You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN ANH


  

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ 2 NĂM HỌC 2021 -2022


MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC

ĐỀ TÀI:

ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG LÀM THÊM ĐẾN


HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

Giảng viên hướng dẫn: Lê Nguyễn Anh Như


Sinh viên thực hiện: Bùi Dương Hồng Ngọc - 2057010207

TP HCM, THÁNG 1 NĂM 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN ANH
  

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ 2 NĂM HỌC 2021 – 2022


MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC

ĐỀ TÀI:

ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG LÀM THÊM ĐẾN


HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

Giảng viên hướng dẫn: Lê Nguyễn Anh Như


Sinh viên thực hiện: Bùi Dương Hồng Ngọc - 2057010207

TP HCM, THÁNG 1 NĂM 2022


MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ ......................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ................................................................................ 1
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................... 2
PHẦN II: NỘI DUNG ............................................................................................ 3
1. LÝ LUẬN VỀ CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN.................................................................... 3
1.1. Công việc làm thêm của sinh viên:.......................................................... 3
1.2. Hoạt động học tập:................................................................................... 3
1.3. Kết quả học tập: ....................................................................................... 4
1.4. Cơ sở lý thuyết của đề tài: ....................................................................... 4
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LÀM THÊM CỦA SINH VIÊN ................................ 6
2.1. Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên trên thế giới: ........................ 6
2.2. Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên các trường đại học ở Việt
Nam: 6
2.3. Các công việc làm thêm phổ biến của sinh viên: .................................... 7
2.4. Thời gian sinh viên dành cho công việc làm thêm: ................................. 8
2.5. Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên khi có công việc làm thêm: 9
3. ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG LÀM THÊM ĐẾN HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN ............................................................................................................ 10
3.1. Ảnh hưởng tích cực: .............................................................................. 10
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực: .............................................................................. 10
4. NGUYÊN NHÂN VIỆC ĐI LÀM THÊM GÂY ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN .................................................................................................... 11
5. CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ............................................................................. 12
5.1. Đối với nhà trường: ............................................................................... 12
5.2. Đối với sinh viên: .................................................................................. 13
PHẦN III: KẾT LUẬN ........................................................................................ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 15
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển rất
nhanh chóng và mạnh mẽ, yêu cầu các quốc gia phải có những kế hoạch
chuẩn bị, tầm nhìn chiến lược trước sự chuyển giao từ thời kỳ công nghiệp
cũ, lao động tay chân, lao động thủ công sang thời kỳ của công nghệ số và tự
động hóa. Khi bước vào kỷ nguyên công nghiệp 4.0 này thì con người không
còn là lực lượng lao động sản xuất chính nữa mà là những máy móc thông
minh, hiện đại sẽ thay thế vị trí của con người. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp
cũng đang phải chạy đua với sự phát triển của nhân loại, bởi thế nên những
đòi hỏi về trình độ, kĩ năng và kiến thức của người lao động càng trở nên
khắt khe hơn. Chính vì vậy sinh viên – lực lượng lao động trí thức tiềm năng
của đất nước cần phải được đào tạo kiến thức chuyên môn song song với thực
hành để có những trải nghiệm làm việc thực tế thay vì chỉ học một cách máy
móc qua sách vở. Tuy nhiên nhiều trường đại học vẫn chưa triển khai được
cách học này nên để có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường việc làm sau
khi tốt nghiệp thì sinh viên chọn giải pháp là đi làm thêm ngoài giờ học nhằm
tích lũy thêm kinh nghiệm và trau dồi kĩ năng cho bản thân.

