You are on page 1of 40

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA THÔNG TIN – THƯ VIỆN


-----------------------

NGUYỄN NHƯ TRANG

NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ ĐỌC CỦA SINH VIÊN TẠI TRUNG TÂM THÔNG
TIN THÔNG TIN – THƯ VIỆN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH THÔNG TIN – THƯ VIỆN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2011-X

HÀ NỘI, 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA THÔNG TIN – THƯ VIỆN
-----------------------

NGUYỄN NHƯ TRANG

NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ ĐỌC CỦA SINH VIÊN TẠI TRUNG TÂM THÔNG
TIN THÔNG TIN – THƯ VIỆN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH THÔNG TIN – THƯ VIỆN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2011-X

Người hướng dẫn: PGS.TS Trần Thị Minh Nguyệt

Cơ quan công tác: Đại Học Văn Hoá Hà Nội

HÀ NỘI, 2015
LỜI CẢM ƠN

***

Được sự phân công của khoa thư viện thông tin Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn và sự đồng ý của Cô giáo hướng dẫn
PGS.TS. Trần Thị Minh Nguyệt em đã thực hiện đề tài: : “Nghiên cứu văn
hóa đọc của sinh viên tại Trung tâm Thông tin – Thư viện Học viện Ngân
hang”

Để hoàn thành khóa luận này em xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy, trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và rèn luyện ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn .

Qua đây cho em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ xủa
các thầy, cô giáo, Ban lãnh đạo Thư viện Học viện Ngân Hàng. Đặc biệt
em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Thị Minh Nguyệt – người
đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất nhưng khóa luận không tránh khỏi nhiều thiếu sót nhất định do khả
năng, trình độ còn hạn chế và bản thân chưa nhận thấy được nên Khóa luận
còn nhiều khiếm khuyết Em kính mong được sự đóng góp của các thầy cô
và các bạn sinh viên để khóa luận của em hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2015

Sinh viên

Nguyễn Như Trang


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1, Tính cấp thiết của đề tài

2, Mục tiêu nghiên cứu

3, Câu hỏi nghiên cứu

4, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5, Phương pháp nghiên cứu

6. Giả thuyết nghiên cứu khoa học

7, Bố cục của Niên luận

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: THƯ VIỆN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG VỚI


PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO SINH VIÊN

I.1 Khái quát về Thư viện Học viện Ngân hàng

I.1.1 Chức năng – nhiệm vụ

I.1.1 Cơ cấu tổ chức – Đội ngũ cán bộ

I.1.2 Cơ sở vật chất

I.1.3 Đặc điểm nguồn lực thông tin và người dùng tin

I.2 Những vấn đề chung về Văn hóa đọc

I.2.1Khái niệm Văn hóa đọc

I.2.2Các yếu tố cấu thành văn hóa đọc

I.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới văn hóa đọc

I.3 Vai trò của Văn hóa đọc đối với sinh viên Học viện
Ngân hàng

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH


VIÊN TẠI HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
2.1 Nhu cầu đọc của sinh viên

2.1.1 Nhu cầu về nội dung tài liệu

2.1.2 Nhu cầu về hình thức tài liệu

2.1.3 Nhu cầu về ngôn ngữ tài liệu

2.2 Kỹ năng đọc của sinh viên

2.2.1 Kỹ năng đọc hiểu tài liệu

2.2.2 Kỹ năng vận dụng tri thức trong tài liệu vào học tập

2.3 Thái độ ứng xử với tài liệu của sinh viên

2.4 Đánh giá chung về thực trạng văn hóa đọc của sinh viên
Học viện Ngân hàng

2.4.1 Ưu điểm

2.4.2 Hạn chế

2.5 Nguyên nhân của sự suy giảm văn hóa đọc của sinh viên
Học viện Ngân hàng

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC


CHO SINH VIÊN TẠI HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

3.1 Tăng cường hoạt động Thông tin – thư viện

3.2 Cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập

3.3 Giáo dục ý thức đọc tài liệu cho sinh viên
3.4 Các giải pháp khác

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC 1. MẤU PHIẾU ĐIỀU TRA SINH VIÊN

PHỤ LỤC 2. KẾT QUẢ KHẢO SÁT PHIẾU ĐIỀU TRA SV


CÁC TỪ VIẾT TẮT

HVNH – Học viện Ngân hàng

SV – Sinh viên

TV – Thư viện

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Nội dung và mức độ sử dụng tài liệu của sinh viên
Biểu đồ 2 : Mục đích sử dụng thư viện của sinh viên
Biểu đồ 3: Thể hiện hoạt động của Sinh viên ngoài giờ lên lớp
Biểu đồ 4:Cách thức đọc của sinh viên
Biểu đồ 5: Thái độ ứng xử với sách báo của SV

DANH MỤC CÁC BẢNG

1. Bảng 1. loại tài liệu sinh viên thường đọc


2. Bảng 2. Thời gian sinh viên dành để đọc tài liệu mỗi ngày
3. Bảng 3. Yêu cầu đọc tài liệu chuyên ngành của thầy (cô) với sinh viên
4. Bảng 4. Loại tài liệu nào thầy (cô) đè nghị sinh viên đọc
5. Bảng 5. Mức độ đọc tài liệu thầy (cô) giao cho
6. Bảng 6: Loại hình tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên.
7. Bảng 7. Hoạt động của sinh viên ngoài thời gian học trên lớp

8. Bảng 8: Về thói quen đối xử với tài liệu của sinh viên
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Văn hóa đọc có vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Hiện
nay, các phương tiện nghe nhìn tỏ ra có nhiều ưu thế hơn, hấp dẫn hơn so
với sách, và thực tế chúng đang có xu hướng cạnh tranh lấn át văn hóa đọc.
Song văn hoá đọc bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá
và tiếp thu tri thức một cách hệ thống và sâu sắc mà văn hoá nghe, nhìn
(vốn có thế mạnh trong việc cung cấp thông tin và giải trí) không thể làm
được.
Đọc sách vẫn luôn được khẳng định là một nhu cầu thiết yếu với
những thế mạnh riêng của chính nó, một cách thưởng thức văn hóa sang
trọng và có chiều sâu; là phương cách tốt nhất để làm giàu có vốn liếng
ngôn từ của con người. Những thuộc tính đi liền với việc đọc là suy nghĩ,
suy ngẫm, tra cứu, tìm tòi, đòi hỏi sự kiên trì và say mê. Khi đọc sách, trực
quan sẽ cảm nhận sâu sắc hơn, kiến thức đọng lại sẽ lâu hơn, là cơ sở hữu
ích cho việc nâng cao tri thức, hiểu biết, tạo dựng những vỉa tầng sâu sắc
trong toàn bộ hệ thống kiến thức, nhận thức của mỗi con người.

Ngày nay, sự bùng nổ công nghệ thông tin đã tác động lớn đến giới
trẻ, sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của công nghệ thông tin và
truyền thông đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhân loại, dẫn đến
hình thành nền kinh tế tri thức. Tích cực có nhiều mặt, nhưng tiêu cực
cũng không ít. Một trong những vấn để đáng suy nghĩ là văn hóa đọc sách
của giới trẻ hiện nay.Thông tin chiếm một vị trí ngày càng quan trọng và
không thể thay thế trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Vì lẽ đó, việc tìm
kiếm, đọc hiểu thông tin để tích lũy kiến thức là rất cần thiết. Ngày nay,
con người đã và đang khai thác, sử dụng mạnh mẽ hơn nguồn tài nguyên
điện tử. Tuy nhiên vấn đề này lại dẫn đến một thực tế là tình trạng lười đọc
1
sách đang diễn ra ở mọi cấp độ, mọi lứa tuổi, văn hóa đọc ngày càng giảm
không chỉ với đọc sách, báo, tài liệu truyền thống mà còn trên các phương
tiện truyền thông hiện đại. Hiện nay, văn hóa đọc đang dần bị mai một
nhất là trong giới trẻ hay là các sinh viên trong các trường đại học, cụ thể
là sinh viên Học viện Ngân hàng. Dường như các bạn sinh viên đang bị
văn hóa nghe nhìn, các phương tiện truyền thông hiện đại chi phối và ảnh
hưởng rất nhiều đến văn hóa đọc.

Văn hóa đọc từ lâu đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong sự
phát triển vượt bậc của các nước phát triển. Nhà báo Hà Sơn Tùng cho
rằng “Đọc sách là biểu tượng của con người có văn hóa và văn minh. Một
xã hội chưa trọng thị sách là một xã hội chưa văn minh; một con người
chưa có thú đọc sách thì con người đó đã khiếm khuyết đi một mảng lớn
về văn hóa”. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của công
nghệ thông tin và truyền thông mà đặc biệt là sự lấn át của các phương tiện
nghe nhìn, văn hóa đọc đang đứng trước cả cơ hội và thách thức. Cơ hội
bởi mỗi người đều được tiếp cận với một khối lượng tri thức khổng lồ qua
các phương tiện truyền thông khác nhau nhưng nó lại tiềm ẩn một nguy cơ
làm mai một thói quen đọc.
Việc phát triển “Văn hóa đọc” đang là một hoạt động cần
thiết hiện nay mà hầu hết các thư viện đều hướng tới nhằm giúp bạn
đọc có thể tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả và nắm bắt tri thức
chính xác nhất. “Văn hóa đọc” đã trở thành một nét đẹp văn hóa tâm
hồn của toàn nhân loại, có thể nói đây là một vấn đề thu hút sự quan
tâm của đông đảo tầng lớp nhân dân cũng như những độc giả yêu
“Đọc”.

