You are on page 1of 5

1.

Tác giả Ba-sô


- Ba-sô (1644-1694) tên thật là Masuo Bashô (Tùng Vĩ Ba Tiêu) là một nhà thơ nổi tiếng của
văn học
Nhật Bản.
- Quê ở tỉnh Iga (nay là tỉnh Miê).
- Gia đình thuộc tầng lớp võ sĩ cấp thấp.
- Khoảng năm 28 tuổi chuyển đến Ê-đô (Tô-ki-ô) sống và sáng tác thơ Hai-cư với bút danh
Ba-sô (Ba
Tiêu).
- 10 năm cuối đời, ông đi khắp đất nước viết du ký và làm thơ Hai Cư.
- Ông mất ở Ô-sa-ka khi mới 50 tuổi.
-một số tác phẩm nổi bật: Du kí Phơi thân ngoài đồng nội (1685), Đoản văn trong dãy
(1668), Cánh đồng
hoang (1689),...
2. Đặc điểm thơ Hai - cư:
- Thơ Hai-cư rút ngắn: 3 câu 17 âm tiết, 8→ 10 chữ, không quá 10 chữ; bố trí 5 – 7 – 5.
- Thơ Hai-cư thường phản ảnh trạng thái tâm hồn con người Nhật: ưa thích và hoà nhập với
thiên nhiên
→ miêu tả và gợi cảm xúc về thiên nhiên, phong cảnh
- Thơ Hai - cư thấm đẫm tinh thần “Thiền tông” và tinh thần văn hoá Phương Đông
- thời điểm trong thơ được xác định bằng quí ngữ (từ chỉ mùa)
II/ Đọc hiểu văn bản:
1.Bài 1:
- Quý ngữ: mùa sương – mùa thu.
- Nhà thơ sống ở Kinh đô đã 10 năm nhưng trong khoảng thời gian đó Ba-sô coi nơi đây là “
đất khách”.
- Lúc về thăm quê hương ngoảnh lại nhìn Kinh đô bỗng như là “ cố hương”.=> Tình cảm
thân thiết, gắn
bó với mảnh đất nơi mình ở.
2. Bài 2:
Trở về kinh đô sau 20 năm bôn ba, nghe tiếng chim đỗ quyên
-> tác giả thương tiếc thời gian, nỗi buồn và sự vô thường
-> sự hoài niệm về một quá khứ vàng son
3. Bài 3:
- Quý ngữ: làn sương thu – mái tóc mẹ.
- Ba-sô trở về quê, mẹ đã mất, cầm trên tay mớ tóc bạc của mẹ, bao nhiêu yêu thương nhung
nhớ bỗng
như tan thành nước mắt chảy tràn trên tay
→ cách diễn đạt hàm súc
 → Tình mẫu tử khiến người đọc cảm động
4. Về bài 4

Trong Du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba-sô kể chuyện một lần đi ngang qua cánh
rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé
bị bỏ rơi trong rừng.

Tiếng hú não nề
Hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
Gió mùa thu tái tê

Ở Nhật, ngày xưa vào những năm mất mùa có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng.
Thậm chí còn đang tâm giết đứa trẻ nữa. Nghe tiếng vượn hú mà Ba-Sô lại liên tưởng đến
tiếng người. Tiếng vượn hay chính là tiếng trẻ con khóc thật. Trong gió mùa thu hay tiếng
gió đang than khóc cho nỗi đau của con người.

5. Về bài 5

Bài thơ này Ba-Sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ
nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang
thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.

Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình
ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc
của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.

6. Về bài 6

Bài thơ này miêu tả cảnh mùa xuân. Quanh hồ Bi-wa có trồng rất nhiều hoa anh đào. Mỗi
khi gió thổi, cánh hoa anh đào lại rụng lả tả như mây. Cánh hoa hồng nhạt, mong manh rụng
xuống mặt hồ làm cho mặt hồ gợn sóng. Cảnh tượng ấy thể hiện sự tương giao của các vật
trong vũ trụ. Triết lí sâu xa nhưng lại được thể hiện bằng những hình tượng giản dị, nhẹ
nhàng. Đó chính là cảm thức thẩm mỹ của bài thơ.

7. Về bài 7

Bài thơ ra đời trong một lần Ba-sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Tiếng
ve là thanh, đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng
hết lại có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá. Liên hệ đó độc đáo,
kì lạ mà không hề khoa trương.

8. Về bài 8

Bài thơ này viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy
mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận.

Nhưng cả cuộc đời Ba- Sô là cuộc đời lang thang phiêu bồng, lãng du. Vì thế ngay cả khi sắp
từ giã cõi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi - đi bằng hồn mình.
Và ta lại như thấy hồn Ba- Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.

You might also like