Những công việc như: gia sư, bồi bàn, phụ quán, bán hàng online,…
là những việc làm thêm có nhiều sinh viên lựa chọn nhất ngày nay. Có thể
những công việc đó không liên quan gì đến ngành học của các bạn nhưng nó
vẫn mang lại nhiều thứ giúp ích cho cuộc sống của họ như: kĩ năng giao tiếp,
ứng xử, cơ hội được va chạm với thực tế xã hội, hay các mối quan hệ mới,…
Ngoài ra, đối với nhiều sinh viên thì việc đi làm thêm là điều bắt buộc để có
thể kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình. Do đó, đã có rất nhiều trường hợp
sinh viên vùi đầu vào công việc làm thêm, không bố trí được thời gian nghỉ
ngơi hợp lý gây ảnh hưởng đến sức khỏe, bỏ bê việc học dẫn đến kết quả học
hành sa sút, nợ môn ngày càng nhiều. Vì vậy, việc thực hiện đề tài nghiên
cứu “Ảnh hưởng của hoạt động làm thêm đến hoạt động học tập của sinh
viên” là mang tính cần thiết và quan trọng để có được sự nhận thức rõ nét về
tác động của tình trạng vừa học vừa làm đến sinh viên, từ đó xây dựng nên
những giải pháp giúp sinh viên sắp xếp thời gian làm việc, sinh hoạt một cách
hợp lý và phải đảm bảo kết quả học tập của mình.

2. Mục đích nghiên cứu


Phản ánh được sự ảnh hưởng của việc làm thêm đến hoạt động học
tập của sinh viên.

1
Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động làm thêm
đến hoạt động học tập của sinh viên từ đó giúp sinh viên có những cái nhìn
đa chiều và đưa ra lựa chọn phù hợp với bản thân.

Đưa ra những đề xuất, giải pháp giúp cân bằng cả hai hoạt động học
tập và làm thêm để sinh viên vừa đảm bảo việc học, vừa có thể kiếm thêm
thu nhập và có những trải nghiệm công việc, cuộc sống thông qua việc làm
thêm.

3. Phương pháp nghiên cứu


Để thực hiện được đề tài này, tôi đã vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
• Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Tiến hành nghiên cứu lý thuyết dựa trên các tài liệu đã có sẵn như
các bài nghiên cứu về đề tài này của sinh viên các trường và giáo trình.
Thu thập dữ liệu thứ cấp từ một số bài báo, tạp chí khoa học viết về
thực trạng làm thêm của sinh viên.
• Phương pháp thống kê:
Tổng hợp, chọn lọc, sắp xếp tất cả các tài liệu, thông tin thu được
từ dữ liệu thứ cấp để làm dẫn chứng, minh họa cho bài nghiên cứu
này.
• Phương pháp phân tích:
Đi sâu vào mô tả, diễn giải các thông tin, số liệu thu được từ các
dữ liệu thứ cấp nhằm làm rõ nội dung nghiên cứu.