Chính vì lẽ đó, tác giả đã chọn đề tài “ Nghiên cứu văn


hóa đọc của sinh viên tại Trung tâm Thông tin – Thư viện Học viện
Ngân hàng.”. Qua đó, tác giả muốn mọi người thấy được thực trạng
văn hóa đọc trong mọi đối tượng bạn đọc nói chung và tầng lớp sinh

2
viên nói riêng. Đồng thời giúp nâng cao trình độ văn hóa của sinh viên
nhằm thúc đẩy quá trình tự đào tạo ngày càng trở nên có hiệu quả và có
thể đưa ra một vài giải pháp để cho những bạn sinh viên – những chủ
nhân tương lai của đất nước thấy được tầm quan trọng của văn hóa đọc
và có cái nhìn đúng đắn về văn hóa đọc.

2, Mục tiêu nghiên cứu

- Nghiên cứu tìm hiểu văn hóa đọc và vai trò của văn hóa đọc với
việc nâng cao chất lượng quá trình tự học, tự đọc của sinh viên.

- Nắm bắt thực trạng văn hóa đọc của sinh viên tại Trung tâm tt-
tv Trường học viện Ngân hàng.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao và thúc đẩy vai trò của
văn hóa đọc trong sinh viên.

3, Câu hỏi nghiên cứu

- Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên hiện nay trước sự phát
triển của văn hóa nghe nhìn?

- Làm thế nào để phát triển văn hóa đọc cho sinh viên?

4, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên là độc giả của Thư viện Học
viện Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong phạm vi nghiên cứu văn
hóa đọc của sinh viên, ngoài ra sử dụng các nguồn số liệu khác liên
quan về văn hóa đọc.

5, Phương pháp nghiên cứu

- Khảo sát thực tế.

- Phân tích và tổng hợp tài liệu.

- Phương pháp quan sát trực tiếp; phỏng vấn trực tiếp.

- Phương pháp điều tra và thống kê bằng bảng hỏi.

3
- Phương pháp thống kê số liệu.

6, Giả thuyết nghiên cứu khoa học

Ngày nay khi sách báo viết cho lứa tuổi sinh viên ngày càng phát
triển, bên cạnh những cuốn sách tốt vẫn còn nhiều cuốn kém chất lượng,
ảnh hưởng tiêu cực tới sự hình thành và phát triển văn hóa đọc cho sinh
viên HVNH. Nếu có sự phối hợp để định hướng, giáo dục của các thư viện,
nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội xã hội, văn hóa đọc của sinh
viên sẽ phát triển hài hòa và lành mạnh.

7, Bố cục Khóa luận

Chương 1: Thư viện Học viện Ngân hàng với phát triển văn hóa
đọc cho sinh viên

Chương 2: Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên tại Trung tâm
TT – TV Học viện Ngân hàng

Chương 3: Giải pháp cải thiện với mục đích nhằm phát triển
hiệu quả vấn đề văn hóa đọc tại TT TT – TV Học viện Ngân hàng

4
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

THƯ VIỆN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO SINH VIÊN

1.1. Khái quát về Thư viện Học viện Ngân hàng

1.1.1. Chức năng- Nhiệm vụ

Được thành lập ngay từ những ngày đầu thành lập Trường Cao cấp
Nghiệp vụ Ngân hàng với quy mô lúc ban đầu rất nhỏ bé. Ngoài việc phục
vụ báo và tài liệu tham khảo, thư viện còn kiêm cả việc quản lý kho giáo
trình, tổ chức cho mượn giáo trình đối với học viên các khoá đào tạo. Biên
chế chỉ có một người, sinh hoạt chung cùng Phòng Giáo vụ.

Trung tâm Thông tin - Thư viện là đơn vị quản lý hành chính cơ
sở của Học viện Ngân hàng có chức năng phục vụ hoạt động giảng dạy,
học tập, đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ và quản lý của Học viện thông qua việc sử dụng, khai thác
các loại hình tài liệu trong thư viện và các nguồn thông tin khác.

Với nhiệm vụ chính là: - Tham mưu giúp Giám đốc Học viện xây dựng
quy hoạch, kế hoạch hoạt động dài hạn và ngắn hạn của thư viện; tổ chức
điều phối toàn bộ hệ thống thông tin, thư viện trong Học viện.

- Bổ sung, phát triển nguồn thông tin trong nước và nước ngoài đáp ứng
nhu cầu giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ của Học viện; Thu nhận các tài liệu do Học viện xuất bản, các công
trình nghiên cứu khoa học đã được nghiệm thu, tài liệu hội thảo, khoá luận,
luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ của cán bộ, giảng viên, sinh viên, học
viên, chương trình đào tạo, giáo trình, các ấn phẩm tài trợ, biếu tặng, tài
liệu trao đổi giữa các thư viện.

5
- Tổ chức xử lý, sắp xếp, lưu trữ, bảo quản các loại tài liệu; Xây dựng hệ
thống tra cứu thích hợp, thiết lập mạng lưới truy cập và tìm kiếm thông tin
tự động hoá; Xây dựng các cơ sở dữ liệu.

- Tổ chức phục vụ, hướng dẫn người đọc khai thác, tìm kiếm, sử dụng
hiệu quả nguồn tài liệu và các sản phẩm dịch vụ thông tin – thư viện thông
qua các hình thức phục vụ của thư viện phù hợp với quy định chung.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ, ngoại ngữ, tin học cho cán bộ thư viện để phát triển nguồn nhân lực có
chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả công tác.

- Quản lý cán bộ, tài sản theo sự phân cấp của Giám đốc Học viện; bảo
quản, kiểm kê định kỳ vốn tài liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản khác
của Trung tâm Thông tin - Thư viện; tiến hành thanh lọc ra khỏi kho các
tài liệu lạc hậu, hư nát theo quy định của Học viện và của Nhà nước.

- Tham gia các hội nghề nghiệp, các hội nghị, hội thảo khoa học về thông
tin thư viện trong nước và quốc tế; Liên kết hợp tác với các thư viện, tổ
chức cá nhân trong nước và nước ngoài về tiếp nhận tài trợ, viện trợ, trao
đổi nguồn lực thông tin, kinh nghiệm chuyên môn, tham gia các mạng
thông tin phù hợp với quy định của Học viện và pháp luật.

- Tổ chức các hoạt động dịch vụ có thu phù hợp với quy định của pháp
luật và chức năng nhệim vụ được giao.

- Từ chối phục vụ tài liệu trái pháp luật và nội quy, quy chế của thư viện.

1.1.2.Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ

Trung tâm Thông tin - Thư viện bao gồm:

1. Tổ Bổ sung, biên mục và xử lý tài liệu.

2. Tổ Phục vụ bạn đọc và bảo quản tài liệu: Phòng đọc sách tham khảo;
phòng đọc giáo trình; phòng đọc ITP, Luận án, Luận văn, Khóa luận, sách
ngoại văn, báo – tạp chí...

3. Tổ Thông tin thư mục, dịch vụ.


6
Nhiệm vụ cụ thể của từng Tổ do Giám đốc Trung tâm quy định. Lãnh
đạo Trung tâm Thông tin - Thư viện là Giám đốc Trung tâm, giúp việc cho
Giám đốc Trung tâm có các Phó Giám đốc Trung tâm và Tổ trưởng các tổ
nghiệp vụ. Giám đốc Trung tâm, Phó Giám đốc Trung tâm, Tổ trưởng các
Tổ nghiệp vụ do Giám đốc Học viện Ngân hàng bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức.

Hiện nay, đội ngũ cán bộ của thư viện là 14 cán bộ, trong đó có 9 đồng
chí đảng viên. Cử nhân chuyên ngành Thông tin – thư viện: 12 cán bộ
(trong đó 3 cán bộ đang học tiếp Cao học). Thạc sĩ Thông tin – thư viện: 3
cán bộ; Bảo vệ Thư viện: 2 cán bộ.

1.1.3. Cơ sở vật chất

Mặt bằng làm việc của Trung tâm gồm 1 ngôi nhà 7 tầng, tổng diện
tích sử dụng khoảng 1600m2, được trang bị đồng bộ phục vụ người dùng
tin và các hoạt động nghiệp vụ.Tầng 1 được trang bị hệ thống bàn quầy
hiện đại phục vụ mô hình hoạt động một cửa: Mượn/trả/hỏi đáp/cung cấp
các sản phẩm và dịch vụ thông tin. Các phòng đọc đều được trang bị hệ
thống giá sách mới, hiện đại, bàn đọc ghế ngồi đều được trang bị phù hợp
với tiêu chuẩn của thư viện hiện đại. Hiện nay, các phòng đọc cùng một
lúc có thể đáp ứng đủ chỗ ngồi cho 400 độc giả, với đầy đủ ánh sáng, hệ
thống quạt mát,điều hòa, thông gió tự nhiên tốt.

* Phòng phục vụ bạn đọc:


Giám đốc Trung tâm làm việc tại tầng 3
+ Tầng 1, phòng nghiệp vụ gồm: 8 cán bộ, làm việc theo ca.
+ Tầng 2, phòng đọc tài liệu tham khảo, có 80 chỗ ngồi.

+ Tầng 3, phòng đọc giáo trình, có 50 chỗ ngồi.

