You are on page 1of 95

GIÁO TRÌNH CÂY CHÈ

TS. Lê Tất Khƣơng (chủ biên) – Hoàng Văn Chung – Đỗ Ngọc Oanh
NXB Nông Nghiệp,1999

Chƣơng I: Vị trí của cây chè trong nền kinh tế quốc dân. Tình hình sản xuất chè trong
nƣớc và thế giới (Trang 2)

Chƣơng II : Đặc điểm sinh vật học của cây chè (Trang 10)

Chƣơng III: Điều kiện sinh thái (Trang 34)

Chƣơng IV: Chọn giống chè (Trang 41)

Chƣơng V: Kỹ thuật trồng chè và quản lý, chăm sóc nƣơng chè (Trang 48)

Chƣơng VI: Thu hoạch, bảo quản và chế biến chè (Trang 69)

Chƣơng VII: Một số vấn đề về tổ chức và quản lý sản xuất (Trang 80)

1|w ww .trabavan.com
CHƢƠNG I

VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN


TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ TRONG NƢỚC VÀ THẾ GIỚI

I. VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN


1) Chè là một thức uống lý tƣởng và có nhiều giá trị về dƣợc liệu:
Trung Quốc là nƣớc đầu tiên chế biến chè để uống sau đó nhờ những đặc tính tốt của
nó, chè trở thành thức uống phổ biến trên thế giới. Ngày nay chè đƣợc phổ biến rộng
rãi hơn cả cà phê, rƣợu vang và ca-cao. Tác dụng chữa bệnh và chất dinh dƣỡng của
nƣớc chè đã đƣợc các nhà khoa học xác định nhƣ sau:

- Caféin và một số hợp chất ancaloit khác có trong chè là những chất có khả năng
kích thích hệ thần kinh trung ƣơng, kích thích vỏ đại não làm cho tinh thần minh mẫn,
tăng cƣờng sự hoạt động của các cơ trong cơ thể, nâng cao năng lực làm việc, giảm
bớt mệt nhọc sau những lúc làm việc căng thẳng.
- Hỗn hợp tanin chè có khả năng giải khát, chữa một số bệnh đƣờng ruột nhƣ tả,
lỵ, thƣơng hàn. Nhiều thầy thuốc còn dùng nƣớc chè, đặc biệt là chè xanh để chữa
bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang và chảy máu dạ dày. Theo xác nhận của M.N.
Zaprometop thì hiện nay chƣa tìm ra đƣợc chất nào lại có tác dụng làm vững chắc các
mao mạch tốt nhƣ catechin của chè. Dựa vào số liệu của Viện nghiên cứu y học
Leningrat, khi điều trị các bệnh cao huyết áp và neprit mạch thì hiệu quả thu đƣợc có
triển vọng rất tốt, nếu nhƣ ngƣời bệnh đƣợc dùng catechin chè theo liều lƣợng 150mg
trong một ngày. E.K. Mgaloblisvili và các cộng tác viên đã xác định ảnh hƣởng tích
cực của nƣớc chè xanh tới tình trạng chức năng của hệ thống tim mạch, sự cản các
mao mạch, trao đổi muối - nƣớc, tình trạng của chức năng hô hấp ngoại vi, sự trao đổi
vitamin C, trạng thái chức năng của hệ thống điều tiết máu.v.v...
- Chè còn chứa nhiều loại vitamin nhƣ vitamin A, B1, B2, B6, vitamin PP và
nhiều nhất là vitamin C.
- Một giá trị đặc biệt của chè đƣợc phát hiện gần đây là tác dụng chống phóng xạ.
Điều này đã đƣợc các nhà khoa học Nhật Bản thông báo qua việc chứng minh chè có
tác dụng chống đƣợc chất Stronti (Sr) 90 là một đồng vị phóng xạ rất nguy hiểm. Qua
việc quan sát thống kê nhận thấy nhân dân ở một vùng ngoại thành Hirôsima có trồng
nhiều chè, thƣờng xuyên uống nƣớc chè, vì vậy rất ít bị nhiễm phóng xạ hơn các vùng
chung quanh không có chè. Các tiến sĩ Teidzi Ugai và Eisi Gaiasi (Nhật Bản) đã tiến
hành các thí nghiệm trên chuột bạch cho thấy với 2% dung dịch tanin chè cho uống sẽ
tách ra đƣợc từ cơ thể 90% chất đồng vị phóng xạ Sr - 90.
2) Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài, mau cho sản
phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể thu hoạch 30-40 năm hoặc
lâu hơn nữa. Trong điều kiện thuận lợi của ta cây sinh trƣởng tốt thì cuối năm thứ
2|w ww .trabavan.com
nhất đã thu bói trên dƣới một tấn búp/ha. Các năm thứ hai thứ ba (trong thời kỳ kiến
thiết cơ bản) cũng cho một sản lƣợng đáng kể khoảng 2-3 tấn búp/ha. Từ năm thứ tƣ
chè đã đƣa vào kinh doanh sản xuất.
3) Chè là sản phẩm có thị trƣờng quốc tế ổn định, rộng lớn và ngày càng đƣợc mở
rộng. Theo dự đoán của FAO (1967), nếu lấy năm 1961 - 1963 là 100% thì năm 1975
yêu cầu về chè hàng năm của thế giới sẽ tăng 2,2 - 2,7% và sản xuất chè tăng 3,2%.
4) Ở nƣớc ta, chè là một trong những cây có giá trị xuất khẩu cao. Căn cứ vào
năng suất bình quân đã đạt đƣợc năm 1969 của khu vực nông trƣờng quốc doanh
(42,39 tạ búp/ha), nếu chỉ đứng về mặt xuất khẩu mà xét thì một ha chè của khu vực
nông trƣờng quốc doanh so với một số cây công nghiệp dài ngày của cùng khu vực
này bằng hơn 5 lần một ha cà phê, gần 10 lần một ha sả. Nếu năng suất chè đạt 100 tạ
búp/ha thì xuất khẩu có thể thu đƣợc đủ để nhập 46 tạ phân hóa học, hoặc 3,1 tạ bông,
hoặc 25 - 30 tạ bột mì. Nhƣ vậy một ha chè có năng suất 100 tạ búp có giá trị xuất
khẩu ngang với 200 tấn than.
5) Để sử dụng nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dồi dào, thay đổi
cơ cấu sản xuất nông nghiệp với điềi kiện không tranh chấp với diện tích trồng cây
lƣơng thực, chè là một trong những cây có ƣu thế nhất. Hiện nay ta mới sử dụng
khoảng 50% đất nông nghiệp. Nguồn lao động của ta dồi dào nhƣng phân bố không
đều, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng, chè là một loại cây yêu cầu một lƣợng lao
động sống rất lớn. Do đó việc phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du và miền núi là
một biện pháp có hiệu lực, vừa để sử dụng hợp lý vừa để phân bố đồng đều nguồn lao
động dồi dào trong phạm vi cả nƣớc. Việc phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du và
miền núi dẫn tới việc phân bổ các xí nghiệp công nghiệp chế biến chè hiện đại ngay ở
những vùng đó, do đó làm cho việc phân bố công nghiệp đƣợc đồng đều và làm cho
vùng trung du và miền núi mau chóng đuổi kịp miền xuôi về kinh tế và văn hóa.
II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CHÈ TRÊN THẾ GIỚI
Ngày nay trên thế giới có khoảng 40 nƣớc trồng chè. Chè đƣợc trồng tập trung
nhiều nhất ở châu Á, sau đó đến châu Phi.
Theo con số thống kê của cơ quan Nông nghiệp và Lƣơng thực thế giới (FAO
năm 1971 và 1975) thì diện tích trồng chè của thế giới năm 1948 - 1952 là 985.000
ha, năm 1971 là 1.357.000 ha và năm 1974 là 1.531.000 ha. Phân bố nhƣ sau:
Bảng 1: DIỆN TÍCH TRỒNG CHÈ TRÊN THẾ GIỚI
(Đơn vị: 1000 ha)

Khu vực 1948 - 1952 1971 1974

3|w ww .trabavan.com
Thế giới 985 1.357 1.531
Nam Mỹ 5 40 38
Châu Á 885 1.121 1.267
Châu Phi 32 118 148
Liên Xô 63 75 76

Sản lƣợng chè trên thế giới tính đến năm 1977 (theo số liệu của FAO) là
1.636.000t. Trong đó Nam Mỹ: 42.000t; Châu Á: 1.316.000T; CHẤU Phi:180.000t;
Liên Xô: 92.000t; Châu Đại Dƣơng: 6.000t.
Các nƣớc sản xuất chè nhiều nhất là: Ấn Độ: 500.000T, Trung Quốc: 331.000t,
Xrilanca: 197.000t; Nhật Bản: 100.000t.
Theo số liệu của FAO (1997), những nƣớc xuất nhập khẩu chè nhiều nhất trên thế
giới năm 1976 nhƣ sau:
- Xuất khẩu: Ấn Độ 237.000T, Xrilanca: 199.700t, Kênia: 63.000t; Inđônêxia:
47.500t; Bănglađet: 30.700t.
- Nhập khẩu: Anh: 224.600t, Mỹ: 82.200t, Pakixtan: 49.100t, Ai Cập: 24.900t,
Canađa: 24.700t.
Dƣới đây giới thiệu tình hình trồng chè một số nƣớc chủ yếu:
1) Trung Quốc:
Nghề trồng chè của Trung Quốc đã có một lịch sử lâu đời. Cây chè đƣợc phân bố
trên một phạm vi địa lý rất rộng: từ 18 đến 35 độ vĩ bắc, từ 99 đến 122 độ kinh đông.
Chè đƣợc trồng chủ yếu ở 15 tỉnh: Chiết Giang, An Huy, Hồ Nam, Đài Loan, Tứ
Xuyên, Vân Nam, Phúc Kiến, Hồ Bắc, Giang Tây, Quý Châu, Quảng Đông, Quảng
Tây,Giang Tô, Thiểm Tây, Hà Nam. Điều kiện tự nhiên và khí hậu Trung Quốc thích
hợp cho việc trồng chè. Độ nhiệt trung bình hàng năm của đại bộ phận vùng chè
Trung Quốc là 15 - 18oC. Lƣợng mƣa hàng năm trên 1000 mm, mƣa tập trung vào
thời kỳ chè sinh trƣởng. Chè đƣợc trồng chủ yếu trên các loại đất thục phát triển trên
các loại đá mẹ phiến thạch, sa thạch, granit, phiến thạch mica, nai, với độ chua pH =
4,5 đến 6,5. Các vƣờn chè đƣợc trồng phần lớn trên đất dốc đến 30 độ. Diện tích trồng
chè của Trung Quốc năm 1974 là 337.000 ha.
Trung Quốc có rất nhiều giống chè, trong đó chủ yếu là giống chè Trung Quốc lá
to và lá trung bình.
2) Ấn Độ:
Ấn Độ bắt đầu trồng chè vào khoảng 1834 - 1840. Do điều kiện khí hậu thích hợp,
những năm gần đây, Ấn Độ đã đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu chè. Chè
4|w ww .trabavan.com
của Ấn Độ gồm có hai vùng rõ rệt: vùng phía Bắc (vùng sản xuất chè chủ yếu của Ấn
Độ) và vùng phía Nam. Vùng phía Bắc, chè tập trung ở các bang Atxam, Kachar,
Duars, Darjiling; Atxam và Darjiling là hai khu vực sản xuất chè có tiếng trên thế
giới. Vùng chè phía nam: tập trung ở hai bang Kerala và Madras. Đất vùng Atxam
chủ yếu là đất đỏ pha sét và đất phù sa. Đất vùng Madras chủ yếu là đất sét và đất đỏ
pha cát. Do lƣợng mƣa lớn, đất đai phì nhiêu, năng suất chè của Ấn Độ đạt bình quân
5 - 8 t/ha, cá biệt đạt 12 - 13 t/ha. Đặc điểm sản xuất chè của Ấn Độ là trồng tập trung,
giống chè lá to, trồng cây bóng râm cho chè và áp dụng phƣơng pháp hái chừa nhiều
lá. Diện tích trồng chè của Ấn Độ năm 1974 là 360.000 ha.
3) Xrilanca:
Xrilanca bắt đầu trồng chè vào khoảng 1837 - 1840, nhƣng thực sự phát triển từ
năm 1867 - 1873 (sau khi các vƣờn cà phê bị tiêu diệt bởi bệnh nấm Hemileia
vastatrix).
Chè Xrilanca tập trung ở các tỉnh miền trung, miền tây và tây bắc, phân bố ở các
độ cao so với mặt biển nhƣ sau:
> 1.200m: 36% diện tích
600 - 1.200m: 39% diện tích
< 600m: 25% diện tích.
Độ nhiệt trung bình cả năm khoảng 18 - 19oC, lƣợng mƣa trên dƣới 1.800mm.
Đất trồng chè chủ yếu là đất feralit màu vàng đỏ và màu nâu. Năm 1974 diện tích
trồng chè là 243.000 ha.
Đặc điểm trồng chè của Xrilanca là dùng các loại giống Atxam, Manipua. Ở các
vùng thấp thƣờng trồng cây họ đậu che râm và làm phân xanh, đốn chè 1 - 3 năm một
lần giữ ở độ cao 1m, tạo tán bằng.
4) Nhật Bản:
Nhật Bản là nƣớc đầu tiên nhập giống chè từ Trung Quốc (năm 805 - 814). Chè
trồng tập trung ở giữa 35 và 38 độ vĩ bắc, có một số diện tích trồng đến 40 độ vĩ bắc.
Chè trồng chủ yếu ở những nơi đất bằng, một số diện tích nhỏ trồng trên đồi. Độ cao
so với mặt biển không vƣợt quá 60 - 100m. Khí hậu Nhật Bản chiụ ảnh hƣởng của gió
mùa, lƣợng mƣa tƣơng đối lớn: 2150mm/năm, phần lớn mƣa vào mùa hè. Đất trồng
chè ở Nhật Bản là đất sét nặng và đất đỏ. Diện tích trồng chè năm 1974 là 56.000 ha.
Nhật Bản là nƣớc kinh doanh chè theo phƣơng thức tiểu nông, diện tích không lớn
song khu vực chè tƣơng đối tập trung, giống chè chủ yếu là giống lá nhỏ, chế biến chè
xanh là chính. Quản lý vƣờn chè chu đáo lƣợng phân bón dùng nhiều, hái bằng kéo.
5) Inđônêxia:
Nghề trồng chè ở Inđônêxia bắt đầu từ đầu thế kỷ 19. Chè đƣợc trồng tập trung ở
miền tây đảo Java (trên các sƣờn dốc có độ cao so với mặt biển 2.300 m), miền đông
5|w ww .trabavan.com
bắc và nam Xumatra (độ cao so với mặt biển 900m). Đất trồng chè ở Java có nguồn
gốc núi lửa, giàu mùn và đạm; lân và kali có hàm lƣợng trung bình. Độ chua pH 5,5 -
5,8. Cả hai đảo Java và Xumatra nằm trong vùng nhiệt đới, lƣợng mƣa hàng năm
2.500 - 4.000 mm, phân bố tƣơng đối đồng đều. Chè đƣợc thu hoạch quanh năm, chủ
yếu là dùng chế biến chè đen. Năm 1974 diện tích trồng chè của Inđônêxia là 100.000
ha, tổng sản lƣợng chè khô 67.000t.
6) Liên Xô:
Vùng sản xuất chè chủ yếu của Liên Xô là miền tây nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Bruzia (nằm trên bờ Hắc Hải) chiếm trên 90% tổng sản lƣợng chè toàn quốc.
Ngoài ra chè còn đƣợc trồng ở vùng Kraxnôda (thuộc nƣớc Cộng hòa XHCN Liên
bang Nga) và vùng Lencôran (thuộc nƣớc Cộng hòa XHCN Azecbaijan). Cây chè lần
đầu tiên đƣợc trồng thử ở vƣờn thực vật Nhikit (thuộc Crƣm) năm 1883, sau đó trồng
ở vƣờn thực vật Xukhumi 1884. Năm 1884 chè đƣợc trồng ở vùng Trăccơvi cây chè
sinh trƣởng phát triển bình thƣờng, búp có phẩm chất tốt. Song việc phát triển sản
xuất chè không đƣợc chế độ Nga hoàng chú ý.
Từ năm 1848 đến 1925 (trong 77 năm), diện tích trồng chè của Liên Xô chỉ đạt
1086 ha.
Sau kế hoạch năm năm lần thứ nhất đến năm 1958 diện tích trồng chè đạt 51,803
ha (tức là tăng gần 50 lần so với thời kỳ 1848 - 1925). Diện tích trồng chè của Liên
Xô năm 1974 là 76.000 ha.
Đất trồng chè chủ yếu của Liên Xô là đất đỏ, đất vàng và đất potzon.
Khí hậu vùng trồng chè hình thành hai mùa rõ rệt. Cây chè bắt đầu sinh trƣởng từ
cuối tháng 3 đầu tháng 4 và kết thúc sinh trƣởng vào tháng 10. Thời gian thu hoạch
búp chủ yếu là từ tháng 5 đến hết tháng 9.
III - TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ CỦA VIỆT NAM
Lịch sử trồng chè của nƣớc ta đã có từ lâu. Nhƣng cây chè đƣợc khai thác và
trồng với diện tích lớn mới bắt đầu khoảng hơn 50 năm nay.
Quá trình phát triển diện tích trồng chè ở Việt Nam có thể chia làm ba thời kỳ sau
đây:
Thời kỳ thứ nhất 1890 - 1945:
Năm 1890 một số đồn điền chè đƣợc thành lập đầu tiên:
Tĩnh Cƣơng (Phú Thọ) với diện tích 60 ha, Đức Phổ (Quảng Nam) 250 ha, chè
đƣợc trồng ở hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi với diện tích 1900 ha. Năm 1925 -
1940 ngƣời Pháp mở các đồn điền trồng chè ở cao nguyên Trung bộ với diện tích
khoảng 2.750 ha. Tính đến năm 1938, tổng diện tích trồng chè của Việt Nam là
13.405 ha với sản lƣợng 6.100t chè khô. Cây chè đƣợc trồng nhiều ở Bắc bộ và Trung
bộ trong đó trên 75% diện tích là của ngƣời Việt, khoảng 25% diện tích là của ngƣời
6|w ww .trabavan.com
Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1939 sản lƣợng chè của Việt Nam là 10.900t, đứng
hàng thứ 6 sau Ấn Độ, Xrilanca, Trung Quốc, Nhật Bản và Inđônêxia.
Một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này là diện tích là diện tích trồng chè rất phân
tán, lẻ tẻ, sản xuất mang tính chất tự túc, tự cấp. Kỹ thuật canh tác lâu sơ sài với
phƣơng thức quảng canh, năng suất rất thấp chỉ đạt trên dƣới 1,5t búp tƣơi/ha.
Các cơ sở nghiên cứu về cây chè đƣợc thành lập ở hai nơi Phú Hộ (Vĩnh Phú) và
Bảo Lộc (Lâm Đồng).
Thời kỳ thứ hai 1945 - 1955:
Do ảnh hƣởng của cuộc chiến tranh chống Pháp các vƣờn chè bị bỏ hoang nhiều,
số còn lại không đƣợc đầu tƣ chăm sóc cho nên diện tích và sản lƣợng chè trong thời
kỳ này giảm sút dần.
Thời kỳ thứ ba từ năm 1954 tới nay:
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ với phƣơng châm xây dựng nền nông
nghiệp toàn diện và vững chắc, nghề trồng chè đã đƣợc chú ý đúng mức. Chè chiếm
một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của nhân dân ta. Trong các vùng trồng
chè, chè là nguồn thu nhập chủ yếu, góp phần quan trọng trong việc cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân. Hiện nay việc sản xuất và cung cấp chè chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng ở trong nƣớc, cũng nhƣ nhu cầu xuất khẩu. Tính
đến hết năm 1977 cả nƣớc có 44.330 ha chè với tổng sản lƣợng là 17.896t chè khô.
Sản xuất chè gồm hai khu vực: tập thể và quốc doanh.
1) Khu vực tập thể (do các hợp tác xã nông nghiệp quản lý):
Chúng ta đã phục hồi cải tạo các vƣờn chè cũ, đồng thời không ngừng mở rộng
diện tích trồng chè mới. Những năm gần đây đã có nhiều hợp tác xã chuyên trồng chè
(25 hợp tác xã ở Định Hóa - Bắc Thái) hoặc trồng chè là chủ yếu (các hợp tác xã ở
Sông Lô - Vĩnh Phú). Các hợp tác xã trồng chè đang áp dụng những biện pháp kỹ
thuật tiên tiến trong quá trình trồng trọt nhƣ thiết kế nƣơng chè mới, kỹ thuật gieo
trồng, đốn tạo hình, quản lý chăm sóc và hái chè san trật. Diện tích trồng chè trong
khu vực tập thể năm 1977 là 22.205 ha.
2) Khu vực quốc doanh:
Từ năm 1960 ta đã xây dựng những nông trƣờng quốc doanh trồng chè. Hiện nay
đã có 43 nông trƣờng quốc doanh với diện tích 17.932 ha. Ngoài hai khu vực hợp tác
xã nông nghiệp và nông trƣờng quốc doanh, ở các tỉnh phía nam diện tích trồng chè
của tƣ nhân cũng còn khoảng 5.000 ha.
Nhìn chung, trong những năm qua, việc trồng chè của ta còn một số tồn tại nhƣ:
khả năng mở rộng diện tích chè ở vùng trung du và miền núi còn nhiều, nhƣng ta chƣa
có điều kiện để giải quyết tốt. Tốc độ phát triển trồng chè chậm, các vùng chè mới
trồng không đồng đều, còn nhiều diện tích xấu và đến thời hạn chƣa đƣa vào sản xuất
7|w ww .trabavan.com
kinh doanh. Việc quy hoạch sử dụng đất trồng chè chƣa hợp lý, còn lãng phí đất đai.
Năng suất sản lƣợng chè hàng năm có tăng nhƣng tăng rất chậm, chất lƣợng sản phẩm
có khá hơn trƣớc nhƣng không đồng đều ở các cơ sở và không ổn định.
Khả năng phát triển nghề trồng chè của ta rất lớn và có nhiều điều kiện thuận lợi:
- Phát triển sản xuất cây công nghiệp nói chung và cây chè nói riêng đang đƣợc sự
quan tâm của Đảng và Chính phủ. Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc đã nhấn
mạnh việc phát triển sản xuất và xuất khẩu chè. Hội nghị bàn về sản xuất chè họp vào
tháng 7 - 1970 đã nhất trí: Phải phát triển cây chè với tốc độ nhanh, cần tổ chức làm
ăn theo lối công nghiệp, làm tập trung, quy mô lớn, có kỹ thuật tiên tiến để có năng
suất cao, sản lƣợng nhiều.
- Điều kiện khí hậu đất đai của ta rất thuận lợi cho việc sinh trƣởng phát triển của
cây chè. Diện tích vùng trung du và miền núi thích hợp cho việc trồng chè. Khả năng
đƣa năng suất búp tƣơi lên 5 - 10 tấn/ha là có cơ sở hiện thực.
- Nhu cầu tiêu dùng chè trong nƣớc và nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng, phẩm
chất chè của ta đƣợc thị trƣờng thế giới ƣa chuộng.
3) Phân vùng chè:
Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho nên cây chè đƣợc trồng trọt rải rác
ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi, nhƣng tập trung ở một số vùng chính nhƣ
sau:
- Vùng chè miền núi: Gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Sơn La, giống
chè đƣợc trồng chủ yếu ở vùng này là chè Shan (còn gọi là chè tuyết) có năng suất
cao, phẩm chất tốt. Sản lƣợng chè của vùng này chiếm 25 - 30% tổng sản lƣợng chè
của miền Bắc. Trong tƣơng lai sẽ nâng tỷ trọng sản lƣợng lên 50 - 60%. Sản phẩm
chủ yếu của vùng chè miền núi là chè lục, chè mạn. Hiện nay sản xuất chè xanh đã
chiếm ƣu thế.
- Vùng chè trung du: gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Bắc Thái và
một phần của Hoàng Liên Sơn (Yên Bái cũ). Là vùng sản xuất chè chủ yếu, chiếm
70% sản lƣợng chè của miền Bắc. Giống chè chính đƣợc trồng trọt là giống Trung du
(Trung Quốc lá to) có năng suất cao và phẩm chất tốt. Sản phẩm chủ yếu là chè đen
và chè xanh để tiêu dùng và xuất khẩu.
- Vùng chè tươi: gồm các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và khu 4 cũ, vùng này nhân dân
có tập quán sử dụng lá bánh tẻ để uống tƣơi (không qua quá trình chế biến). Năm
1972 diện tích vùng chè tƣơi là 8.098 ha, chè đƣợc trồng chủ yếu ở các tỉnh Nghệ
Tĩnh (4.550 ha), Thanh Hóa (1.427 ha). Những năm gần đây một số vƣờn chè tƣơi đã
đƣợc chăm sóc, đốn hái để chuyển sang chè hái búp. Hiện nay vùng chè này đang giữ
vị trí quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu thức uống của nhân dân.
- Ở miền Nam chè đƣợc trồng chủ yếu ở hai tỉnh Lâm Đồng và Gia Lai - Công
Tum. Vùng nam Tây Nguyên (Lâm Đồng) là vùng cao nguyên nhiệt đới, độ cao 800 -
8|w ww .trabavan.com
1.500 m, thích hợp với giống chè Shan. Vùng bắc Tây Nguyên thấp hơn (500 -
700m), khí hậu thích hợp với các giống chè Atxam và Trung du. Diện tích trồng chè
của các tỉnh phía nam hiện có khoảng 8.200 ha (diện tích trồng chè đạt đƣợc cao nhất
năm 1965: 9.685 ha với tổng sản lƣợng là 5.905t chè khô).

9|w ww .trabavan.com
CHƢƠNG II

ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC CỦA CÂY CHÈ

I - NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI


1) Nguồn gốc:
Nhiều công trình nghiên cứu và khảo sát trƣớc đây cho rằng nguồn gốc của cây chè là
vùng cao nguyên Vân Nam Trung Quốc, nơi có khí hậu ẩm ƣớt và ấm. Theo các tài
liệu của Trung Quốc thì cách đây khoảng 4.000 năm, ngƣời Trung Quốc đã biết dùng
chè để làm dƣợc liệu và sau đó mới dùng để uống. Cũng theo các nguồn tài liệu này
thì vùng biên giới Tây Bắc nƣớc ta nằm trong vùng nguyên sản của giống chè tự
nhiên trên thế giới.
Năm 1823 R.Bruce phát hiện đƣợc những cây chè dại, lá to ở vùng Atxam (Ấn
Độ), từ đó các học giả ngƣời Anh cho rằng nguyên sản của cây chè là ở Ấn Độ chứ
không phải là ở Trung Quốc. Trong tất cả các tài liệu gần đây hầu nhƣ không thấy có
sự nhất quán nêu lên về nơi xuất xứ của cây chè. Chúng ta biết rằng muốn xác định
vùng nguyên sản của một cây trồng cần căn cứ vào những điều kiện tổng hợp, trong
đó cây dã sinh chỉ là một điều kiện mà chủ yếu là cần xét đến tập quán sử dụng, lịch
sử trồng trọt và tình hình phân bố các loại hình có quan hệ tới cây trồng đó.
Những công trình nghiên cứu của Đjêmukhatze (1961 - 1976) về phức catechin
của lá chè từ các nguồn gốc khác nhau, so sánh về thành phần các chất catechin giữa
các loại chè đƣợc trồng trọt và chè mọc hoang dại đã nêu lên luận điểm về sự tiến hóa
sinh hóa của cây chè và trên cơ sở đó xác minh nguồn gốc cây chè. Đjêmukhatze kết
luận rằng: những cây chè mọc hoang dại từ cổ xƣa, tổng hợp chủ yếu là (-) -
epicatechin và
(-) - epicatechin galat, ở chúng phát triển chậm khả năng tổng hợp (-) epigalo catechin
và các galat của nó để tạo thành (+) galocatechin. Nghiên cứu các cây chè dại ở Việt
Nam cho thấy chúng cũng tổng hợp chủ yếu là
(-) - epicatechin và (-) - epicatechin galat (chiếm 70% tổng số các loại catechin). Khi
di thực những cây chè dại này lên phía Bắc, với các điều kiện khắc nghiệt hơn về khí
hậu, chúng sẽ thích ứng dần với các điều kiện sinh thái bằng cách có thành phần
catechin phức tạp hơn, cùng với sự tạo thành (-) epigalocatechin và các galat của nó.
Điều này có nghĩa là sự trao đổi chất ở đây hƣớng về phía tăng cƣờng quá trình
hiđroxin hóa và galin hóa. Từ những biến đổi sinh hóa này của lá các cây chè mọc
hoang dại và cây chè đƣợc trồng trọt chăm sóc, cho phép đi tới một kết luận mới
"Nguồn gốc của cây chè chính là ở Việt Nam".
Hiện nay chè đƣợc phân bố khá rộng trong những điều kiện tự nhiên rất khác
nhau từ 30 độ vĩ nam (Natan - Nam Phi) đến 45 độ vĩ bắc (Gruzia - Liên Xô) là những
nơi có điều kiện tự nhiên khác rất xa vùng nguyên sản. Chè đƣợc trồng ở Nhật Bản

10 | w w w . t r a b a v a n . c o m
năm 805 - 814, Indonesia 1684, Liên Xô 1833, Xrilanca 1837 - 1840, Ấn Độ 1834 -
1840 và Tasmania (châu Đại Dƣơng) năm 1940.
Những thành tựu gần đây của các nhà nông học Liên Xô cũng nhƣ một số nƣớc
khác đã tạo ra nhiều giống chè mới có khả năng thích ứng trong những điều kiện khí
hậu khác nhau mở ra nhiều triển vọng cho sự nghiệp trồng chè trên thế giới.
2) Phân loại:
Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật nhƣ sau:
Ngành hạt kín Angiospermae
Lớp song tử diệp Dicotyledonae
Bộ chè Theales
Họ chè Theaceae
Chi chè Camellia (Thea)
Loài Camellia (Thea) sinensis.
Tên khoa học của cây chè đƣợc nhiều nhà khoa học công nhận là: Camellia
sinensis (L) O. Kuntze và có tên đồng nghĩa là: Thea sinensis L.
Chú thích:
Năm 1753 Linê đặt tên khoa học cho cây chè là Thea sinensis, sau đó lại đặt
là Camellia sinensis. Sau Linê có nhà thực vật học xếp cây chè thuộc chi Thea, có
ngƣời lại xếp cây chè thuộc chi Camellia sinensis. Tên khoa học của cây chè đƣợc
viết là Thea sinensis hoặc Camellia sinensis. Hơn một trăm năm, tên khoa học của cây
chè vẫn là một vấn đề tranh luận. Trƣớc sau có 20 cách đặt tên khoa học cho cây chè.
Diễn biến chủ yếu nhƣ sau:
Năm 1807 f. Sims. Thea sinensis Sims.
1822 H.F. Link. Camellia sinensis Link.
1854 W. Griffim. Camellia theifera Griff.
1874 D. Brandis. Camellia thea Brandis.
1874 W. T. T. Dyer. Camellia theifera Dyer.
1908 G. Watt. Camellia thea (Link) Brandis.
1919 C. P. Cohen Stuart. Camellia thiefera (Griff) Dyer.
1933 C. R. Harler. Thea sinensis (L) Sims.
1956 C. R. Harler. Camellia sinensis (L) O. Kuntze.