2
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Lý luận về chủ đề tiểu luận
1.1. Công việc làm thêm của sinh viên:
Việc làm thêm hay thuật ngữ phổ biến ngày nay gọi là “công việc part
time” – là những hoạt động đi làm bán thời gian ngoài giờ học, mang tính
chất không thường xuyên, không cố định, không chính thức. Khác với công
việc toàn thời gian, các việc làm bán thời gian thường kéo dài khoảng 4 đến
6 tiếng một ngày. Theo ILO – Tổ chức Lao động Quốc tế thì người đi làm
được xem như làm bán thời gian khi tổng thời gian lao động của họ ít hơn 30
hay 35 giờ một tuần. Một số công việc làm thêm không bắt buộc người lao
động phải đến công ty hay nơi làm việc, họ có thể lựa chọn môi trường làm
việc và linh hoạt thay đổi giờ làm sao cho phù hợp với bản thân. Theo Nguyễn
Minh Hiếu (2015), khái niệm về việc làm thêm của sinh viên được hiểu là
tham gia các hoạt động làm việc ngay khi còn đang học ở trường tại các công
ty, doanh nghiệp, các tổ chức, đơn vị mà không vi phạm những điều cấm của
pháp luật với mục đích kiếm thêm thu nhập hoặc học hỏi, tích lũy kinh
nghiệm, cọ xát với thực tế cuộc sống.
Mức lương của các công việc làm thêm thường phụ thuộc vào sự thỏa
thuận giữa người lao động và nhà tuyển dụng. Lương có thể được trả theo
sản phẩm, năng suất công việc hoặc trả theo giờ. Hiện nay hình thức trả lương
phổ biến cho các việc làm bán thời gian của sinh viên là trả theo giờ với mức
lương dao động từ 15.000 đồng đến 70.000 đồng tùy tính chất công việc. Tuy
nhiên, nếu sinh viên đi làm thêm vào các dịp lễ, Tết thì sẽ được hưởng thêm
ít nhất 300% mức lương ngày thường (theo Bộ luật Lao động 2012). Bởi lẽ
đó mà có rất nhiều sinh viên quyết tâm ở lại thành phố dù là được nghỉ lễ,
Tết để kiếm thêm tiền.
Về chế độ đãi ngộ, do bản chất công việc không phải là nhân sự chính
thức nên những nhân viên bán thời gian thường sẽ không nhận được đãi ngộ
từ doanh nghiệp. Cụ thể như sẽ không có chính sách lương thưởng, không
được đóng bảo hiểm xã hội, không được khám sức khỏe định kỳ,…
1.2. Hoạt động học tập:
Theo Lê Văn Hồng và cộng sự (1998), “Hoạt động học tập là hoạt
động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng
hoạt động nhất định, những giá trị.”
Từ điển Tâm lý học (2008, trang 325) cũng có nêu “Trong hoạt động
học tập diễn ra sự nắm bắt có kiểm soát những cơ sở kinh nghiệm xã hội và
nhận thức, trước hết dưới dạng các thao tác trí tuệ và khái niệm lí luận cơ
bản”.
3
1.3. Kết quả học tập:
Kết quả học tập chính là thước đo khả năng của sinh viên, được phản
ánh qua quá trình học tập rèn luyện, tiếp thu kiến thức của họ trên giảng
đường. Nhiều người nói điểm số không quan trọng, tuy nhiên, vì nó chính là
một trong các tiêu chí quan trọng để nhà tuyển dụng có thể đánh giá được
năng lực của sinh viên nên kết quả học tập có ảnh hưởng khá lớn đến khả
năng tìm kiếm việc làm của họ sau này. Không chỉ có vậy, một bảng điểm
đẹp sẽ giúp sinh viên có nhiều cơ hội thăng tiến trong công việc và mở rộng
đường học vấn của mình trong tương lai.
Kết quả học tập dễ tác động bởi rất nhiều nguyên do đến từ sinh viên
và cả nhà trường. Có thể kể đến một số tác nhân khách quan gây ảnh hưởng
đến kết quả học tập như năng lực giảng viên, phương pháp giảng dạy, cơ sở
vật chất dạy và học, áp lực từ gia đình, xã hội,… nhưng thực tế thì những yếu
tố đến từ bản thân sinh viên mới chính là nguồn ảnh hưởng chủ yếu. Một
trong số đó phải nhắc đến công việc làm thêm.
1.4. Cơ sở lý thuyết của đề tài:
Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow (1908-1970):

Hình 1. Tháp nhu cầu của Abraham Maslow


Abraham Maslow là nhà tâm lý học nhân chủng nổi tiếng người Mỹ
và được xem là người đã sáng tạo ra “Thuyết nhân văn” (Humanistic
Approach) trong tâm lý học. Thuyết nhu cầu của Maslow là một lý thuyết
động lực trong tâm lý học nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con
người cần phải được thỏa mãn như thế nào thì mới có được sự khuyến khích
và động lực thúc đẩy họ hành động. Maslow đã căn cứ vào tầm quan trọng,
mức độ “cơ bản” của từng nhu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của con