+ Tầng 4, phòng đọc tài liệu tham khảo, có 80 chỗ ngồi.

+ Tâng 5, phòng đọc báo, tạp chí; có 80 chỗ ngồi

7
+ Tầng 6, phòng máy tính dành cho giáo viên (12 chỗ ngồi) và phòng đọc
tài liệu ngoại văn (50 chỗ)

+ Tầng 7, truy cập thư mục trực tuyến, Internet và tài nguyên điện tử với
36 chỗ ngồi.

* Các thiết bị tin học :


- Hệ thống máy tính cho sinh viên: 36 máy và 1 máy quản lý.

- Phòng máy tính cho giáo viên: 12 máy

- Hệ thống máy tính tra cứu : 3 máy tại Tầng 6

- Máy tính dùng cho nghiệp vụ : 14 máy

Tất cả số máy tính trên đều được nối mạng với máy chủ của Học viện
thông qua 3 bộ HUB.

Các phòng làm việc, phòng đọc, phòng máy tính đều được trang bị đầu
phát tín hiệu Wirless phục vụ truy cập Internet không dây cho phép sinh
viên sử dụng laptop và các thiết bị điện tử truy cập và tìm kiếm CSDL trực
tuyến của Học viện Ngân hàng

Thư viện được trang bị riêng 1 đường ADSL để kết nối hệ thống máy
tính của Trung tâm với mạng Internet.

* Các thiết bị giám sát an ninh:


- Hệ thống Camera giám sát an ninh toàn bộ tòa nhà và các phòng đọc, kho
sách.

- Hệ thống Cổng từ và các thiết bị nạp từ, khử từ đảm bảo an ninh tài liệu.

1.1.4.Đặc điểm nguồn lực thông tin và người dùng


tin

* Đặc điểm nguồn lực thông tin:

* Nguồn lực thông tin truyền thống :

8
Hiện nay, nguồn tài liệu của Trung tâm bao gồm sách báo, sách
tham khảo, tài liệu tra cứu, giáo khoa, giáo trình, các loại báo tạp chí trong
và ngoài nước.v.v.

Hiện nay, tổng số vốn tài liệu của Trung tâm có trên16.000 tên
tài liệu được lưu trữ dướicác dạng thức khác nhau với hơn 9.059 tên sách,
51.848 bản; trên 114 tên báo, tạp chí với hơn 10.000 bản, tài liệu điện tử có
khoảng 3.000 file và CD-ROM…

- Sách:

+ Giáo trình: Trung tâm có 694 đầu và 6.973 bản giáo. Loại tài
liệu này do các cán bộ giảng dạy của Học viện biên soạn. Đó là các tài liệu
chuyên ngành được đào tạo của Học viện: ngân hàng, tài chính, quản trị,
kế toán, kiểm toán

+ Tài liệu tham khảo: Hiện nay, tổng số vốn tài liệu tham khảo
của Trung tâm là 6.996 tên tài liệu và 43.565 bản sách (chiếm 62.9 % tổng
số bản tài liệu trong kho.

+ Tài liệu tra cứu: Số tài liệu này hiện nay có 155 đầu bản (chiếm
0.9% tên tài liệu, với hơn 200 bản, chiếm 0,3% tổng số bản tài liệu.

- Báo, Tạp chí: gồm 114 loại báo tạp chí, với 10.000 bản, chiếm
14.8% tổng số bản tài liệu. Trong đó, 112 loại báo, tạp chí tếng việt, 02
loại tạp chi tiếng Anh.Các loại báo, tạp chí được lưu gữ đầy đủ, có nhiều
loại được lưu giữ từ rất lâu và đóng bìa cứng.

* Nguồn lực thông tin điện tử:

- Tài liệu điện tử:

- Cơ sở dữ liệu (Database)

+ Cơ sở dữ liệu thư mục: Hiện nay, Trung tâm đã tạo lập được 03
CSDL thư mục với trên 13.000 biểu ghi, cụ thể: CSDL sách tiếng việt

9
khoảng 7.000 biểu ghi, CSDL sách tiếng Anh có khoảng gần 1.000 biểu
ghi, CSDL tài liệu nội sinh với hơn 5.000 biểu ghi.

+ Cơ sở dữ liệu toàn văn :

Hiện Trung tâm TTTV có 3.020 (chiếm 18.3 tổng số tài liệu) tài liệu
điện tử được lưu dưới dạng file hoặc ghi trên đĩa CD-ROM.

- CSDL toàn văn đề tài nghiên cứu khoa học, kỷ yếu hội
thảo

Hiện CSDL này có 258 tài liệu với 02 đề tài NCKH cấp Nhà nước,
36 đề tài NCKH cấp Ngân hàng nhà nước, 70 đề tài NCKH cấp cơ sở… và
150 đề tài nghiên cứu của sinh viên.
* Đặc điểm người dùng tin:

Căn cứ vào nghề nghiệp và vị trí công tác người dùng tin ở Trung tâm TT
– TV học viện Ngân hàng, hiện nay có thể chia làm 4 nhóm chính như
sau:

Nhóm 1: Cán bộ và quản lý

Nhóm 2: Giảng viên, cán bộ nghiên cứu

Nhóm 3: Học viên cao học và nghiên cứu sinh

Nhóm 4: Sinh viên

- Đặc điểm bạn đọc là cán bộ lãnh đạo:

Nhóm này bao gồm ban giám hiệu, trưởng khoa, phó khoa, phòng
ban, tổ bộ môn, các cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền đoàn thể. Nhóm
này tuy chiếm tỉ lệ không cao (1%) trong số NDT tại trường HVNH nhưng
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Trường. Họ vừa tham gia
giảng dạy vừa làm công tác quản lý. Đặc thù của cán bộ quản lý là đưa ra
các quyết định, đặt ra mục tiêu, phương hướng, đường lối phát triển của
nhà trường, của khoa, của bộ môn,...lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các
mục tiêu đã đề ra. Cường độ lao động của nhóm này rất cao. Do vậy, họ có
10
rất ít thời gian khai thác tại Thư viện mà chủ yếu là sử dụng các dịch vụ
mượn tài liệu về nhà, đa phương tiện hoặc sao in tài liệu gốc.

- Đặc điểm bạn đọc là giảng viên, cán bộ nghiên cứu:

Nhóm này chiếm tỷ lệ không nhiều (5%). Tuy nhiên, đây là nhóm
người có trình độ trên đại học và có khả năng sử dụng ngoại ngữ cao. Họ
vừa là chủ thể sáng tạo ra thông tin thông qua các bài giảng, giáo trình,
công trình nghiên cứu và các dự án...Đồng thời, vừa là NDT thường xuyên
của Thư viện. Vì tham gia giảng dạy nên họ phải thường xuyên cập nhật
những kiến thức mới, công nghệ mới và chuyên sâu liên quan trực tiếp tới
lĩnh vực mà họ giảng dạy, nghiên cứu. Do vậy, nhóm NDT này luôn dành
một khoảng thời gian nhất định cho việc tìm tài liệu tham khảo tại thư
viện.

- Đặc điểm bạn đọc là học viên cao học và nghiên cứu
sinh:

Đây là những người đã tốt nghiệp đại học. Họ có kỹ năng sử dụng


thư viện, biết cách khai thác hiệu quả các sản phẩm và dịch vụ thông tin
phục vụ cho công việc nghiên cứu, học tập của mình. Do hầu hết trong số
họ là cán bộ vừa đi học vừa đi làm nên thời gian dành cho thư viện còn hạn
chế.

- Đặc điểm bạn đọc là sinh viên:

Trong tất cả các nhóm NDT thì nhóm NDT là sinh viên chiếm tỷ lệ cao
nhất (83%). Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy và học, sinh viên
không còn học một cách thụ động như trước mà đã có sự tìm tòi, học hỏi,
bổ sung thêm kiến thức ở bên ngoài. Lúc này, thư viện được xem như
“giảng đường thứ 2”, nơi cung cấp tri thức của nhân loại thông qua hệ
thống các sản phẩm và dịch vụ thông tin của mình. Chính vì vậy, sau giờ
học, thư viện và phòng thí nghiệm là nơi sinh viên dành nhiều thời gian
cho nghiên cứu và sử dụng.

11
1.2. Những vấn đề chung về văn hóa đọc

1.2.1. Khái niệm văn hóa đọc

Bạn hiểu gì về văn hóa đọc? Văn hóa đọc ở đây chính là thái độ, là
cách ứng xử của chúng ta với tri thức sách vở. Phải biết đọc sách sao cho
hợp lý và bổ ích. Đọc sao cho hợp với quy luật tiếp cận tri thức

“Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” (Federico. Mayor
-Nguyên Tổng giám đốc UNESCO)

Văn hóa đọc – một bộ phận cấu thành văn hóa – là một trong những
động lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới, những công dân có
hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại
– xã hội dựa trên nền tảng của nền kinh tế tri thức. Văn hóa đọc là phương
tiện quan trọng giúp cho người dân tiếp cận được với thông tin, tri thức
phù hợp, hữu ích nhất cho cuộc sống của mình.