11 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Hiện nay các nhà thực vật học gộp hai chi Thea và Camellia làm một và gọi là
chi Camellia. Vì vậy tên khoa học của cây chè đƣợc nhiều ngƣời thƣờng gọi
là Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Cơ sở của việc phân loại chè thƣờng dựa vào:
- Cơ quan dinh dƣỡng: loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, hình dạng và
kích thƣớc của các loại lá, số đôi gân lá...
- Cơ quan sinh thực: độ lớn của cánh hoa, số lƣợng đài hoa, vị trí phân nhánh của
đầu nhị cái.
- Đặc tính sinh hóa: chủ yếu dựa vào hàm lƣợng tanin. Mỗi giống chè đều có hàm
lƣợng tanin biến động trong phạm vi nhất định.
Dƣới đây giới thiệu phân loại của Cohen Stuart (1919). Cách phân loại này đƣợc
nhiều ngƣời chấp nhận. Tác giả chia Camellia sinensis L. làm 4 thứ (varietas):
a) Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. Bohea):
Đặc điểm:
- Cây bụi thấp phân cành nhiều.
- Lá nhỏ, dày nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, lá dài 3,5 - 6,5 cm.
- Có 6 - 7 đôi gân lá không rõ, răng cƣa nhỏ, không đều.
- Búp nhỏ, hoa nhiều, năng suất thấp, phẩm chất bình thƣờng.
- Khả năng chịu rét ở độ nhiệt -12oC đến -15oC.
Phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản và một số vùng
khác.
b) Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla):
Đặc điểm:
- Thân gỗ nhỡ cao tới 5m trong điều kiện sinh trƣởng tự nhiên.
- Lá to trung bình chiều dài 12 - 15 cm, chiều rộng 5 - 7 cm, màu xanh nhạt, bóng,
răng cƣa sâu không đều, đầu lá nhọn.
- Có trung bình 8 - 9 đôi, gân lá rõ.
- Năng suất cao. Phẩm chất tốt.
Nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
c) Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan):
- Thân gỗ, cao từ 6 đến 10 m.

12 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Lá to và dài 15 - 18 cm màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cƣa nhỏ và dày.
- Tôm chè có nhiều lông tơ, trắng và mịn trông nhƣ tuyết, nên còn gọi là chè
tuyết.
- Có khoảng 10 đôi gân lá.
- Có khả năng thích ứng trong điều kiện ấm ẩm, ở địa hình cao, năng suất cao,
phẩm chất thuộc loại tốt nhất.
Nguyên sản ở Vân Nam - Trung Quốc, miền bắc của Miến Điện và Việt Nam.
d) Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. atxamica):
- Thân gỗ cao tới 17 m phân cành thƣa.
- Lá dài tới 20 - 30 cm, mỏng, mềm, thƣờng có màu xanh đậm, dạng lá hình bầu
dục, phiến lá gợn sóng, đầu lá dài.
- Có trung bình 12 - 15 đôi gân lá.
- Rất ít hoa quả.
- Không chịu đƣợc rét hạn.
- Năng suất, phẩm chất tốt.
Trồng nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam (Trung Quốc) và một số vùng khác.
Bốn thứ (varietas) chè trình bày trên đây đều có trồng ở Việt Nam, nhƣng phổ
biến nhất là hai thứ C. sinensisvar. macrophylla và C. sinensis var. Shan.
- Camellia sinensis var. macrophylla đƣợc trồng nhiều nhất ở các tỉnh trung du
với các tên gọi của địa phƣơng (tùy theo màu sắc của lá) nhƣ: Trung du lá xanh,
Trung du lá vàng, v.v... Tỷ lệ trồng các giống chè trung du ở miền bắc đạt tới 70%.
Năng suất búp trong sản xuất đại trà khi chè 5 - 19 tuổi thƣờng đạt 4 - 5 tấn/ha.
Các giống chè Trung du chịu đƣợc đất xấu, nhƣng nhiều sâu hại: rầy xanh, bọ
cánh tơ..., ở vùng cao thƣờng bị bệnh phồng lá. Chè Trung du thƣờng để chế biến chè
xanh, chè đen đều cho phẩm chất tốt.
- Camellisa sinensis var. Shan đƣợc trồng ở miền núi các tỉnh miền bắc và ở miền
nam Tây Nguyên (Lâm Đồng). Ở mỗi địa phƣơng có các giống khác nhau nhƣ: Shan
Mộc Châu, Shan Tham Vè, Shan Trấn Ninh ... Năng suất búp thƣờng đạt 6 - 7 tấn/ha.
Búp chè có nhiều tuyết, dùng chế biến chè xanh, chè đen đều cho phẩm chất tốt
nhƣng thích hợp với chế biền chè xanh hơn.

13 | w w w . t r a b a v a n . c o m
II - ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỌC VÀ SINH VẬT HỌC CÂY CHÈ
1) Thân và cành:
Cây chè sinh trƣởng trong điều kiện tự nhiên là đơn trục, nghĩa là chỉ có một thân
chính, trên đó phân ra các cấp cành. Do đặc điểm sinh trƣởng và do hình dạng phân
cành khác nhau, ngƣời ta chia thân chè ra làm ba loại: thân gỗ, thân nhỡ (thân bán gỗ)
và thân bụi.
Thân gỗ là loại hình cây cao, to, có thân chính rõ rệt, vị trí phân cành cao.
Thân nhỡ hay thân bán gỗ là loại hình trung gian, có thân chính tƣơng đối rõ rệt,
vị trí phân cành thƣờng cao khoảng 20 - 30 cm ở phía trên cổ rễ.
Đặc điểm của thân bụi là cây không có thân chính rõ rệt, tán cây rộng thấp, phân
cành nhiều, vị trí phân cành cấp 1 thấp ngay gần cổ rễ. Trong sản xuất thƣờng gặp
loại chè thân bụi. Vì sự phân cành của thân bụi khác nhau nên tạo cho cây chè có các
dạng tán: tán đứng thẳng, tán trung gian và tán ngang.

1. Đứng thẳng 2. Trung gian 3. Nằm ngang


Hình 1: Các dạng tán chè
Cành chè do mầm dinh dƣỡng phát triển thành, trên cành chia làm nhiều đốt.
Chiều dài của đốt biến đổi rất nhiều (từ 1 - 10 cm) do giống và do điều kiện sinh
trƣởng. Đốt chè dài là một trong những biểu hiện giống chè có năng suất cao. Từ thân
14 | w w w . t r a b a v a n . c o m
chính, cành chè đƣợc phân ra nhiều cấp: cành cấp 1, cấp 2, cấp 3... Hoạt động sinh
trƣởng của các cấp cành trên tán chè rất khác nhau. Theo lý luận phát dục giai đoạn
thì những mầm chè nằm càng sát phía gốc của cây càng có giai đoạn phát dục non,
sức sinh trƣởng mạnh. Còn những cành chè càng ở phía trên ngọn (mặt tán) thì càng
có giai đoạn phát dục già, sức sinh trƣởng yếu, khả năng ra hoa kết quả mạnh. Những
cành chè ở giữa tán hoặc trên mặt tán, hoạt động sinh trƣởng thƣờng mạnh hơn các
cành ở rìa tán và ở phía dƣới tán.
Thân và cành chè tạo nên khung tán của cây chè. Với số lƣợng càng thích hợp và
cân đối ở trên tán, cây chè cho sản lƣợng cao. Vƣợt quá giới hạn đó, sản lƣợng không
tăng và phẩm cấp giảm xuống do búp mù nhiều. Tƣơng quan giữa mật độ cành và sản
lƣợng búp là một tƣơng quan không chặt. Theo Bakhơtatje, hệ số tƣơng quan giữa
mật độ cành với sản lƣợng là r = 0,071.
Trong sản xuất, cần nắm vững đặc điểm sinh trƣởng của cành để áp dụng các biện
pháp kỹ thuật đốn, hái hợp lý mới có thể tạo ra trên tán chè nhiều búp, đặt cơ sở cho
việc tăng sản.
2) Mầm chè:
Trên cây chè có những loại mầm: mầm dinh dƣỡng và mầm sinh thực. Mầm dinh
dƣỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và quả.
Mầm dinh dƣỡng gồm có:
- Mầm đỉnh
- Mầm nách
- Mầm ngủ
- Mầm bất định (mầm ở cổ rễ)
Phía trái:
1. Lá vẩy ốc
2. Mầm lá cá
3. Mầm lá thật
4. Mầm nách
5. Điểm sinh trƣởng
Phía phải:
1. Lá vẩy ốc
2. Mầm lá cá
3. Mầm lá thật

15 | w w w . t r a b a v a n . c o m
4. Mầm nách thứ 4
5. Mầm nách thứ 5
6. Điểm sinh trƣởng

Hình 2: Mầm chè cắt dọc


Mầm đỉnh: Loại mầm này ở vị trí trên cùng của cành, tiếp tục phát triển trên trục
chính của các cành năm trƣớc, hoạt động sinh trƣởng mạnh và thƣờng có tác dụng ức
chế sinh trƣởng của các mầm ở phía dƣới nó (ƣu thế sinh trƣởng ngọn). Trong một
năm, mầm đỉnh hình thành búp sớm nhất cùng với thời kỳ bắt đầu sinh trƣởng mùa
xuân của cây. Búp đƣợc hình thành từ các mầm đỉnh là các búp đợt 1, có thể là búp
bình thƣờng hoặc búp mù.
Mầm nách: Trong điều kiện sinh trƣởng tự nhiên, phần lớn chúng ở trạng thái
nghỉ do sự ức chế của mầm đỉnh. Khi hái các búp đỉnh, mầm nách phát triển thành
búp mới. Tùy theo vị trí của lá ở trên cành, khả năng phát triển thành búp và chất
lƣợng búp ở các nách lá rất khác nhau. Những mầm ở nách lá phía trên thƣờng hoạt
động sinh trƣởng mạnh hơn, do đó cho búp có chất lƣợng tốt hơn các mầm ở nách lá
phía dƣới. Những búp đƣợc hình thành từ mầm nách của các lá năm trƣớc gọi là búp
đợt 1, có thể là búp bình thƣờng hoặc búp mù.
Mầm ngủ: Là những mầm nằm ở các bộ phận đã hóa gỗ của các cành một năm
hoặc già hơn. Những mầm này kém phân hóa và phát triển hơn hai loại mầm trên, cho
nên sự hình thành búp sau khi đốn đòi hỏi một thời gian dài hơn. Kỹ thuật đốn lửng,
đốn đau, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của mầm ngủ, tạo nên những cành chè
16 | w w w . t r a b a v a n . c o m
mới, có giai đoạn phát dục non, sức sinh trƣởng mạnh. Búp đƣợc hình thành từ mầm
ngủ có thể là búp bình thuờng hoặc búp mù.
Mầm bất định: Vị trí của loại mầm này không cố định trên thân chè thƣờng ở sát
cổ rễ. Nó chỉ phát triển thành cành lá mới khi cây chè đƣợc đốn trẻ lại. Trong trƣờng
hợp ấy cành chè tựa nhƣ mọc ở dƣới đất lên. Búp đƣợc hình thành từ các mầm bất
định cũng có hai loại: búp bình thƣờng và búp mù.
Mầm sinh thực: Mầm sinh thực nằm ở nách lá. Bình thƣờng mỗi nách lá có hai
mầm sinh thực nhƣng cũng có trƣờng hợp số mầm sinh thực nhiều hơn và khi đó ở
nách lá có một chùm hoa. Các mầm sinh thực cùng với mầm dinh dƣỡng phát sinh
trên cùng một trục, mầm dinh dƣỡng ở giữa, mầm sinh thực ở hai bên, vì vậy, quá
trình sinh trƣởng dinh dƣỡng và sinh trƣởng sinh thực thƣờng có những mâu thuẫn
nhất định. Khi mầm sinh thực phát triển nhiều ở trên cành chè, thì quá trình sinh
trƣởng của các mầm dinh dƣỡng yếu đi, do sự tiêu hao các chất dinh dƣỡng cho việc
hình thành nụ hoa và quả. Trong sản xuất chè búp cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật
thích đáng để hạn chế sự phát triển của các mầm sinh thực.
3) Búp chè:
Búp chè là đoạn non của một cành chè. Búp đƣợc hình thành từ các mầm dinh
dƣỡng, gồm có tôm (phần lá non ở trên đỉnh của cành chƣa xòe ra) và hai hoặc ba lá
non. Búp chè trong quá trình sinh trƣởng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên ngoài
và yếu tố bên trong của nó. Kích thƣớc của búp thay đổi tùy theo giống, loại và liều
lƣợng phân bón, các khâu kỹ thuật canh tác khác nhƣ đốn, hái và điều kiện địa lý nơi
trồng trọt.
Búp chè là nguyên liệu để chế biến ra các loại chè, vì vậy nó quan hệ trực tiếp đến
năng suất và phẩm chất của chè. Nghiên cứu của Bakhơtatje (1947) cho thấy tƣơng
quan giữa số lƣợng búp trên một đơn vị diện tích và năng suất là một tƣơng quan rất
chặt chẽ r = 0,956.

17 | w w w . t r a b a v a n . c o m
a) Búp bình thƣờng b) Búp mù
Hình 3: Búp chè
Búp chè gồm có hai loại: búp bình thƣờng và búp mù. Búp bình thƣờng (gồm có
tôm + 2, 3 lá non), có trọng lƣợng bình quân 1 búp từ 1g đến 1,2g đối với giống chè
Shan, từ 0,5 đến 0,6g đối với giống chè Trung du, búp càng non phẩm chất càng tốt.
Hệ số tƣơng quan giữa tỷ lệ phần trăm búp bình thƣờng với hàm lƣợng tanin và cafein
trong lá chè là r = 0,67 và r = 0,48 . Búp mù là búp phát triển không bình thƣờng,
trọng lƣợng bình quân của một búp mù thƣờng bằng khoảng 1/2 trọng lƣợng búp bình
thƣờng và phẩm chất thì thua kém rõ rệt. Nguyên nhân xuất hiện búp mù rất phức tạp.
Một mặt do đặc điểm sinh vật học của cây trồng, mặt khác do ảnh hƣởng xấu của các
điều kiện bên ngoài hoặc do biện pháp kỹ thuật không thích hợp.
Búp chè hoạt động sinh trƣởng theo một quy luật nhất định và hình thành nên các
đợt sinh trƣởng theo thứ tự thời gian. Thời gian của mỗi đợt sinh trƣởng phụ thuộc
vào giống, chế độ dinh dƣỡng và điều kiện khí hậu. Có thể tóm tắt hoạt động sinh
trƣởng búp theo tuần tự nhƣ sau:

18 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Sơ đồ đợt sinh trưởng
Trên một cành chè nếu để sinh trƣởng tự nhiên, một năm có 4 - 5 đợt sinh trƣởng,
nếu hái búp liên tục thì có 6 - 7 đợt và trong điều kiện thâm canh có thể đạt 8 - 9 đợt
sinh trƣởng.
Thời gian hình thành một đợt sinh trƣởng dài hay ngắn tùy thuộc vào giống, tuổi
cây chè, điều kiện thời tiết khí hậu và các biện pháp kỹ thuật.
Bảng 2: Thời gian hình thành các đợt sinh trưởng trong một năm trên các tuổi chè
khác nhau
(Nguyễn Phong Thái, 1976)

Đợt sinh trƣởng Số ngày hình thành một đợt sinh trƣởng

Chè 4 tuổi Chè 7 tuổi Chè 10 tuổi

1 42 40 41
2 31 32 36
3 29 32 35
4 30 28 31
5 32 33,5 36
6 36 34 34
7 42 36,5 41

4) Lá chè:
Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá. Lá thƣờng có nhiều thay đổi về
hình dạng tùy theo các loại giống khác nhau và trong các điều kiện ngoại cảnh khác
19 | w w w . t r a b a v a n . c o m
nhau. Lá chè có gân rất rõ. Những gân chính của lá chè thƣờng không phát triển ra
đến tận rìa lá. Rìa lá chè thƣờng có răng cƣa, hình dạng răng cƣa trên lá chè khác
nhau tùy theo giống. Số đôi gân lá là một trong những chỉ tiêu để phân biệt các giống
chè.
Trên một cành chè thƣờng có các loại lá nhƣ sau:

Hình 4: Các loại lá trên cành chè


Từ trái sang phải:
- Búp đang phát triển
- Lá cá - Lá thứ 3 - tôm chè
- Lá thứ nhất - Lá thứ 4
- Lá thứ 2 - Lá thứ 5
- Lá vẩy ốc: là những lá vẩy rất nhỏ, có màu nâu, cứng. Lá vẩy ốc là bộ phận bảo
vệ điểm sinh trƣởng của mầm khi nó ở trạng thái ngủ. Số lƣợng lá vẩy ốc thƣờng là 2
- 4 lá ở mầm mùa đông, và 1 - 2 lá ở mầm mùa hè.
- Lá cá: Về hình dạng bên ngoài: là một lá thật thứ nhất nhƣng phát triển không
hoàn toàn thƣờng dị hình hoặc có dạng hơi tròn, không có hoặc có rất ít răng cƣa
quanh rìa lá, diện tích lá nhỏ. Cấu tạo giải phẫu lá cá có số lớp mô dậu và mô khuyết
ít hơn lá thật. Số lƣợng lục lạp ít hơn và cấu trúc của nó rất nhỏ. Lá cá tồn tại nhƣ một
lá bình thƣờng trên cành chè. Nó có khả năng tích lũy gluxit nhƣ lá bình thƣờng còn
hàm lƣợng tanin thì thấp hơn từ 1 - 2%.

20 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Hình 5: Các dạng lá cá
- Lá thật: cấu tạo giải phẫu của lá thật gồm có:
+ Lớp biểu bì: gồm những tế bào nhỏ, dày và cứng xếp thành một lớp: có chức
năng bảo vệ lá.
+ Lớp mô dậu: gồm từ 1 - 3 lớp tế bào sắp xếp đều nhau, chứa nhiều diệp lục.
+ Lớp tế bào mô khuyết: chiếm phần chính của lá các tế bào sắp xếp không đều
nhau. Ở trong có nhiều thạch tế bào và tinh thể oxalat canxi.
Tỷ lệ mô dậu/ mô khuyết càng lớn, biểu hiện tính chống chịu điều kiện ngoại cảnh
tốt.
Lá chè mọc trên cành theo các thế khác nhau, tức là góc độ giữa lá và cành chè to
nhỏ khác nhau. Trong sản xuất thƣờng gặp 4 loại thế lá nhƣ sau: thế lá úp, nghiêng,
ngang và rủ. Thế lá ngang và rủ là đặc trƣng của giống chè năng suất cao.
Tuổi thọ trung bình của lá chè là một năm.

21 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Hình 6: Giải phẫu lá chè
1. Biểu bì trên; 2. Mô dậu; 3. Mô khuyết; 4. Gân lá; 5. Biểu bì dƣới
5) Rễ chè:
Cây chè sống nhiều năm trên một mảnh đất cố định, do đó việc nghiên cứu đặc
điểm của bộ rễ có ý nghĩa rất quan trọng để đặt cơ sở cho các biện pháp kỹ thuật trồng
trọt. Rễ chè phát triển tốt tạo điều kiện cho các bộ phận trên mặt đất phát triển.
Hệ rễ chè gồm có: rễ trụ (rễ cọc), rễ bên và rễ hấp thu. Quá trình sinh trƣởng và
phát triển của bộ rễ có những đặc điểm:
- Khi hạt mới nảy mầm rễ trụ phát triển rất nhanh. Vào khoảng 3 - 5 tháng sau khi
trồng thì rễ trụ phát triển chậm lại và rễ bên phát triển mạnh.
- Thời kỳ cây chè còn nhỏ, rễ trụ luôn luôn phát triển dài hơn phần thân trên mặt
đất. Đến năm thứ 2 và thứ 3 thì tốc độ sinh trƣởng giữa phần thân trên đất và phần rễ
mới cân bằng. Rễ bên và rễ phụ trong thời kỳ này rất phát triển, tốc độ lớn lên và phân
cấp của chúng cũng rất nhanh. Đặc điểm này có quan hệ rất lớn đến chế độ làm đất
ban đầu khi trồng chè mới.
- Sự phát triển của rễ chè và thân chè có hiện tƣợng xen kẽ nhau, khi thân lá phát
triển mạnh thì rễ phát triển chậm lại và ngƣợc lại. Theo kết quả nghiên cứu của Trung
Quốc, trong điều kiện của Chiết Giang, một năm có 3, 4 lần phát triển xen kẽ nhau
giữa thân, lá và rễ. Đặc điểm sinh trƣởng đó thay đổi tùy theo điều kiện khí hậu, đất
đai và chế độ canh tác cụ thể ở mỗi nơi.

Hình 7: Rễ chè

22 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Rễ trụ của chè thƣờng ăn sâu xuống đất hơn 1 mét, ở những nơi đất xốp, thoát
nƣớc nó có thể ăn sâu tới 2 - 3 mét. Rễ hấp thu đƣợc phân bố tập trung ở lớp đất từ 10
- 40 cm thời kỳ cây chè lớn, rễ tập trung ở gữa hai hàng chè, tán rễ so với tán cây lớn
hơn 2 - 2,5 lần.
Sự phân bố của rễ chè trong đất phụ thuộc vào giống, tuổi của cây, điều kiện đất
đai và chế độ canh tác. Lƣợng dinh dƣỡng trong đất có ảnh hƣởng lớn đến sự phát
triển của bộ rễ, nhất là lƣợng đạm.
Rễ chè kỵ vôi, do đó yêu cầu đất có phản ứng chua. Canxi cần cho cây chè, nó có
mặt ở những nơi phân bào và sinh trƣởng nhƣ mút rễ, ngọn cây, là thành phần của
màng tế bào v.v... Hàm lƣợng canxi trong lá chè khoảng 0,55%. Nếu nhiều canxi quá
rễ chè không phát triển đƣợc. Chè yêu cầu đất có phản ứng chua là do cây chè yêu cầu
một số nguyên tố hiếm và nguyên tố vi lƣợng mà phần lớn những nguyên tố này bị
kết tủa trong môi trƣờng kiềm. Vì vậy, chè trồng ở những nơi đất có phản ứng kiềm
dễ bị hại và không sinh trƣởng đƣợc. Mặt khác căn cứ vào những nghiên cứu về sinh
lý, thấy rằng năng lực hoãn xung trong dịch tế bào rễ chè tốt nhất ở môi trƣờng pH =
5 và yếu dần khi độ pH tăng lên. Khi pH = 5,7 thì khả năng hoãn xung của dịch tế bào
rễ chè đã giảm xuống rất nhỏ.
Bảng 3: Sự phát triển của rễ phụ thuộc vào liều lượng phân đạm (theo Biava 1973)
Trọng lƣợng rễ gam/m3

Công thức Nhóm rễ nhỏ Nhóm rễ lớn Tổng số

gam % gam % gam %

Không bón phân 980 89 2375 52 3355 59


P.K 1097 100 4600 100 5706 100
P,K + 300 kg N/ha 1654 151 4830 105 6484 114
P,K + 500 kg N/ha 2366 216 7216 157 9582 168
P,K + 700 kg N/ha 1981 181 7630 166 9611 168

III - ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG SINH THỰC CỦA CÂY CHÈ
Sau khi gieo hạt khoảng 2 năm, cây chè cho hoa quả lần thứ nhất. Từ 3 đến 5 năm
cây chè đƣợc hoàn chỉnh về đặc tính phát dục.
Trên mỗi nách lá chè thƣờng có một mầm dinh dƣỡng ở giữa và 2 hoặc nhiều
mầm sinh thực ở hai bên. Hoa chè đƣợc hình thành từ các mầm sinh thực. Hoa chè
lƣỡng tính, đài hoa có 5 - 7 cánh. Trong một hoa có rất nhiều nhị đực, từ 200 - 400.
23 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Noãn sào thƣờng có 3 - 4 ô. Trong điều kiện tự nhiên ở Vĩnh Phú, mầm hoa chè đƣợc
hình thành và phân hóa sau thánh 6. Hoa nở rộ vào thánh 11 - 12. Phƣơng thức thụ
phấn chủ yếu là khác hoa, tự thụ phấn chỉ 2 - 3%. Trong một ngày, hoa thƣờng nở từ
5 - 9 giờ sáng. Nhị đực thƣờng chín trƣớc nhị cái 2 ngày. Hạt phấn hoa chè sống khá
lâu: Sau 5 ngày kể từ khi hoa nở rộ, hạt phấn vẫn còn khả năng nảy mầm tới 70%.
Khả năng thụ tinh tốt nhất của hạt phấn là sau khi hoa nở 2 ngày. Khả năng ra nụ, ra
hoa của chè rất lớn nhƣng tỷ lệ kết quả thƣờng thấp hơn 12%.
Sau khi thụ tinh quả chè đƣợc hình thành, thời gian phát dục của quả khoảng 9
đến 10 tháng. Quả chè thuộc loại quả nang. Mỗi quả thƣờng có 2 - 3 hạt. Hình dạng
bên ngoài của quả phụ thuộc vào số lƣợng hạt trong quả. Quả có 3 hạt thì có hình 3
góc, quả có 4 hạt thì có hình 4 góc... Trọng lƣợng hạt, tỷ lệ hạt/quả thay đổi tùy theo
giống.
Theo kết quả nghiên cứu của Bakhơtatze thì trọng lƣợng 1000 hạt chè thay đổi
nhƣ sau:
Giống chè Nhật Bản: 1.100g
Giống chè Trung Quốc: 1.250g
Giống lai Trung An: 1.400g
Gíông chè Ấn Độ (Manipua): 1.700g
Trọng lƣợng 1.000 hạt chè Trung du Việt Nam thƣờng vào khoảng 2.000g.

24 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Hình 8: Hoa , quả chè.
Hạt chè không có nội nhũ. Lá mầm của hạt chè rất phát triển chiếm 3,4 trọng
lƣợng của hạt. Phần lớn các chất dinh dƣỡng dự trữ cần thiết cho hạt nảy mầm đều dự
trữ trong lá mầm. Thành phần hóa học của hạt chè, theo phân tích của Khupera và
Bakhơtatze (1948) nhƣ sau: dầu 22,9%, anbumin 8,5%, Xapônin 9,1%, tinh bột
32,5%, gluxit khác 19,9%, xenlulo 3,8%, muối khoáng 3,3%. Hàm lƣợng dầu thay đổi
tùy theo giống, ví dụ giống Ấn Độ: 43 - 45%, Trung Quốc: 30 - 35%, Nhật Bản: 24 -
26%, Gruzia: 36%.

