nào cụ thể cả. Cái
công việc này giết ta theo nghìn cách.”

“Nhưng hẳn phải có chuyện gì đó,” Tolliver nói.


“Chuyện gì đó khiến anh phải cầm đầu một đám lính tội
phạm. Mirotic nói. Từng nói. Từng nói anh có thời đã có
vai vế.”

Elliot không muốn nói về chuyện đó. “Có phải Santos


không?” anh hỏi, đưa ngón tay dọc theo hông Tolliver.

“Hả?”

“Những đêm tôi nhắn anh nhưng anh không qua,”


Elliot nói. “Có ai đó khác.”

119
Tolliver lắc đầu. “Anh thực sự là đồ khốn nạn,” anh
nói, gần như phì cười. “Anh cứ nghĩ đó chắc chắn là lý do,
đúng không? Không bao giờ nghĩ rằng có những đêm tôi
không có hứng quan hệ với một thằng zombie phê thuốc bật
đè hình ngôi sao phim con heo nào đó trong thiết bị cấy suốt
lúc quần nhau à?”

“Tôi không bật,” Elliot nói.

“Thế chắc là vợ anh nhỉ,” Tolliver nói. “Thế còn


bệnh hơn.”

“Tôi không bật cái gì trong thiết bị cấy cả,” Elliot nói.
“Tôi chỉ nhìn thấy anh. Vậy thôi.”

Giọng Tolliver mềm ra một chút. “À.”

Elliot chợt nổi hứng gửi đoạn phim cho anh ta. Anh
cũng xem luôn, ngắm con gái mình quay đầu, chớp đôi mắt
sáng ngời. “Con bé đã lớn rồi,” anh giải thích. “Giờ hai mấy
rồi. Nó và mẹ nó sống trên Trái Đất cũ. Thứ duy nhất hai
người này ghét hơn bản mặt nhau là tôi. Nếu tôi muốn rút,
tôi đã rút từ nhiều năm trước rồi.”

Anh dịch tay lên tay Tolliver, muốn được cảm nhận lớp
nhựa mát của phần da lột dưới đầu ngón tay.

“Họ không cho tôi vào đội lính tù để phạt,” anh nói.
“Tôi tình nguyện.”

120
Anh nhìn xuống vùng cơ đỏ để lộ trên tay Tolliver. Có
những đốm xanh sáng bé tí xen vào trong các thớ cơ. Một
cảm giác bất an vô cùng luồn qua cơn phê.

“Tôi không muốn bị ăn thịt từ trong ra ngoài,” Tolliver


nói. “Tôi không muốn chúng dùng xương của tôi.”

Yêu cầu vàng đục xuất hiện trong thiết bị cấy mắt
của Elliot.

“Kích nổ tôi đi,” Tolliver nói. “Ngay bây giờ. Khi mọi
thứ vẫn còn ổn. Anh kích nổ tôi, và rồi tự xử.”

“Ta có thể chặt cái tay đi,” Elliot nói. “Dùng máy phẫu
thuật tự động.”

“Anh nói công việc này giết ta theo nghìn cách.” Tolliver
dùng cái tay lành vớ lấy tay Elliot và bóp lấy nó. “Tôi sẽ
không trở thành thợ hàn. Tôi cũng không muốn trở thành
một bộ xương rối chết mẹ nào hết. Hãy cuốn xéo khỏi đây
thôi. Và đừng bỏ lại gì.”

Anh buông tay, nhưng bỏ lại phía sau một vật cứng
mát lạnh. Elliot miết ngón cái theo đường rãnh và nhận ra
dáng hình quả lựu đạn cháy của Tolliver. Anh ốp nó vào bên
đầu. Anh thoáng nghĩ về những gì đội cứu trợ sẽ tìm thấy
khi họ đến nơi. Những suy đoán của họ về chuyện đã xảy ra.

121
Anh nhớ về hồ sơ của Tolliver, tệp hồ sơ anh mở ra và
đọc đúng một lần, về việc Tolliver đã bóp chết ông mình
trong lúc ngủ và nói làm vậy để chấm dứt đau đớn của ông,
mặc dù ông anh ta bấy giờ vẫn khoẻ mạnh và hạnh phúc. Ở
đây không có ai là người tốt cả. Kể cả Tolliver. Nhưng riêng
hai người bọn họ, họ tạo thành một cặp đôi hoàn hảo.

Bên ngoài, đám máy cyclop bắt đầu hụ. Elliot đưa phiếu
thuận vào hàng chờ, và Tolliver lịm đi tỏng tay anh. Ngón
cái anh mò thấy chốt quả lựu đạn và đặt im ở đó. Anh nghĩ
về lần cuối mọi thứ vẫn còn ổn và rồi lại bật phim trong mắt,
quan sát cô con gái từ trước khi nó biết anh là người thế nào.