Thuật ngữ văn hóa đọc được sử dụng rộng rãi, nhưng cách hiểu về
văn hóa đọc lại rất khác nhau, dẫn tới những định nghĩa chưa thống nhất.
Nhưng nhìn chung, văn hóa đọc được xem xét trên hai bình diện: văn hóa
đọc cộng đồng và văn hóa đọc cá nhân (văn hóa hành vi). Đề cập một cách
khái quát tới hai cách tiếp cận này có một số công trình nghiên cứu.
Theo GS TS Hoàng Nam: “Văn hóa đọc được hình thành từ lâu đời
trong lịch sử, là một bước tiến quan trọng lịch sử văn minh nhân loại. Điều
kiện tiên quyết cho văn hóa đọc phải biết chữ và biết tiếng mà chữ đó thể
hiện”. Theo ông, văn hóa đọc gắn liền với chữ viết và nghề in.[7, tr. 91]

Theo tác giả Trần Thị Minh Nguyệt, xét trên bình diện phát triển văn
minh nhân loại văn hóa đọc gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của chữ
viết; xét trên bình diện cá nhân văn hóa đọc biểu hiện trình độ phát triển
tinh thần của con người (văn hóa). Tác giả cho rằng “văn hóa đọc xem xét
ở góc độ cá nhân bao hàm khía cạnh định hướng của chủ thể tới đối tượng
12
đọc (nhu cầu đọc), khả năng, trình độ lĩnh hội thông tin (kỹ năng đọc), cả ở
phản ứng với đối tượng đọc (ứng xử văn hóa)”.[12;tr. 30]

Trong bài “Văn hóa đọc và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam”,
Nguyễn Hữu Viêm cho rằng “Văn hóa đọc là một khái niệm có hai nghĩa,
một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị
đọc và chuẩn mực của cộng đồng và của các nhà quản lí và cơ quan quản lí
nhà nước… còn ở nghĩa hẹp, đó là cách ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc
của mỗi cá nhân.. Nghĩa là văn hóa đọc gắn liền với ứng xử đọc, giá trị và
chuẩn mực đọc của cá nhân và xã hội” [20].
Xem xét văn hóa đọc theo nghĩa hẹp, tức là xét dưới góc độ văn hóa
hành vi của con người, cũng có khá nhiều quan điểm khác nhau.
Thủy Linh trong bài “ Văn hóa đọc, sức sống có bền lâu” lại cho
rằng: “ văn hóa đọc, nôm na hiểu rằng, biết cách đọc, biết cách cảm thụ,
biết thu lượm những tri thức, lối sống từ những con chữ, từ những điều
chuyển tải sau con chữ, để biết sống tốt đẹp hơn, xây dựng một xã hội văn
hóa và những con người văn hóa”[15] và rằng văn hóa đọc là một giao tiếp
quan trọng đời sống con người thông qua con đường tiếp nhận là đọc, con
người có thể trao đổi và thu nhận thông tin.
Nguyễn Quang A trong bài tham luận “Cảm nhận về văn hóa đọc”
cho rằng “ tập quán thói quen về đọc sách, cách đọc, cách ứng xử với sách,
báo…vv tạo thành văn hóa đọc”.[22]

Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm TGĐ Cty Cổ phần sách Thái Hà
(Thái Hà Books) Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng văn hóa đọc giống như
một tam giác gồm ba đỉnh: thái độ, cách nhìn của bạn về sách; thói quen
đọc sách; cách lựa chọn sách và phương pháp cũng như khả năng đọc sách.

Theo Bùi Văn Nam Sơn trong bài phát biểu tại Hội thảo về “Thực
trạng và giải pháp cho văn hóa đọc” thì văn hóa đọc thể hiện chủ yếu ở
năng lực đọc văn bản. Văn hóa đọc chủ yếu là thích đọc và biết đọc, biến
việc đọc thành bộ phận của niềm vui sống hàng ngày. Đọc sách là để biết
13
rằng cuộc đời, thế giới là vô cùng phức tạp và phong phú, hết sức đa nghĩa,
để đừng sống một cách giáo điều, để dám và biết sáng tạo.

Tác giả tiếp cận văn hóa đọc dưới góc độ văn hóa cá nhân, văn hóa
hành vi của con người. Văn hóa đọc theo quan niệm của tác giả là khả
năng định hướng tới đối tượng đọc, khả năng lĩnh hội giá trị của đối
tượng đọc và thái độ của chủ thể với đối tượng đó. Theo quan điểm này,
văn hóa đọc được biểu thị ở ba khía cạnh chủ yêu: nhu cầu, hứng thú đọc;
kỹ năng đọc; ứng xử với tài liệu.

1.2.2 Các yếu tố cấu thành văn hóa đọc

* Nhu cầu và hứng thú đọc

Nhu cầu đọc là đòi hỏi khách quan của con người đối với việc tiếp
nhận và sử dụng tài liệu trong điều kiện thời gian nhất định nhằm duy trì
hoạt động sống của con người. Nhu cầu đọc là dạng đặc biệt của nhu cầu
tin và cao hơn nhu cầu tin. Nhu cầu đọc xuất hiện ở những người có trình
độ cao. Theo PGS. TS Trần Thị Minh Nguyệt, cùng với nhu cầu đọc, yếu
tố quan trọng có ảnh hưởng tới quá trình đọc sách là hứng thú đọc- thái độ
lựa chọn tích cực của chủ thể đối với việc đọc những ấn phẩm có ý nghĩa
và có sức hấp dẫn về mặt tình cảm đối với chủ thể, đáp ứng được những
nhu cầu tinh thần của họ. Khi hứng thú đọc xuất hiện, hoạt động đọc có sự
tham gia tới mức tối đa của các quá trình tâm lý: chú ý, tưởng tượng, trí
nhớ, tư duy v.v... giúp cho người đọc có thể cảm thụ tài liệu ở mức độ cao
nhất. Trong trạng thái hứng thú, con người có thể dành toàn tâm, toàn ý
cho hoạt động đọc [10]. Nhu cầu và hứng thú đọc là yếu tố định hướng cho
hoạt động đọc là biểu hiện của trình độ văn hóa con người ở mức độ nhất
định.

* Kỹ năng hiểu và lĩnh hội các giá trị trong tài liệu

14
Theo PGS.TS Trần Thị Minh Nguyệt, kĩ năng đọc là khả năng hiểu,
cảm thụ và lĩnh hội tác phẩm, biến tri thức, kinh nghiệm trong sách thành
tri thức, kinh nghiệm của chính mình để có thể vận dụng một cách nhuần
nhuyễn trong khi tiến hành các hoạt động sống khác nhau. Kĩ năng đọc
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tri thức, kinh nghiệm, năng lực và tính chất
các quá trình tâm lý trong mỗi cá nhân- chủ thể của hoạt động đọc, đồng
thời cũng là kết quả của quá trình rèn luyện lâu dài của chính họ[27].

Kỹ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập
thành thói quen ứng xử đọc. Các thao tác tư duy đó là:

- Lựa chọn có ý thức đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bản thân,
biết vận dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu
đọc (tài liệu nghiên cứu, tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí...).

- Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, trước hết trong
các thư mục và mục lục thư viện, các nguồn tra cứu như: bách khoa thư, từ
điển giải nghĩa, các loại sổ tay, cẩm nang... và biết định hướng nguồn tài
liệu cần thiết cho bản thân trong môi trường số (trong các cơ sở dữ liệu,
trên Internet). Thể hiện được tính hệ thống, tính liên tục trong quá trình lựa
chọn tài liệu đọc (đọc từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ các vấn đề đơn
giản tới phức tạp).

- Biết cách tiếp nhận tối đa và sâu sắc nội dung tài liệu đọc, kể cả vệ
sinh khi đọc tài liệu như cách ngồi, khoảng cách giữa mắt và tài liệu đọc…
Biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật để củng cố và đào sâu những nội
dung đã đọc như ghi chép, lập hộp phiếu thư mục, soạn tóm tắt, viết chú
giải, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp...

- Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đã đọc. Biểu hiện cao
nhất của kỹ năng đọc là đọc có hiệu quả, nắm nội dung cốt lõi và biết vận
dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc.

* Thái độ ứng xử với tài liệu

15
Văn hóa đọc còn biểu thị ở sự tôn trọng sách của người đọc. Sách
báo là sản phẩm kết tinh các giá trị văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh
thần của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Người có văn hóa đọc cũng
là những người biết ứng xử văn hóa với sách báo, trân trọng và yêu mến
sách báo. Mỗi người đọc sách cần rèn luyện cho mình thói quen giữ gìn
cẩn thận sách báo: không gập gáy sách, bôi bẩn ra sách hay xé rách sách.
Ngồi đọc đúng tư thế, khoảng cách giữa mắt với sách, chiều cao của bàn
phù hợp với cơ thể. Giữ gìn sách bền lâu cũng có nghĩa là ta đang cùng thế
hệ đi trước lưu truyền tri thức trong sách tới thế hệ sau này.

1. 2.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới văn hóa đọc

Văn hóa đọc chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: Môi
trường xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nghề nghiệp, lứa
tuổi, trình độ văn hóa....

* Môi trường xã hội: có ảnh hưởng lớn tới văn hóa đọc. Văn
hóa đọc ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử lại có những biểu hiện
khác nhau. Cùng với sự phát triển của xã hội và những thành tựu của
công nghệ thông tin và truyền thông, nhiều phương tiện nghe nhìn xuất
hiện đã phần nào làm giảm bớt vai trò của văn hóa đọc. Có những giai
đoạn văn hóa đọc bị văn hóa nghe nhìn lấn át, đặc biệt đối với lớp trẻ.
Bị lôi cuốn bởi những văn hóa nghe nhìn hiện đại, một bộ phận thanh
niên trở nên thờ ơ với sách, lười đọc sách. Hậu quả của nó dẫn đến tình
trạng không có chiều sâu tri thức, lười vận động, thiếu tính sáng tạo tìm
tòi đối với mỗi sinh viên trong mọi lĩnh vực học tập và xã hội. Song
cũng không thể phủ nhận được vai trò của văn hóa nghe nhìn trong việc
hỗ trợ cho quá trình tự học của sinh viên.

* Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Hiện nay, trước những
thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với sự bùng
nổ thông tin, các nguồn thông tin được truyền đi nhanh chóng và đáp
ứng mọi nhu cầu của bạn đọc.

16
Trước kia, phương tiện thông tin của văn hóa là sách, đồng
thời đó cũng là phương tiện truyền tải nền văn minh của nhân loại qua
mọi thời đại.

Ngày nay, xuất hiện một phương tiện thông tin khác đó
chính là “mạng thông tin”. Con người không thể phủ nhận được sự tiện
ích do công nghệ hiện đại mang lại, tuy nhiên, sự tiến bộ của khoa học
công nghệ ấy lại đặt văn hóa đọc đứng trước một nguy cơ với sự phát
triển của hàng loạt các nguồn thông tin phong phú và đa dạng. Và cũng
từ đó, nhu cầu đọc của con người ngày càng được đáp ứng hơn, văn hóa
đọc cũng từ đó mà phát triển mạnh mẽ hơn.

Chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho sự phát triển thông tin hiện đại
đã lấn át văn hóa đọc của sinh viên. Trên thực tế, chúng ta phải khẳng định
văn hóa nghe, nhìn, internet có rất nhiều lợi ích. Vấn đề đặt ra là sinh viên
nên đọc gì, xem gì và phương pháp đọc như thế nào. Với công nghệ hiện
đại, thông tin khoa học, những tài liệu đã được số hóa hay những công
trình nghiên cứu khoa học lại rất ít nhận nhận được sự quan tâm của sinh
viên. Trong khi đó, có một số kênh thông tin giải trí – những thông tin hời
hợt, thoáng qua lại là đối tượng đọc của không ít sinh viên. Điều này đã
ảnh hưởng đến sinh viên, làm cho họ ngày càng mất dần thói quen đọc
sách.
* Phương pháp dạy và học trong trường đại học hiên nay
Phương pháp dạy và học trong trường đại học hiên nay có ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ, văn hóa đọc của sinh viên. Nhiều chuyên gia về
văn hóa và giáo dục trăn trở về vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy và
học tập trong trường đại học. “Một trong những điểm yếu hiện nay là
phương pháp dạy học vẫn còn lạc hậu, nặng về truyền thụ một chiều, thầy
đọc, trò ghi, ít phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh – sinh viên.
Phương pháp dạy và học theo lối truyền thống đó đã làm sinh viên ngày
nay thiếu sự tìm tòi sáng tạo” – đó là nhận định của Thứ trưởng Bộ Giáo
dục – Đào tạo tại hội thảo: “Đổi mới phương pháp dạy học đại học”.
Một trong những biểu hiện của sự hạn chế về văn hóa đọc của sinh
viên là tình trạng sinh viên chỉ học khi các kỳ thi đã tới gần, học đối phó –
17
học để thi. Chính vì vậy, sinh viên trở nên thụ động trong việc đọc và
nghiên cứu tài liệu, sách, báo. Nguyên nhân của sự thụ động nữa là sinh
viên chỉ đọc khi giảng viên yêu cầu làm tiểu luận, bài tập lớn, hay thuyết
trình về một đề tài hoặc chỉ phục vụ cho kỳ thi, tức là chỉ khi bị áp chế, bắt
buộc, sinh viên mới có ý thức đọc mang tính tức thời. Chính cách học đó
khiến họ không tạo được thói quen đọc sách – học chủ động mà đọc theo
nhu cầu hoặc sở thích. Việc đọc đối với sinh viên hiện nay mới chỉ dừng
lại ở chổ đáp ứng yêu cầu bắt buộc của việc học để thi.
* Chất lượng hoạt động của thư viên
Công văn 560/ KTKĐCLGD ngày 06/6/2008 của Cục khảo thí và
kiểm định chất lượng giáo dục, Tiêu chuẩn thứ 9 ghi rõ: Thư viện, trang
thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác – một trong 10 tiêu chí để đánh giá
chất lượng giáo dục đại học. Điều đó đã khẳng định vai trò của thư viện
trong giáo dục đại học hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đại học đang hướng đến quá
trình tự đào tạo là chính. Cũng theo quy định của Bộ Giáo dục- Đào tạo, từ
năm 2010, các trường ĐH – CĐ sẽ chuyển qua đào tạo theo học chế tín
chỉ. Theo đó, thời gian dành cho việc lên lớp của sinh viên được rút ngắn
lại, thời gian danh cho việc tự học nhiều hơn. Do đó, khối lương tài liệu để
đáp ứng nhu cầu đọc của sinh viên ngày càng cần thiết và nhiều hơn. Tất
cả các nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình tự học của sinh viên phần lớn
là ở hệ thống thư viện của nhà trường. Chính vì vậy, hoạt động của thư
viện có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tự đào tạo.
* Nghề nghiệp: là một yếu tô ảnh hưởng đến mọi mặt của đời
sống tinh thần của con người. Đó cũng là một trong những hoạt động
lao động ảnh hưởng lớn đến nhu cầu đọc. Những nghề nghiệp khác
nhau chắc chắn sẽ có những nhu cầu và kỹ năng đọc khác nhau.

Mỗi nghề nghiệp nảy sinh một nhu cầu đọc khác nhau như: với
những cán bộ và giảng viên, đối tượng có nhu cầu về chát xám lớn
thường có nhu cầu đọc phức tạp hơn, với mỗi sinh viên thì nhu cầu về
thông tin lại có những riêng biệt khác nhau.

18
* Lứa tuổi: Ở mỗi độ tuổi khác nhau, văn hóa đọc lại có những
cấp độ khác nhau do ảnh hưởng của tâm sinh lý lứa tuổi. Với sinh viên,
vì đây là giai đoạn nhận thức thế giới, do đó, việc đọc tập trung chủ yếu
phục vụ cho việc học tập và giải trí.

* Trình độ văn hóa: Trình độ văn hóa là yếu tố tác động nhiều
nhất tới văn hóa đọc. Tri thức càng cao thì nhu cầu đọc càng sâu, đòi
hỏi nhiều phương thức thỏa mãn khác nhau, kỹ năng đọc càng hoàn
thiện.

1.3. Vai trò của văn hóa đọc đối với sinh viên Học viện Ngân
hàng

Trước khi có phương tiện nghe, nhìn hiện đại như: TV, di động,
Iphone,...sách là con đường tốt nhất để con người tiếp cận thông tin, văn
hóa, tri thức. Sách là một sản phẩm xã hội, là công cụ để tích lũy, truyền bá
tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sách là một khái niệm mở; hình
thức sách được thay đổi và cấu thành các dạng khác nhau tùy vào sự phát
triển khoa học, công nghệ ở mỗi thời đại. Đọc sách sẽ giúp ta tích lũy
nhiều kinh nghiệm, mở mang kiến thức trong mọi lĩnh vực: khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, tăng cường khả năng tư duy. Sách làm ta thấy thoải
mái và yêu đời hơn; đưa ta vượt thời gian, không gian để tìm hiểu lịch sử
hay khám phá những ý tưởng, phát minh mới trong tương lai. Đọc sách
còn cho ta biết thêm về tinh hình trong và ngoài nước, giúp ta tìm ra giá trị
bản thân và chấp cánh cho những ước mơ, sáng tạo.

Thế nhưng, đa số bạn trẻ ngày nay thờ ơ với văn hóa đọc sách. Văn
hóa đọc là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân,
cộng đồng xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước. Ứng xử, giá trị và chuẩn
mực này gồm 3 phần: thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc.

Song, không thể không nói tới tác dụng của Internet đã tạo ra một
phương thức đọc hiện đại, một mạng lưới thông tin, tri thức khổng lồ. Hệ
thống thư viện công cộng ở các tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc thi kể
chuyện, sách thiếu nhi, các sự kiện như ngày hội đọc sách trong mỗi dịp hè
19
để tạo dựng, phát triển và giáo dục thói quen đọc sách cho thiếu nhi. Bên
cạnh những mặt tích cực trên, văn hóa đọc ở nước ta vẫn còn nhiều hạn
chế nhất định.Chúng ta chưa hình thành được một chiến lược phát triển
văn hóa đọc và cách phát triển nó trên bình diện quốc gia. Nói thế có nghĩa
là nói rằng, những sự kiện về sách chưa đủ để thu hút người đọc đến với
sách. Người dân vẫn chưa có thói quen và kỹ năng đọc sách phù hợp mà
chủ tếu đọc theo ngẫu hứng, chỉ có một bộ phận nhỏ học sinh, sinh viên và
những người làm công tác nghiên cứu khoa học… mới có thói quyen và
cách đọc đúng. Ngày nay giới trẻ bị những hình thức nghe nhìn lôi cuốn
nhiều hơn là hình thức đọc. Tuy những hình thức giải trí đó cũng rất cần
thiết những chúng chỉ đạt kết quả cao hơn khi kết hợp với các phương
pháp đọc hợp lý bởi vì không chỉ có hình ảnh và âm thanh gây đựợc cảm
xúc mạnh mà kiến thức đọc cũng gây ấn tượng mạnh và lâu bền. Một
nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là giới trẻ lười đọc. Xã hội ngày càng
bận rộn, nhịp sống căng thẳng đòi hỏi con người phải cập nhật thông tin
nhanh hơn mà đọc sách thì cần có thời gian để hiểu và tập trung cao
độ,Chính điều này đã trở thành một vấn đề lớn : mọi người chỉ đọc lướt
qua với tốc độ cao nên tuy kiến thức được tăng lên về lượng những lại
thiếu chiều sâu. Nói một cách khác chúng ta tưởng rằng chúng ta đã hiểu
biết nhưng thực chất chúng ta mới chỉ chạm đến bề nổi của kiến thức chứ
chưa hiểu đựợc bản chất của vấn đề. Hiện tượng đáng buồn này ngày càng
lan rộng trong xã hội và kéo dài khiến cho nhiêu học sinh , sinh viên khó
tiếp thu kiến thức trên trang sách. ảnh hưởng không nhỏ đến các kỹ năng
khác là kỹ năng viết và diễn đạt ý.