25 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Sau khi hạt nảy mầm, lá mầm của hạt chè có khả năng hình thành diệp lục tố và
tiến hành quang hợp. Theo V.V.Kutubitje (1974) thì hạt chè có hiện tƣợng đa phôi.
Hiện tƣợng này xuất hiện với tỷ lệ thấp ở trong chè, chiếm 0,19% số lƣợng hạt. Trong
tƣơng lai, hiện tƣợng đó có thể ứng dụng vào công tác chọn giống và nghiên cứu tế
bào học của chúng.
IV- KHÁI NIỆM VỀ PHÁT DỤC CÁC THỂ CỦA CÂY CHÈ
Phát dục cá thể của cây chè là quá trình từ lúc thụ tinh cho đến khi cây già cỗi tự
chết, đó cũng là chu kỳ sinh sống cá thể của cây. Chè là cây lâu năm có chu kỳ sinh
sống rất dài có thể đạt 100 năm hoặc lâu hơn. Tổng chu kỳ phát dục là từ khi hoa thụ
tinh hình thành quả cho đến khi tự chết. Hàng năm từ lúc mầm đỉnh bắt đầu sinh
trƣởng, hình thành búp lá rồi ra hoa kết quả cho đến năm sau trƣớc lúc mầm đỉnh lại
bắt đầu sinh trƣởng gọi là chu kỳ phát dục hàng năm. Nhiều chu kỳ phát dục hàng
năm tạo thành tổng chu kỳ phát dục của cây. Nhƣng sự bắt đầu chu kỳ phát dục cá thể
của cây không chỉ dựa vào hạt mà còn dựa vào những mầm dinh dƣỡng của cây ở bất
kỳ tuổi nào để nhân giống đời sau, thực hiện tổng chu kỳ phát dục cá thể.
1) Tổng chu kỳ phát dục cá thể của cây:
Theo các tài liệu của Trung Quốc, tổng chu kỳ phát dục cá thể của cây chè chia
làm 5 giai đoạn:
a) Giai đoạn phôi thai: là giai đoạn phôi hạt hoặc phôi của các mầm dinh dƣỡng.
Giai đoạn phôi hạt là quá trình hình thành hạt: từ lúc cây ra hoa thụ phấn cho đến lúc
quả chín, quá trình này đòi hỏi một năm. Giai đoạn phôi của các mầm dinh dƣỡng là
từ lúc phôi mầm phát dục phân hóa cho đến khi hình thành một búp (cành) mới, nếu
tách rời cây mẹ thì nó có khả năng mọc rễ để hình thành một cá thể mới. Quá trình
này cần 60 - 80 ngày.
b) Giai đoạn cây con: từ lúc hạt nảy mầm cho đến khi cây ra hoa kết quả lần đầu
tiên, cần trên dƣới 2 năm. Trong điều kiện của Việt Nam thƣờng là cuối năm thứ nhất.
Thời kỳ này sinh trƣởng dinh dƣỡng phát triển mạnh, tán cây vƣơn theo chiều cao
mạnh hơn phân cành, đặc điểm sinh trƣởng là ƣu thế đỉnh ở hai đầu.
c) Giai đoạn cây non: từ lúc cây ra hoa kết quả lần đầu tiên cho đến lúc cây đƣợc
định hình (cây có một bộ khung tán rõ), khoảng 2 - 3 năm. Trong điều kiện của Việt
Nam: Từ năm thứ 2 đến năm thứ 4. Thời kỳ này sinh trƣởng dinh dƣỡng vẫn chiếm
ƣu thế, thân chè đã có một số cành nách, bộ rễ cũng đã phát triển, có nhiều rễ bên.
d) Giai đoạn cây chè lớn: sự phát dục của các khí quan trong cá thể cây trồng đạt
mức cao nhất Sinh trƣởng dinh dƣỡng và sinh trƣởng sinh thực mạnh nhất, biểu hiện
những đặc trƣng tốt xấu của một giống. Thời kỳ này khoảng 20 - 30 năm, dài ngắn tùy
theo điều kiện giống, đất đai, trình độ quản lý, chăm sóc và khai thác.
e) Giai đoạn cây chè già: các khí quan của cá thể cây trồng đã bắt đầu già yếu, cơ
năng sinh lý giảm, khả năng ra hoa kết quả ở thời kỳ đầu nhiều, sinh trƣởng dinh
26 | w w w . t r a b a v a n . c o m
dƣỡng kém. Bộ phận tán cây có hiện tƣợng chết dần. Khả năng sinh thực ở thời kỳ
cuối cũng giảm thấp. Cổ rễ bắt đầu mọc một số cành vƣợt, lóng dài, da đỏ, dấu hiệu
của sự thay đổi bộ khung cũ: nếu đốn trẻ lại thì cây có khả năng phục hồi sinh trƣởng.
2) Chu kỳ phát dục hàng năm:
Chu kỳ này bao gồm hai giai đoạn: sinh trƣởng và tạm ngừng sinh trƣởng.
Trong giai đoạn sinh trƣởng, các loại mầm dinh dƣỡng sẽ phát triển hình thành
búp, lá non và những đợt búp chè mới; hệ rễ tiếp tục phát triển hình thành các rễ bên
và rễ hấp thụ. Các mầm sinh thực phát triển thành nụ, hoa và quả. Sinh trƣởng dinh
dƣỡng cũng nhƣ sinh trƣởng sinh thực phụ thuộc vào giống, tuổi của cây, điều kiện
ngoại cảnh, trình độ quản lý chăm sóc. Giai đoạn sinh trƣởng dài hay ngắn chủ yếu
tùy thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết của mỗi vùng.
V- ĐẶC TÍNH SINH HÓA CHÈ
Phẩm chất của chè thành phẩm đƣợc quyết định do những thành phần hóa học của
nguyên liệu và kỹ thuật chế biến. Thành phần sinh hóa của chè biến động rất phức tạp
nó phụ thuộc vào giống, tuổi chè, điều kiện đất đai, địa hình, kỹ thuật canh tác, mùa
thu hoạch... Trên cơ sở nắm đƣợc những đặc điểm chủ yếu về mặt sinh hóa của
nguyên liệu sẽ đặt cơ sở cho một số biện pháp kỹ thuật để nâng cao sản lƣợng đồng
thời giữ vững và nâng cao chất lƣợng của chè.
Những thành phần sinh hóa chủ yếu trong búp chè gồm có:
1) Nƣớc:
Nƣớc là thành phần chủ yếu trong búp chè: nƣớc có quan hệ đến quá trình biến
đổi sinh hóa trong búp chè và đến sự hoạt động của các men, là chất quan trọng không
thể thiếu đƣợc để duy trì sự sống của cây. Hàm lƣợng nƣớc trong búp chè thay đổi tùy
theo giống, tuổi cây, đất đai, kỹ thuật canh tác, thời gian hái và tiêu chuẩn hái v.v...
Trong búp chè (tôm + 3 lá) hàm lƣợng nƣớc thƣờng có từ 75 - 82%. Để tránh khỏi sự
hao hụt những vật chất trong búp chè qua quá trình bảo quản và vận chuyển, phải cố
gắng tránh sự giảm bớt nƣớc trong búp chè sau khi hái.
2) Tanin:
Tanin là một trong những thành phần chủ yếu quyết định đến phẩm chất chè.
Tanin còn gọi chung là hợp chất fenol, trong đó 90% là các dạng catechin. Tỷ lệ các
chất trong thành phần hỗn hợp của tanin chè không giống nhau và tùy theo từng giống
chè mà thay đổi. Những hợp chất này dựa vào tính chất của chúng có thể phân thành:
- Dạng tan đƣợc trong este: phân tử lƣợng 320 - 360.
- Dạng tan trong nƣớc hoặc xeton: phân tử lƣợng 420 - 450.
- Dạng kết hợp với protein (chỉ sau khi dùng dung dịch NaOH 0,5% để xử lý, mới
có thể hòa tan trong dung dịch).
27 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Thành phần hóa học của tanin trong búp chè Gruzia, theo phân tích của Cuaxanop
và Djaprometop (1952) nhƣ sau:
Dạng catechin Hàm lượng (tính theo % tổng lượng tanin chung)

D.L catechin D, L-C 0,4

L. epicatechin L, EC 1,3

D.L galocatechin D, LGC 2,0

L. epigalocatechin L, EGC 12,0

L. epicatechingalat L. ECG 18,1

L. epigalocatechingalat L. EGCG 58,1

L. galocatechingalat L. GCG 1,4

Quexitrin 0,27

Chất màu hỗn tạp và axít galic 5,0

Cộng: 98,57%

Phân tích các dạng catechin trong búp chè của Việt Nam, những kết quả ban đầu
cho thấy:
Bảng 4: Hàm lượng và thành phần catechin trong búp chè PH1 và Trung du
(Trịnh Văn Loan 1975)

Thành phần Giống PH1 Giống Trung du


catechin
Hàm lƣợng Tỷ lệ (%) Hàm lƣợng Tỷ lệ (%)
(mg/g chất (mg/g chất
khô) khô)

28 | w w w . t r a b a v a n . c o m
L. EGC 27,70 18,40 33,90 19,8
DL GC 19,80 13,15 20,40 11,92
L. EC + C 5,21 3,48 8,39 4,9
L. EGCG 73,00 51,70 81,0 47,4
L. ECG 21,20 14,05 27,4 16,0
Tổng số 150,91 100,0 171,09 100,0

Quá trình hình thành các hợp chất polifenol trong cây chè là quá trình phức tạp và
có nhiều giả thuyết. Theo MM. Đjapromêtôp thì các đường có chứa 6 cacbon (glucô,
fructô...) trong quá trình chuyển hóa thông qua dạng sản phẩm trung gian mà hình
thành nên các chất polifenol Sơ đồ quá trình đó như sau:

Sơ đồ tổng hợp catechin (theo Đjaprômêtop)


Sự biến động của hàm lượng tanin nói chung và catechin nói riêng trong chè rất
lớn. Nó phụ thuộc vào giống, tiêu chuẩn hái, mùa hái, điều kiện độ vĩ, địa hình, kỹ
thuật canh tác,.. Trong hoàn cảnh tự nhiên của ta, các giống chè Shan thường cho
hàm lượng tanin cao hơn các giống chè khác hiện đang trồng. Hàm lượng tanin biến
động rất lớn tùy theo vị trí lá trên búp.

29 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Bảng 5: Hàm lượng tanin ở các loại lá chè (% chất khô)

Gống chè

PH1 Trung du

Tôm 36,75 34,99


Lá 1 37,77 36,97
Lá 2 34,74 34,61
Lá 3 30,77 31,16
Cuộng 25,56 22,90
Trung bình 32,72 32,12

Tanin giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh lý của cây, nó tham gia vào quá
trình ôxi hóa khử trong cây:
AH2 octhokinon H2O
A catechin 1/2 O2
Các dạng catechin như epicatechin galat, epigalocatechin galat tham gia vào quá
trình sinh trưởng của cây.
Về mặt phẩm chất chè, tanin giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo thành màu sắc,
hương vị của chè (nhất là đối với việc chế biến chè đen), vì vậy trong quá trình trồng
trọt cần chú ý nâng cao hàm lượng tanin trong nguyên liệu.
Tanin được dùng trong y học để làm thuốc cầm máu, nó có khả năng tăng cường
sức đề kháng của thành huyết quản trong cơ thể động vật, tăng cường sự tích lũy và
đồng hóa sinh tố C.
3) Ancaloit:
Trong chè có nhiều loại ancaloit nhưng nhiều nhất là cafein. Hàm lượng cafein ở
trong chè có từ 3 - 5% thường nhiều hơn cafein ở trong lá cà phê từ 2 - 3 lần. Nó
không có khả năng phân ly ion H+ tức là không có tính axít mà chỉ là một kiềm yếu.
Cafein chỉ hòa tan trong nước với tỷ lệ 1/46, rất dễ hòa tan trong dung môi clorofoc.
Cafein có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích cơ năng hoạt động
của tim, có tác dụng lợi tiểu. Cafein rất bền vững trong chế biến. Nó có khả năng kết
hợp cới tanin để tạo thành hợp chất tanat cafein có hương vị dễ chịu. Theo tài liệu
của Roberto, hợp chất tanat cafein được tạo thành chủ yếu từ cafein, teaflavin,
tearubigin, teaflavingalat. Ngoài ra còn có sự tham gia của ECG và EGCG.
30 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Sự thay đổi hàm lượng cafein trong chè nguyên liệu phụ thuộc vào giống, ví dụ:
- Giống chè Trung Quốc: 2,29 - 2,31%
- Chè ấn Độ: 4,05 - 4,30%
- Chè Gruzia : 2,47 - 2,66%
Hàm lượng cafein còn phụ thuộc vào tuổi của lá:
- lá thứ nhất: 3,39% - lá thứ tư: 2,10%
- lá thứ hai: 4,20% - lá già: 0,79%
- lá thứ ba: 3,40% - cọng chè: 0,36%
Thời vụ thu hoạch khác nhau, điều kiện canh tác khác nhau, đều ảnh hưởng đến
hàm lượng cafein trong búp chè. Bón đạm, hàm lượng cafein tăng lên rõ rệt: theo số
liệu của Vôrônxôp, hàm lượng cafein thay đổi như sau: đối chứng không bón N:
3,13%; bón 100 kg N/ha: 3,16% và bón 210 kg N/ha: 3,24%.
4) Protein và axít amin:
Protein là hợp chất hữu cơ phức tạp chứa N, phân bố không đều ở các phần của
búp chè và thay đổi tùy theo giống, thời vụ, điều kiện canh tác và các yếu tố khác.
Protein có thể trực tiếp kết hợp với tanin, polifenol tạo ra những hợp chất không tan
làm ảnh hưởng xấu đến phẩm chất chè đen. Do đặc điểm của việc chế biến chè xanh
là diệt men ngay từ đầu, nên hàm lượng tanin trong chè ít bị thay đổi và còn quá cao
làm cho chè có vị đắng. Protein kết hợp với một phần tanin làm cho vị chát và đắng
giảm đi. Vì thế trong một chừng mực nào đó, protein có lợi cho phẩm chất chè xanh.
Ngày nay người ta đã tìm thấy trong chè có 17 axít amin, các axít amin này kết
hợp với đường và tanin tạo thành andehit có mùi thơm của chè đen và làm cho chè
xanh có dư vị tốt.
5) Gluxít và pectin:
Trong lá chè chứa rất ít gluxít hòa tan, trong khi đó các gluxít không hòa tan lại
chiếm tỷ lệ lớn.
Bảng 6: Hàm lượng gluxít trong lá chè (% chất khô) Bacutrava 1958

Loại lá Đƣờng khử Xacaro Tổng


lƣợng

Lá thứ 1 0,99 0,64 1,63


Lá thứ 2 1,15 0,85 2,00

31 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Lá thứ 3 1,40 1,66 3,06
Lá bánh tẻ 1,63 2,06 3,69
Lá già 1,81 2,52 4,33

Xenlulo và hemixenlulo cũng tăng lên theo tuổi của lá, vì vậy nguyên liệu càng
già chất lượng càng kém. Hàm lượng đường hòa tan ở trong chè tuy ít nhưng rất
quan trọng đối với hương vị chè. Đường tác dụng với protein hoặc axít amin tạo nên
các chất thơm.
Pectin thuộc về nhóm gluxít và nó là hỗn hợp của các polixacarit khác nhau và
những chất tương tự chúng. ở trong chè, pectin thường ở dạng hòa tan trong nước,
tan trong axít oxalic, tan trong amon oxalat. Pectin tham gia vào việc tạo thành
hương vị chè, làm cho chè có mùi táo chín trong quá trình làm héo. ở mức độ vừa
phải, pectin làm cho chè dễ xoăn lại khi chế biến nhưng nó có ảnh hưởng xấu đến quá
trình bảo quản chè thành phẩm vì pectin dễ hút ẩm.
Theo số liệu của Gôghia, hàm lượng pectin trong lá chè như sau: mầm và lá thứ
nhất: 3,08%, lá thứ hai: 2,63%, lá thứ ba: 2,21%
6) Diệp lục và các sắc tố khác gần nó:
Trong lá chè có chứa diệp lục tố, carotin và xantofin. Các sắc tố này biến động
theo giống, theo mùa và các biện pháp kỹ thuật canh tác.
Bảng 7: Hàm lượng các sắc tố trong chè (% chất khô)

Mẫu chè Diệp lục tố Caroti Xantofi


n n
a b

Lá tƣơi 0,57 0,25 0,064 0,092


Chè đen 0,30 0,041 0,033 0,013

Trong chè thành phẩm diệp lục tố có ảnh hưởng xấu tới phẩm chất của chè bởi vì
làm cho sản phẩm có màu xanh, mùi hăng, vị ngái.
7) Dầu thơm:
Dầu thơm ở trong chè rất ít, hàm lượng của chúng trong lá chè tươi: 0,007% -
0,009% và trong chè bán thành phẩm: 0,024 - 0,025%. Hàm lượng dầu thơm trong lá
chè, được tăng dần ở những địa hình cao, tuổi lá quá non chứa ít hương thơm. Dầu

32 | w w w . t r a b a v a n . c o m
thơm ảnh hưởng trực tiếp đến hương vị của chè do hương thơm tự nhiên và do quá
trình chế biến tạo thành như sự lên men, ôxi hóa, tác dụng của độ nhiệt cao.
Dầu thơm có tác dụng điều tiết sinh lý của cây để thích hợp với điều kiện bên
ngoài (khi độ nhiệt quá cao hay quá thấp) và ngăn cản những bức xạ có bước sóng
ngắn, tác hại đến cây chè. Đối với cơ thể con người dầu thơm có tác dụng kích thích
hệ thần kinh trung ương làm cho tinh thần minh mẫn, thoải mái dễ chịu nâng cao hiệu
suất làm việc của các cơ năng trong cơ thể.
8) Vitamin:
Các loại vitamin có trong chè rất nhiều. Chính vì vậy giá trị dược liệu cũng như
giá trị dinh dưỡng của chè rất cao. Theo các tài liệu của Trung Quốc, hàm lượng một
số vitamin trong chè tính theo mg/1.000g chất khô như sau:
Vitamin A: 54,6; B1: 0,70; B2: 12,20; PP: 47,0; C: 27,0 v.v...
Đáng chú ý nhất là hàm lượng vitamin C ở trong chè, nhiều hơn trong cam chanh
từ 3 đến 4 lần. Quá trình chế biến chè đen làm cho vitamin C giảm đi nhiều vì nó bị
ôxi hóa, còn trong chè xanh thì nó giảm đi không đáng kể.
9) Men:
Men là nhân tố quan trọng của sự sống. Men quyết định chiều hướng phát triển
của mọi phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể sinh vật và chúng là chất kích động tất
cả các biến đổi hóa học.
Trong búp chè non có hầu hết các loại men, nhưng chủ yếu gồm hai nhóm chính:
- Nhóm thủy phân: men amilaza, glucoxidaza, proteaza và một số men khác.
- Nhóm ôxi hóa khử: Chủ yếu là hai loại men: peroxidaza và polifenoloxidaza.
10) Chất tro:
Các nguyên tố tro giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của cơ thể sống, chúng
là những nhân tố của sự thay đổi trạng thái các chất keo và ảnh hưởng trực tiếp đến
sự trao đổi chất của tế bào. Hàm lượng tro trong chè tươi từ 4-5% và trong chè khô
từ 5-6%. Trong chè, tro chia thành hai nhóm: hòa tan trong nước và không hòa tan
trong nước. Chè thành phẩm loại tốt, hàm lượng tro ít hơn so với loại chè xấu nhưng
tỷ lệ chất tro hòa tan lại nhiều hơn.

33 | w w w . t r a b a v a n . c o m
CHƢƠNG III

ĐIỀU KIỆN SINH THÁI

Cây chè chịu ảnh hƣởng rất lớn do tác động của các điều kiện sinh thái trong quá trình
sống của nó. Nguyên sản của cây chè ở vùng khí hậu rừng á nhiệt đới. Tuy vậy cây
chè cho đến nay đã đƣợc phân bố khá rộng rãi, từ 30 vĩ tuyến nam đến 45 vĩ tuyến
bắc, là những nơi có điều kiện tự nhiên khác xa với nơi nguyên sản. Trong những điều
kiện nhƣ vậy, muốn cho cây chè sinh trƣởng bình thƣờng và có năng suất phẩm chất
tốt phải có trình độ khoa học cao trong canh tác. Những công trình nghiên cứu nhiều
năm của Liên Xô cho thấy: sự tạo thành và tích lũy các vật chất khác nhau trong cây,
phần lớn phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và phân bố theo từng vùng. Tổng hợp các
điều kiện ngoại cảnh là yếu tố chủ yếu ảnh hƣởng đến phẩm chất chè.
Vì vậy, xét đến điều kiện sinh thái của cây chè là đề cập đến những điều kiện
sống thích hợp nhất về các mặt. Nắm vững những yêu cầu cụ thể về sinh thái cũng
nhƣ khả năng thích ứng của cây chè với điều kiện tự nhiên, là một trong những cơ sở
khoa học để xác định những biện pháp kỹ thuật trồng trọt thích hợp.
Yêu cầu tổng hợp các điều kiện sinh thái thích hợp cho cây chè là: đất tốt, sâu,
chua, thoát nƣớc, khí hậu ẩm và ấm.
Dƣới đây, chúng ta xét một số điều kiện sinh thái chủ yếu:
1) Điều kiện đất đai và địa hình:
So với một số cây trồng khác, chè yêu cầu về đất không nghiêm khắc lắm. Song
để cây chè sinh trƣởng tốt, năng suất cao và ổn định thì đất trồng chè phải đạt những
yêu cầu sau: tốt, nhiều mùn, sâu, chua và thoát nƣớc. Độ pH thích hợp cho chè phát
triển là 4,5 - 6,0. Đất trồng phải có độ sâu ít nhất là 80 cm, mực nƣớc ngầm phải dƣới
1 mét thì hệ rễ mới phát triển bình thƣờng.
- Đất trồng chè của ta ở các vùng Trung du phần lớn là feralit vàng đỏ đƣợc phát
triển trên đá granit, nai, phiến thạch sét và mica. ở vùng núi phần lớn là đất feralit
vàng đỏ đƣợc phát triển trên đá mẹ phiến thạch sét. Về cơ bản những loại đất này phù
hợp với yêu cầu sinh trƣởng của chè nhƣ có độ pH từ 4 đến 5 có lớp đất sâu hơn 1 mét
và thoát nƣớc. Những đất này thƣờng nghèo chất hữu cơ nhất là ở các vùng trồng chè
cũ.. Vì thế vấn đề bón phân hữu cơ để bổ sung dinh dƣỡng cho chè và cải tạo kết cấu
vật lý của đất là rất cần thiết. Bên cạnh đó, phải coi trọng việc bón đủ và hợp lý phân
hóa học hàng năm cho chè. Chè là loại cây kỵ vôi, nhiều tài liệu cho biết trong đất
trồng chè chỉ có một lƣợng vôi rất ít, khoảng 0,2% CaCO3 đã làm cây chè bị hại. Bởi
thế không bao giờ ngƣời ta dùng vôi để bón vào đất trồng chè, trừ trƣờng hợp đất có
độ pH quá thấp, dƣới 4.

34 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Quan hệ giữa đất và phẩm chất chè rất phức tạp. Phẩm chất do nhiều yếu tố
quyết định và tác dụng một cách tổng hợp. Song trong những điều kiện nhất định thì
điều kiện dinh dƣỡng của đất có ảnh hƣởng rất lớn đến phẩm chất. Kinh nghiệm của
Trung Quốc cho thấy: chè sinh trƣởng trên loại đất pha cát, nhiều mùn, thích hợp cho
việc chế biến chè xanh: mùi vị hƣơng của chè thành phẩm đều tốt. Chè trồng trên đất
nặng màu vàng thì có vị đắng và nƣớc có màu vàng. Chè trồng trên đất xấu hƣơng
không thơm, vị nhạt và chất hòa tan ít.
- Địa hình và địa thế có ảnh hƣởng rất rõ đến sinh trƣởng và chất lƣợng chè. Thực
tiễn ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản cho thấy: chè không trồng trên núi cao có
hƣơng thơm và mùi vị tốt hơn chè trồng ở vùng thấp và đồng bằng. Kinh nghiệm nhận
thấy chè đƣợc chế biến từ nguyên liệu ở núi cao Xrilanca có mùi thơm của hoa mà
hƣơng vị đó không thể có đƣợc trong chè trồng ở khu vực thấp. Nhiều tác giả ở Liên
Xô Kharabava, Đjêmukhatze đã xác định chè trồng ở nơi có địa thế càng cao hơn mặt
biển (trong một chừng mực nhất định) thì khuynh hƣớng tạo thành và tích lũy tanin
càng lớn.
Phần lớn các vùng trồng chè có phẩm chất tốt của các nƣớc trên thế giới thƣờng
có độ cao cách mặt biển từ 500 đến 800 mét. Vùng chè ngon có tiếng ở Ấn Độ trồng ở
độ cao cách mặt biển 2.000 mét. Nghiên cứu của Viện nông học Hồ Nam (1957) cho
thấy ảnh hƣởng của độ cao so với mặt biển tới hàm lƣợng tanin trong búp chè nhƣ
sau:
Bảng 8

Độ cao so với (m) 3 75 113 130 150 260


mặt biển
Hàm lƣợng % 23,28 23,28 24,96 25,20 25,66 26,06
tanin

Chất lƣợng chè ở vùng cao tốt nhƣng về sinh trƣởng thƣờng kém hơn ở vùng
thấp. Hƣớng dốc có ảnh hƣởng đến khả năng tích lũy vật chất trong chè. Dogonatze
(1969) nhận thấy rằng cƣờng độ tích lũy tanin và vật chất hòa tan phụ thuộc nhiều vào
chế độ nhiệt. Ở hƣớng dốc phía nam hàm lƣợng tanin và chất hòa tan trong búp chè
cao hơn ở hƣớng dốc phía bắc.
Ở độ vĩ càng cao phẩm chất và sản lƣợng chè càng có xu hƣớng giảm thấp. Do độ
nhiệt thấp, độ ẩm thấp và ngày dài đã ảnh hƣởng không tốt đến sinh trƣởng và tích lũy
vật chất trong cây chè.
2) Điều kiện độ ẩm và lƣợng mƣa:
Thực vật nói chung muốn hình thành nên một phần vật chất hữu cơ để cấu tạo
thành cơ thể của chúng thì chúng phải cần tới 400 phần nƣớc. Chè là loại cây ƣa ẩm,

35 | w w w . t r a b a v a n . c o m
là cây thu hoạch búp, lá non, nên càng cần nhiều nƣớc và vấn đề cung cấp nƣớc cho
quá trình sinh trƣởng của cây chè lại càng quan trọng hơn.
Yêu cầu tổng lƣợng nƣớc mƣa bình quân trong một năm đối với cây chè khoảng
1.500 mm và mƣa phân bố đều trong các tháng. Bình quân lƣợng mƣa của các tháng
trong thời kỳ chè sinh trƣởng phải lớn hơn hoặc bằng 100 mm, nếu nhỏ hơn 100 mm
chè sinh trƣởng không tốt. Chè yêu cầu độ ẩm không khí cao, trong suốt thời kỳ sinh
trƣởng độ ẩm không khí thích hợp là vào khoảng 85%.
Lƣợng mƣa và phân bố lƣợng mƣa của một nơi có quan hệ trực tiếp tới thời gian
sinh trƣởng và mùa thu hoạch chè dài hay ngắn, do đó ảnh hƣởng trực tiếp đến sản
lƣợng cao hay thấp. Vùng chè Doomđome ở Bắc Ấn Độ lƣợng mƣa phân bố nhiều
vào tháng 5 tới tháng 8 cho nên sản lƣợng chè thu hoạch đƣợc trong năm cũng tập
trung vào thời kỳ đó. Vùng chè Mlanji (Nam Phi) lƣợng mƣa tập trung vào tháng 11
đến tháng 4 nên sản lƣợng chè cao nhất trong năm cũng tập trung vào thời kỳ này. Ở
ta phân bố sản lƣợng chè trong năm cũng có quan hệ rõ rệt với tình hình phân bố
lƣợng mƣa trong các tháng.
Bảng 9: Quan hệ giữa lượng
mưa và sự phân bố sản lượng búp
chè
(Tài liệu của trại thí nghiệm
chè Phú Hộ)

Thán 1-2 3-4 5 6 7 8 9 10 11-


g 12
Sản
lƣợng 7,2
chè 0,3 - 10,3 14,7 16,6 13,2 16,5 10,6 4,0
trong 9 5,3 5 4 6 2 0 0 6
năm 4
(%)
Lƣợn > 100
50
g vụ thu hoạch chè chủ yếu
-
mƣa 50 50
10
tháng
0
(mm)

Tổng lƣợng mƣa bình quân hàng năm ở các vùng trồng chè của nƣớc ta tƣơng đối
thỏa mãn cho nhu cầu về nƣớc của cây chè.
(Phú Thọ: 1.747 mm, Hà Giang: 2.156 mm, Plâyku: 2.072 mm, Buôn Mê Thuột:
1.954 mm, Bảo Lộc: 2.084 mm).
36 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Nhƣng ở các vùng chè lƣợng mƣa trong năm lại thƣờng tập trung từ tháng 5 đến
tháng 10, cây chè gặp hạn từ tháng 11 đến tháng 3. Thời gian này hạn kết hợp với độ
nhiệt không khí thấp là những điều kiện bất thuận cho sự sinh trƣởng của cây. Vì vậy,
bên cạnh biện pháp chống xói mòn cho chè vào mùa mƣa còn cần chú ý đến việc
chống hạn giữ ẩm cho chè vào mùa khô. Nghiên cứu về yêu cầu của cây chè đối với
độ ẩm, Urusatze, Khamzaep xác định rằng độ ẩm đất thích hợp cho cây chè phát triển
là 80 - 85% sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng và độ ẩm không khí thích hợp là 75 - 80%
hoặc trên 80%. Thiếu nƣớc, độ ẩm không khí và độ ẩm của đất không đủ thì sức sinh
trƣởng của búp sẽ yếu, lá trở nên dày và cứng, hình thành nhiều búp mù, phẩm chất
kém.
Nƣớc có ảnh hƣởng lớn đến sinh trƣởng và phẩm chất chè. Khi cung cấp đủ nƣớc,
cây chè sinh trƣởng tốt, lá to mềm, búp non và phẩm chất có xu hƣớng tăng lên.
Những thí nghiệm về tƣới nƣớc cho chè ở Liên Xô cho thấy, tùy điều kiện đất đai khí
hậu khác nhau mà hiệu quả tăng sản của biện pháp tƣới nƣớc cũng khác nhau. Vùng
chè Gruzia tƣới nƣớc làm tăng sản bình quân 25 - 30%, vùng chè Kraxnoda 60 - 65%,
vùng chè Lencôran thuộc Azecbaizan trên 200%. Hiệu quả tăng sản của việc tƣới
nƣớc cũng rất rõ rệt ở một số nƣớc trồng chè khác nhƣ: Trung Quốc (vùng Chiết
Giang và Vân Nam) tƣới nƣớc làm tăng sản 6,1%. Ấn Độ (vùng Atxam) 60% và ở
Tây Phi 217 - 293%. Ở Việt Nam thí nghiệm tƣới nƣớc tại Phú Hộ (1958 - 1960)
cũng cho năng xuất búp tăng bình quân 41,5%. Phẩm chất búp chè đƣợc tƣới nƣớc
đều tăng lên rõ rệt so với không tƣới.
Bảng 10: So sánh một vài chỉ tiêu sinh hóa chủ yếu của búp chè có tưới
và không tưới nước trên các nền
đốn khác nhau
(Nguyễn Ngọc Kính 1970 -
1973)
Có tƣới nƣớc Không tƣới
nƣớc
Loại hình đốn
Tanin (%) Hòa tan (96) Tanin Hòa tan
(%) (%)
Đốn phớt nhẹ 24,58 40.0 23,3 36,8
Đốn phớt 23,61 38,75 6 7
Đốn đau 21,23 36,98 22,1 36,0
3 8
19,4 34,4
1 3

Tƣới nƣớc là một biện pháp tăng sản lƣợng và phẩm chất rất quan trọng đối với
chè. Ngoài biện pháp tƣới nƣớc, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật trồng trọt tổng

37 | w w w . t r a b a v a n . c o m
hợp khác nhƣ cày đất, làm đất, xới đào, làm cỏ, mật độ và phƣơng thức trồng hợp lý,
phủ đất, tủ gốc, chọn giống chịu hạn v.v... để giải quyết tốt nhu cầu nƣớc trong quá
trình sinh trƣởng phát triển của cây chè nhằm đạt sản lƣợng cao, phẩm chất tốt. Kết
quả thí nghiệm của trƣờng trung cấp Sông Lô tại Nông trƣờng Tân Trào và Tháng
Mƣời cho thấy tủ gốc làm cho độ ẩm của lớp đất mặt (0 - 20 cm) và ở các lớp đất
dƣới nhiều hơn 5 - 6% và 3 - 4% so với đối chứng (không tủ gốc), năng suất búp chè
tăng từ 15,6 đến 19,6%.
3) Điều kiện độ nhiệt không khí:
Để sinh trƣởng phát triển tốt, cây chè yêu cầu một phạm vi độ nhiệt nhất định.
Theo nghiên cứu của Kvaraxkhêlia (1950) và Trang Vãn Phƣơng (1956) thì cây chè
bắt đầu sinh trƣởng khi độ nhiệt trên 10oC. Độ nhiệt bình quân hàng năm để cây chè
sinh trƣởng phát triển bình thƣờng là 12,5oC và sinh trƣởng tốt trong phạm vi 15 -
23oC. Giới hạn độ nhiệt thấp đối với sinh trƣởng của chè biểu hiện rõ rệt qua thời kỳ
ngừng sinh trƣởng trong mùa đông và sinh trƣởng trở lại khi có độ nhiệt ấm áp của
mùa xuân trong những vùng khí hậu á nhiệt đới. Đối với sinh trƣởng của cây trong
thời kỳ này thì độ nhiệt không khí trở thành nhân tố sinh thái chủ yếu. Cây chè yêu
cầu lƣợng tích nhiệt hàng năm 3.500 - 4.000oC. Độ nhiệt tối thấp tuyệt đối mà cây có
thể chịu đựng đƣợc thay đổi tùy theo giống, có thể từ -5oC đến -25oC hoặc thấp hơn.
Nghiên cứu của Trƣờng Đại học Nông nghiệp Chiết Giang cho thấy độ nhiệt thích
hợp đối với cây chè là 20 - 30oC, nếu độ nhiệt tăng dần, thì tác dụng xúc tiến việc
hình thành và tích lũy tanin trong lá chè biểu hiện rất rõ rệt. Độ nhiệt quá thấp hoặc
quá cao đều giảm thấp việc tích lũy tanin. Độ nhiệt cao quá 35oC thì quá trình tích lũy
tanin bị ức chế và nếu độ nhiệt trên 35oC kéo dài liên tục, chè sẽ bị cháy lá. Ngƣợc lại
khi độ nhiệt giảm thấp sẽ dẫn đến một loạt biến đổi về cơ năng sinh lý thành phần hóa
học của búp chè, ảnh hƣởng không tốt đến sinh trƣởng của cây và phẩm chất búp. Độ
nhiệt thấp và khô hạn là nguyên nhân hình thành nhiều búp mù.
Độ nhiệt là một trong những nhân tố chủ yếu chi phối sự sinh trƣởng của búp và
quyết định thời gian thu hoạch búp trong chu kỳ một năm. Từ 16 độ vĩ nam đến 19 độ
vĩ bắc, không có hai mùa nóng lạnh rõ rệt, cây chè sinh trƣởng quanh năm do đó búp
cũng đƣợc thu hoạch quanh năm. Từ 20 độ vĩ bắc đến 45 độ vĩ bắc, độ nhiệt mùa
đông xuống thấp, sinh trƣởng và thu hoạch chè đã có mùa rõ rệt. Trong những vùng
này nơi nào độ nhiệt bình quân mùa đông càng thấp càng kéo dài thì thời gian sinh
trƣởng và thu hoạch búp chè ở đó càng ngắn.
Bảng 11: Ảnh hưởng của độ nhiệt đến thời gian thu hoạch búp