“Nó dậy rồi,” giọng vợ anh thánh thót. “Đang nhìn


quanh quất...”

Elliot hít một hơi thật sâu và kéo chốt và đợi được
giải thoát. 

Truyện gốc đăng trên Clarkesworld.

122
Rich
Larson
Rich Larson là nhà văn SFF gốc Tây Phi. Truyện
ngắn của anh đã được đề cử giải Theodore Sturgeon
và nhiều lần xuất hiện trong các tuyển tập Year’s
Best, và cả các tạp chí như Asimov’s, Analog,
Clarkesworld, F&SF, Interzone, Strange Horizons,
Lightspeed, và Apex. Anh hoạt động rất tích cực
trên trang Patreon: patreon.com/richlarson

123
Sci fi muôn vẻ
SC
MU IF
ÔN I
VẺ
PILOTS
polosatkin
https://goo.gl/OuXshw

125 126
LOST TURBINE
ZuluSplitter
https://goo.gl/aU2lXG

127 128
EXTRACTION POINT
5ofnovember
https://goo.gl/7iOKLU

129 130
TENKAR’S TAVERN
erenarik
https://goo.gl/WXuFmr

131 132
ROBOT MONKEY
FenghuaArt
https://goo.gl/xvprAk

133
UNINVITED GUESTS
qci
https://goo.gl/fyyhPv

134 135
COMMISSION - DUSK STRIKE
Shimmering-Sword
https://goo.gl/4FbDgI

136 137
JUNGLE DEEP
sarichev
https://goo.gl/ofAY0G

138 139
SECRET LAB
TitusLunter
https://goo.gl/zZSUhh

140 141
CYBER GIRL. NEORUN
SergeyZabelin
https://goo.gl/TuHO7y

142 143
INDIE SCI FI
THE SURFACE

145 146
“The Surface” là phim ngắn của đạo diễn Willem Kampenhout.
Lấy bối cảnh tương lai hậu thảm hoạ, phim kể về câu chuyện
của một người mẹ sẵn sàng rời nơi trú ẩn, đối đầu với những hiểm
nguy đã một thời buộc loài người phải tháo chạy xuống lòng đất,
tất cả vì tình yêu dành cho con.

147 148
RISE

149 150
“Rise” là phim ngắn do David Karlak đạo diễn. Bộ phim xoáy vào
câu hỏi: khi máy móc có trí thông minh như con người, ranh giới
giữa người và máy là gì? Phim hiện đã được Johnny Lin và Brian
Oliver mua lại bản quyển để chuyển thể thành phim chiếu rạp,
sau khi thương lượng với hãng Warner Bros.

151 152
NHÂN SỰ THỰC HIỆN:
Lã Bảo
 Biên tập
 Dàn trang
 Dịch thuật

Lê Hương
 Dịch thuật

Long Nguyễn
 Dịch thuật
 Thiết kế

TƯ LIỆU HÌNH ẢNH:


5ofnovember
 https://goo.gl/7iOKLU

Compelling Science Fiction


 https://goo.gl/4vxQ8N

CrazyDiamond

CREDITS
 https://goo.gl/iuLMTB

David Karlak
 https://goo.gl/x7oZVs (SẮP XẾP THEO THỨ TỰ
BẢNG CHỮ CÁI)
erenarik
 https://goo.gl/WXuFmr

FenghuaArt
 https://goo.gl/xvprAk

Panhandler Magazine
 https://goo.gl/15KDnZ

polosatkin
Credits
 https://goo.gl/OuXshw

qci
 https://goo.gl/fyyhPv

Rich Larson
 https://goo.gl/YyL6a2

sarichev
 https://goo.gl/ofAY0G

SergeyZabelin
 https://goo.gl/TuHO7y

Shimmering-Sword
 https://goo.gl/4FbDgI
TitusLunter
 https://goo.gl/zZSUhh

ZuluSplitter
 https://goo.gl/aU2lXG

Willem Kampenhout
 https://goo.gl/Za3w3Q

TƯ LIỆU BÀI VIẾT:


Nick Wolven - “No Placeholder for You
My Love”
 https://goo.gl/YmWTyq

Chris Barnham - “All That Is Solid”


 https://goo.gl/C0B0qX

Rich Larson - “Extraction Request”


 https://goo.gl/qCL1pt

CREDITS
(SẮP XẾP THEO THỨ TỰ
BẢNG CHỮ CÁI)

You might also like