Học tập là một quá trình lâu dài. Đọc sách cũng vậy. Nếu chúng ta nhận
thức đựoc đầy đủ vai trò của sách cũng như biết cách tự tạo cho mình một
kỹ năng, sở thích đọc hiệu quả thì chắc chắn rằng văn hóa đọc của nước ta
sẽ ngày càng phát triển bền vững.
Qua đó cũng thấy được Sách giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống
mỗi con người, và thư viện trong việc giữ gìn và phát huy văn hoá đọc.

20
Trong xu thế hiện nay, vai trò của thư viện rất quan trọng trong việc
giữ gìn vị trí độc tôn của văn hoá đọc. Văn hoá nghe nhìn ngày càng chiếm
ưu thế là một thách thức mới đối với những người làm công tác thông tin -
thư viện.

Trước hết, chúng ta cần phải cố gắng hình thành thói quen đọc. Lấy
phương tiện nghe nhìn làm phương tiện tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu
sách đến với đông đảo bạn đọc, và khơi dậy niềm say mê đọc sách giúp
cho họ hiểu được lợi ích của việc đọc sách. Đặt biệt là đối với thế hệ trẻ
hiện nay, cần phải giáo dục cho họ lòng đam mê đọc sách, rèn luyện kỹ
năng đọc sách và đọc sách một cách có chọn lọc. Một cuốn sách hay tràn
đầy nhiệt tình sẽ nhen nhóm và đốt nóng lòng nhiệt tình cho lớp trẻ, giúp
họ trưởng thành và tự hoàn thiện mình một cách tự nhiên.

Cán bộ thư viện (CBTV) chúng ta xưa nay luôn có tầm nhìn hướng
nội, chỉ biết sắp xếp ngăn nắp kho tài liệu của mình để chờ bạn đọc đến
đọc. Ngày nay, CBTV cần phải năng động hơn, cần phải có tầm nhìn
hướng ngoại, hướng về bạn đọc, hướng đến những nhu cầu của xã hội,
thậm chí cần phải đưa các chiến lược marketing vào trong hoạt động thông
tin - thư viện để thu hút nhiều người đến với thư viện. Cần phải xây dựng
một môi trường đọc sách lý tưởng, rộng rãi thoáng mát. Phải làm thế nào
để bạn đọc luôn cảm thấy thư viện là nơi mà mình luôn được chào đón, là
địa chỉ mà mọi người luôn muốn tìm đến.

Với tinh thần đề cao tầm quan trọng của sách báo và tri thức trong
đời sống, sự kiện ngày đọc sách thế giới ở Việt Nam đang trở thành một
nét sinh hoạt văn hoá, văn minh của những người yêu mến sách báo cần
được duy trì và quảng bá rộng hơn trong xã hội và rất cần sự hỗ trợ, quan
tâm hơn nữa của các cơ quan chức năng để Văn hóa đọc luôn là nhu cầu
không thể thiếu của những công dân văn minh trong thời đại ngày nay.

21
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH VIÊN

TẠI HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

2.1. Nhu cầu đọc của sinh viên


2.1.1. Nhu cầu về nội dung tài liệu
Học tập là hoạt động chủ yếu của sinh viên, học tập trong môi
trường Đại học khác với các bậc khác. Đối với các cấp học như Tiểu học,
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, học sinh tiếp xúc với phần lớn tài
liệu mọi kiến thức đều được trình bày đầy đủ trong sách giáo khoa của
môn học đó, học sinh chỉ tiếp thu kiến thức trong sách vở mà giáo viên
hướng dẫn. Ngược lại, môi trường học tập ở Đại học đòi hỏi sinh viên phải
mở rộng vốn tri thức, tích cực tìm kiếm các thông tin không chỉ về các vấn
đề đang học tập, nghiên cứu mà còn là các nguồn tin khác liên quan. Khảo
sát cho thấy sinh viên có nhu cầu nội dung tài liệu liên quan đến tất cả mọi
lĩnh vực trong cuộc sống.
Trong môi trường đại học, Thư viện là nơi lưu trữ vốn tài liệu
và đáp ứng nhu cầu đọc của sinh viên. Với lý do đọc tài liệu trên thì
khoảng 51% sinh viên sử dụng thư viện phục vụ nhu cầu học tập. Bạn đọc
đòi hỏi thư viện đáp ứng đầy đủ nhu cầu về số lượng và chất lượng của tài
liệu theo nhu cầu.

22
Biểu đồ 1: Nội dung và mức độ sử dụng tài liệu của sinh viên

Trong môi trường Đại học, Thư viện là nơi lưu trữ vốn tài liệu và
đáp ứng nhu cầu đọc của sinh viên. Với lý do đọc tài liệu trên thì khoảng
51% sinh viên sử dụng thư viện phục vụ nhu cầu học tập. Bạn đọc đòi hỏi
thư viện đáp ứng đầy đủ nhu cầu về số lượng và chất lượng của tài liệu
theo nhu cầu.
Theo số liệu thống kê cho thấy sinh viên thường xuyên đọc các tài
liệu liên quan đến nội dung học tập và tỉ lệ chiếm 95%, cao nhất so với các
tài liệu khác. Loại tài liệu thứ hai được sinh viên quan tâm đó là tài liệu có
nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học, mức độ sinh viên
thường xuyên đọc lên đến 83,7%. Các tài liệu liên quan đến tin tức thời sự,
chính trị, kinh tế, báo tạp chí cũng được sinh viên quan tâm nhưng chỉ ở
mức độ thi thoảng đọc, đa phần các loại tài liệu này được sinh viên đọc
vào thời gian rãnh rỗi.Lý do mà sinh viên thường xuyên đọc tài liệu liên
quan đến môn học chiếm tỷ lệ cao nhất là do phương pháp đào tạo mới
sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu là chính, nên sinh viên phải đọc tài
liệu trước khi lên lớp học nếu không đọc thì không nắm bắt được nội dung
của bài học. Từ đó ảnh hưởng đến kết qảu học tập của sinh viên.
Bảng 1. loại tài liệu sinh viên thường đọc

23
STT Loại tài liệu ưu tiên đọc
Tỷ lệ phần trăm
(%)

1 Sách kinh điển 6,99

2 Sách, báo, tạp chí giải trí 31,91

3 Sách chuyên ngành, tài liệu học 80,85


tập
4 Các loại tài liệu khác * 14,17

Bảng 1 cho thấy: Tài liệu mà sinh viên chọn đọc nhiều nhất là sách
chuyên ngành, tài liệu học tập 80,85%, Sách, báo, tạp chí giải trí cũng
chiếm tỷ lệ khá cao, tuy nhiên, đối tượng này thích đọc sách chuyên ngành
nhiều hơn.Như vậy, chúng ta thấy sinh viên HVNH chủ yếu đọc những tài
liệu giải trí và tài liệu liên quan đến chuyên ngành học của mình, còn họ
rất ít quan tâm dến các kiến thức về lịch sử, kinh tế, khoa học kỹ thuật…

Bảng 2. Thời gian sinh viên dành để đọc tài liệu mỗi ngày

STT Thời gian đọc Tỷ lệ (%)


1 Từ 30 phút trở lên 86,32
2 Từ 1- 2 giờ 71,42
3 Từ 3 – 4 giờ 12,15

Mỗi ngày sinh viên thư viện chủ yếu dành từ 30 phút để đọc sách, ít
có sinh viên không có thời gian đọc sách và số sinh viên dành từ 3 – 4 giờ
để đọc sách chỉ chiếm 12,15%. Sinh viên là “vua” về thời gian cho học tập
và nghiên cứu mà chỉ dành từ 30 phút đến trên 2 giờ để đọc sách như vậy
là hơi ít.

Bảng 3. Yêu cầu đọc tài liệu chuyên ngành của thầy (cô) với sinh viên

STT Tỷ lệ phần trăm


(%)

1 Thường xuyên 50

24
2 Thỉnh thoảng 50

3 Không giao 0

Bảng 3 cho thấy, khi học chuyên ngành thầy (cô) đã giao cho sinh
viên đọc tài liệu. Tuy nhiên, tỷ lệ thầy (cô) thỉnh thoảng mới giao sinh viên
đọc tài liệu chiếm 50% là khá cao. Điều đó chứng tỏ các giảng viên HVNH
luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng khả năng tự học của sinh viên, một mặt
nhằm nâng cao kiến thức, mặt khác tạo thói quen đọc và khai thác tài liệu.