Nhiệt độ trung bình Thời


Độ cao so
Vĩ (oC) gian
với
Vùng tuyến thu
mặt biển Tháng Tháng 6
bắc hoạch
(m) 1 búp
38 | w w w . t r a b a v a n . c o m
(tháng)
Pô chi (Liên 0 42 8 23 5-6
Xô) 87 31 16 28 8-9
Tocklai (Ấn 30 22 18 28 10
Độ) 1800 0 17 17 12
Phú Hộ (Vĩnh
Phú)
Karicho (Kênia)

4) Điều kiện ánh sáng:


Cây chè ở vùng nguyên sản sinh sống dƣới tán rừng rậm, do vậy có tính chịu
bóng rất lớn, nó tiến hành quang hợp tốt nhất trong điều kiện ánh sáng tán xạ. ánh
sáng trực xạ trong điều kiện độ nhiệt không khí cao, không có lợi cho quang hợp và
sinh trƣởng của chè. Trong thực tế sản xuất, ở một số nƣớc nhƣ Ấn Độ, Xrilanca
thƣờng áp dụng biện pháp trồng cây bóng mát cho chè để hạn chế độ nhiệt cao và ánh
sáng quá mạnh.
Yêu cầu của cây chè đối với ánh sáng cũng thay đổi tùy theo tuổi cây và giống.
Chè ở thời kỳ cây con yêu cầu ánh sáng ít hơn, cho nên ở vƣờn ƣơm, ngƣời ta thƣờng
che râm để đạt tỷ lệ sống cao và cây sinh trƣởng nhanh. Giống chè lá to yêu cầu ánh
sáng ít hơn giống chè nhỏ.
Các điều kiện chiếu sáng khác nhau có ảnh hƣởng đến cấu tạo của lá và thành
phần hóa học của chúng.
Bảng 12: Sự biến đổi thành phần hóa học của búp chè trong điều kiện có che râm (%
chất khô) (% chất khô)

Ngày 30 - 4 Ngày 26 - 5
Thời gian
Công thức thí nghiệm Công thức thí nghiệm
Che Không che Che Không che
Thành phần sinh hóa
râm râm râm râm
Tanin 10,03 12,75 8,11 8,28
Cafein 4,62 3,76 3,43 2,78
N tổng số 7,05 6,03 5,84 4,22

Cây chè đƣợc che bóng râm, hàm lƣợng các vật chất có đạm (cafein, N tổng số,
protein...) trong búp và lá tăng lên và tích lũy nhiều hơn; các chất không có N (tanin,
gluxit...) lại có chiều hƣớng giảm xuống. Sự giảm thấp tanin, gluxit... và tăng hàm
lƣợng các vật chất có đạm trong lá chè ở một mức độ nhất định thƣờng có lợi cho
phẩm chất chè xanh và không có lợi cho phẩm chất chè đen. Vì vậy, trồng cây bóng
39 | w w w . t r a b a v a n . c o m
mát cho chè thƣờng áp dụng cho những vùng trồng chè sản xuất nguyên liệu để chế
biến chè xanh.
Do cƣờng độ ánh sáng có ảnh hƣởng lớn đến sinh trƣởng, phẩm chất chè cho nên
điều tiết cƣờng độ ánh sáng có thể làm cho năng suất chè tăng lên rõ rệt. Những kết
quả nghiên cứu tại Trại thí nghiệm chè Tocklai (Ấn Độ) cho thấy: giảm độ chiếu sáng
xuống 30% thì sản lƣợng búp tƣơi trong năm đầu tăng 34% so với xử lý cƣờng độ
chiếu sáng hoàn toàn và giảm độ chiếu sáng xuống 50% thì năng suất đạt cao nhất.
Song nếu tiếp tục giảm cƣờng độ chiếu sáng xuống dƣới 50% thì năng suất bắt đầu
giảm thấp.
Ánh sáng còn có quan hệ đến giai đoạn phát dục của cây chè: theo các tài liệu
nghiên cứu của Liên Xô thì giống chè Ấn Độ và giống lai Trung - Ấn nguyên sản ở
vùng ngày ngắn, sinh trƣởng trong điều kiện Gruzia (Liên Xô) ngày dài, không thể
hoàn thành giai đoạn ánh sáng cho nên không ra hoa kết quả. Song giống Trung Quốc
lá nhỏ đã thích ứng với điều kiện ngày dài, cho nên trồng ở Gruzia vẫn ra hoa kết quả.
5) Không khí:
Không khí rất cần cho sự sống của thực vật. Hàm lƣợng CO2 trong không khí
khoảng 0,03%, song chỉ cần có một biến động nhỏ cũng ảnh hƣởng rất lớn đến quang
hợp. Chè là một cây ƣa bóng râm, cƣờng độ quang hợp cũng thay đổi theo hàn lƣợng
CO2 có trong không khí. Nói chung hàm lƣợng CO2 trong không khí tăng lên đến 0,1
- 0,2% thì cƣờng độ quang hợp tăng lên rất rõ rệt.
Không khí lƣu thông tạo thành gió. Gió nhẹ và có mƣa có lợi cho sự sinh trƣởng
của chè vì nó có tác dụng điều hòa cân bằng nƣớc của cây. Những nơi độ ẩm không
khí quá cao, phát tán khó; gió nhẹ sẽ làm cho nƣớc dễ thoát hơi, nƣớc và chất dinh
dƣỡng trong đất tiếp tục vận chuyển lên trên. Mặt khác gió nhẹ có tác dụng làm cho
lƣợng CO2 phân bố đều, có lợi cho quang hợp.
Gió to không những làm cho cây bị tổn thƣơng cơ giới, mà còn phá vỡ cân bằng
nƣớc của cây. Cƣờng độ thoát hơi nƣớc lớn, nƣớc trong đất cung cấp không đủ, cây bị
héo. Mặt khác gió to khí khổng sẽ đóng lại, không thể tiến hành quá trình quang hợp.
Mùa đông độ nhiệt thấp nếu có gió to thì chè bị hại nhiều vì rét. Gió to khi chè ra hoa
còn ảnh hƣởng đến hoạt động thụ phấn của côn trùng.
Để giảm tác hại của gió, ngƣời ta áp dụng các biện pháp nhƣ chọn đất nơi kín gió,
trồng rừng hoặc vành đai phòng hộ. Chọn giống chè thấp cây và trồng dày hợp lý...
Ở Việt Nam tác hại của gió không lớn, song nói chung ở các vùng có gió Lào cần
tùy điều kiện cụ thể mà xét đến việc áp dụng các biện pháp trồng rừng hoặc trồng
vành đai phòng chắn gió.

40 | w w w . t r a b a v a n . c o m
CHƢƠNG IV
CHỌN GIỐNG CHÈ
ử dụng giống tốt trong nông nghiệp là phản ảnh trình độ sản xuất nông nghiệp của
một nƣớc và của mỗi thời kỳ khác nhau. Đối với ta, chọn giống chè còn có nhiều ý
nghĩa: đào thải các giống chè bị lẫn tạp do cách trồng trƣớc đây, phục tráng giống đã
già cỗi và đồng thời nhanh chóng đƣa ra sản xuất những loại hình tốt.
I- ĐẶC ĐIỂM CÔNG TÁC CHỌN GIỐNG CHÈ
Chè là cây trồng lâu năm thời gian sinh trƣởng rất dài, những đặc trƣng về sinh
trƣởng dinh dƣỡng và sinh trƣởng sinh thực biểu hiện rất khác nhau, do đó việc
nghiên cứu giống chè cần phải kiên trì và lâu dài.
Chu kỳ phát dục của chè dài, quá trình phát dục của cây chè bị điều kiện ngoại
cảnh chi phối rất mạnh. Công tác chọn giống cần phải tạo những loại hình thích ứng
với điều kiện ngoại cảnh, kỹ thuật quản lý và chăm sóc.
Việc đánh giá phẩm chất chè phải trải qua nhiều khâu nhƣ giống, kỹ thuật nông
nghiệp, chế biến... cho nên phải đánh giá thật khách quan mới phản ánh đúng tính
chất của từng giống.
II- TIÊU CHUẨN GIỐNG CHÈ TỐT
1) Chỉ tiêu sinh trƣởng:
Yêu cầu chọn những giống có khả năng phân cành mạnh, tán cây thấp. Cây sinh
trƣởng khỏe và có khả năng thích ứng mạnh với điều kiện ngoại cảnh. Về hình thái lá:
lá to mềm, có nhiều gợn sóng, màu xanh sáng. Mật độ búp trên tán cao và trọng lƣợng
búp cao. Thời gian sinh trƣởng hàng năm của cây dài.
2) Chỉ tiêu sản lƣợng:
Các giống chè đều có sự sai khác rất rõ về sản lƣợng. Ví dụ trong điều kiện của ta,
giống chè Kỳ Môn (thuộc loại camellia var. bohea) thƣờng cho năng suất thấp hơn
nhiều so với giống chè Trung Du (camellia var. macrophylla). Ở Trung Quốc cho thấy
chọn giống tốt tăng sản 127% so với đối chứng. Ở Liên Xô kết quả nghiên cứu 17
năm cho thấy giống Gruzia 1 tăng hơn giống địa phƣơng 27,3%, giống Gruzia 2 tăng
hơn giống địa phƣơng 47,7%.
Một giống chè tốt phải có sản lƣợng thật cao và ổn định. Năng suất của giống mới
phải cao hơn giống địa phƣơng 15%.
3) Tiêu chuẩn phẩm chất:
Phẩm chất đƣợc phản ánh rất rõ ở mỗi giống. Kết quả nghiên cứu ở nƣớc ta cho
thấy giống chè Shan thƣờng có phẩm chất cao hơn các giống chè khác. Theo tài liệu
của Trung Quốc: giống Vân Nam lá to hàm lƣợng tanin là 25,9%, vật chất hòa tan
44%, giống Đại bạch trà hàm lƣợng tanin và chất hòa tan tƣơng ứng là 20,3 và 47,3%.
41 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Một giống chè đƣợc lựa chọn tốt, phải có hàm lƣợng tanin cao hơn đối chứng từ 1
- 3%, hàm lƣợng chất hòa tan cao hơn đối chứng 2 - 3%.
4) Chỉ tiêu về tính chống chịu:
Giống là biện pháp cơ bản nhất và kinh tế nhất đối với chỉ tiêu về tính chống chịu.
Do phƣơng pháp lai tạo và lựa chọn giống tốt, ở Liên Xô đã có những nhóm giống
thích hợp với từng vùng khí hậu. Ví dụ: các giống Gruzia số 1, 2, 3, 4, 5, 15 và 16
đƣợc trồng ở niền nam của vùng chè Liên Xô chịu nhiệt độ mùa đông không thấp
dƣới -8oC. Các giống Gruzia số 6, 10 và 11 có tính chịu rét tốt hơn, có thể trồng ở các
vùng có nhiệt độ mùa đông -15oC. Giống Gruzia số 7, 8 và 12 chịu rét tốt nhất, có thể
trồng ở những nơi độ nhiệt mùa đông -20 đến -25oC trong điều kiện tán chè có phủ
một lớp tuyết dày.
Giống chè tốt phải có khả năng thích ứng với điều kiện ngoại cảnh, phải có khả
năng chống chịu sâu bệnh tốt và chống hạn chống rét tốt.
III- NỘI DUNG ĐIỀU TRA THU THẬP GIỐNG CHÈ
Cây chè ở nƣớc ta đã đƣợc trồng trọt từ lâu đời. Điều kiện khí hậu đất đai ở các
tỉnh Trung du, miền núi phía bắc cũng nhƣ các tỉnh Lâm Đồng, Gialai Kontum (phía
nam) rất thích hợp với sự sinh trƣởng phát dục của chúng. Mỗi địa phƣơng đều có
những tập đoàn giống thích ứng với điều kiện tự nhiên và địa hình ở nơi đó. Nguồn
giống chè của ta rất phong phú, nhƣng chƣa đƣợc khai thác và sử dụng hết. Vì vậy
điều tra, thu nhập giống hiện nay vẫn là một công việc rất quan trọng trong công tác
chọn giống chè.
Nội dung điều tra và thu thập giống chè bao gồm những điểm chính nhƣ sau:
a. Nguồn gốc phân bố
- Tên địa phƣơng.
- Nguồn gốc (cây đã sinh, giống của địa phƣơng hay nhập nội từ đâu đến, năm
nào?).
- Địa điểm điều tra thu nhập.
- Diện tích gieo trồng và tỷ lệ phần trăm diện tích gieo trồng giống.
b. Đặc điểm sinh vật học
1) Tuổi của cây chè, vƣờn chè:
2) Phƣơng thức trồng (bằng hạt hay bằng cành...)
3) Thân và cành:
- Chiều cao cây: chọn 10 - 12 cây tiêu biểu (điển hình cho giống) đo từ mặt đất
đến ngọn cây hay bề mặt tán cây.

42 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Chiều rộng tán cây: đo lấy số liệu trung bình của hai chiều rộng nhất và hẹp nhất
(theo hình chữ thập) của tán cây (đo 10 - 20 cây).
- Độ cao phân cành: tính từ mặt đất đến nơi phân cành đầu tiên (đo 10 - 20 cây).
- Góc độ phân cành.
- Mật độ phân cành: chia thành 3 loại: dày, thƣa, trung bình.
- Chiều dài của đốt cành: chọn 5 - 10 cây, mỗi cây 5 cành, đo chiều dài của
khoảng cách giữa hai lá ở đoạn giữa cành.
4) Lá chè:
Chọn lá ở phần giữa của cành (lá đã trƣởng thành) đo 100 đến 200 lá để xác định
các chỉ tiêu sau:
- Chiều dài phiến lá: đo từ cuống đến đỉnh lá.
- Chiều rộng phiến lá: đo chỗ rộng nhất của lá.
- Số đôi gân chính.
- Răng cƣa của lá (số đôi, phân bố dày hay thƣa, hình dạng răng cƣa).
- Hình dạng đuôi lá (nhọn, dài, tròn...).
- Màu sắc lá: xanh đậm, xanh nhạt, xanh vàng...
- Thịt lá: lá dày, mỏng, cứng, mềm.
- Mặt lá: nhẵn bóng hay thô.
- Thế lá mọc: đứng, xiên, nằm ngang, chúc.
5) Nụ hoa quả và hạt:
- Thời gian hình thành nụ.
- Thời gian hoa bắt đầu nở và nở rộ.
- Đặc điểm thực vật học của hoa: (số nhị đực, nhị cái, cánh hoa, đƣờng kính của
hoa khi nở).
- Tỷ lệ đậu quả.
- Thời gian quả chín. Năng suất thu hoạch quả (kg/ha).
- Tỷ lệ số quả có 1 hạt, 2 hạt và 3 hạt.
- Tỷ lệ hạt/quả.
- Trọng lƣợng trung bình 100 hạt.
- Tỷ lệ phần trăm hạt có đƣờng kính ? 12mm.

43 | w w w . t r a b a v a n . c o m
6) Búp chè:
- Màu sắc của búp: xanh, vàng, tím...
- Lông nhung (tuyết): nhiều, ít, trung bình.
- Thời gian bắt đầu sinh trƣởng (nảy búp) vụ xuân.
- Thời gian bắt đầu ngừng sinh trƣởng (vụ đông).
- Chiều dài và trọng lƣợng trung bình búp 1 tôm 2 lá (đo 100 búp).
- Chiều dài và trọng lƣợng trung bình búp 1 tôm 3 lá (đo 100 búp).
- Tỷ lệ phần trăm búp mù qua các tháng.
- Mật độ búp trên một đơn vị diện tích (25 X 25 cm).
- Tỷ lệ phần trăm sản lƣợng búp qua các tháng trong một năm.
7) Thành phần sinh hóa:
- Lấy mẫu búp 1 tôm 2 lá, 1 tôm 3 lá, diệt men bằng nồi hấp "Kox" trong 2 - 3
phút sấy khô ở độ nhiệt 70 - 80oC. Phân tích các chỉ tiêu sinh hóa: tanin, cafein,
đƣờng, đạm, chất hòa tan v.v...
- Lấy mẫu chế biến, thử nếm bằng phƣơng pháp cảm quan.
- Lấy mẫu quả và hạt phân tích thành phần sinh hóa của hạt.
8) Lực chống chịu của cây:
Bao gồm tính chịu hạn, chịu lạnh và chống chịu sâu bệnh. Chia làm 3 cấp: mạnh,
yếu và trung bình.
c. Các điều kiện sinh thái
1) Đất đai địa hình:
- Loại đất, thành phần lý hóa tính.
- Độ sâu tầng canh tác.
- Độ cao so mặt biển.
- Hƣớng dốc.
- Độ vĩ.
2) Điều kiện thời tiết khí hậu:
- Độ nhiệt trung bình các tháng trong năm, độ nhiệt tối cao, tối thấp.
- Sƣơng muối, số lần và thời gian xuất hiện nếu có.
- Lƣợng mƣa trung bình hàng tháng.
44 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Hƣớng gió thịnh hành qua các mùa.
- Đặc điểm kỹ thuật làm đất, bón phân.
- Mật độ, khoảng cách.
- Số lƣợng hạt gieo/ha.
- Các đặc điểm kỹ thuật, quản lý chăm sóc: làm cỏ, bón phân, đốn, hái, phòng trừ
sâu bệnh.
IV- PHƢƠNG PHÁP CHỌN GIỐNG CHÈ
Trong phạm vi giáo trình không trình bày các phƣơng pháp lai tạo giống nhƣ lai
hữu tính, lai vô tính mà chỉ giới thiệu các phƣơng pháp lựa chọn giống.
1) Lựa chọn hỗn hợp:

Sơ đồ hệ thống lựa chọn hỗn hợp (hình)


Nội dung của phƣơng pháp này là chọn cây tốt trong quần thể nguyên thủy. Hạt
đƣợc lựa chọn ở những cây tốt đem hỗn hợp lại, các năm sau đem giao chung và giám
định so sánh giống.
Phƣơng pháp này có ƣu điểm là giữ đƣợc đặc tính tốt của giống, đơn giản, dễ làm
và không cần những trang bị nghiên cứu phức tạp, thời gian tiến hành khảo nghiệm
giống ngắn. Khuyết điểm của phƣơng pháp này là: hiệu quả thấp vì chọn hỗn hợp rất
khó phân biệt tách riêng đƣợc tính di truyền của cây đời sau. Đối với quần thể phức
tạp dễ lựa chọn, nhƣng đối với quần thể đã qua lựa chọn rồi thì rất khó phân biệt. Mặt
45 | w w w . t r a b a v a n . c o m
khác, đối với những đặc tính kinh tế không có lợi hoặc có quan hệ không chặt chẽ thì
hiệu quả lựa chọn sẽ không rõ.
2) Lựa chọn tập đoàn:

Sơ đồ hệ thống lựa chọn tập đoàn


Thực chất của phƣơng pháp này là lựa chọn hỗn hợp nhƣng khác ở chỗ là từ quần
thể nguyên thủy tìm ra những nhóm có đặc tính khác nhau, sau đó tiến hành lựa chọn
hỗn hợp ở những nhóm đã đƣợc phân lập. Phƣơng pháp này tạo đƣợc những loại hình
tốt nhất trong một tập đoàn nguyên thủy. Đối với quần thể hữu tính phức tạp, phƣơng
pháp này lựa chọn nhanh và tốt.
3) Lựa chọn cá thể:

Sơ đồ hệ thống lựa chọn cá thể

46 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Phƣơng pháp này nhằm chọn những hạt hoặc cành riêng theo từng dòng, rồi quan
sát so sánh đặc điểm từng cá thể. Phƣơng pháp này có nhiều ƣu điểm, dùng phổ biến
trong công tác chọn giống, nó khắc phục đƣợc khuyết điểm của phƣơng pháp lựa
chọn hỗn hợp là giám định đƣợc cá thể mà tính di truyền tốt xấu chƣa biểu hiện rõ.
Trong sản xuất thƣờng lựa chọn cá thể bằng phƣơng pháp cắm cành.

47 | w w w . t r a b a v a n . c o m
CHƢƠNG V
KỸ THUẬT TRỒNG CHÈ VÀ QUẢN LÝ, CHĂM SÓC NƢƠNG CHÈ
I- KỸ THUẬT TRỒNG CHÈ
Kỹ thuật trồng chè bao gồm nhiều khâu nhƣ: trồng mới, chăm sóc quản lý đốn
chè, thu hoạch chè v.v... Mỗi khâu kỹ thuật đều có những đặc điểm riêng biệt. Dƣới
đây là những điển chung cần chú ý:
- Trồng chè để thu hoạch búp và lá non làm nguyên liệu chế biến chè thƣơng
phẩm (trừ những vùng trồng chè lấy lá xanh để uống). Ngoài yếu tố giống và địa hình,
mọi biện pháp kỹ thuật trồntg trọt đƣợc áp dụng trong quá trình sản xuất chè đều có
ảnh hƣởng rất lớn đến phẩm chất chè nguyên liệu, do đó có liên quan đến phẩm chất
chè thành phẩm. Đó là một đặc điểm trong sản xuất chè khác với các cây trồng khác.
- Đất trồng chè thƣờng ở vùng trung du và miền núi có độ dốc cao, địa hình phức
tạp cho nên vấn đề cơ giời hóa và sử dụng những công cụ cải tiến trong canh tác
thƣờng gặp nhiều khó khăn. Song nghiên cứu cơ giới hóa trong sản xuất chè nhằm
giảm bớt lao động là một vấn đề rất cần thiết, nhất là trong điều kiện sản xuất lớn.
Mặt khác, chè thƣờng trồng ở đất đồi núi có độ dốc cao nên phải chống xói mòn và
rửa trôi đất. Biện pháp canh tác không hợp lý không chú ý tới vấn đề bảo vệ đất chống
xói mòn, thì sẽ ảnh hƣởng rất lớn đến quá trình sinh trƣởng của cây về sau. Biện pháp
chống xói mòn, bảo vệ đất, phải là biện pháp canh tác tổng hợp có hệ thống, lâu dài
và phải thấy trƣớc.
- Chè là một cây trồng sống nhiều năm, đời sống kinh tế của nó vào khoảng 30 -
40 năm hoặc lâu hơn nữa. Do vậy, những biện pháp canh tác cơ bản ban đầu trong
khâu trồng mới nhƣ: làm đất, xác định khoảng cách mật độ, xây dựng hệ thống đƣờng
đi lại vận chuyển, phƣơng thức trồng... đều phải đƣợc chú ý toàn diện và đầy đủ ngay
từ khi lập quy hoạch thiết kế, những biện pháp cơ bản này có ảnh hƣởng rất lớn đến
quá trình sinh trƣởng của cây trồng và các biện pháp quản lý chăm sóc về sau.
* Kỹ thuật trồng chè bằng hạt
Có nhiều phƣơng pháp trồng chè, hiện nay trồng bằng hạt là phƣơng pháp phổ
biến nhất. Tùy hoàn cảnh tự nhiên, trình độ và điều kiện canh tác ở mỗi nơi mà có thể
trồng chè bằng hạt theo những phƣơng pháp khác nhau: gieo hạt qua vƣờn ƣơm rồi
bứng cây con ra trồng; gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất; hoặc gieo hạt vào giỏ, vào
bầu đất làm sẵn để tiện chăm sóc quản lý cây con ở những nơi điều kiện tự nhiên khó
khăn.
Trồng chè qua giai đoạn vƣờn ƣơm có những ƣu điểm nhƣ: tiết kiệm đƣợc hạt
giống, tiện lợi cho chăm sóc, quản lý cây con tạo điều kiện sản xuất đƣợc cây con tốt,
khỏe và đồng đều, có thể đợi đất trồng chƣa chuẩn bị xong hoặc dùng để trồng dặm
vƣờn chè mới, bị mất khoảng hay vƣờn chè già cũ phục hồi. Song so với phƣơng pháp
gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất, thì phƣơng pháp gieo hạt qua vƣờn ƣơm đòi hỏi kỹ
48 | w w w . t r a b a v a n . c o m
thuật canh tác chăm bón cao, giá thành cao, công vận chuyển cây con lớn, sau khi
bứng trồng ra ruộng trong giai đoạn đầu cần phải quản lý chăm sóc rất chu đáo mới
đạt tỷ lệ sống cao, ít mất khoảng.
Phƣơng pháp gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất có nhiều thuận lợi và ƣu điểm: kỹ
thuật gieo trồng dễ làm, ít tốn công, quản lý chăm sóc sau khi gieo cũng giản đơn, giá
thành kinh tế thấp, ít tốn kém.
Hiện nay, trong kỹ thuật trồng chè mới phần lớn đều áp dụng phƣơng pháp gieo
thẳng hạt ra ruộng sản xuất.
Nội dung kỹ thuật trồng chè bằng phƣơng pháp gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất
nhƣ sau:
1) Chọn đất và thiết kế khai hoang:
Cần lựa chọn những loại đất phù hợp với yêu cầu sinh lý của cây chè, chọn những
đồi có độ dốc 8-10o là thích hợp; đồi dốc trên 30o nên dùng để trồng rừng.
Trƣớc khi tiến hành thiết kế khai hoang phải xác định phạm vi ranh giới khu vực
khai hoang, tránh không xâm phạm đến rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng gỗ quý
hoặc tổn hại đến các nguồn tài nguyên khác của quốc gia (hầm mỏ, di tích lịch sử...)
và phải có đầy đủ các tài liệu cơ bản nhƣ: quy hoạch sử dụng đất, phân loại rừng, độ
dốc, tầng dày lớp đất canh tác, thảm thực vật, mức độ đá ngầm, hầm hố, u mối v.v...
Yêu cầu thiết kế khu khai hoang phải:
- Phù hợp với quy mô tổ chức sản xuất, cần chú ý đến những vấn đề quy hoạch
thủy lợi, giao thông, đai rừng v.v... để tránh những bất hợp lý thƣờng xảy ra. Cũng
cần chú ý đến các mối liên hệ tƣơng quan về dân sinh kinh tế.
- Đất không nằm trong diện tích quy hoạch dùng để sản xuất thì không đƣợc khai
hoang.
2) Thiết kế khu vực sản xuất:
a) Bố trí mặt bằng khu ruộng đồi:
Bố trí mặt bằng khu ruộng đồi là thể hiện việc bố trí tổng thể vị trí các công trình
và mối liên hệ tƣơng quan giữa chúng, nhằm thỏa mãn các yêu cầu của thâm canh,
chuyên canh, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và yêu cầu quản lý đến từng đơn vị sản
xuất đề ra. Vì vậy, khi bố trí phải xét và thể hiện thật đầy đủ các mặt quy hoạch của
toàn khu: phƣơng thức canh tác hiện nay và tƣơng lai, hệ thống đai rừng phòng hộ,
hàng rào bảo vệ, hệ thống công trình giữ ẩm, giữ nƣớc hoặc thoát nƣớc, giữ màu, giữ
đất, chuồng trại chăn nuôi, hầm ủ phân và chứa phân... trên bản vẽ mặt bằng. Bố trí
mặt bằng tổng thể phải thể hiện việc giải quyết đầy đủ các mối liên hệ và tƣơng quan
đó với phƣơng án tối ƣu. Phải vận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên và công trình sẵn
có để giảm vốn đầu tƣ và tăng hiệu quả sử dụng đất đai. Thiết kế từng đồi chè phải
nằm trong thiết kế chung của toàn vùng.
49 | w w w . t r a b a v a n . c o m
b) Thiết kế hàng chè và lô chè:
Thiết kế hàng chè (theo hƣớng cơ giới hóa bằng máy kéo nhỏ và công cụ cải tiến)
nơi dốc dƣới 6o (dốc cục bộ có thể lên tới 8o), làm hàng thẳng dài nhất, song song với
bình độ chính. Với tốc độ 6o theo bình độ, làm gờ tầng hoặc rãnh rộng sau chuyển
thành bậc thang hẹp hoặc làm ngay bậc thang hẹp. Hàng cụt xếp xen kẽ và tập trung
thành nhóm số chẵn.
Để phù hợp với yêu cầu quản lý chăm sóc và thâm canh, diện tích lô chè thích
hợp là 2 ha với chiều dài lô là 200m.
c) Thiết kế mạng lưới giao thông trong nội bộ khu sản xuất:
Các loại đƣờng trong nội bộ khu vực sản xuất gồm có:
+ Đƣờng trục chính: nối liền giữa khu trung tâm với các cơ sở sản xuất cơ sở kinh
tế xã hội khác. Nó chính là đƣờng trục của nông trƣờng hoặc là đƣờng liên xã, liên
thôn ở địa phƣơng dùng để chuyên chở các loại sản phẩm xuất ra và vật tƣ hàng hóa
nhập vào. Đƣờng trục chính xuyên giữa khu chè, bề rộng mặt đƣờng 5 - 6m, độ dốc
mặt đƣờng 5o, hai bên mép đƣờng trồng cây, có hệ thống nƣớc rãnh bên.
+ Đƣờng liên đồi, liên lô: Nối đƣờng trục chính với các đồi hoặc nối các đồi với
nhau, nối liền các lô với nhau. Loại đƣờng này dùng để chuyên chở các sản phẩm thu
hoạch, phân, giống ra đồng. Bề rộng mặt đƣờng 4 - 5m, độ dốc mặt đƣờng 6o, độ
nghiêng vào trong đồi 6o, mép ngoài trồng cây.
+ Đƣờng liên đồi và đƣờng quanh đồi, nối liền đƣờng liên đồi lên đỉnh đồi. Cứ 30
- 50m theo đƣờng dốc có một đƣờng quanh đồi. Đƣờng lên đồi thƣờng là hình xoắn
ốc, bế rộng mặt đƣờng 3 - 4m, độ dốc mặt đƣờng 8o, độ nghiêng vào trong đồi 5o, có
mƣơng thoát nƣớc, có vòng xe quay ở ngã ba. Bình độ quanh đồi nghiêng vào trong
đồi 6 - 7 độ.
+ Đƣờng lô: ở liền lô sản xuất, cách nhau 200m, đảm bảo vận chuyển chăm sóc
trong lô. Bề rộng mặt đƣờng 2,5 - 3,0m.
+ Đƣờng chăm sóc phụ, cách nhau 50 - 70m cắt ngang hoặc cắt chéo hàng chè
(nơi có độ dốc trên 6o), mặt đƣờng rộng 1,2 - 1,3m.
d) Thiết kế đai rừng phòng hộ:
Đai rừng phòng hộ trên đồi nhằm làm giảm sức gió, hạn chế tác hại của gió bão
đối với cây trồng, ngăn chặn sâu bệnh lan tràn, hạn chế lai giống hỗn tạp, giữ ẩm,
chống xói mòn, chống sƣơng muối, điều hòa khí hậu, bảo vệ các công trình mƣơng,
bờ đƣờng, cung cấp gỗ củi, hoa quả và làm cây bóng mát. Cứ 200 - 500m bố trí một
đai rừng chặn hƣớng gió chính, rộng 5 - 10m, kết cấu thoáng.
Ngoài các nội dung thiết kế trình bày trên đây, cứ 5 - 10 ha chè cần làm một lán
trú mƣa nắng, cạnh lán có bể chìm chứa nƣớc, bảo đảm mỗi hecta chè có 1m3 nƣớc
để pha thuốc trừ sâu bệnh và trừ cỏ dại. Cứ 2 - 3 ha chè có một hố ủ phân hữu cơ.
50 | w w w . t r a b a v a n . c o m
3) Làm đất và bón phân lót:
Việc làm đất trồng chè phải đạt yêu cầu sâu, sạch, ải, vùi lớp đất mặt có nhiều hạt
cỏ xuống dƣới, san ủi những dốc cục bộ.
Cày sâu lật đất 40 - 45cm, bừa san, rạch hàng sâu 15 - 20cm, rộng 20 - 25cm.
Trƣờng hợp không thể cày sâu đƣợc thì phải rạch hàng sâu 40 - 45cm.
Rạch hàng xong bón phân lót 20 - 30 tấn phân hữu cơ và 100 kg P2O5 cho 1 ha,
trộn phân vào đất trồng.
Đất đƣợc cày bừa bón phân lót trƣớc khi gieo hạt chè khoảng nửa năm là tốt nhất.
Đất chuẩn bị xong thƣờng trồng các cây bộ đậu, cây phân xanh để tăng thêm thu nhập
(đậu, đỗ, lạc...) tăng thêm lƣợng phân xanh, đồng thời chống xói mòn do mƣa lũ và cỏ
dại phát triển. Trƣờng hợp khai hoang làm đất không kịp, có thể làm chậm, song ít
nhất cũng cần hoàn thành làm đất và bón phân lót trƣớc khi gieo hạt chè một tháng.
4) Kỹ thuật gieo hạt chè:
Trồng chè phải chú ý đến khu chuẩn bị hạt giống vì đặc điểm của hạt chè là dễ
mất sức nảy mầm và khó bảo quản đƣợc lâu. Chỉ thu hoạch quả giống ở những cây
chè trên 5 tuổi, sinh trƣởng khỏe, có năng suất cao, phẩm chất tốt và ít sâu bệnh. Chất
lƣợng hạt chè có ảnh hƣởng lớn đến sức nảy mầm và tỷ lệ nảy mầm. Tiêu chuẩn hạt
chè tốt là phải có khả năng nảy mầm trên 75%, hàm lƣợng nƣớc trong hạt 25 - 38%
đƣờng kính hạt chè ? 12mm. Kết quả nghiên cứu của Makhaloblize (1969) cho thấy
tiêu chuẩn hạt đã ảnh hƣởng đến tỷ lệ nảy mầm nhƣ sau:
Bảng 13