4
người để dựng nên một hệ thống các cấp bậc về nhu cầu của con người theo
hình dạng của một kim tự tháp gồm 5 bậc. Hệ thống nhu cầu của Maslow
được chia làm hai cấp chính: cấp thấp (Basic needs) gồm các nhu cầu về sinh
lý, nhu cầu về an toàn; và cấp cao (Meta needs) gồm những nhu cầu về xã
hội, nhu cầu được tôn trọng, thể hiện bản thân. Theo đó, nhu cầu ở bậc thấp
hơn phải được đáp ứng trước khi một cá nhân muốn tiến đến nhu cầu ở bậc
cao hơn. Nhờ sự sắp xếp nhu cầu theo thứ bậc từ thấp đến cao như thế đã cho
thấy sự phát triển của con người sẽ theo hướng giảm bớt phần “con” và tăng
dần tính “người”.
Dựa vào tháp nhu cầu của Abraham Maslow, ta thấy rằng “Nhu cầu
sinh học” là nhu cầu cơ bản và quan trọng nhất. Đây là nhu cầu đóng vai trò
duy trì cuộc sống của con người bao gồm các loại như: thở, ăn, uống, bài tiết,
nơi ở, nghỉ ngơi, tình dục,… Mặc dù ở bậc thấp nhất nhưng nó đảm bảo cho
sự tồn tại của con người, bắt buộc phải đáp ứng nhu cầu này trước khi tiến
đến các nhu cầu ở bậc cao hơn.
Khi “nhu cầu sinh học” được thỏa mãn thì “nhu cầu được an toàn” sẽ
trở thành nhu cầu được ưu tiên nhất. “Nhu cầu được an toàn” bao gồm các
nhu cầu được an toàn về thể xác, về sức khỏe, gia đình, tài sản được đảm
bảo,…
Sau khi cả hai nhu cầu ở cấp thấp được đáp ứng, thì con người sẽ tiếp
tục có những nhu cầu ở cấp cao hơn. Ở bậc tiếp theo của tháp nhu cầu là “nhu
cầu xã hội”, con người sẽ muốn mở rộng các mối quan hệ xã hội, có nhu cầu
gắn bó, liên kết, muốn được hòa hợp với xã hội, yêu thương và được yêu
thương.
Nếu nhu cầu về sự hòa hợp với xã hội được thỏa mãn thì con người sẽ
lấy “nhu cầu được tôn trọng” làm động lực phát triển. Con người sẽ có các
nhu cầu về sự tự tin, cảm giác có giá trị và năng lực và nhận được sự quan
tâm, quý trọng từ những người xung quanh. Nhu cầu này được Maslow chia
thành hai loại là lòng tự trọng và sự tôn trọng từ người khác. Lòng tự trọng
là nhu cầu mong muốn có được năng lực, làm chủ, tự do, độc lập; còn sự tôn
trọng là mong muốn có được uy tín, địa vị, sự công nhận.
Ở đỉnh tháp của Maslow là “nhu cầu tự thể hiện” – nhu cầu cao nhất
của con người. Nhu cầu này thể hiện mong muốn sáng tạo, được thể hiện khả
năng và trình diễn bản thân; mong muốn chinh phục, phát huy khả năng ở
mức tối đa và hoàn thành mục tiêu của mình.
Dựa vào cơ sở thuyết nhu cầu của Abraham Maslow, ta nhận thấy
được các động cơ thúc đẩy sinh viên tham gia các hoạt động làm thêm đó
chính là mong muốn được thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Có thể đặt ra một
số giả thuyết như sinh viên xa nhà lên thành phố học, cảm thấy cô đơn, thiếu
sự kết nối nên đã chọn đi làm thêm để đáp ứng nhu cầu xã hội của mình.
5
Hoặc với nhu cầu mong muốn kiếm thêm thu nhập, nâng cao năng lực của
bản thân thì việc đi làm thêm sẽ là một cách thức giúp sinh viên thỏa mãn nó,
từ đó sự ham muốn đạt được nhu cầu của mình đã khiến sinh viên sa đà vào
các công việc làm thêm mà bỏ qua việc học dẫn đến kết quả học tập giảm sút.