Bảng 4. Loại tài liệu nào thầy (cô) đè nghị sinh viên đọc
STT Loại tài liệu thầy (cô) giao đọc
Tỷ lệ phần trăm
(%)

1 Giáo trình 77,45

2 Tạp chí chuyên ngành 17,65


3 Tài liệu liên quan đến môn học 81,4

4 Tài liệu không liên quan đến 1


môn học

Bảng 4 cho thấy, tài liệu thầy (cô) giao cho sinh viên đoc chủ yếu là
tài liệu liên quan đến môn học và giáo trình; còn những tài liệu không liên
quan đến môn học chỉ chiếm chưa đến 1%

Bảng 5. Mức độ đọc tài liệu thầy (cô) giao cho

STT
Tỷ lệ phần
trăm (%)

1 Đọc hết 27,45

25
2 Đọc một phần 71,57
3 Không đọc 0

Bảng 5 cho thấy, khi thầy (cô) giao sinh viên đọc tài liệu thì tỷ lệ sinh
viên chỉ đọc một phần chiếm tỷ lệ cao chiếm 71,57%. Trong khi đó số sinh
viên đọc hết tài liệu thầy (cô) giao chỉ chiếm 27,45%.

Biểu đồ 2 : Mục đích sử dụng thư viện của sinh viên


Trong môi trường Đại học thư viên là nơi lưu trữ vốn tài liệu
và đáp ứng mọi nhu cầu đọc của sinh viên. Theo khảo sát cho thấy 52%
sinh viên sử dụng Thư viện cho mục đích học tập. Trong quá trình học tập
sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học hay sinh viên năm cuối làm khóa
luận tốt nghiệp nên sinh viên đã quan tâm đến tài liệu nghiên cứu.Chính vì
vậy nên thư viện cần đáp ứng đầy đủ cả về số lượng lẫn chất lượng tài liệu
để phục vụ cho nhu cầu của sinh viên.Theo điều tra về phản hồi của sinh
viên về mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu đọc của sinh viên
cho thấy 85% sinh viên đánh giá phù hợp, 10% sinh viên đánh giá rất phù
hợp và còn lại 5% sinh viên cho rằng chưa phù hợp.Từ đó cho thấy thư
viện đã đáp ứng tốt nhu cầu đọc của bạn đọc, phục vụ hiệu quả hoạt động
học tập và nghiên cứu của sinh viên.

26
Sinh viên đặc biệt quan tâm đến nội dung của tài liệu, vì hiện
nay nhu cầu về phương thức đào tạo mới đòi hỏi tính chủ động, tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên là rất cao. Nên họ cần phải khai thác những tài
liệu phù hợp nhất với môn học để khai thác được những thông tin, những
nội dung cần thiết đối với môn học. Nhằm đạt được kết quả cao trong quá
trình học tập, nghiên cứu và phục vụ đắc lực cho các giờ kiểm tra cũng như
kì thi của môn học.

Biểu đồ 3: Thể hiện hoạt động của Sinh viên ngoài giờ lên lớp
Phân tích bảng thống kê trên có thể thấy rằng hoạt động mà sinh viên chú
tâm nhất ngoài giờ học là xem ti vi, chiếm tới 82% ở nhóm con em gia
đình viên chức nhà nước và 52% ở nhóm con em gia đình buôn bán tự do
và 73% là con em trong các gia đình ngành nghề khác. Các hoạt động như
đọc sách, chơi thể thao và tự học cũng chiếm tỉ lệ khá cao, lần lượt là:
66%, 50% và 45% ở nhóm con em trong gia đình viên chức nhà nước ;
42%, 34% và 25% ở nhóm con em gia đình buôn bán tự do; 84%, 53% và
47% ở nhóm con em trong các gia đình ngành nghề khác. trong đó đọc
sách vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất (66%, 42% và 84%). Điều này có nghĩa nhu

27
cầu đọc của sinh viên là rất lớn. Nó thể hiện rõ hơn trong phần khảo sát
với nhóm sinh viên.

2.1.2. Nhu cầu về hình thức tài liệu


Sinh viên HVNH là đối tượng học tập, nghiên cứu trên nhiều
loại môn học khác nhau như môn học chuyên ngành, nôm học chung của
trường, môn tự chon, môn bắt buộc, môn học về các kỹ năng mền…. mỗi
môn học đều có những yêu cầu riêng. Ngoài nắm bắt thông tin cơ bản
trong quá trình học, sinh viên cần bổ sung các nguồn tài liệu nhằm đáp ứng
tốt nhu cầu tin của mình.
Qua khảo sát cho thấy mức độ quan tâm cảu sinh viên đối với
các loại hình tài liệu khác nhau.
Thường Thỉnh Chưa
xuyên thoảng bao giờ
Loại
hình tài Số trả Tỷ lệ Số trả Số trả
liệu lời (%) lời Tỷ lệ(%) lời Tỷ lệ (%)

Sách
tham 2
khảo 73 76.8 2 23.2 0 0
Báo, tạp 52. 4
chí 50 6 1 43.2 4 4.2
Công
trình 17. 6 1
NCKH 17 9 2 56.3 6 16.8
Kỷ yếu 5 4
khoa học 2 2.1 0 52.6 2 44.2
Khóa
luận, luận 24. 4 3
văn 23 4 0 42.1 2 33.7
Giáo
trình bài 69. 2
giảng 66 5 6 27.4 4 4.2
Tài liệu 38 40 3 40 1 20
28
tra cứu 8 9
Loại hình
tài liệu 5 3
khác 7 7.4 0 52.6 8 40

Bảng 6: Loại hình tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên.
Theo bảng số liệu cho thấy đa phần sinh viên quan tâm và sử dụng
nhiều đến các tài liệu chủ yếu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và học
tập của mình. Sách tham khảo và giá trình bài giảng là hai loại tài liệu mà
sinh viên dùng thường xuyên nhất tỷ lệ lườn lượt của từng loại tài liệu lên
đến 76,8% và 69,5%.Đa phần sinh viên sử dụng hai loại tài liệu này vì đích
chính của họ là học tập và nghiên cứu, nhất là theo phương pháp đào tạo
hiện nay yêu cầu sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu là chính, vì vậy nên
mức độ sử dụng sách tham khảo, giáo trình rất cao.Hai loại tài liệu này chủ
yếu là sinh viên năm thứ ba và năm cuối sử dụng nhiều, còn sinh viên năm
nhất và năm hai chưa tham gia vào nghiên cứu nên họ sử dụng chủ yếu là
báo, tạp chí gần 53%.Các tài liệu này là tài liệu nôi sinh ( tài liệu không
công bố ) vì vậy dịch vụ liên quan đến tài liệu này được tuân theo nhưng
quy định riêng.Vì vậy tùy thuộc vào tài liệu cần sử dụng mà sinh viên lựa
chọn tài liệu phù hợp.

2.1.3. Nhu cầu về ngôn ngữ tài liệu


Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp con người sử dụng để liên
lạc hay giao thiệp với nhau cũng như chỉ chính năng lực của con người có
khả năng sử dụng một hệ thống như vậy.Với chủ trương tăng cường giáo
dục ngoại ngữ của Quốc hội, Bộ Giáo dục và đào tạo và nhu cầu hiểu biết
về các quốc gia có ngôn ngữ được giảng dạy và nghiên cứu ngày càng lớn.
Yêu cầu sử dụng được một ngôn ngữ phổ biến và một chuyên môn khác
ngày càng trở nên cấp bách . Trong thời buổi hôi nhập để đất nước có thể
hội nhập sâu và rộng với các nước trên thế giới, việc nắm vững chuyên
môn và sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ đang trở thành nhu cầu
cấp bách hiện nay.

29
Thư viện HVNH là một thành viên tích cực. TV luôn chú trọng và
tổ chức đào tạo trên chuẩn mực quốc tế theo định hướng phát triên phẩm
chất , tầm nhìn , năng lực, kỹ năng trong đó đặc biệt chú trọng đến các kỹ
năng sống , ký năng ngoại ngữ, tin học, và trên nền kiến thức cần thiết
nhằm mục đích tạo cho người học có cơ hội tốt nhất tìm được việc làm phù
hợp, không chỉ hướng tới thị trường lao động trong nước mà cả nước
ngoài.
Thư viện HVNH có nhu cầu về ngoại ngữ cao đòi hỏi thư viện
không chỉ đáp ứng về số lượng mà còn cả về chất lượng nhằm đáp ứng
chuyên môn của mình. Vì vây, kho bổ sung ngôn ngữ cho tài liệu phòng tư
liệu và thư viện cần chú ý bổ sung các ngôn ngữ mà sinh viên thường
xuyên dùng như: ngoài tiếng Việt còn có Tiếng Anh, Tiếng Nhật là các
loại ngôn ngữ sinh viên hay sử dụng. Khảo sát sinh viên khoa Thư viện
HVNH cho thấy phần lớn sinh viên đang theo học nhiều ngôn ngữ nước
ngoài . Nguồn học liệu này hạn chế hơn so với ngôn ngữ Tiếng Việt hay
Tiếng Anh. vì vậy đòi hỏi thư viện và phòng tư liệu khoa cần đáp ứng
nguồn tài liệu bằng các ngôn ngữ khác, nhằm đáp ứng ngu cầu tất yếu của
sinh viên.
2.2. Kỹ năng đọc của sinh viên
2.2.1. Kỹ năng đọc hiểu tài liệu
Theo PGS.TS Trần Thị Minh Nguyệt, kĩ năng đọc là khả năng
hiểu, cảm thụ và lĩnh hội tác phẩm, biến tri thức, kinh nghiệm trong sách
thành tri thức, kinh nghiệm của chính mình để có thể vận dụng một cách
nhuần nhuyễn trong khi tiến hành các hoạt động sống khác nhau. Kĩ năng
đọc phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tri thức, kinh nghiệm, năng lực và tính
chất các quá trình tâm lý trong mỗi cá nhân- chủ thể của hoạt động đọc,
đồng thời cũng là kết quả của quá trình rèn luyện lâu dài của chính họ[27].