Trọng
Đƣờng kính lƣợng Số hạt Tỷ lệ nảy
Loại hạt
hạt (mm) 1000 hạt trong 1kg mầm %
(g)
Hạt theo tiêu chuẩn 13,4 1.384 722 85
Hạt không đúng tiêu 11,6 843 1.186 73
chuẩn Rất nhỏ 745 1.342 63
Hạt lép (thải loại)

Trƣớc khi gieo cần xử lý hạt để xúc tiến quá trình nảy mầm. Xử lý hạt trƣớc khi
gieo có khả năng rút ngắn thời gian nảy mầm, hạt nảy mầm đồng đều, cây khỏe mạnh.
Cách xử lý hạt thƣờng là ngâm hạt vào nƣớc khoảng 12 - 24 giờ, sau đó sắp từng lớp
hạt dày 7 - 10 cm, trên mỗi lớp hạt rải lên một lớp cát dày 5cm mỗi ngày tƣới nƣớc
một lần để giữ độ ẩm thƣơng xuyên, độ nhiệt thích hợp là 20 - 25oC, khi có khoảng
50% số hạt nứt nanh thì đem gieo.

51 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Thời vụ gieo hạt chè chủ yếu phụ thuộc vào thời vụ quả chín. Thƣờng gieo hạt
vào đầu tháng 10 đến hết tháng 11. Gieo trong thời kỳ này phù hợp với đặc điểm sinh
lý của hạt, tăng đƣợc tỷ lệ nảy mầm. Mặt khác thời kỳ này không có những trận mƣa
lớn làm lấp rãnh chè, do đó tạo điều kiện tốt cho hạt nảy mầm ra khỏi đất. Nhƣng
cũng trong thời này thƣờng gặp điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi nhƣ hạn và rét
kéo dài cho nên cần chú ý chống hạn và giữ ẩm cho hạt chè. Vùng gió Lào, chấm dứt
gieo đầu tháng 11.
Số lƣợng hạt gieo cho một hecta từ 200 - 250kg (tƣơng đƣơng với 400 - 500kg
quả).
Khoảng cách và mật độ trồng chè tùy thuộc vào địa hình và độ dốc. Để thích hợp
cho việc áp dụng các khâu cơ giới hóa trong quá trình chăm sóc quản lý cũng nhƣ thu
hoạch, ở những đồi dốc dƣới 20o thƣờng trồng theo khoảng cách 1,75 x 0,50m, ở độ
dốc trên 20o trồng với khoảng cách 1,50 x 0,40m.
Hạt chè đƣợc gieo thành từng cụm, mỗi cụm 5 - 6 hạt, gieo sâu 3 - 5cm. Gieo hạt
xong lấp đất nhỏ lên hạt, giậm chặt cho hạt tiếp xúc hoàn toàn với đất, tủ rơm rạ hoặc
các nguyên liệu phủ đất khác lên rãnh để chống mƣa to xói hạt, giữ ấm và ẩm cho đất.
* Kỹ thuật trồng chè bằng cành
Trong sản xuất chè, ngoài phƣơng pháp trồng chè bằng hạt ra còn có khả năng
trồng chè bằng phƣơng pháp vô tính, tức là dùng các cơ quan dinh dƣỡng để gây
thành cây con rồi đem trồng. Phƣơng pháp vô tính có thể ứng dụng đƣợc đối với sản
xuất chè là cắm cành (thân, lá, rễ...) áp cành, chia cây và ghép tiếp... trong thực tế
phƣơng pháp cắm cành đƣợc ứng dụng rộng rãi nhất.
Phƣơng pháp trồng chè bằng cành có những ƣu điểm nổi bật nhƣ sau:
- Diện tích trồng chè mới của nƣớc ta đang đƣợc chú ý mở rộng. Một trong những
khó khăn trƣớc hết là vấn đề thiếu hạt giống, khả năng cung cấp hạt giống từ những
nƣơng chè trong nhân dân và các nông trƣờng quốc doanh quá ít so với yêu cầu sản
xuất. Trồng chè bằng cành có khả năng giải quyết nhu cầu về giống vì hệ số nhân
giống bằng cành rất cao.
- Phƣơng thức thụ phấn của chè chủ yếu là thụ phấn khác hoa, do đó hạt chè
thƣờng bị tạp giao, những đặc tính tốt của cây mẹ không giữ đƣợc. Trồng chè bằng
cành khắc phục đƣợc nhƣợc điểm đó.
Bảng 14: Hệ số nhân giống chè bằng phương pháp vô tính
(Nguyễn Văn Niệm, 1978)

Trồng đƣợc (ha) Số Số hom/ha


hom/bụi (vạn)

52 | w w w . t r a b a v a n . c o m
1 tuổi (không kể 20 20 5
năm ở vƣờn giâm) 100 100 20 - 25
2 tuổi - 200 200 40 - 50
3 tuổi - 300 300 60 - 75
4 tuổi -

Ghi chú: Mật độ trồng 1 vạn bụi/ha (giống chè PH1) 1 ha vƣờn lấy quả giống thu
đƣợc 2.000kg quả trồng đƣợc 4 - 5 ha chè mới.
- Mặt khác do trồng chè bằng cành, qua quá trình chọn lọc sẽ tạo đƣợc một quần
thể rất đồng đều ngoài sản xuất, tạo điều kiện thâm canh đạt năng suất cao và cho việc
đƣa cơ giới hóa vào các khâu kỹ thuật canh tác, quản lý chăm sóc cũng nhƣ thu
hoạch.
Kết quả điều tra của bộ môn cây công nghiệp Trƣờng Đại học Nông nghiệp 1 Hà
Nội (1972) cho thấy năng suất trồng bằng cành và trồng bằng hạt sai khác nhau rất rõ.
Tùy theo các loại giống khác nhau mà năng suất chè trồng bằng cành cao hơn trồng
bằng hạt từ 33 - 45%.
Bảng 15: Năng suất của một số giống chè trồng bằng cành và bằng hạt (kg/ha,
%) chè trồng năm 1961 trại Phú Hộ

Phƣơng Tổng
Giống thức 1967 1968 1969 1970 số 4 %
trồng năm
Cành -- 12.800 12.016 15.953 41.169 133
Trung Hạt 8.000 10.768 12.135 30.903 100
du 3.644 11.200 15.056 19.688 49.588 141
Shan Cành 2.744 8000 10.704 13.662 35.110 100
Tham Hạt 7.355 12.800 13.136 16.650 49.941 145
vè 4.400 8.000 10.276 11.650 34.326 100
Shan Cành 3.401 9.600 13.436 19.671 46.108 130
Gia vài Hạt 3.374 9.000 10.544 12.516 35.434 100
Hóc 2.662 11.200 12.400 14.824 41.086 145
môn Cành 1.213 8.000 5.920 10.807 28.740 100
Shan Hạt
Nậm
ngặt Cành
Hạt

Tuy nhiên phƣơng pháp trồng chè bằng cành cũng có những nhƣợc điểm nhất
định nhƣ kỹ thuật giâm cành và quản lý chăm sóc tỷ mỷ tốn nhiều công, giá thành sản
xuất cây giống cao, khối lƣợng vận chuyển khi trồng lớn.
53 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Điều kiện ngoại cảnh ảnh hƣởng đến quá trình ra rễ và tỷ lệ sống của cành giâm
đó là độ nhiệt, độ ẩm đất, không khí, ánh sáng, đất đai và độ thoáng khí trong đất.
Quyết định cho tỷ lệ sống của chè trong vƣờn giâm là ban đầu hệ rễ của cành có đƣợc
hình thành hay không, rễ có phát triển tốt hay không. Để cho mầm phát triển nhanh
hơn hệ rễ trong thời kỳ ban đầu là không có lợi cho tỷ lệ sống của cành giâm. Theo
kết quả nghiên cứu của Trung Quốc thì độ nhiệt không khí 25 - 30oC, độ nhiệt đất (ở
độ sâu 5cm) 20 - 25oC là thích hợp nhất cho sự ra rễ và sự sinh trƣởng của cành giâm.
Đất thích hợp cho sự ra rễ của cành giâm là đất đỏ, có cấu tƣợng tốt, độ pH 4,5 -
5,5, có khả năng giữ ẩm nhƣng lại thoát nƣớc tốt và thoáng khí.
Độ ẩm đất cần thiết là 70 - 80%, độ ẩm đất cao quá thƣờng gây thối hom chè, độ
ẩm đất thấp quá làm cho cành chè bị chết khô. Theo kết quả nghiên cứu của Trung
Quốc thì tốt nhất là độ ẩm không khí bão hòa vì nhƣ vậy sự bốc hơi nƣớc sẽ giảm đến
mức thấp nhất, giữ đƣợc độ ẩm tối đa của đất, làm tăng sức trƣơng của tế bào, tế bào
phânc hia nhanh và sự ra rễ cũng nhanh.
Ánh sáng rất cần thiết đối với sự sinh trƣởng và phát triển của chè giâm cành.
Song nếu cƣờng độ ánh sáng quá mạnh, ban đầu sẽ làm cho cƣờng độ thoát hơi nƣớc
trong hom chè tăng lên, trong khi bản thân cành giâm chƣa có khả năng cung cấp
đƣợc nhiều nƣớc cho cây, nhƣ vậy sẽ ảnh hƣởng đến quá trình quang hợp, đến sự ra rễ
và tỷ lệ sống của hom chè. Cho nên, việc làm giàn che thích hợp, khống chế đƣợc ánh
sáng trong quá trình ở vƣờn ƣơm là một trong những biện pháp quan trọng đối với
việc nhân giống chè bằng phƣơng pháp giâm cành.
1) Kỹ thuật sản xuất cây con bằng phƣơng pháp giâm cành:
a)Vườn sản xuất hom giống:
Vƣờn sản xuất hom giống phải trồng bằng cành của giống chọn lọc đã đƣợc xác
nhận là giống có năng suất cao, phẩm chất tốt. Vƣờn giống trồng theo khoảng cách
1,75 x 0,60 x 2 cây. Sau khi không sản xuất hom giống tiến hành đốn theo quy trình
của vƣờn chè sản xuất và chuyển sang nhiệm vụ kinh doanh búp.
Phân hữu cơ bón lót, lần đầu 30 tấn vào tháng 12 - 01; các năm sau: 2 năm bón
một lần 20 tấn.
Phân thúc: 200 kg đạm sunfat + 200 kg supe lân + 200 kg Kali clorua/ha. Chè
dƣới 3 tuổi bón một năm 2 lần vào tháng 2 - 8.
Chè trên 3 tuổi bón một năm 4 lần vào các tháng 2 - 5 - 8 và 10.
Vƣờn sản xuất hom giống phải luôn luôn sạch cỏ và sạch sâu bệnh.
b) Vườn ươm:
+ Chọn giống và làm đất: chọn đất nơi gần nguồn nƣớc tƣới, gần diện tích sắp
trồng, độ dốc không quá 5o, gần đƣờng vận chuyển, đất đỏ hoặc vàng có cấu tƣợng
tốt, độ pH từ 4,5 - 6, mực nƣớc ngầm dƣới 1m. Đất mới khai hoang cần cày ải trƣớc 3
54 | w w w . t r a b a v a n . c o m
tháng, cày sâu 25 - 30cm, bừa nhỏ rồi lên luống theo hƣớng đông tây; mặt luống rộng
1,2m, cao 15 - 20cm, dài không quá 20m, rãnh luống rộng 60cm. Sau khi lên luống,
đất trên mặt luống phải nhỏ, mịn, tơi xốp. Nếu đất đã bón phân hữu cơ phải phủ một
lớp đất đỏ hoặc vàng dày 8cm.
Trong trƣờng hợp dùng túi polietilen để giâm cành thì chỉ cần giẫy sạch cỏ, lên
luống, xếp bầu và làm giàn.
+ Làm giàn che: tùy theo khả năng nguyên liệu của địa phƣơng có thể làm giàn
cao 1,20m hoặc 1,80m. Mặt giàn lợp bằng cỏ tế, tranh, lá lau, phên, nứa. Phải lợp kín
cả mặt luống, rãnh luống và che kín xung quanh lô. Phên che chung quanh và rãnh
luống làm thành từng tấm để tiện việc cất dỡ khi đi lại tƣới nƣớc, chăm sóc và điều
chỉnh ánh sáng.
+ Chọn cành cắt hom: chọn cành có đƣờng kính 4 - 6mm không bị sâu bệnh. Mỗi
hom cắt một đoạn cành 3 - 4cm có 1 lá và 1 mầm nách dài không quá 5 cm, nếu mầm
dài quá 5 cm thì bấm ngọn mầm. Vết cắt phía trên lá vát theo mặt lá và cành nách lá
0,5 cm, nếu lá to thì cắt bớt đi 1/3 hoặc 1/2 để giảm sự thoát hơi nƣớc.

Hình 9: Hom chè


+ Cắm hom: hom cắt xong đem cắm ngay là tốt nhất.
Khoảng cách cắm hom: 10 x 6 cm (160 hom/m2), hom cắm sao cho lá xuôi theo
chiều gió, mặt lá cách mặt đất 1cm, cắm xong nén chặt đất vào gốc hom và tƣới nƣớc
ngay.

55 | w w w . t r a b a v a n . c o m
+ Cắm hom trực tiếp vào túi polietilen: túi polietilen có kích thƣớc 12 x 18cm,
phía đáy đục 4 lỗ. Đáy túi đựng một lớp đất mặt trộn với phân hữu cơ hoai mục, tỷ lệ
phân 50%, phần trên là 8 cm đất đỏ hoặc vàng. Trƣớc khi cắm hom tƣới cho đất trong
bầu có độ ẩm 80 - 85%, mỗi túi cắm 1 hoặc 2 hom. Xếp bầu vào luống, có điểm tựa
để bầu đứng vững, các bầu xếp sát vào nhau.
+ Quản lý chăm sóc vƣờn ƣơm:
- Tƣới nƣớc: sau khi cắm hom từ 1 đến 15 ngày, mỗi ngày tƣới 2 lần, tƣới bằng
bơm con gà, bảo đảm độ ẩm đất 70 - 80%.
Từ 15 - 30 ngày, tƣới 2 ngày một lần (bơm con gà hoặc ô doa)
Từ 30 - 60 ngày, tƣới 3 ngày một lần bằng ô doa
Từ 60 - 90 ngày, tƣới 5 ngày một lần bằng ô doa
Từ 90 - 120 ngày, tƣới 6 ngày một lần bằng ô doa
Từ 120 - 180 ngày, tƣới 10 - 15 ngày 1 lần, tƣới ngấm.
- Điều chỉnh ánh sáng:
Vụ đông xuân: thời gian 60 ngày kể từ sau khi cắm hom che cả rãnh luống, mở
giàn khi ngày râm.
Từ 60 - 90 ngày, không che rãnh luống
Từ 90 - 150 ngày, tách giàn che 1/3
Từ 150 - 180 ngày, tách giàn che 1/2
Sau 180 ngày mở hẳn giàn che.
Vụ hè thu: Từ 1 - 30 ngày, che rãnh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Từ 30 - 60 ngày, che rãnh từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiếu
Từ 60 - 90 ngày, che rãnh từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều
Từ 90 - 120 ngày, không che rãnh, rút 1/3 giàn che
Từ 120 - 150 ngày, rút 1/2 giàn che
Sau 150 ngày, mở hẳn giàn che.
- Bón phân thúc: lƣợng phân bón thúc cho 1m2 vƣờn ƣơm quy định nhƣ sau:
Bảng 16

Đạm sunfat Clorua kali


Supe lân (gam)
(gam) (gam)

56 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Sau cắm hom 2 9 4 7
tháng
14 6 10
Sau cắm hom 4
18 8 14
tháng
Sau cắm hom 6
tháng

- Trừ sâu bệnh: sau khi giâm cành 3 tháng phun hỗn hợp vofatôc 0,2% + urê 2%,
phun 1 lít/ 5m2, sau đó cách một tháng phun một lần. Nếu vƣờn ƣơm phát sinh bệnh
thì phun bocđô 1: 100 phun 1 lít/ 5m2.
2) Kỹ thuật trồng chè cành ra ruộng sản xuất:
+ Tiêu chuẩn cây con:
Cây cao hơn 20cm có 6 - 8 lá, đƣờng kính thân cây đo cách gốc 5cm là 3 - 4mm,
cây có 6 tháng tuổi trở lên. Nếu cây cao hơn 30cm phải bấm ngọn trƣớc khi bứng
trồng.
+ Thời vụ trồng:
Vụ đông xuân: từ tháng 12 đến hết tháng 2.
Vụ thu: từ hạ tuần tháng 8 đến hết tháng 9.
+ Bứng bầu và vận chuyển bầu:
Cây con đƣa đi trồng phải có bầu đất, bó bầu bằng lá hoặc cho vào túi nhựa, bầu
không đƣợc vỡ. Bầu phải xếp chặt vào hòm gỗ, sọt; dùng xe hoặc gánh đến nơi trồng.
Gặp trời nắng phải che, không đƣợc để cây con héo.
+ Trồng cây con:
Chuẩn bị đất trồng nhƣ đối với chè trồng bằng hạt.
Trƣớc khi trồng rạch hàng sâu 20 - 25cm, hoặc đào hố rộng 20cm, sâu 25cm bón
lót 2,5 kg phân hữu cơ 1 hốc.
Chọn những ngày sau khi mƣa, trời râm mát, đất có độ ẩm 80 - 85%, trồng 2 cây
đủ tiêu chuẩn một hốc; lấp đất ngang vết cắt hom, nén đất chặt gốc. Nếu trồng bằng
bầu polietilen, trƣớc khi lấp đất phải xé bầu, để trên mặt hố tủ gốc. Trồng xong phải
dùng rơm rạ hoặc cắt cây phân xanh tủ vào gốc và tƣới nƣớc cho cây con, mỗi hố 2 lít
nƣớc. Sau khi trồng, trong 1 - 3 tháng đầu cần tiến hành kiểm tra cây chết và trồng
giặm kịp thời.
II. QUẢN LÝ, CHĂM SÓC NƢƠNG CHÈ

57 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Sau khi gieo trồng xong, cần phải tiến hành quản lý và chăm sóc nƣơng chè một
cách toàn diện. Dựa vào đặc điểm sinh trƣởng và đặc điểm canh tác khác nhau, chia
công tác quản lý chăm sóc ra hai thời kỳ khác nhau: quản lý chăm sóc nƣơng chè con
và quản lý chăm sóc nƣơng chè sản xuất (chè trong thời kỳ kinh doanh).
* Quản lý, chăm sóc nương chè con
Thời kỳ chè con (còn gọi là thời kỳ kiến thiết cơ bản) là thời kỳ sau khi chè đƣợc
gieo trồng, qua chăm sóc, đốn tạo hình, bắt đầu bƣớc vào thời kỳ thu hoạch. Trong
điều kiện của ta, thời kỳ kiến thiết cơ bản vào khoảng 4 năm. Công tác quản lý chăm
sóc nƣơng chè con có tác dụng rất cơ bản nhằm làm cho cây mọc khỏe, mọc đồng
đều, tạo cho cây có một bộ khung tán to, đặt cơ sở tốt cho sự sinh trƣởng và phát triển
của cây con trong cả thời kỳ sản xuất lâu dài về sau.
Quản lý chăm sóc nƣơng chè còn bao gồm những công việc chính nhƣ sau:
1) Giặm chè mất khoảng:
Đất trồng chè phần lớn là đất đồi dốc, khả năng tái sinh của cây rừng và cỏ dại rất
lớn, mƣa lấp hố, hạt nảy mầm kém v.v... đều có khả năng làm cho hạt không mọc
đƣợc, hoặc làm cho một số cây con mọc lên bị lấn át, chết đi, gây ra hiện tƣợng mất
khoảng. Chè là cây lâu năm, khoảng cách lớn, nếu bị mất khoảng sẽ ảnh hƣởng rất lớn
đến năng suất và công tác quản lý chăm sóc. Cho nên công việc trƣớc hết trong quản
lý chăm sóc nƣơng chè con là phải tích cực phát hiện và kịp thời giặm chè mất
khoảng ngay từ năm đầu sau khi gieo trồng. Giặm chè con có 2 cách: gieo giặm bằng
hạt hoặc trồng giặm bằng cây con đã chuẩn bị trong vƣờn ƣơm từ trƣớc. Quy định
gieo vƣờn ƣơm dự trữ cho 1 hecta là 30 - 50m2.
2) Xới xáo giữ ẩm và diệt trừ cỏ dại:
Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới của nƣớc ta những vùng đất đồi mới khai phá,
cỏ dại, cây rừng tái sinh phát triển rất nhanh chóng, do đó uy hiếp sinh trƣởng của chè
con rất lớn, công việc xới xáo diệt trừ cỏ dại cần đƣợc coi trọng. Tùy theo tình hình
sinh trƣởng và phát triển cỏ dại ở mỗi nơi, hàng năm cần tiến hành xới đất làm sạch
cỏ 3 - 4 lần trên hàng. Riêng đối với chè 1 tuổi cần nhổ cỏ bằng tay trên cụm chè để
bảo vệ đƣợc cây chè con, có thể dùng thuốc hóa học để trừ cỏ, phun 2 lần vào tháng 4
- 5 và tháng 7 - 8. Mỗi lần 6-8 kg đalapon + 2 kg 2,4D hoặc 6 kg simazin để diệt hạt
cỏ mới nảy mầm. Mỗi hecta phun 800 - 1000 lít nƣớc.
3) Trồng xen:
Trong những năm đầu khi cây chè chƣa giao tán, khoảng cách giữa 2 hàng chè
khá rộng nên trồng xen một số cây công nghiệp ngắn ngày hoặc cây phân xanh. Trồng
xen có những lợi ích chủ yếu nhƣ sau:
- Lợi dụng triệt để đƣợc đất đai trồng trọt, thực hiện phƣơng châm "lấy ngắn nuôi
dài".

58 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Chống đƣợc cỏ dại, bớt công làm cỏ.
- Phủ đất, chống đƣợc xói mòn nhất là đối với đất dốc. Trong một chừng mực
nhất định tăng đƣợc độ ẩm và nƣớc dự trữ cho cây trồng chính.
- Cải thiện đƣợc một phần kết cấu của đất, tăng nguồn chất xanh cho đất. Những
cây trồng xen thuộc bộ đậu còn giúp tăng nguồn đạm cho đất. Những loại cây thƣờng
trồng xen trong nƣơng chè hiện nay là cốt khí, đậu dự, cỏ stilô, lạc... Riêng đối với lạc
có thể trồng giống lạc 3 tháng (2 vụ/năm), cần bón thêm phân chuồng hoai 2t + 400
kg phốt phát nội/ha. Lạc trồng hai hàng cách nhau 40cm, trên hàng gieo lạc với
khoảng cách 45cm.
4) Bón phân cho chè con:
Bón phân cho chè con nhằm đạt yêu cầu: Tăng nhanh lƣợng sinh trƣởng của cây
làm cơ sở cho việc hình thành tán cây, tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt ngay từ
đầu, tăng khả năng chống chịu với ngoại cảnh và sâu bệnh đối với cây.
Theo quy trình kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp, bón phân cho chè con (chè kiến
thiết cơ bản) nhƣ sau:
Bảng 17

Lƣợng Thời
Số
Loại Loại phân gian
lần Phƣơng pháp bón
chè phân cho bón
bón
1ha (tháng)

Chè 1 N 30 kg 1 6 -7 Trộn đều hai loại phân bón,


tuổi sâu 6-8cm, cách gốc 20-30,
lấp kín đất
K2O 30 kg 1 11 -12
Trộn đều bón vào rạch, cày
Chè đốn Hữu 15 - 20t
1 sâu 15 cm, cách gốc 20 -
tạo hình cơ 100 kg
30cm
lần 1 (2 P2O5 1 3-4
60 kg
tuổi) và 8 - 9 Trộn đều hai loại phân, bón
N 50 kg
lẫn kali, lần đầu (tháng 3 -
Chè 2 - 2
K2O 4)
3 tuổi
1

5) Đốn tạo hình chè con:


Đốn tạo hình chè con là một biện pháp kỹ thuật quan trọng trong thời kỳ quản lý
chăm sóc nƣơng chè con. Mục đích chủ yếu là tạo cho cây chè có bộ khung tán rộng,

59 | w w w . t r a b a v a n . c o m
nhiều cành, có một hình thù cân đối làm cơ sở cho cây chè phát triển vững chắc về
sau:
Tùy từng điều kiện cụ thể, việc xác định tiêu chuẩn đốn chè con ở mỗi nƣớc có
khác nhau. Ngƣời ta có thể căn cứ vào tuổi cây, khả năng sinh trƣởng của cây về
chiều cao cũng nhƣ về độ lớn của thân để làm tiêu chuẩn đốn.

Hình 10: Đốn tạo hình chè con


Ở Liên Xô thƣờng bắt đầu đốn tạo hình lần thứ nhất khi cây chè 2 - 3 tuổi, chiều
cao cây 50 - 60 cm, đƣờng kính thân 1cm và trên cây đã có 2 - 3 cành cấp 1. Quy
trình của Bộ Nông nghiệp quy định mức đốn tạo hình cho chè con nhƣ sau:
Lần 1: khi cây chè 2 tuổi, đốn cách mặt đất 12 - 15 cm
Lần 2: khi cây chè 3 tuổi, đốn cách mặt đất 30 - 35 cm
Lần 3: khi cây chè 4 tuổi, đốn cách mặt đất 40 - 45cm
Song song với quá trình đốn, cần tiến hành hái tạo hình. Đốn hợp lý, hái tạo hình
tốt và quản lý chăm sóc tốt, qua 3 lần đốn, cây chè chính thức bƣớc vào thời kỳ kinh
doanh.
* Quản lý, chăm sóc chè sản xuất
Nƣơng chè sản xuất tức là chỉ thời kỳ cây chè sau khi kết thúc đốn tạo hình và bắt
đầu bƣớc vào thời kỳ thu hoạch búp. Thời kỳ sản xuất của chè rất dài: 30 - 40 năm
hoặc lâu hơn nữa. Tất cả các biện pháp kỹ thuật chăm sóc và quản lý đều có ảnh
hƣởng đến khả năng sinh trƣởng của cây, do đó có quan hệ trực tiếp đến năng suất và
phẩm chất chè.
Nội dung chủ yếu của công tác quản lý và chăm sóc nƣơng chè sản xuất gồm có:
1) Trừ cỏ xới xáo và tủ gốc cho chè:

60 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Cũng nhƣ thời kỳ cây con, công việc diệt trừ cỏ dại trong thời kỳ này phải đƣợc
coi trọng và phải đƣợc tiến hành triệt để, nhất là khi hàng chè chƣa giao tán.
Thành phần cỏ dại trên nƣơng chè rất phức tạp và nhiều loại, các loại cỏ thƣờng
gặp nhƣ Cyperus tenuiculmis, Digitaria ascendens, Paspalum conjugatum
ipomoeaspp scopariadulcis.
Mỗi loại cỏ lại có những đặc tính sinh học khác nhau do đó việc phòng trừ khá
phức tạp.
Việc diệt trừ cỏ dại cho chè có thể tiến hành bằng biện pháp cơ giới hoặc hóa học.
Biện pháp cơ giới (xới cỏ, phay đất) có tác dụng vừa diệt đƣợc cỏ dại vừa làm tơi đất
cho chè.
Trong vụ đông xuân cần xới sạch cỏ, cày giữa hàng chè hoặc phay sâu 10cm, lấp
phân hữu cơ và cành lá già sau khi đốn. Vụ hè thu: đào gốc cây dại luổng hoặc xới cỏ
gốc giữa hàng bừa 3 - 4 lần hoặc phay sâu 5cm. Biện pháp trừ cỏ bằng thuốc hóa học
hiện nay đang đƣợc ứng dụng bƣớc đầu trong một số nƣớc trồng chè trên thế giới, ở
Liên Xô, dùng 10 kg simazin và 15 kg dalapon hòa trong 1000 lít nƣớc để phun trừ cỏ
cho 1 ha chè sản xuất. Ngoài dalapon một số nƣớc còn dùng paraquat để trừ cỏ cho
chè, đó là một loại thuốc trừ cỏ bằng tiếp xúc, có tác động rất nhanh. Trong những
năm gần đây, chúng ta đang tiến hành khảo nghiệm các loại thuốc hóa học trừ cỏ cho
chè, hoặc là phòng trừ cỏ bằng hóa học kết hợp với cơ giới. Loại thuốc và liều lƣợng
dùng để trừ cỏ cho chè đã nêu ở phần trên (quản lý chăm sóc chè con).
2) Bón phân cho chè:
Bón phân cho chè trong thời kỳ sản xuất có ảnh hƣởng trực tiếp đến sinh trƣởng,
sản lƣợng và phẩm chất của chè.
Xây dựng một quy trình bón phân hợp lý cho chè cần phải căn cứ vào điều kiện
đất đai cũng nhƣ điều kiện ngoại cảnh và đặc điểm sinh lý của cây.
Cơ sở khoa học của việc bón phân cho chè gồm những điểm chính nhƣ sau:
- Cây chè có khả năng liên tục hút dinh dƣỡng trong chu kỳ phát dục hàng năm
cũng nhƣ trong chu kỳ phát dục cả đời sống của nó. Mặc dù trong điều kiện của ta, về
mùa đông cây chè tạm ngừng sinh trƣởng, nhƣng vẫn yêu cầu lƣợng dinh dƣỡng tối
thiểu, do đó việc cung cấp dinh dƣỡng cho cây cần đầy đủ và thƣờng xuyên trong
năm.
- Quá trình sinh trƣởng dinh dƣỡng và sinh trƣởng sinh thực của cây chè không có
giới hạn rõ ràng và là một quá trình mâu thuẫn thống nhất. Vì vậy, cần phải bón phân
hợp lý để khống chế quá trình sinh thực cho chè hái búp và khống chế quá trình sinh
trƣởng dinh dƣỡng cho chè thu hoạch giống.
- Khả năng thích ứng với điều kiện dinh dƣỡng của cây chè rất rộng rãi. Nó có thể
sống ở nơi đất rừng màu mỡ mới khai phá song cũng có thể sống ở những nơi đất
61 | w w w . t r a b a v a n . c o m
nghèo dinh dƣỡng và vẫn cho năng suất nhất định. Do đặc điểm đó, muốn nâng cao
năng suất chè cần phải bón phân đầu đủ.
- Đối tƣợng thu hoạch chè là búp và lá non. Mỗi năm thu hoạch từ 5 - 10t/ha, vì
thế, lƣợng dinh dƣỡng trong đất mất đi khá nhiều, nếu không bổ sung kịp cho đất thì
cây trồng sẽ sinh trƣởng kém và cho năng suất thấp.
- Theo Eden (1958) trong búp chè non có 4,5% N; 1,5% P2O5 và 1,2 - 2,5% K2O.
Những kết quả nghiên cứu của Jolemuanu cho thấy nhu cầu dinh dƣỡng khoáng của
cây chè rất lớn (xem bảng 18 và 19).
Bảng 18: Hàm lượng một số nguyên tố khoáng trong chè ở một số nơi (% chất tro)

Loại CaO MgO K2O P2O5

Chè chế biến ở Xrilanca 7,8 7,2 31,7 13,5


Chè chế biến ở Trung Quốc 8,9 6,0 30,3 13,7
Chè chế biến ở Trakvi (Liên Xô) 8,1 7,7 30,6 14,5
Lá chè tƣơi Gruzia (Liên Xô) 9,7 8,7 38,9 19,0
Lá chanh 63,0 5,7 15,0
Lá cam quýt 66,1 4,3 11,6

Bảng 19: Hàm lƣợng N trong chè nguyên liệu (% chất khô)

Dạng đạm Protein N x


Nhóm chè
Tổng số Hòa tan 6,25

Ấn Độ 4,42 1,82 27,6


Trung Quốc 4,52 1,55 28,25
Gruzia 5,08 2,66 35,50

Theo tài liệu của Trung Quốc nếu thu hoạch 7,5 tấn búp/ha, cần phải cung cấp N:
37,5 kg, P2O5: 75kg và K2O: 112 - 150 kg.
Ngoài ra cần chú ý rằng: hàng năm trọng lƣợng cành lá đốn cũng xấp xỉ bằng
trọng lƣợng búp và lá non đã thu hoạch và theo Daraxêli thì lƣợng đạm bị rửa trôi
thƣờng bằng 1/3 tổng lƣợng đạm bón vào đất.

62 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Từ những dẫn liệu trên đây, cho thấy rằng cây chè có những đặc điểm dinh dƣỡng
khác với một số cây trồng khác, nhu cầu về dinh dƣỡng khoáng của cây chè rất lớn.
Vì vậy, cần xét từng điều kiện cụ thể để xây dựng chế độ bón phân hợp lý cho chè.
a) Sử dụng phân đạm cho chè:
Trong cây, hàm lƣợng đạm tập trung nhiều nhất ở các bộ phận non nhƣ búp và lá
non, đạm có ảnh hƣởng rõ rệt đến sinh trƣởng của cây và có ảnh hƣởng trực tiếp đến
năng suất. Thiếu đạm cây sinh trƣởng kém, lá nhỏ, búp nhỏ và búp bị mù nhiều, do đó
năng suất thấp. Yêu cầu về đạm thay đổi tùy theo loại đất tuổi của cây và năng suất
của vƣờn chè. Tài liệu của trại thí nghiệm chè Phú Hộ - Vĩnh Phú cho thấy bón đạm
đầy đủ, sản lƣợng búp chè tăng 2 - 2,5 lần so với đối chứng không bón. Theo M.L
Bziava (1973) liều lƣợng đạm tăng, sản lƣợng búp sẽ tăng, song để đạt đƣợc năng suất
10t/ha bón 200 kg N/ha cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
Về phẩm chất, nhiều tài liệu ở nƣớc ngoài nhƣ Nhật Bản, Ấn Độ, Xrilanca... đều
cho rằng bón đạm không hợp lý, bón quá nhiều hoặc bón đơn độc đều làm giảm chất
lƣợng chè (đặc biệt là đối với nguyên liệu dùng để chế biến chè đen). Những công
trình nghiên cứu của Liên Xô cho thấy liều lƣợng đạm 300kg/ha thì hàm lƣợng tanin,
cafein và vật chất hòa tan trong búp chè đều cao, có lợi cho phẩm chất, song nếu vƣợt
quá giới hạn trên thì phẩm chất chè giảm thấp. Khi bón nhiều đạm hàm lƣợng protein
ở trong lá tăng lên. Protein kết họp với tanin thành các hợp chất không tan vì thế
lƣợng tanin trong chè bị giảm đi. Mặt khác khi bón nhiều đạm, hàm lƣợng ancaloit
trong chè tăng lên làm cho chè có vị đắng.
Những kết quả chuẩn đoán dinh dƣỡng trong lá chè của Liên Xô cho thấy: ở cây
chè thiếu đạm, hàm lƣợng đạm trong lá là 2,2 - 2,4%, trong búp là 3 - 3,5%. Cây chè
đủ dinh dƣỡng hàm lƣợng đạm tƣơng ứng là: 2,9 - 3,4% và 4,7 - 5,0%.
Trong điều kiện của ta, liều lƣợng và thời kỳ bón đạm đƣợc quy định nhƣ sau
(theo quy trình của Bộ Nông nghiệp 1975).
Bảng 20

Liều lƣợng Số lần Thời gian bón


Loại chè
N/ha (kg) bón
Năng suất búp dƣới 6 tấn/ha 80 - 120 3-5 Từ tháng 1 đến tháng 9
Từ tháng 1 đến
Năng suất búp 6t - 10t/ha 120 - 160 3-5
tháng 9
Năng suất búp 10t/ha 160 - 200 4-6 Từ tháng 1 đến
tháng 10

Ghi chú: Bón sâu 6 - 8 cm theo tán chè vào lúc đất có độ ẩm 70 - 80%, lấp đất kín.
b) Sử dụng phân lân cho chè:

63 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Theo các tài liệu nghiên cứu của Liên Xô, bón lân có ảnh hƣởng tăng năng suất và
phẩm chất búp chè rõ rệt. J. Đimitrôva (1965) cho rằng hiệu quả của phân lân đƣợc
nâng lên một cách rõ rệt trên đất đã đƣợc bón N, K. Ngƣợc lại hiệu quả của phân lân
thấp không những do lân bị cố định trong đất mà còn do đất thiếu N, K. Một đặc điểm
cần chú ý là hiệu quả về sau của lân kéo tới 20 - 25 năm. Trên đất đỏ (Liên Xô) hiệu
quả về sau của lân thƣờng cao hơn những năm bón trực tiếp. Theo nghiên cứu của F.
H. Urusatze thì hiệu quả trực tiếp của 3 năm bón lân với liều lƣợng 120 - 960kg/ha
trên nền N, K là tăng sản lƣợng búp 5 -30% so với đối chứng bón N, K. Song hiệu
quả tăng sản bình quân trong 21 năm về sau là 60 - 78%.
Những nghiên cứu của Cuaxanop (1954) T.C. Mgaloblisvili (1966) đều khẳng
định bón phân lân trên nền N,K làm tăng hàm lƣợng catechin trong búp chè, có lợi
cho phẩm chất.
Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu hiệu quả của phân lân đối với năng suất và phẩm chất
búp mới tiến hành chƣa đƣợc bao lâu. Song kết quả sơ bộ rút ra từ thí nghiệm 10 năm
bón phân N,P,K cho chè tại trại thí nghiệm chè Phú Hộ cho thấy: trên cơ sở bón 100
kgN/ha, bón thêm 50kg P2O5 qua từng năm không có sự chênh lệch gì đáng kể về
năng suất, nhƣng từ năm thứ 7 trở đi bội thu tăng dần một cách rõ rệt và để chúng qua
10 năm thì supe lân tỏ ra có hiệu lực chắc chắn và đáng tin cậy. Bình quân 10 năm
1kg P2O5 đã làm tăng đƣợc 3,5kg búp chè.
Kết quả phân tích lá chè và đất trồng chè ở Liên Xô cho thấy: ở cây chè thiếu lân,
hàm lƣợng lân (P2O5) trong lá là 0,27 - 0,28%, trong búp là 0,5 - 0,75%. Cây chè đủ
dinh dƣỡng hàm lƣợng lân tƣơng ứng là 0,33 - 0,39% và 0,82 - 0,86%. nếu trong đất
hàm lƣợng P2O5 là 30 - 32mg/100g đất, là thiếu nhiều lân.
Theo quy trình của Bộ Nông nghiệp: đối với chè đang kinh doanh thì 3 năm bón
phân lân một lần vào tháng 11 - 12 với liều lƣợng 100kg P2O5/ha.
c) Sử dụng phân kali cho chè:
Trên những nƣơng chè mới trồng, phân kali không có hiệu quả vì trên những loại
đất mới khai phá hàm lƣợng K2O trong đất đủ cho yêu cầu sinh trƣởng phát triển của
cây (20 - 25mg K2O/100G đất) ở những nơi thƣờng xuyên bón N, K với liều lƣợng
cao trong nhiều năm, đất trở nên thiếu kali thì hiệu quả việc bón K 2O rất rõ rệt, theo
số liệu của G.S. Goziaxivili (1949) bón K2O trên đất đỏ với liều lƣợng 80 - 320kg/ha
có thể tăng sản 28 - 55% so với đối chứng bón N,P. Những nghiên cứu của A.D.
Makharobitze (1948) cho thấy phẩm chất nguyên liệu trong các công thức bón phân
khác nhau đƣợc xếp theo thứ tự sau: P, K, N và không bón. Những kết quả nghiên cứu
của Liên Xô cho thấy: hàm lƣợng kali trong lá dƣới 0,5%, dấu hiệu thiếu kali biểu
hiện rõ, trên 1% thì cây sinh trƣởng bình thƣờng. Hàm lƣợng K2O 15mg/100g đất là
thiếu kali, trên 15mg/100g đất, cây sinh trƣởng bình thƣờng.
Kết quả sử dụng phân kali cho những nƣơng chè sản xuất ở ta rất rõ rệt. Kali có
ảnh hƣởng tốt đến sinh trƣởng và sản lƣợng búp.
64 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Tùy theo năng suất, lƣợng kali bón cho chè kinh doanh đƣợc quy định cụ thể nhƣ
sau:
Loại đạt năng suất búp tƣơi dƣới 6t/ha, bón 40 - 60 kg K2O/ha
Loại đạt năng suất búp tƣơi từ 6 - 10t/ha, bón 60 - 80 kg K2O/ha
Loại đạt năng suất búp tƣơi trên 10t/ha, bón 80 - 100 kg K2O/ha
Phân kali bón làm hai lần vào tháng 1 và tháng 7.
Vấn đề bón phối hợp N, P, K cho cây chè tùy thuộc vào điều kiện canh tác ở mỗi
nƣớc và năng suất cụ thể của nƣơng chè. Ví dụ quy trình kỹ thuật bón N, P, K cho chè
kinh doanh ở Liên Xô đƣợc quy định nhƣ sau:
Bảng 21

Năng suất búp tƣơi (kg/ha)


Loại phân và mức bón
(kg/ha) 1.500 - 2.500 - 3.500 - 7.000
2.500 3.000 7.000

N 250 300 350 400


P2O5
K2O 150 kg/ha (đất đỏ) 100 kg/ha (đất pojon)
200 kg/ha cách 1 năm bón 1 lần

Tỷ lệ bón hỗn hợp phân khoáng cho chè ở Xrilanca là: 64%N, 21% P2O5, 15%
K2O (J.Lamb, C.B. Portsmouth và J.L. Tolhorat 1955).
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về phân bón cho chè mới bắt đầu trong những năm
gần đây, vì vậy xác định tỷ lệ phối hợp N, P, K để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất còn
đang là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.
d) Sử dụng phân hữu cơ cho chè:
Bón phân hữu cơ cho chè ngoài việc cung cấp thức ăn cho cây, còn có tác dụng
cải thiện tính chất vật lý, hóa học, sinh vật học và chế độ nƣớc trong đất. Nguồn phân
hữu cơ gồm có phân chuồng, phân trấp, phân xanh và các nguyên liệu ép xanh (dùng
cành lá sau khi đốn vùi vào giữa hai hàng chè).
Ngƣời ta rất coi trọng hiệu quả về sau của việc bón phân hữu cơ cho chè. Kết quả
nghiên cứu của N.L.Bziava (1973) cho thấy trung bình 16 năm, phân chuồng làm tăng
sản lƣợng búp 18%, phân xanh 16% và phân trấp 9%.
Theo quy trình hiện nay đối với chè kinh doanh 3 năm, bón phân hữu cơ một lần
với liều lƣợng 25t/ha.
65 | w w w . t r a b a v a n . c o m
e) Một số nguyên tố vi lƣợng:
Sử dụng các nguyên tố vi lƣợng (bo, đồng, mangan, molipđen, kẽm, coban và iôt)
vào việc trồng trọt (xử lý các hạt trƣớc khi gieo) và bón vào đất, phun lên lá, có thể
tác động mạnh vào các quá trình sinh lý của cây trồng khác nhau, do đó có thể làm
tăng năng suất và phẩm chất chè.
Những công trình nghiên cứu của Acnôn (1954), Evan (1956), Grin (1954), Nalia
(1951), Nason (1953), Nicôla (1957), Staccây (1955), MacEuroi và Nason (1954) và
những ngƣời khác, đều xác nhận là những nguyên tố tham gia vào thành phần nhiếu
loại men và là chất hoạt hóa của nhiều loại men ấy. Nhiều nguyên tố vi lƣợng có ảnh
hƣởng tốt tới quang hợp: Mn, Cu, B, Co và Mo đẩy mạnh sự tổng hợp diệp lục trong
lá và phân giải diệp lục trong tối. B và các nguyên tố khác tăng cƣờng sự tổng hợp
Gluxit, làm cho sự tổng hợp và vận chuyển xacaro và các gluxit khác thuận lợi hơn
(Scônich 1955). Mn, Zn, Cu, Mo và trong nhiều trƣờng hợp cả B làm tăng độ hô hấp
và tốc độ của quá trình ôxi hóa khử.
Phân vi lƣợng hiện nay đang bắt đầu đƣợc sử dụng rộng rãi trong thực tế nông
nghiệp và đƣợc coi là một khả năng tiềm tàng góp phần đẩy mạnh sự phát triển của
ngành trồng trọt và chăn nuôi. Song việc nghiên cứu và sử dụng phân vi lƣợng cho
chè còn rấtỚit. Ở Xrilanca đã nghiên cứu và sử dụng kẽm sunfat hoặc axit kẽm để
phun lên lá, hoặc bón borat phối hợp với N, P, K cho chè ở những nơi xác định có
hiện tƣợng thiếu kẽm và bo. Kết quả nghiên cứu của Tranturia (1973) cho thấy bón N,
P, K phối hợp với 5 kg Zn và 5 kg B, cho 1 ha, làm tăng phẩm chất của chè nguyên
liệu... Ở Việt Nam bƣớc đầu đang nghiên cứu ảnh hƣởng của một số nguyên tố vi
lƣợng nhƣ Zn, B, Mo, Mn, Cu, đối với sự sinh trƣởng và phát dục của chè, hoặc dùng
H3BO4 (0,02%) phun phối hợp với urê (2%) và vôfatôc (0,2%) để trừ sâu và thúc sinh
trƣởng cho chè càng cho kết quả tốt.
3) Kỹ thuật đốn chè:
Đốn chè trong thời kỳ sản xuất (chè kinh doanh) là một khâu kỹ thuật đặc biệt so
với một số cây trồng khác. Đốn chè có ảnh hƣởng trực tiếp đến sản lƣợng và phẩm
chất.
a) Tác dụng:
Loại trừ các cấp cành già, yếu không có khả năng phát sinh và nuôi dƣỡng những
cành búp mới.
- Tạo tán to, tăng mật độ cành và mật độ búp trên tán tạo cơ sở tốt cho sản lƣợng.
- Ở những nƣơng chè sản lƣợng búp bắt đầu giảm thấp do số cành cơ bản đã già
cỗi, đốn chè nhằm thay thế một phần hoặc toàn bộ khung tán cũ để tăng cƣờng sức
sống cho cây.
- Làm cho cây chè có độ cao thích hợp dễ hái thủ công cũng nhƣ thu hoạch bằng
phƣơng pháp cơ giới.
66 | w w w . t r a b a v a n . c o m
b) Cơ sở lý luận của kỹ thuật đốn chè:
- Theo lý luận về giai đoạn phát dục các vị trí cành trên cây chè có trình độ phát
dục rất khác nhau. Cành phía trên hoặc phía trên ngọn của một cành thƣờng có trình
độ phát dục già, chóng ra hoa kết quả và khả năng sinh trƣởng dinh dƣỡng yếu, năng
lực sản xuất búp kém. Sau một thời gian sinh trƣởng nhất định, những phần cành có
tuổi phát dục già ấy cần đƣợc đốn đi để các mầm ở phía dƣới phát triển. Vì những
mầm này đƣợc phát sinh trên các cành có trình độ phát dục non nên có sức sống khỏe,
sinh trƣởng mạnh.
- Trong quá trình sinh trƣởng các cành ở phía trên mặt tán thƣờng có ƣu thế sinh
trƣởng ngọn, kìm hãm sự phát triển của các cành phía dƣới. Do đó đốn chè để phá vỡ
hiện tƣợng ƣu thế ngọn, tạo điều kiện cho các mầm và các cành phía dƣới phát sinh
phát triển.
- Theo nghiên cứu của nhiều tác giả giữa bộ phận trên mặt đất và dƣới mặt đất của
cây chè có sự phát triển cân bằng giữa hai bộ phận đó, tạo điều kiện cho bộ phận trên
mặt đất phát triển. Vì vậy đốn càng đau thì búp non mới phát sinh, sinh trƣởng càng
mạnh. Mặt khác cây chè ở miền bắc nƣớc ta trải qua mùa đông gặp điều kiện khô rét,
nếu để số lƣợng lá trên cây quá nhiều làm cho quá trình thoát hơi nƣớc mạnh, cây chè
mất cân bằng về chế độ nƣớc. Cho nên, đốn chè nhằm giữ lại một số lƣợng lá trên cây
thích hợp, tạo điều kiện cân bằng sinh trƣởng cho cây.
c. Các loại hình đốn
+ Đốn phớt: là cách đốn đƣợc tiến hành mỗi năm một lần và đốn cao hơn mức
đốn hàng năm 3 - 5cm. Mục đích của đốn phớt là loại trừ các cành nhỏ, cành tăm
hƣơng trên tán để xúc tiến sự nảy sinh và phát triển của các búp mới. Có thể đốn thủ
công bằng dao, kéo hoặc đốn bằng máy... Đốn phớt có thể tạo mặt tán theo mặt bằng,
theo chiều nghiêng của sƣờn dốc hoặc hình mâm xôi. Trong sản xuất, thƣờng tạo tán
theo mặt hàng để tiện thao tác trong việc quản lý, chăm sóc và thu hoạch.
+ Đốn lửng: sau một số năm đốn phớt liên tục, cây chè có chiều cao quá tầm hái,
mật độ cành trên mặt tán quá dày cành và búp nhỏ, năng suất giảm thì đốn lửng, vết
đốn cách mặt đất 60 - 65cm. Trong trƣờng hợp cây chè vẫn cho năng suất khá nhƣng
do cây cao quá khó hái cũng đốn lửng cách mặt đất 70 - 75cm. Dùng dao hoặc kéo để
đốn, tạo mặt tán chè bằng.
+ Đốn đau: những cây chè đƣợc đốn lửng nhiều lần, cành nhiều mấu, cây phát
triển kém, năng suất giảm rõ rệt thì đốn đau cách mặt đất 40 - 45cm nhằm thay thế
một phần lớn bộ khung tán của cây.
Dùng dao sắc để đốn, vết đốn phải thẳng và sát vào phía trong.
+ Đốn trẻ lại: Những cây chè già, cằn cỗi đã qua đốn đau nhiều lần, thân cây bị
sâu bệnh phá hại, năng suất giảm nghiêm trọng, thì đốn trẻ lại cách mặt đất 10 - 15cm,
nhằm thay thế hoàn toàn bộ khung tán cũ của cây, kéo dài thêm nhiệm kỳ kinh tế. Yêu
67 | w w w . t r a b a v a n . c o m
cầu kỹ thuật của đốn trẻ lại là vết đốn phải nhẵn, tránh gây giập nát và làm tổn thƣơng
đến phần gốc của cây.
d) Thời vụ đốn:
Tất cả các loại hình đốn đều tiến hành vào giữa tháng 12 đến hết tháng giêng là
thời kỳ cây chè tạm ngừng sinh trƣởng. Nơi thƣờng bị sƣơng muối cần đốn muộn sau
những đợt sƣơng muối nặng. Nói chung đốn dau cần đốn trƣớc, đốn phớt tiến hành
sau. Trƣớc khi đốn và sau khi đốn cần phải cung cấp dinh dƣỡng cho cây, đặc biệt là
cần bón đầy đủ phân chuồng trƣớc khi đốn đau.

68 | w w w . t r a b a v a n . c o m
CHƢƠNG VI
THU HOẠCH, BẢO QUẢN VÀ CHẾ BIẾN CHÈ
I - KỸ THUẬT HÁI CHÈ
rong quá trình sản xuất chè, hái có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hái là khâu cuối
cùng của các biện pháp kỹ thuật trồng trọt nhƣng lại là khâu đầu tiên của quá trình chế
biến. Hái không những có ảnh hƣởng trực tiếp đến sản lƣợng, phẩm chất chè trong
năm đó, mà còn có ảnh hƣởng đến sản lƣợng phẩm chất, sự sinh trƣởng và phát dục
của cây về sau. Thực tiễn cho thấy hái chè một cách hợp lý là biện pháp để tăng sản
lƣợng phẩm chất chè đồng thời cũng là một nhân tố đảm bảo cho chè hàng năm có sản
lƣợng cao, phẩm chất tốt.
* Cơ sở khoa học xác định biện pháp kỹ thuật hái
1) Ảnh hƣởng của hái búp đến sinh trƣởng phát dục và sản lƣợng của cây:
a) Trong điều kiện tự nhiên sự sinh trƣởng của búp hàng năm thƣờng có 3 - 4 đợt.
Chỉ có búp đỉnh (mầm ngọn) và 2 mầm nách lá kế tiếp với nó chiếm ƣu thế sinh
trƣởng, những mầm nách ở phía dƣới và mầm bất định nằm trong trạng thái ngủ.
Hái búp đỉnh tức là phá vỡ ƣu thế sinh trƣởng ngọn, đồng thời cũng phá vỡ sự cân
bằng giữa hai bộ phận trên và dƣới đất, có tác dụng thúc đẩy sự hình thành búp mới,
tăng số đợt búp trong một năm.
b) Để sinh trƣởng búp, cần có một số lớn vật chất dinh dƣỡng mà lá non giữ một
vai trò quan trọng trong việc quang hợp, tạo thành chất hữu cơ. Khi hái, nếu để lƣu số
lá non lại càng nhiều thì càng có lợi cho quang hợp tạo thành vật chất dinh dƣỡng cho
cây. Song đối tƣợng của trồng trọt là lá non và búp, cho nên giữa hái và sinh trƣởng
của cây tồn tại một mâu thuẫn nhất định. Nếu hái không hợp lý, không chừa lại một
số lá thích hợp thì quá trình quang hợp không thể tiến hành thuận lợi, cây sinh trƣởng
kém, giảm sản lƣợng. Thực tế chứng minh rằng các phƣơng pháp hái khác nhau (chủ
yếu là để chừa lại số lá nhiều hay ít khác nhau) có ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển
chiều cao của cây, chiều rộng của tán và sức sinh trƣởng của cây.
c) Hái búp có quan hệ rất lớn đến sự ra hoa kết quả. Cây chè không có riêng cành
dinh dƣỡng và cành sinh thực mà mùa hạ và mùa thu cả hai loại mầm này đều có trên
nách lá của cành. Các phƣơng pháp hái khác nhau, tỷ lệ ra hoa kết quả cũng khác
nhau. Hái chừa càng nhiều lá thì tỷ lệ ra hoa kết quả càng cao.
Đối với chè kinh doanh, ra hoa kết quả nhiều không phải là tốt bởi vì quá trình từ
khi phân hóa, phát dục của nụ hoa cho đến khi hình thành quả và quả chính bị tiêu hao
một lƣợng lớn vật chất dinh dƣỡng, làm cho các mầm sinh trƣởng ở vào trạng thái bị
ức chế, ảnh hƣởng đến sản lƣợng búp trong năm.
d) Sản lƣợng của búp chè phụ thuộc vào số lƣợng búp và trọng lƣợng búp. Số
lƣợng búp phụ thuộc vào mật độ búp trên tán và số lần hái. Ở những bùng chè nhiệt
69 | w w w . t r a b a v a n . c o m
đới nhƣ Ấn Độ, Xrilanca thƣờng thu hoạch quanh năm, do đó mỗi năm có khoảng 30-
35 lần thu hoạch. Ở ta, với những vùng chè sinh trƣởng tốt có thể thu hoạch đƣợc 25 -
30 lần trong năm. Trọng lƣợng búp chè phụ thuộc vào số lá trên búp. Tiêu chuẩn hái
khác nhau, sản lƣợng thu đƣợc sẽ khác nhau. Ví dụ: nếu hái 1 tôm 2,3 lá sản lƣợng
búp là 100%, hái 1 tôm 2 lá sản lƣợng là 76% và hái một tôm 3 lá sản lƣợng là 105%.
Bảng 22: Hái chừa hợp lý cho năng suất cao

Sản lƣợng búp tính theo % so với 1954


Công thức hái
1954 1955 1956 1957 1958

1. Hái không chừa lá 100 77,84 54.59 56,80 85.29


2. Hái chừa lá cá 100 114,90 79,84 131,2 134,33
3. Hái chừa 2 lá vụ xuân, 1 lá 100 141,2 104,0 154,86 187,26
vụ hạ, lá cá vụ thu

2) Quan hệ giữa hái chè và phẩm chất:


Phẩm chất của chè phụ thuộc vào thành phần hóa học trong búp chè nhƣ: chất hòa
tan, catechin, cafein, đƣờng... Những vật chất có lợi cho phẩm chất chè thƣờng tập
trung chủ yếu vào bộ phận non của búp chè. Vì vậy, hái búp càng non, phẩm chất
càng tốt. Kết quả phân tích hàm lƣợng nƣớc, tanin, chất hòa tan trong lá chè theo thứ
tự non già nhƣ sau (số liệu phân tích giống chè Trung du Phú Hộ).
Bảng 23:

Vị trí lá trên búp


Hàm lƣợng %
Vật chất Tôm
Lá 1 Lá 2 Lá 3 Lá 4 Lá 5
chè

Nƣớc 77,40 76,60 77,70 79,00 72,30 65,00


Tanin 28,50 29,00 29,12 28,20 25,00 16,00
Chất hòa tan 42,11 42,51 42,93 40,53 37,00 29,00

Độ non già của búp chè còn phụ thuộc vào thời gian sinh trƣởng, vì vậy cần hái
đúng thời gian đã quy định.
Mặt khác, do đặc điểm của quá trình chế biến và phẩm chất của từng loại chè, tiêu
chuẩn hái cũng khác nhau. Ví dụ: đối với nguyên liệu để chế biến chè đen cần hái non
hơn so với nguyên liệu dùng để chế biến chè xanh.