Theo kết quả khảo sát sinh viên Thư viện HVNH cho thấy có rất
nhiều sinh viên đã tự xây dựng và rèn luyện cho mình kỹ năng đọc hiểu tài
liệu rất hiệu quả, nhưng bên cạnh đó cũng còn không ít bạn sinh viên chưa
làm được điều này.

30
Ví dụ như khi tôi hỏi các bạn SV rằng “ Bạn sẽ làm gì khi bạn có
một cuốn sách mới” và kết quả thu được như sau:

Biểu đồ 4:Cách thức đọc của sinh viên


Vậy theo biểu đồ cho ta thấy sinh viên chủ yếu đọc tài liệu
theo hai cách đó là đọc lướt qua nội dung 45 (%) và đọc lần lượt từ đầu
đến cuối 36 (%).Việc đọc lướt qua nội dung sẽ giúp chúng ta nắm được bố
cục của bài và ý tưởng mà tác giả đề cập đến chúng ta có thể bỏ qua một số
trang của tài liệu nên cách này sẽ không gây nhàn chán khi đọc so với việc
đọc từ đầu đến cuối.Tuy nhiên mỗi cách đọc sách trên sẽ đáp ứng cho mục
đích đọc khác nhau từ đó sé quyết định đến phương hướng khai thác vấn
đề trong một cuốn sách. Chính vì vậy nên chúng ta cần lựa chọn những
cuốn sách thật hay và bổ ích cho việc học tập, nghiên cứu của mình,và xác
định được mục đích của việc đọc cuốn sách đó là gì? để chúng ta có thể
xác định được phương pháp đọc trước khi đọc để đáp ứng được mục đích
của chúng ta.
2.2.2. Kỹ năng vận dụng tri thức trong tài liệu vào học tập
Khi một kiến thức đã học được nếu biết vận dụng và vận dụng thành
công thì lúc đó kiến thức ấy đã nhuần nhuyễn, và thực sự là của
mình.Người xưa đã từng nói : “Học phải đi đôi với hành ” . “Học rộng

31
điều gì, không bằng biết phần cốt yếu của điều ấy; biết phần cốt yếu của
điều ấy, không bằng thực hành điều ấy” (Chu Hy).“Biết không phải là
khó; Làm mới khó ” (Kinh Thư).
Vận dụng điều mới học được để trả lời các câu hỏi, để làm bài tập...
và đặc biệt là vận dụng vào nghiệp vụ, vào thực tiễn công việc hàng ngày
của mình là mục đích của việc học. Người học, đặc biệt là tự học phải
thường xuyên vận dụng vì mấy lẽ:
- Có vận dụng thì mới đạt được mục đích học của mình: học
để làm gì? và mới đo đếm được kết quả mục tiêu của việc học mà mình
đang theo đuổi .
Ví dụ người tự học muốn hiểu một vấn đề hay một chương mục, mà
nếu chưa vận dụng được thì không thể nói là đã hiểu vấn đề đó hay chương
mục đó. Trả lời được các câu hỏi, làm được các bài tập của chương mục
đang học có nghĩa là người tự học đã hiểu chương mục đó.
- Có vận dụng thì mới nhớ lâu được, một kiến thức mà không
vận dụng hoặc vận dụng rất ít thì sẽ rất chóng quên
- Có vận dụng người học mới thấy kiến thức đó là cần thiết,
cần thiết cho việc trả lời các câu hỏi, làm bài tập, cần thiết để vận dụng vào
các môn học khác hay vào thực tế công việc của mình ở một góc độ nào
đó, hoặc nhờ kiến thức đó mà có thể lý giải được một việc gì đó trong tự
nhiên hoặc xã hội. Tải bản FULL (75 trang): https://bit.ly/39vZjJy
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
- Muốn giỏi toán thì phải làm nhiều bài tập, cùng một công thức hay
một định lý có thể áp dụng giải nhiều dạng bài toán khác nhau.
Bảng 7. Hoạt động của sinh viên ngoài thời gian học trên lớp

STT Loại hoạt động Tỷ lệ phần trăm (%)

1 Đọc sách báo 63,73

2 Truy cập internet 78,43

3 Hoạt động xã hội 24,5

32
4 Xem tivi, nghe nhạc 63,73

5 Mua sắm 41,17

6 Thể dục, thể thao 18,63

7 Văn hóa, nghệ thuật 18,63

8 Các hoạt động khác * 30,39

*Làm việc thêm, chơi game, xem tivi…

Bảng 1 cho thấy: ngoài thời gian học trên lớp thì tỷ lệ sinh viên
HVNH đã tham gia truy cập Internet là cao nhất chiếm 78,43%, tiếp đó
mới đến tỷ lệ sinh viên dành thời gian cho việc đọc sách báo chiếm
63,73%, tỷ lệ này cũng tương đương với hoạt động xem tivi và nghe nhạc
chiếm 63,7% .Như vậy, chúng ta thấy sinh viên HVNH đã bị văn hóa nghe
nhìn lôi cuốn mạnh hơn là văn hóa đọc trong khi đó văn hóa nghe nhìn
thường chỉ nặng về tính thông tin và giải trí và nhẹ về tính giáo dục và bồi
Tải bản FULL (75 trang): https://bit.ly/39vZjJy
dưỡng tri thức. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

2.3 Thái độ ứng xử với tài liệu của sinh viên

Sách đang sử dụng Sách không sử dụng

Nội dung Tỷ lệ (% ) Nội dung Tỷ lệ (%)


Gấp đánh dấu các
nội dung hay và quan Cắt,xé rách
trọng 52 sách 33
Ghi chép lại các
nội dung hay và quan Làm đồ phế
trọng 38 thải 55

33
Tặng, quyên
Không làm gì 10 góp 12

Bảng 8: Về thói quen đối xử với tài liệu của sinh viên
Từ bảng số liệu cho thấy đa phần sinh viên đọc và sử dụng tài
liệu thường đánh dấu lại các phần quan trọng vào sách chiếm đến
52%.Việc đánh dấu như vậy giúp sinh viên nhớ và dễ nhận biết các phần
quan trọng hơn khi đọc sách vào lần sau, nhưng nó lại làm mất đi giá trị
thẫm mỹ của sách. Thay vào việc đánh dấu trực tiếp vào sách sinh viên có
thể dung sổ tay ghi chép lại các nội dung hay và quan trọng đó lại khi đọc
để tiện cho sử dụng khi hoc cũng như tốt cho ghi nhớ nội dung, nhưng tỉ lệ
này chỉ chiếm 38%.Còn đối với sách không sử dụng nữa đa phần sinh viên
cho vào làm đồ phế thải chiếm 55%, bên cạnh đó nếu không đọc nữa thì họ
xé và cắt sách đi. Đây là những hành động còn chưa có văn hóa đối với
sách vì sách có vai trò rất quan trọng đối với tất cả mọi người trên hành
tinh này. Tuy chúng ta không có nhu cầu dùng đến những cuốn sách đo
nữa nhưng không nhất thiết phải bỏ nó đi mà có thể mang đi tặng cho bạn
bè những người có nhu cầu hoặc quyên góp từ thiện.Như ông cha ta có câu
“ cũ người nhưng mới ta”, biết đâu những cuốn sách ta không dùng nữa
muôn bỏ đi lại là niềm mong mỏi của rất nhiều người để được sở hữu
những cuốn sách đó và ta đã làm được một việc ý nghĩa và có ích cho xã
hội, nhưng tỷ lệ quyên góp sách còn quá thấp chỉ chiếm 12%.Vậy tất cả
chúng ta hãy nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của sách đối
với bản thân, bạn bè vã xã hội, để nâng cao được cách ứng xử cảu bản thân
đối với tài liệu.
Ngoài ra, việc sắp xếp tài liệu ngăn nắp hay không cũng thể
hiện văn hóa ứng xử với tài liệu. Kết quả khảo sát về vấn đề này thu được
25% sinh viên có thói quen sắp xếp tài liệu thành các chủ đề riêng, còn
phần lớn sinh viên không thực hiện điều nay chiếm 75%. Nếu sắp xếp tài
liệu trên giá một cách khoa học có trật tự thì không những giúp chúng ta có
thể tìm kiếm nhanh nhưng cuốn sách mình cần, đồng thời nó còn thể hiện
cách tư duy khoa học của bản thân người đọc.Mỗi cuốn sách đều có một
môn loiaj nhất định, sắp xếp theo chủ đề cũng chính là nắm được nội dung

34
4215565

You might also like