70 | w w w . t r a b a v a n . c o m
3) Tƣơng quan giữa chỉ số diện tích lá với sản lƣợng chè:
Mỗi loại cây trồng đều có một chỉ số diện tích lá thích hợp mới có thể đạt năng
suất cao. Đối với cây chè, lá là cơ quan kinh tế đồng thời là cơ quan dinh dƣỡng, do
đó chỉ số diện tích lá diễn biến rất phức tạp (khác với các loại cây lấy hạt), sự biến
động của diện tích lá chè chịu sự chi phối của nhiều yếu tố nhƣ: giống, điều kiện
ngoại cảnh và các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu của
Trung Quốc thì chỉ số diện tích lá ở vƣờn chè hái búp biến động từ 1 đến 6. Tƣơng
quan giữa chỉ số diện tích lá và sản lƣợng là r = 0,8087. Chỉ số diện tích lá từ 3 đến 4
thì sản lƣợng tăng dần cho đến khi chỉ số này đạt 5 thì năng suất cao nhất, vƣợt quá
giới hạn này, năng suất sẽ giảm. Nghiên cứu về tƣơng quan giữa chỉ số diện tích lá
với năng suất giống chè Trung du với Bộ môn cây công nghiệp Trƣờng Đại học Nông
nghiệp 1 (1968 - 1971) cho thấy hệ số tƣơng quan r = 0,72 và chỉ số diện tích lá thích
hợp cho năng suất của giống chè Trung du là 6 - 8.
* Quy cách hái chè
1) Đối với chè trong thời kỳ kiến thiết cơ bản:
a) Trước khi đốn tạo hình:
- Chè 1 tuổi: từ tháng 10 bấm ngọn những cây cao 60cm trở lên.
- Chè 2 tuổi: hái búp trên những cây to khỏe và cách mặt đất 50cm trở lên.
b) Hái tạo hình sau khi đốn:
- Chè đốn lần thứ nhất: đợt đầu hái tạo hình cách mặt đất 40 - 45cm, đợt sau hài
sát lá cá.
- Chè đốn lần thứ hai: đợt dầu hái cao hơn chè đốn lần một khoảng 5cm, các đợt
sau hái nhƣ chè đốn lần thứ nhất.
2) Đối với chè kinh doanh:
Hái búp (tôm) và 2, 3 lá non, khi trên tán cây có 30% số búp đủ tiêu chuẩn thì hái,
không bỏ sót, không để quá lứa, tận thu búp mù xòe, 7 - 10 ngày hái một lứa.
Vụ xuân (tháng 3 - 4): hái chừa 2 lá và lá cá, tạo tán bằng.
Vụ hè thu (tháng 5 - 10): hái chừa 1 lá và lá cá tạo tán bằng. Những búp vƣợt cao
hơn mặt tán thì hái sát lá cá.
Vụ cuối (tháng 11 - 12): tháng 11 hái chừa lá cá, tháng 12 hái cả lá cá,
3) Đối với chè đốn đau và đốn trẻ lại:
- Chè đốn đau: đợt đầu hái 1 tôm 2, 3 lá, chừa 3, 4 lá và lá cá; các đợt sau hái
chừa lá cá.
- Đối với chè đốn trẻ lại, hái nhƣ đối với chè kiến thiết cơ bản.
71 | w w w . t r a b a v a n . c o m
4) Yêu cầu kỹ thuật hái:
- Hái chừa đủ lá để đảm bảo sinh trƣởng của cây.
- Hái đủ số lá quy định để đảm bảo sản lƣợng.
- Hái đúng lứa, đúng số lá quy định để đảm bảo phẩm chất.
- Phƣơng pháp hái: hái bằng tay, khi lô chè đạt 5 tuổi trở lên đƣợc thâm canh tốt,
cây có tán bằng thì có thể thu hoạch bằng kéo hoặc bằng máy.

Hình 11: Tiêu chuẩn hái


1. Hái chè vụ xuân 2. Hái chè vụ thu 3. Hái chè vụ cuối
* Đánh giá phẩm chất nguyên liệu

72 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Phẩm chất chè nguyên liệu đƣợc đánh giá bằng phƣơng pháp phân tích các thành
phần hóa học cũng nhƣ xác định thành phần cơ giới của búp.
Những thành phần hóa học chủ yếu trong búp chè đã trình bày ở chƣơng "Đặc
tính sinh vật học".
Những thành phần cơ giới của búp bao gồm các chỉ tiêu:
Độ dài của búp
Trọng lƣợng búp
Tỷ lệ búp mù xòe
Tỷ lệ lá rời và lá bánh tẻ
Độ non già của búp.
Búp dài, trọng lƣợng lớn và búp non thì cho phẩm chất tốt. Tỷ lệ búp mù xòe cao,
lá rời, lá bánh tẻ nhiều, phẩm chất xấu.
II - BẢO QUẢN NGUYÊN LIỆU
Sau khi thu hoạch, búp chè thƣờng có hiện tƣợng ôi ngốt. Hiện tƣợng ôi ngốt là
quá trình chuyển biến những vật chất hóa học ở trong lá và lá bị chuyển màu nâu từng
phần hoặc toàn phần dẫn đến búp chè bị thối nhũn hoàn toàn.
Quá trình ôi ngốt làm giảm phẩm chất chè nguyên liệu và chè thƣơng phẩm vì vật
chất khô bị tiêu hao do quá trình hô hấp, phân giải, tanin bị ôxi hóa và vật chất thơm
bị phân giải v.v...
Quá trình hô hấp xảy ra trong thời gian bảo quản và vận chuyển nguyên liệu:
C6H12O6 + 6 O2 → 6 CO2 + 6H2O + 674 calo
Khi thiếu ôxi sẽ xảy ra:
C6H12O6 → 2CO2 + 2C2H5OH + 26 calo
Theo Kuaxanop, quá trình hô hấp và lên men trong chè xảy ra nhƣ sau:
Catechin + O2 → Octhokinon + H2O (1)
Octhokinon + gluco → catechin + CO2 (2)
n (Octhokinon) → sản phẩm có màu (3)
Ở trong chè, hàm lƣợng đƣờng có ít, do đó sau khi cạn nguồn đƣờng để hô hấp thì
tanin bị ôxi hóa làm giảm chất lƣợng chè. Khi gluco hết thì phản ứng (2) ngừng lại và
phản ứng (3) chiếm ƣu thế. Lúc này nguyên liệu chuyển từ hô hấp sang quá trình lên
men. Khi bảo quản tự nhiên và vận chuyển không thuận lợi các vết dập nát do cơ giới
bị lên men sớm. Octhokinon ngƣng kết tạo thành màu nâu tối, catechin giảm đi và do
đó ảnh hƣởng đến chất lƣợng chè nguyên liệu.
73 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Trong hòan cảnh cụ thể của ta ôi ngốt xảy ra ở trong chè nguyên liệu do:
- Ôi ngốt là hiện tƣợng tự nhiên xảy ra trong quá trình đƣa nguyên liệu từ cơ sở
sản xuất về nhà máy chế biến.
- Thu hoạch búp trong điều kiện nóng ẩm nhiều.
- Phƣơng tiện thu hoạch thủ công vận chuyển khó khăn, lá chè bị nén chặt, giập
nát nhiều, thời gian vận chuyển lâu...
Kết quả nghiên cứu của Viện cây công nghiệp về sự diễn biến vật chất trong búp
chè do quá trình ôi ngốt nhƣ sau:
BẢNG 24: Ảnh hưởng của quá trình ôi ngốt đến thành phần sinh hóa và chất khô
trong búp chè (%) (%)

Chất Đƣờng
Chất
Thời kỳ phân tích hòa Tanin tổng Cafein Pectin
khô
tan số
Phân tích ngay sau khi 21,5 48,2 31,15 2,8 4,3 2,7
hái 20,3 47,5 29,75 2,5 4,2 2,4
Phân tích khi ôi ngốt 17,8 45,2 28,40 2,1 4,0 2,0
2% 16,6 43,4 26,10 1,4 3,7 1,5
Phân tích khi ôi ngốt 14,5 35,2 22,00 0,7 3,5 1,1
5%
Phân tích khi ôi ngốt
10%
Phân tích khi ôi ngốt
20%

Số liệu trên cho thấy, ôi ngốt càng nhiều phẩm chất chè càng giảm thấp rõ rệt, do
đó có ảnh hƣởng đến phẩm chất chè thành phẩm.
Khi hái chè xong cần đặc biệt chú ý đến vấn đề bảo quản nguyên liệu. Bảo quản
nguyên liệu phải đạt yêu cầu: thời gian vận chuyển nguyên liệu về nhà máy càng
nhanh càng tốt. Trong quá trình chờ vận chuyển nguyên liệu và chờ chế biến phải rải
chè trong nhà mát, thoáng. Nên rải chè thành một lớp mỏng 20 - 30 cm và cách 2 - 3
giờ phải đảo một lần. Dùng sọt cứng hoặc thùng gỗ để vận chuyển búp chè, tránh làm
giập nát lá và cần chú ý che nắng.
III. CHẾ BIẾN CHÈ
Chế biến chè là một ngành công nghiệp thực phẩm phức tạp, đòi hỏi có trình độ lý
luận và thực tiễn cao. Trong phạm vi giáo trình này chỉ giới thiệu một số nguyên lý
chính về chế biến để tham khảo.

74 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Nhƣ đã biết, từ cùng một nguyên liệu búp (gồm tôm và 2 - 3 lá non) có thể chế
biến ra nhiều loại chè thành phẩm khác nhau.
Dựa vào tình hình sản xuất chè trên thế giới, tính chất các loại chè và đặc tính
sinh hóa trong quá trình sản xuất chè, có thể phân loại nhƣ sau:
+ Phân loại theo tính chất các loại chè: gồm hai loại chính: chè đen và chè xanh.
+ Phân loại theo hình thái bên ngoài gồm có:
- Chè rời: chè đen rời (chè cánh, chè mảnh, chè vụn), chè xanh rời (chè cánh, chè
mảnh, chè vụn, chè sợi, chè dẹp, chè tròn).
- Chè bánh: đƣợc chế biến từ chè đen, chè xanh hoặc chè vụn ép lại thành miếng.
Các loại chè bánh đều đƣợc gia công chế biến từ các nguyên liệu già.
- Chè bột hoặc cao chè: đƣợc chế biến từ nƣớc chè cô đặc lại và sấy khô.
+ Phân loại chè theo phƣơng pháp gia công:
- Chè xô (không ƣớp hƣơng).
- Chè hƣơng (dùng hoa tƣơi hoặc hƣơng liệu khô để ƣớp hƣơng cho chè nhƣ các
loại chè Ba Đình, Hồng Đào, Thanh Tâm...).
1) Chế biến chè đen:
Đặc tính của chè thành phẩm: màu nƣớc đỏ tƣơi, vị dịu, có hƣơng thơm dễ chịu.
Quá trình chế biến có thể tóm tắt nhƣ sau:
a) Giai đoạn héo chè:
Quá trình héo là làm thay đổi về sinh lý và sinh hóa của lá chè, quá trình này có
liên quan đến độ ẩm trong lá và độ nhiệt môi trƣờng. Yêu cầu của quá trình làm héo là
giảm hàm lƣợng nƣớc trong lá còn lại 60 - 62%, lá chè trở nên mềm, dai, thể tích lá
giảm đi. Vật chất tan tăng lên do sự thủy phân các chất. Tuy nhiên cũng có một số
chất mới, không hòa tan đƣợc tạo thành. Ở giai đoạn này tanin bị giảm đi 1 - 2%, các
chất có màu đƣợc tạo thành, hƣơng thơm đƣợc hình thành (do catechin bị ôxi hóa rồi
kết hợp với poliphênon hoặc alanin, hoặc asparagic). Protein biến đổi sâu sắc để tạo
thành các axít amin hòa tan. Một số chất khác nhƣ vitamin C, diệp lục, tinh bột giảm
đi. Cafein có tăng lên một ít do lƣợng axít amin tăng lên tạo điều kiện cho thành hình
cafein.
Điều kiện cần thiết; độ ẩm không khí: 60 - 70%
độ nhiệt: 44 - 45oC
thời gian héo: 3 - 4 giờ
b) Giai đoạn vò chè:

75 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Sau khi héo chè xong, tiến hành vò chè. Mục đích của giai đoạn này là dùng biện
pháp cơ giới để phá hoại tổ chức của lá, tạo điều kiện cho dịch tế bào tiếp xúc với ôxi
để quá trình ôxi hóa đƣợc tốt. Yêu cầu cần đạt đƣợc là làm dập tế bào khoảng 70 -
75%. Mặt khác vò chè còn nhằm tạo nên hình thức của sản phẩm (làm cho búp và lá
xoăn), theo yêu cầu của thị trƣờng để thuận lợi cho việc đóng gói và bảo quản. ở giai
đoạn này sự ôxi hóa tăng lên nhiều so với giai đoạn héo.
Điều kiện cần thiết: độ nhiệt: 22 - 24oC; độ ẩm không khí: 90 - 92%; vò 3 lần, mỗi
lần 45 phút.
c) Giai đoạn lên men:
Là giai đoạn quan trọng nhất trong chế biến chè đen. Sự lên men đƣợc tiến hành
từ khi vò chè và hoàn chỉnh ở giai đoạn cuối của lên men. Các quá trình xảy ra ở giai
đoạn này là quá trình lên men, quá trình tự ôxi hóa, quá trình có tác dụng của vi sinh
vật (quá trình này rất thứ yếu) và quá trình tác dụng của nhiệt (có tác dụng rút ngắn
thời gian lên men).
Điều kiện cần thiết: độ nhiệt: 24 - 26oC; độ ẩm không khí: 98%; thời gian: từ 3
đến 3 giờ rƣỡi.
d) Giai đoạn sấy chè:
Bảng 25

Các chỉ tiêu


Loại
ngoại hình nƣớc hƣơng vị bã
Mặt chè xoăn đều, Đậm
Đỏ nâu Thơm Đỏ
OP màu đen tự nhiên có dịu và
sáng đƣợm mềm
lẫn tuyết trắng có hậu
Đỏ
Đỏ nâu Thơm dịu Đậm
Mặt chè xoăn, ngắn sáng
BOP trong đậm hơn dịu có
cánh đen tự nhiên. đều,
sáng OP hậu
mềm
Mặt chè nhỏ, tƣơng Màu
Đỏ mận Đậm
FBOP đối đều, màu đen lẫn Thơm dịu đỏ
chín có hậu
ít tuyết mềm
Mặt chè nhỏ, tƣơng Đậm Màu
Đậm
P đối đều, ngắn cánh Đỏ nâu hơi đỏ
thơm vừa
hơn OP, màu đen chát nâu
PS Mặt chè hơi thô, Màu đỏ Thơm Hơi Đỏ

76 | w w w . t r a b a v a n . c o m
màu đen hơi nâu nâu nhẹ nhạt hơi
tối
Mặt chè tƣơng đối Thơm
BPS Đỏ nhạt Nhạt Đỏ tối
đều, màu đen vừa
Thơm Nâu
F Mặt chè nhỏ, đều Đỏ tối Nhạt
nhẹ xám
Đỏ tối Thơm Chát Nâu
Dust Mặt chè nhỏ
hơi đục nhạt gắt tối

Mục đích của giai đoạn này là dùng độ nhiệt cao để đình chỉ các hoạt động của men,
nhằm cố định phẩm chất chè và làm cho hàm lƣợng nƣớc còn lại 4 - 5% theo yêu cầu
của chè thƣơng phẩm trên thị trƣờng.
Điều kiện cần thiết: độ nhiệt 95 - 105oC
thời gian 30 - 40 phút
Sau giai đoạn sấy là quá trình chế biến chè bán thành phẩm. Qua hệ thống phân
loại, phân cấp, đóng gói là giai đoạn của chè thành phẩm trƣớc khi đƣa ra thị trƣờng
tiêu thụ.
Tùy thuộc vào chất lƣợng chè đen sản xuất ra mà phân thành các loại OP, BOP,
FBOP, P, PS, BPS, F và Dust.
Các chỉ tiêu cảm quan của chè đen máy đƣợc quy định trong bảng 25 và có hƣơng
vị chè địa phƣơng.
2) Chế biến chè xanh:
Đặc điểm của chè thành phẩm: nƣớc xanh tƣơi, vị chát đậm có hƣơng thơm tự
nhiên, các vật chất ít biến đổi nên có giá trị dinh dƣỡng cao.
Quá trình chế biến chè xanh, tiến hành qua các giai đoạn:
a) Giai đoạn diệt men: diệt men là dùng độ nhiệt cao để hủy diệt quá trình lên
men ngay từ đầu, do đó giữ đƣợc màu xanh của diệp lục. Có thể diệt men bằng
phƣơng pháp sao, hấp hơi nƣớc hoặc dùng dòng không khí nóng và ẩm. Diệt men còn
có tác dụng làm cho búp chè héo, mềm và dai để tiện cho giai đoạn vò chè. Để đạt
mục đích trên ngay từ đầu độ nhiệt phải đạt 95 - 100oC. Thời gian diệt men từ 5 - 7
phút.
b) Giai đoạn vò chè: mục đích của giai đoạn này là phá vỡ một số tế bào để tanin
bị ôxi hóa có tác dụng làm giảm chát cho chè xanh và làm cho búp chè xoăn lại theo
yêu cầu của thị trƣờng. Yêu cầu độ dập tế bào đạt khoảng 45%.

77 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Điều kiện cần thiết: độ ẩm không khí: 90%; độ nhiệt: 22 - 24oC vò 2 lần mỗi lần
30 - 45 phút.
c) Giai đoạn sấy chè: mục đích của giai đoạn này cũng nhƣ sấy chè trong chế
biến chè đen.
Điều kiện cần thiết: độ nhiệt: 95 - 105oC. Thời gian khoảng 30 - 40 phút.
Sau giai đoạn sấy, tiến hành phân loại, phân cấp và đóng gói.
Tùy thuộc vào chất lƣợng chè xanh máy sản xuất ra mà phân thành các loại: OP,
P, BP, BPS và F.
Các chỉ tiêu cảm quan của chè xanh máy đƣợc quy định trong bảng 26 và có
hƣơng vị chè địa phƣơng.
Bảng 26: Các chỉ tiêu cảm quan của chè xanh

Các chỉ tiêu


Loại
ngoại hình nƣớc hƣơng vị bã
OP Mặt chè xoăn, màu Xanh Thơm Đậm, Xanh
xanh tự nhiên có vàng mạnh dịu có vàng
tuyết trắng sáng hậu mềm
ngọt
P Mặt chè tƣơng đối Xanh Thơm Chát Xanh
đều, ngắn cánh hơn vàng kém dịu có vàng
OP, xanh tự nhiên. hơn OP hậu mềm
BP Mặt chè nhỏ, xoăn Xanh Thơm Đậm có Xanh
đều vàng hậu vàng
mềm
BPS Mặt chè tƣơng đối Xanh Thơm Chát Xanh
đều, màu xanh vàng hơi nhạt vừa vàng
nhạt
F Mặt chè nhỏ, đều Xanh ít thơm Chát Xanh
xanh vàng nhạt vàng
không nhạt
sáng

3) Chè hƣơng và chè ƣớp hoa tƣơi:

78 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Chè hƣơng và chè ƣớp hoa tƣơi đều là những loại chè lợi dụng cách ƣớp hƣơng
để hấp thụ lấy những hƣơng thơm tự nhiên của hƣơng liệu loại hoa tƣơi. Ngƣời ta
thƣờng dùng chè xanh để ƣớp chè hƣơng, còn dùng chè xanh chè đen để ƣớp hoa tƣơi.
- Chè hƣơng:
Dùng hƣơng liệu sấy khô, nghiền nhỏ rồi hỗn hợp lại đem ƣớp. Có nhiều loại
hƣơng liệu để ƣớp nhƣ hoa ngâu, hoa cúc, hạt mùi, cam thảo, quế, tiểu hồi, đại hồi.
Căn cứ vào hƣơng và phẩm chất của từng loại mà hỗn hợp hƣơng liệu cho thích
hợp.
Quá trình ƣớp hƣơng:

- Chè ƣớp hoa tƣơi:


Loại chè này ở trong nƣớc nhiều ngƣời ƣa thích. Các loại hoa tƣơi thƣờng đƣợc
dùng để ƣớp là: hoa sen, hoa nhài, hoa sói, hoa ngọc lan, hoa bƣởi, hoa hồng, v.v...
Quá trình ƣớp hoa tƣơi:

79 | w w w . t r a b a v a n . c o m
CHƢƠNG VII
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ SẢN XUẤT
hè là một cây công nghiệp lâu năm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu lớn.
Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của chè rất rộng và ngày càng tăng lên. Thiên nhiên
nƣớc ta rất phong phú và đa dạng, lực lƣợng lao động nông nghiệp lại rất dồi dào,
chúng ta có những điều kiện cần thiết để nhanh chóng phát triển ngành chè trên quy
mô lớn hàng chục vạn hecta.
I - PHƢƠNG HƢỚNG VÀ QUY MÔ SẢN XUẤT CHÈ TRONG NÔNG
TRƢỜNG QUỐC DOANH VÀ HỢP TÁC XÃ
1) Phân vùng sản xuất chè:
Tính thích nghi của cây chè tƣơng đối rộng. Hầu hết đất đai các vùng trung du và
miền núi nƣớc ta thích hợp cho cây chè phát triển; khả năng mở rộng diện tích trồng
chè còn khá lớn.
Nghị quyết II của Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng (1977), phần nói về
phƣơng hƣớng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp có nêu rõ: "Phát triển chè, chủ yếu ở
Trung du, Miền núi Bắc Bộ, Khu 4 cũ và Tây Nguyên".
Song để tạo đƣợc một khối lƣợng hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng và xuất
khẩu, đồng thời để kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp với công gnhiệp, trƣớc
hết là công nghiệp chế biến, cần phải quy hoạch các vùng trồng chè theo hƣớng tập
trung lớn và chuyên canh.
Kết quả bƣớc đầu của việc điều tra quy hoạch cho thấy khả năng phát triển một số
vùng chè tập trung nhƣ sau:
- Hà Tuyên: 10.000 - 12.000 ha đất trồng chè, chủ yếu ở các huyện Vị Xuyên, Bắc
Quang, Yên Sơn, Sơn Dƣơng.
- Bắc Thái: 5.000 - 7.000 ha, tập trung ở các huyện Đại Từ, Phú Lƣơng, Định
Hóa, Đồng Hỷ.
- Vĩnh Phú: khoảng 10.000 ha, chủ yếu ở các huyện Sông Lô, Sông Thao, Thanh
Sơn.
- Hoàng Liên Sơn: 12.000 - 15.000 ha, tập trung ở các huyện Văn Chấn, Trấn
Yên.
- Nghệ Tĩnh: 8.000 ha, chủ yếu ở các huyện Thanh Chƣơng, Anh Sơn, Nghĩa
Đàn, Hƣơng Sơn, Hƣơng Khê.
- Thanh Hóa: 2.800 - 3.000 ha tập trung nhiều ở Nhƣ Xuân.
- Bình Trị Thiên: khoảng 2.200 - 2.500 ha.

80 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Lâm Đồng: khả năng phát triển trên 20.000 ha, chủ yếu ở Bảo Lộc, Di Linh.
- Gia Lai - Công Tum cũng có trên 10.000 ha.
Sản xuất tập trung và chuyên canh mang lại nhiều lợi ích rõ rệt: hàng hóa nông
sản tăng lên nhanh chóng, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi để tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở
vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ thâm canh và hiệu quả ngành trồng chè.
Tuy nhiên, mức độ tập trung trồng chè trong các vùng không giống nhau điều đó
phụ thuộc vào:
- Phƣơng hƣớng sản xuất của từng vùng và địa vị ngành trồng chè trong cơ cấu
kinh tế của vùng.
- Điều kiện đất đai, khí hậu và khả năng trang bị kỹ thuật sản xuất trồng trọt, chế
biến và khả năng tập trung lao động.
Trong chừng mực nhất định, ta cần xét đến mối quan hệ chi phối giữa công suất
nhà máy chế biến với quy mô diện tích đất trồng chè. Hiện nay ta nhập trang thiết bị
của 3 loại nhà máy có công suất 13,5 tấn/ngày, 27 tấn/ ngày và 42 tấn/ ngày. Nếu tính
năng suất bình quân 1ha chè kinh doanh 5 tấn búp tƣơi thì diện tích tƣơng ứng là 500
- 700 ha, 1.000 - 1.400 ha và 1.500 - 2.000 ha.
Cây chè chủ yếu đƣợc trồng trong 2 khu vực nông trƣờng quốc doanh và hợp tác
xã.
Trong một vùng sản xuất thƣờng có nhiều đơn vị sản xuất ví dụ nhƣ: vùng chè
huyện Sông Lô (Vĩnh Phú) đƣợc hình thành trên cơ sở phát triển của 2 nông trƣờng
Vân Lĩnh, Vân Hùng và một số hợp tác xã trồng chè trong vùng.
2) Phƣơng hƣớng sản xuất và quy mô:
Các nông trƣờng quốc doanh và hợp tác xã trƣớc khi tổ chức sản xuất chè cần xác
định đúng đắn phƣơng hƣớng sản xuất và quy mô.
Đối với các xí nghiệp lấy sản xuất chè làm chính thì phƣơng hƣớng sản xuất
thƣờng là: Chè - chăn nuôi, ngoài ra còn kết hợp một số ngành bổ sung khác nhƣ
trồng hoa màu, nuôi ong.
Trong điều kiện đó, cây chè vẫn còn diện tích lớn nhất, đƣợc ƣu tiên về đất đai,
trang bị kỹ thuật, tiền vốn, lao động... Cây chè đƣợc tập trung thâm canh cao hơn.
Ngành chăn nuôi phát triển, chủ yếu là chăn nuôi bò, nhằm để tận dụng triệt để
hơn các bãi chăn, đồng cỏ, cỏ đƣờng lô; cung cấp thực phẩm cho xã hội và nhiều phân
bón thâm canh chè.
Phát triển hoa màu tăng nguồn lƣơng thực cho ngƣời và thức ăn cho gia súc; mặt
khác, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sử dụng công cụ sản xuất, cơ khí hóa và
lao động.

81 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Một số cơ sở đã chú ý đến việc nuôi ong. Đàn ong lợi dụng đƣợc nguồn hoa của
chè và của một số cây hoa màu, cây rừng chắn gió hay cỏ cây thiên nhiên trong vùng.
Tổng kết 20 năm thành lập nông trƣờng Mộc Châu cho thấy sự kết hợp giữa chè -
chăn nuôi bò và cây thức ăn đã tạo thế cho nông trƣờng phát triển thuận lợi:
- Cây chè đƣợc thâm canh cao, năng suất chè Shan đạt bình quân 120 - 140 tạ/ha,
hàng năm sản xuất từ 4.000 - 4.500 tấn chè búp tƣơi, cung cấp cho xuất khẩu trên 700
tấn chè khô, là ngành cung cấp lãi chủ yếu hàng triệu đồng.
- Hạn chế đƣợc tính thời vụ trong sử dụng lao động, lợi dụng đƣợc hệ thống công
nghiệp phục vụ.
- Hàng tháng đều có sản phẩm tiêu thụ, đã giảm đƣợc số vốn lƣu thông, tăng số
vòng quay của vốn từ 2 lần (1970) lên 3 lần (1975) và 5,38 lần (1977).
Đối với các xí nghiệp lấy sản xuất chè là thứ yếu, thì phƣơng hƣớng sản xuất
thƣờng đƣợc xác định:
Chăn nuôi bò - chè - cây thức ăn.
Cà phê - chè - chăn nuôi.
Trong trƣờng hợp này quy mô ngành chè không lớn, nhƣng các cơ sở cũng cần
phải chọn đất thích hợp, cần có quy hoạch tập trung liền vùng, vẫn phải bố trí những
đội sản xuất chuyên ngành để sản xuất và quản lý.
Do sự phân chia công đoạn sản xuất và quản lý mà sản phẩm ngành chè cũng
phân ra các dạng khác nhau: chè búp tƣơi, chè sơ chế, chè tinh chế.
Hiện nay cũng đã hình thành 2 hình thức quản lý sản xuất chè:
a) Hình thức sản xuất thứ nhất:
Chè búp tƣơi là sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp, bản thân nông trƣờng quốc
doanh và hợp tác xã không có xƣởng chế biến riêng. Chè búp tƣơi thu đƣợc đem giao
bán cho nhà máy chế biến chè trong vùng.
Hình thức này có sự phân công chuyên môn hóa cao và hạch toán kinh tế độc lập,
có điều kiện mở rộng quy mô diện tích trồng chè, nâng công suất trang bị của nhà
máy chế biến. Nhìn trên phạm vi toàn cục mà xét, nhƣ vậy là có lợi. Tuy nhiên, hiện
nay trong mối quan hệ lợi ích giữa các xí nghiệp còn một số tồn tại cần lƣu ý giải
quyết:
- Cơ sở và phƣơng thức phân loại, đánh giá phẩm cấp các loại chè búp tƣơi khi
đem giao bán giữa xí nghiệp nông nghiệp với nhà máy chè.
- Vấn đề giá cả về sự phân chia mức lãi và tiền đƣợc trích lập quỹ giữa hai loại xí
nghiệp nhằm khuyến khích sản xuất và cải thiện đời sống ngƣời lao động nông nghiệp
và công nghiệp.
82 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Tăng cƣờng đầu tƣ cơ khí và trang bị cơ sở phúc lợi để cải tiến điều kiện làm
việc và đời sống trong xí nghiệp nông nghiệp.
b) Hình thức quản lý thứ hai:
Sản xuất trồng chè và chế biến ở trong cùng một xí nghiệp, chè sơ chế (có nơi
gồm cả tinh chế đóng gói) là sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp nông nghiệp, xí
nghiệp thực hiện hạch toán độc lập thống nhất, còn các đơn vị, đội chè và xƣởng thực
hiện hạch toán kinh tế nội bộ.
Sự khép kín này đƣợc hình thành từ lâu trong nhiều nông trƣờng quốc doanh và
một số hợp tác xã. Cách quản lý này hiện nay có nhiều ngƣời ƣa thích:
- Sản xuất khép kín, quản lý thống nhất, kế hoạch và sản xuất chủ động, có điều
kiện xây dựng đƣợc hệ thống nông - công nghiệp, tạo thế phát triển đồng bộ, phát huy
đƣợc sức mạnh tổng hợp.
- Kết hợp chế độ hạch toán kinh tế nội bộ với hạch toán độc lập của xí nghiệp, nên
có thể chuyển những mâu thuẫn trên kia trở thành sự điều hòa nội bộ; trực tiếp
khuyến khích sản xuất.
II. TỔ CHỨC SẢN XUẤT NGÀNH CHÈ
1) Quy hoạch đất trồng chè:
Quy hoạch đất trồng chè là một bộ phận gắn liền với nội dung quy hoạch xí
nghiệp cụ thể:
- Xác định các loại đất, diện tích đất các vùng trồng chè thích hợp nhất trong xí
nghiệp.
- Chọn địa điểm xây dựng xƣởng chế biến, khu trung tâm, các đội chè và các lán
nhập và bán chè hàng ngày.
- Bố trí hệ thống đƣờng vận chuyển, đƣờng lô; quy hoạch thiết kế diện tích, kích
thƣớc và hình thể của các lô trồng chè.
- Tổ chức hệ thống thủy lợi tƣới, tiêu nƣớc, rừng cây chắn gió, các công trình
chống xói mòn, cây phủ đất và cây phân xanh, rác tủ. Trong thời gian đầu còn xác
định khu trồng chè giống lấy hạt, vƣờn ƣơm cây con, giâm cành chè.
Cơ sở để quy hoạch đất trồng chè là:
- Dựa vào địa vị, quy mô và hình thức quản lý ngành sản xuất chè trong xí nghiệp.
- Dựa vào tính chất và địa hình đất đai, khả năng trang bị và mức độ sử dụng các
loại máy móc, công cụ và kỹ thuật sản xuất chè trong xí nghiệp.
Dự kiến kế hoạch phát triển diện tích trồng chè cả nƣớc đến năm 1985 là 109.381
ha. Trong đó Miền bắc: 80.131 ha và Miền nam: 29.250 ha.

83 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Năng suất và sản lƣợng trên diện tích kinh doanh đến năm 1985 nhƣ sau:
Bảng 27

Khu vực Diện tích (ha) Năng suất Sản lƣợng (tấn)
(tạ/ha)

- Cả nƣớc 79.161 44,19 349.859


Quốc doanh 35.771 51,75 185.019
Hợp tác xã 43.390 37,99 164.840
- Miền bắc 64.761 42,54 275.529
Quốc doanh 25.371 51,49 130.439
Hợp tác xã 39.390 36,99 145.090
- Miền nam 14.400 51,61 74.330
Quốc doanh 10.400 52,48 54.580
Hợp tác xã 4.000 49,37 19.750

Kinh nghiệm một số cơ sở trồng chè cho thấy:


Để tiện cho sản xuất và quản lý, trồng chè phải đảm bảo tính tập trung về không
gian và thời gian. Các nông trƣờng, hợp tác xã cần cố gắng dành đất trồng tập trung,
liền đồi, liền khoảnh, cần dồn sức trồng dứt điểm từng khu vực lớn để tiện cho việc
thiết kế xây dựng đồng ruộng và đầu tƣ các công trình giao thông thủy lợi. Quá nhiều
tuổi chè sẽ hình thành rất nhiều hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, càng phức tạp
thêm về công tác kế hoạch, hạch toán, tổ chức quản lý lao động và chỉ đạo thực hiện
kế hoạch. Nói chung những khu vực trồng mới nên định hình sớm, không nên kéo dài
quá 5 năm. Tùy điều kiện đất đai, địa hình từng nơi, trong một nông trƣờng quốc
doanh hoặc hợp tác xã có thể gồm 1, 2 hoặc 3 khu chuyên canh chè. Cần ƣu tiên và có
kế hoạch cải tạo đất để diện tích trồng chè chiếm tỷ lệ lớn nhất, ngoài ra có thể có một
số cây kết hợp nhƣ cây rừng hoặc cây lâu năm khác để sử dụng hết đất đai và điều hòa
lao động mùa vụ trong năm.
2) Tổ chức quá trình sản xuất chè:
Quá trình sản xuất ngành chè có thể chia ra 2 quá trình chính:
- Quá trình sản xuất trồng trọt (chè kiến thiết cơ bản và chè kinh doanh).
- Quá trình sản xuất chế biến.

84 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Tổ chức quá trình sản xuất trồng trọt bao gồm các khâu công việc: cày bừa làm
đất, trồng mới, cày xới, chăm sóc, đốn tạo hình (kiến thiết cơ bản), bón phân, phun
thuốc trừ sâu, làm cỏ, hái chè, đốn chè, tủ rác... (chè kinh doanh).
Tổ chức quá trình chế biến gồm có: phân loại, làm ráo nƣớc, sạch rác, sao, vò, sấy
chè, đóng bao, bảo quản chè sơ chế (phƣơng pháp sản xuất chè xanh).
Dƣới đây là một số vấn đề về quá trình sản xuất trồng trọt:
a) Sử dụng cơ giới hóa:
Mấy năm lại đây ta đã chú trọng đẩy mạnh cơ giới hóa làm đất trồng mới, đồng
thời thí nghiệm cơ giới hóa các công việc cày xới chăm sóc giữa hai hàng chè. Máy
kéo ĐT-54A và ĐT-75 đƣợc sử dụng có kết quả tốt trên 5 loại công việc: san ủi đất,
cày, bừa, rạch hàng, làm đƣờng. Làm 1ha đất trồng chè mới hết 23 giờ máy (23 giờ
máy giảm đƣợc 635 công) và 95 công thủ công, chi phí nhiên liệu 283 đồng.
Máy kéo bánh xích ĐT-54A và ĐT-57 có thể cày trên đồi dốc 15 - 20o.
Theo tài liệu của viện công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp) ta
thấy công làm và trồng 1 ha đất trồng nhƣ sau:
Cày bừa chăm sóc, xới xáo, làm cỏ giữa hai hàng chè cũng là những công việc
nặng nhọc và tốn nhiều công sức, nhất là với chè kiến thiết cơ bản.
Dùng máy kéo công nông (8 - 12 mã lực) với điều kiện phải có bao chắn bảo vệ
cành chè và máy kéo 2 bánh Satoh (K-170 M, 8 mã lực) có thể phay đất, xới xáo, diệt
cỏ giữa hai hàng chè (khoảng cách 1,5m) hoặc cày rạch để bón phân, phun thuốc. Tuy
nhiên 2 loại này nói chung công suất nhỏ, chƣa đảm bảo độ sâu mong muốn, nhất là
nơi đất cứng. Với những nƣơng chè có khoảng cách hàng 1,70m - 1,80m có thể dùng
máy kéo TL - 30A, TL - 45 làm việc tốt hơn, đảm bảo độ sâu và kết hợp đƣợc nhiều
công việc trong và ngoài hàng chè nhƣ cày bừa, phay đất, rạch hàng sâu, phun thuốc,
bơm nƣớc, san ủi, hay đào hố để trồng cây. Nói chung khi mặt tán chè lớn, dù có bao
chắn bảo vệ cành vẫn có hạn chế mức độ sử dụng các loại máy kéo này.
Có thể tham khảo quy trình mẫu về sử dụng máy kéo cỡ trung TL-30A cho chè có
khoảng cách hàng 1,75m.

Định mức (công/ha)


Công việc Bậc việc Công Công Công gia
ngƣời máy súc

85 | w w w . t r a b a v a n . c o m
I - Chuẩn bị đất 11 3,5 0,5
1) Cày bừa 2 lần bằng
máy
3 5 1,5
2) Thiết kế lô trồng và
3 4 2,0
dọn gốc cây
3 2
3) Vận chuyển phân
hữu cơ (ôtô 30t/ha) 80 0,3 5
4) Chuyển rải phân vô 0,3
cơ và hữu cơ
II - Trồng 3 10
5) Lấy cọc, cắm cọc, rải 3 20
vôi để rạch hàng
6) Rạch hàng bằng máy
2 14
7) Chuyển rải phân vào
hàng 3 1,5
8) Đảo phân sửa hàng 2 10
để trồng 3 16 5
9) Bóc và chọn hạt 2 1,5
giống
10) Bảo quản và xử lý
3,8 5,5
hạt giống
11) Dăng dây, đặt và
lấp hạt
12) Cắt rác
(350kg/công)
13) Lấp đất, tủ rác 2 bên

Cộng

b) Tổ chức chăm sóc chè kinh doanh:

86 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Chăm sóc chè là những biện pháp kỹ thuật rất quan trọng, bao gồm các công việc:
làm cỏ, bón phân, phun thuốc trừ sâu... Đây cũng là những công việc nặng nhọc và
cần kỹ thuật tốn nhiều công lao động (30 - 40% tổng số công).
Tổ chức chăm sóc chè cần chú ý:
- Xây dựng lịch công tác và xác định tiêu chuẩn kỹ thuật từng công việc.
- Điều chỉnh hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp với điều kiện cụ thể theo
mùa vụ.
- Chỉ đạo thực hiện cần quán triệt phƣơng châm "kịp thời, tập trung dứt điểm"
Bảng 29

Yêu cầu Năng Chi phí Công Lao


kỹ thuật suất thực nhiên điều động
Công việc và thời tế liệu khiển thủ
gian (ha/giờ) (kg/ha) máy công
(giờ) (công)
Vụ đông xuân
- Làm thoáng đất giữ Tháng 0,70 4,00 1,4
ẩm 11 phay
10cm
- Cày rạch 25 cm 0,66 4,25 1,5
- Phay lấp cành Tháng 1 0,50 5,70 2,0
- Xới cỏ gốc Tháng 20
2, 3
- Phay trừ cỏ xuân vụ Tháng 0,50 5,70 2,0
hè thu 4, 5
- Đánh cây dại 10
- Phun thuốc trừ sâu 10 lần 0,20 14,30 5,0 5
kết hợp trừ cỏ
- Bón phân vô cơ 2 phay 1 0,50 5,70 2,0 2
lần lần
39,65 13,9 37

- Có kế hoạch và chuẩn bị đầy đủ công cụ vật tƣ lao động.


- Cải tiến quy trình, hợp lý hóa các quá trình lao động sản xuất.
87 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Điều thể hiện rõ nhất hiện nay trong các cơ sở trồng chè là kết hợp hoạt động
đồng thời nhiều khâu kỹ thuật, làm một việc có tác dụng đến nhiều việc và cải tiến các
thao tác kỹ thuật. Ví dụ: cày chăm sóc, giữa hai àhng chè kết hợp với bón phân: xới
xáo, diệt cỏ kết hợp với vùi cây làm phân.
Thay lối phun thuốc trừ sâu phân tán, theo thời gian và diện tích hái chè của từng
tổ, bằng cách phun tập trung theo lối cuốn chiếu, phun gọn từng vùng. Hoặc là kết
hợp với màng lƣới dự tính dự báo phát hiện nơi có sâu bệnh xuất hiện để tập trung
phun diệt kịp thời.
c) Tổ chức hái chè và giao nộp sản phẩm:
Trong 1 năm cây chè cho thu nhiều lứa và kéo dài khoảng 9 - 10 tháng. Hái chè
chủ yếu vẫn bằng sự thành thạo của 2 bàn tay, công cụ chƣa phải là yếu tố tác động
trực tiếp. Công hái chè thƣờng chiếm 60 - 70% tổng số công. Tổ chức tốt việc hái chè
có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Có thể nói, mấu chốt của công tác tổ chức hái chè là
làm sao tăng đƣợc ngày công giờ công và năng suất lao động. Có nhiều cách giải
quyết vấn đề này:
- Trƣớc hết năng suất hái chè phụ thuộc chủ yếu vào 2 nhân tố: trình độ thành
thạo của ngƣời hái và mật độ búp chè cần hái bình quân trên 1m2 mặt tán. Hai nhân tố
này quan hệ với nhau không theo tỷ lệ tƣơng ứng.
Nói chung, trên 1m2 số búp càng tăng thì năng suất hái tăng lên và ngƣời hái khá,
hái nhiều hơn ngƣời trung bình. Song dƣới mức 50 búp/m2 thì chênh lệch năng suất
hái giữa ngƣời khá và trung bình không lớn bằng khi hái chè có mức độ từ 50 - 120
búp/m2 mặt tán. Nhƣ vậy, có thể bố trí ngƣời khá hái trên lô có búp thấp hơn, thì có
lợi cho cả 2 loại lao động.
- Tổ chức cho 2 ngƣời cùng hái một hàng và riêng mỗi ngƣời mỗi hàng cũng có
năng suất hái khác nhau: xác định số hàng cho mỗi ngƣời hái để giảm bớt chiều dài
đƣờng đi và thời gian đi lại, tăng giờ đứng hái, cũng nâng cao mức hái.
- Có thể tổ chức chuyên khâu hẹp hơn, 6 - 10 ngƣời chuyên hái, có 1 ngƣời
chuyên đi thu vận chuyển về lán và cùng đội giao bán, cũng tạo ra điều kiện tăng giờ,
hái đƣợc nhiều chè lại đỡ nặng nhọc.
III. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH CHÈ
1) Tổ chức lao động:
Muốn tổ chức và quản lý tốt việc sản xuất chè phải tổ chức và quản lý tốt lao
động.Trong xí nghiệp cần tổ chức ra các đội chuyên canh chè. Mỗi đội đƣợc phân
công phụ trách một số diện tích, có trang bị một số công cụ và lao động cần thiết, tiến
hành sản xuất theo kế hoạch và sự chỉ đạo thống nhất của xí nghiệp.
Quy mô đội chuyên canh chè lớn hay bé tùy thuộc:
- Mức độ tập trung của khu vực trồng chè
88 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Hình thức xí nghiệp nông trƣờng quốc doanh hay hợp tác xã.
- Trình độ quản lý và kỹ thuật của cán bộ công nhân xã viên, cũng nhƣ mức độ sử
dụng cơ khí.
Thực tiễn sản xuất ở nông trƣờng quốc doanh cho thấy quy mô đội nên có từ 100
- 150 ha chè với 200 - 300 lao động, ở hợp tác xã thƣờng nhỏ hơn, khoảng 45 - 50 ha
với 80 - 120 lao động. Trong các nông trƣờng quốc doanh cần tổ chức các khu dân cƣ
theo hƣớng tập trung, nhằm tạo điều kiện tăng cƣờng cơ sở phúc lợi tập thể tổ chức
cải thiện đời sống cả vật chất và tinh thần.
Đội chuyên canh chè thƣờng đƣợc chia ra các tổ sản xuất hay tổ lao động chuyên
việc. Nhiệm vụ của tổ là lao động sản xuất theo yêu cầu kỹ thuật và khối lƣợng công
việc đƣợc phân công từ đầu, hoặc có kết hợp thêm quản lý một số diện tích chè. Mỗi
tổ có từ 12 - 15 ngƣời, có một tổ trƣởng chăm lo sản xuất và quản lý tổ theo sự chỉ
đạo trực tiếp sản xuất, đƣợc phụ cấp trách nhiệm 3 - 7% lƣơng.
Nói chung, tổ chức lao động phải phù hợp với yêu cầu sản xuất cụ thể, song phải
quản lý chặt chẽ có lãnh đạo và chỉ đạo sâu sát của đội. Cán bộ công nhân và xã viên
cần có kế hoạch bồi dƣỡng các mặt chính trị, văn hóa, kỹ thuật và quản lý để có năng
lực sản xuất và quản lý cây chè có hiệu quả. Những công nhân mới tuyển vào sản xuất
ngành chè cần nhanh chóng bồi dƣỡng các phƣơng pháp sản xuất và rèn luyện tay
nghề.
2) Định mức lao động:
Sản xuất chè có nhiều công việc, gồm nhiều quá trình lao động trong những điều
kiện sản xuất, tuổi chè, đất đai... khác nhau nên có nhiều mức và việc định mức khá
phức tạp.
Ví dụ: dƣới đây là một số định mức lao động chung do Vụ lao động và tiền lƣơng
ban hành năm 1973 dùng cho các loại chè.
Mỗi công việc thƣờng có mức lao động bình quân chung cả năm và từng tháng,
mức của xí nghiệp và của đội chuyên canh chè. Đó là căn cứ để lập kế hoạch về chi
phí lao động tiền lƣơng và khoán. Trong quá trình tiến hành lao động sản xuất, cần
đƣợc cụ thể hóa ra các mức cho phù hợp đếu kiện cụ thể nơi đó, lúc đó, nhƣng bình
quân trở lại phải ngang với mức bình quân chung.

Định mức công


Loại chè Công Công Công
ngƣời máy gia súc

89 | w w w . t r a b a v a n . c o m
+ Chè trồng mới 91 3,8 5,5
+ Chè kiến thiết cơ bản
- Loại 1 tuổi, năng suất 4 tạ/ha 148 1,5 11
- Loại 2 - 3 tuổi, năng suất 20 - 30 tạ/ha 211 1,5 23
+ Chè sản xuất kinh doanh (4 - 6 tuổi, năng
suất 40 tạ/ha)
- Hái tay và không dùng dalapon trừ cỏ
337 2,5 15
- Hái tay và dùng dalapon trừ cỏ
309 2,5 15

Ví dụ: mức cày chăm sóc là 2 công/ha, những lô có tuổi chè thấp khoảng cách
giữa hai tán chè lớn thì tăng lên 2,5 - 3 công/ha, còn chè nhiều tuổi gần giao tán chỉ
cần cày 2 đƣờng thì mức rút xuống 1,5 - 1,7 công/ha. Mức công bừa, làm cỏ cũng
đƣợc giảm xuống theo sự khép kín của tán chè. Ngƣợc lại, năng suất chè tăng lên thì
công hái chè trên 1 ha cũng tăng lên.
Cần có mức lao động đúng, song quan trọng hơn là tổ chức đƣa mức đó vào sản
xuất, làm cơ sở để tổ chức quản lý sản xuất, quản lý và trả công lao động. Quá trình
cải tiến công tác quản lý sẽ hoàn chỉnh đúng hệ thống mức.
3) Trả công trong ngành chè:
Trả công là phân phối sản phẩm tiêu dùng cho ngƣời lao động. Hình thức trả công
theo thời gian ít tác dụng. Phổ biến hiện nay là áp dụng hình thức trả công theo sản
phẩm.
Ở hợp tác xã có thể thực hiện chế độ khoán việc cho nhóm và ngƣời lao động khi
làm từng công việc. Đồng thời cần thực hiện tốt chế độ khoán sản phẩm cuối cùng
cho đội trồng chè. Có nhƣ vậy gắn liền đƣợc trách nhiệm hàng ngày với cả quá trình
trách nhiệm riêng với kết quả sản xuất chung của đội, của hợp tác xã.
Ở nông trƣờng quốc doanh từ lâu đã thực hiện chế độ lƣơng sản phẩm. Lƣơng sản
phẩm có hai mức độ là: trả trực tiếp theo khối lƣợng công việc và theo sản phẩm cuối
cùng.
Nông trƣờng quốc doanh Mộc Châu và một số nông trƣờng quốc doanh khác
trong 3 - 4 năm lại đây đã áp dụng hình thức trả lƣơng theo sản phẩm cuối cùng cho
các đội trồng chè. Cơ sở chủ yếu là dựa vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất hàng năm nông
trƣờng giao và mức độ thực hiện kế hoạch của đội để thanh toán lƣơng và tiền thƣởng
phạt. Những chỉ tiêu chủ yếu để khoán sản phẩm cuối cùng là:
- Số lƣợng sản phẩm và giá trị sản phẩm chè sản xuất ra trong năm.

90 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Tổng số tiền lƣơng sản xuất chè trong năm.
- Giá thành đơn vị sản phẩm chè.
Chè búp tƣơi có nhiều loại A, B, C, D... giá trị sử dụng và giá bán mỗi loại không
giống nhau. Do đó đồng thời phải giao cả hai chỉ tiêu: sản lƣợng và giá trị sản phẩm.
Có nhƣ vậy đội mới quan tâm đến sản xuất, thâm canh chè để có nhiều chè và thu hái
đúng quy cách, tăng phẩm cấp A, B, tăng giá bán, chế biến ra đƣợc nhiều sản phẩm
tốt.
Quỹ tiền lƣơng cho đội dựa trên cơ sở định mức lao động và tiền lƣơng bậc công
việc, nông trƣờng giao cho đội theo kế hoạch các tháng trong năm. Đội đƣợc sử dụng
số tiền lƣơng theo kế hoạch và kết quả sản xuất hàng tháng (nông trƣờng đảm bảo
kiểm tra nghiệm thu về số lƣợng và chất lƣợng kỹ thuật).
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp, tùy mức độ phấn đấu mà xác định
mức tiền thƣởng phạt đối với đội. Tổ chức thực hiện tốt chỉ tiêu số lƣợng và giá trị
sản phẩm là quan trọng nhất, là cơ sở chủ yếu để thanh toán tiền lƣơng "tháng 13" và
các loại tiền thƣởng khác.
IV. PHƢƠNG HƢỚNG PHẤN ĐẤU HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
SẢN XUẤT CHÈ
Hƣớng phấn đấu chung của ngành chè là:
- Sản xuất ra đƣợc nhiều chè có chất lƣợng cao cung cấp cho chế biến để có nhiều
sản phẩm với chất lƣợng tốt phục vụ nhu cầu tiêu cùng và xuất khẩu.
- Đảm bảo chi phí hợp lý, hạ giá thành sản phẩm, tăng mức lãi và thu nhập cho xí
nghiệp, không ngừng cải thiện đời sống cho ngƣời lao động.
- Giá thành là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng chi phối đến lợi nhuận của xí
nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm là một yêu cầu thƣờng xuyên cần hƣớng mọi cố gắng
của xí nghiệp nhằm phấn đấu thực hiện. Muốn hạ giá thành sản phẩm cần phải chú ý
một số điểm sau đây:
1) Tăng năng suất và phẩm cấp chè, tăng sản lƣợng và tận thu sử dụng tốt
chè cuối vụ:
Giữa năng suất với phẩm cấp chè có mối quan hệ không hoàn toàn đồng nhất.
Năng suất sản lƣợng tăng lên do hái nhiều chè C, D, E có thể làm giảm phẩm cấp chè
và ngƣợc lại tăng phẩm cấp do hái nhiều chè A, B có thể làm giảm năng suất. Tuy
nhiên khi hái nhiều chè A, B thì trƣớc hết là tăng đƣợc nhiều lứa hái trong năm, kết
hợp với việc thu hết búp mù xòe, không bỏ sót, không hái ép..., có thể vừa tăng đƣợc
phẩm cấp vừa tăng đƣợc năng suất chè. Điều đó có quan hệ đến việc huy động sử
dụng lao động và biện pháp chỉ đạo và kỹ thuật hái.
Có nhiều biện pháp làm tăng năng suất phẩm cấp:

91 | w w w . t r a b a v a n . c o m
- Xác định đƣợc đất và vùng trồng thích hợp.
- Chọn đƣợc những giống chè tốt có năng suất cao.
- Thâm canh ngay từ đầu, thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật.
- Tăng lứa hái, hái đúng quy cách.
- Vận dụng tốt các loại chè có thể thu hái.
2) Đề ra và chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp và quy trình kỹ thuật trồng
trọt phù hợp với điều kiện cụ thể:
- Xây dựng và kịp thời bổ sung những biện pháp kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật.
- Xây dựng quy trình sản xuất tiến bộ và có thể thực hiện đƣợc.
- Mức kỹ thuật cần đƣợc điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với điều kiện đất đai,
thời tiết, khí hậu, đúng lúc, đúng đối tƣợng và khả năng của xí nghiệp.
Có quy trình kỹ thuật và biện pháp đúng là cơ sở và tiền lệ. Điều quyết định trong
thực tế là tổ chức thực hiện để vừa đảm bảo kỹ thuật, vừa nâng cao năng suất lao
động, có chỉ đạo tập trung dứt điểm từng công việc lại đồng thời đảm bảo sự hoạt
động đồng bộ trong toàn xí nghiệp.
3) Quản lý tốt vật tƣ kỹ thuật:
Thuốc trừ sâu, phân bón, quang sọt, cày bừa v.v... cần đảm bảo chất lƣợng tốt
không để hƣ hỏng, mất mát. Cần xác định đủ số lƣợng và thể loại cần thiết không nên
mua sắm quá nhiều ứ đọng vốn tốn kho tàng và công chăm sóc bảo quản, nhƣng cũng
không nên quá thiếu mất cân đối, không đảm bảo tính kịp thời.
Tùy loại mà có sự phân công sử dụng và bảo quản thích hợp. Những công cụ lớn
quan trọng, dao kéo đốn chè sử dụng có thời vụ... nên để tập trung, khi dùng có biên
nhận và trả rõ ràng, có quy định niên hạn sử dụng, mất phải bồi thƣờng; quang sọt,
cuốc, cày bừa... sử dụng hàng ngày thƣờng phân cho đội quản lý. Một số nơi quy định
công suất sử dụng và giao cho cá nhân mua sắm (hoặc xí nghiệp trang bị), bảo quản
sử dụng, ví dụ:
- Quang sọt hái chè 10 đ dùng để hái 5 tấn chè: tƣơng ứng là 10đ/5.000kg =
0,002đ/kg chè. Ngƣời hái chè tự sắm và dùng, thu dần tiền quang sọt theo lƣợng chè
hái đƣợc. Quản lý tốt lâu hỏng thì hái đƣợc nhiều chè, thu nhiều tiền mà không phải
sắm lại.
- Cuốc bàn làm cỏ 3đ/50ha = 0,06đ/ha.
- Cày bừa chăm sóc thì không tính theo diện tích (vì mức cày khác nhau trên các
loại tuổi chè) mà tính theo số định múc lao động cụ thể là theo tiền lƣơng đi cày bừa
v.v...

92 | w w w . t r a b a v a n . c o m
Cách quản lý này thiết thực hơn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của ngƣời lao
động.
4) Thực hiện tốt các biện pháp để nâng cao năng suất lao động trong ngành
chè:
Ngoài những biện pháp chung để nâng cao năng suất lao động cần chú ý:
- Cải tiến công cụ sản xuất, mở rộng việc sử dụng cơ giới hóa.
- Hợp lý hóa các quy trình sản xuất trong phạm vi cho phép.
- Hợp lý hóa các quá trình lao động sản xuất, kết hợp làm một việc có tác động
đến nhiều khâu, chia nhỏ các công đoạn sản xuất, thực hiện chuyên môn hóa cao và
hợp tác.
- Cải tiến thao tác và phƣơng pháp làm việc.
- Bồi dƣỡng trình độ kỹ thuật, kỹ năng và ý thức trách nhiệm cho ngƣời lao động.
- Cải thiện đời sống và áp dụng các hình thức tiền lƣơng tiền thƣởng đúng mức để
gây đƣợc tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất.
Tính bình quân 3 năm, 1 hecta chè sản xuất kinh doanh (9 - 15 tuổi) đạt sản lƣợng
bình quân 7198 kg búp tƣơi với phẩm cấp A+B là 92%, giá thành bình quân 1kg búp
tƣơi là 0,466đ cần 520 công ngƣời, 81 công bò, 697 kg đạm sunfat, 201 kg kali
clorua, 10 tấn phân hữu cơ (rác, phân bò), 17 lít thuốc vofatoc và 8 kg thuốc trừ cỏ.
Công lao động về hái chè là 60,2%, trừ cỏ dại 16,2%, bón phân 9,8%, đốn chè 8,4%,
trừ sâu bệnh 5,4%. Một công lao động làm ra 13,8 kg búp tƣơi. Muốn có 100kg búp
tƣơi cần 7,27 công.
Tóm lại, hạ giá thành sản phẩm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất chè
là phải thực hiện tổng hợp nhiều biện pháp kinh tế kỹ thuật là cả quá trình phấn đấu
liên tục của toàn bộ xí nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH


+ Ali Zatde M.A. Sinh lý cây chè. Viện hàm lâm khoa học Azecbaijan. Bacu,
1964.
+ Bakhơtatze K.E. Sinh học, chọn tạo và nhân giống cây chè, Maxcơva, 1948.
+ Bakhơtatze K.E. Cơ sở sinh học của cây chè. Tbilixi, 1971.
+ Giginhêisvili P.L. Cây chè ở Việt Nam. Tạp chí cây trồng ở nhiệt đới, 2-1967.
+ Giginhêisvili P.L. Nghề trồng cây lâu năm ở Việt Nam. Tbilixi, 1970.
+ Gôtrôlasvili M.M. Zandastanhisvili L.G. Cơ sở sinh học của cây chè ở Gruzi.
Tbilixi, 1963.

93 | w w w . t r a b a v a n . c o m
+ Đjêmukhatze K.M. Trồng trọt và sản xuất chè ở nƣớc Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, Maxcơva, 1961.
+ Đjêmukhatze K.M. Cây chè ở nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Maxcơva,
1976.
+ Kantaria G.I. Nghề trồng chè Tbilixi, 1960.
+ Kvaraxkhêlia T.K: Aculôva T.A. Kantaria G.I, Menagarisvili A.Đ.
Nghề trồng chè Maxcơva, 1950.
+ Palarava D.T. Nghề trồng chè ở một số tỉnh của nƣớc Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Tạp chí của Viện nghiên cứu chè và cây á
nhiệt đới toàn Liên Xô. Số 2-1957.
+ Piaxkhalaisvili C.X. Cơ sở khoa học của việc khai thảo nƣơng chè.
Luận án tiến sĩ nông học Maxcơva, 1969.
+ Bziava M.L. Phân bón cho cây trồng á nhiệt đới. Tbilixi, 1973.
+ Boculrava M.A. Sinh hóa chè và sản xuất chè. Maxcơva, 1958.
+ Nguyễn Ngọc Kinh. Nghiên cứu ảnh hƣởng của các biện pháp đốn
và tƣới nƣớc đến sinh trƣởng, phát dục và sản lƣợng của cây chè
trong điều kiện của nƣớc Cộng hòa Apkhazia.
+ Luận án phó tiến sĩ nông học, Xukhumi, 1973.
+ Trang Vãn Phương. Cây chè. Maxcơva,1959.
+ Trường Đại học Lômônôxốp - Sinh lý cây trồng nông nghiệp. Tập
9 - Sinh lý cây ăn quả và chè. Nhà xuất bản Đại học - Maxcơva,
1970.
+ Eaen T. Cây chè - Luân Đôn, 1958.
+ Elliott E.C. Whiteheahd F.T. Trồng chè ở Xrilanca, 1960.
+ Othieno C.O. Tƣới nƣớc cho chè. Tạp chí Viện nghiên cứu chè Đông Phi,
1968,9 (2).
+ Sen. AR. Asim K. BisWac. Một số kỹ thuật thí nghiệm về cây chè ở Đông Bắc
Ấn Độ. Tạp chí nông nghiệp thực nghiệm 1966. 2 (2).
+ Trà thụ sinh vật học. Nhà xuất bản khoa học Bắc Kinh, 1957.
+ Trà thụ sinh vật hóa học. Nhà xuất bản Nhân dân Chiết Giang, 1962.
+ Trà diệp kiểm nghiệm học. Nhà xuất bản Nông nghiệp Bắc Kinh, 1961.
+ Trà tác học.
+ Chế trà học. Nhà xuất bản Nhân dân Chiết Giang, 1961.
+ Chọn và nhân giống chè. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1961.
+ Báo cáo tình hình sản xuất chè hàng năm. Vụ trồng trọt. Bộ Nông nghiệp.
+ Quy trình kỹ thuật trồng chè. Vụ trồng trọt. Bộ Nông nghiệp.

94 | w w w . t r a b a v a n . c o m
+ Một số tạp chí:
- Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp.
- Tập san nghiên cứu kinh tế.
- Thông tin khoa học và kỹ thuật cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc.
- Khoa học về cây chè (tiếng Trung Quốc).
- Cây trồng á nhiệt đới (tiếng Nga).

95 | w w w . t r a b a v a n . c o m

You might also like