2. Thực trạng hoạt động làm thêm của sinh viên


2.1. Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên trên thế giới:
Dựa vào báo cáo của Tập đoàn HSBC về đề tài nghiên cứu giáo dục
mang tên “Giá trị của giáo dục – Cái giá của thành công” được khảo sát trên
1.000 sinh viên của 15 quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy, sinh viên đa số
dành thời gian cho các công việc bán thời gian để kiếm thêm thu nhập nhiều
hơn là dành thời gian cho việc học. Theo nghiên cứu, các sinh viên dành ra
trung bình 3,4 giờ mỗi ngày để đi làm thêm; lên giảng đường và học nhóm
là 2,7 giờ, học ở nhà 2,5 giờ và học ở thư viện 1,6 giờ. Báo cáo đưa ra một
con số tỉ lệ rằng “cứ 5 sinh viên thì có hơn 4 người (83%) vừa học vừa làm,
hầu hết là do họ cần kiếm tiền (53%)” (Vietnamfinance, 2018). Căn cứ vào
số liệu đó, ta thấy rằng không phải tất cả các sinh viên đi làm thêm với lý do
là kiếm tiền trang trải cho cuộc sống đại học. Có nhiều sinh viên lựa chọn đi
làm thêm là để tích lũy kinh nghiệm với mong muốn có được công việc tốt
sau khi ra trường. Theo báo cáo, lý do này chiếm 43%, trong đó Trung Quốc
dẫn đầu với tỉ lệ là 75% sinh viên đi làm để trau dồi kinh nghiệm và kĩ năng.
2.2. Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên các trường đại học ở
Việt Nam:
Thống kê của Hội sinh viên Việt Nam đã đưa ra một con số là hơn
80% sinh viên đã có ít nhất một lần đi làm thêm trong khoảng thời gian học
đại học. Kết quả điều tra điều tra của một nhóm sinh viên nghiên cứu khoa
học về “Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu
Một” cho thấy, với tổng số 200 sinh viên được khảo sát thì có đến 166 sinh
viên trả lời đã đi làm thêm (chiếm 83%) và chỉ có 34 sinh viên là chưa đi làm
thêm bao giờ (chiếm 17%). Trong số các sinh viên đã đi làm thêm của trường
Đại học Thủ Dầu Một thì số lượng sinh viên năm 2 chiếm tỉ lệ nhiều nhất với
tỉ lệ 45%, trong khi đó năm 1 chỉ chiếm 20,5% và năm 4 chỉ 9,5%. Điều này
có thể là do lịch học của sinh viên năm 2 ở trường thoải mái hơn nên có nhiều
thời gian rảnh rỗi còn năm 3, năm 4 thì đã đi vào chuyên ngành nên việc học
trở nên bận rộn hơn rất nhiều. Hơn nữa, so với sinh viên năm 1 vừa mới lên
đang phải từ từ làm quen với môi trường mới thì sinh viên năm 2 đã quen
thuộc với cuộc sống đại học và nơi mình đang sinh sống nên cũng dạn dĩ hơn,
tích cực tham gia các hoạt động làm thêm bên cạnh hoạt động học tập.

6
Theo bài báo cáo khoa học “Đánh giá kết quả học tập của sinh viên
đi làm thêm và sinh viên không đi làm thêm ở các khoa trong trường Đại học
Cần Thơ” trong Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, số liệu khảo sát
thực trạng làm thêm của sinh viên trường đại học này là 50,3% sinh viên trả
lời có đi làm thêm trong thời gian học tập ở trường và có khoảng 49,75%
sinh viên không đi làm thêm.
Thực trạng Tần số Tỉ trọng (%)
Có 201 50,3
Không 199 49,75
Tổng 400 100
Bảng 1. Thực trạng làm thêm của sinh viên trường Đại học Cần Thơ.
Tuy nhiên, bài báo cáo cũng chỉ ra những nguyên nhân vì sao sinh
viên lựa chọn không đi làm thêm, trong đó các lý do như: bị gia đình phản
đối, không có thời gian, không muốn ảnh hưởng đến kết quả học tập là có số
lượng sinh viên bình chọn cao nhất.
Qua hai số liệu khảo sát sinh viên của trường Đại học Cần Thơ ở trên,
tỉ lệ sinh viên vừa học vừa làm ở mức cao (hơn một nửa số sinh viên được
khảo sát) đã cho thấy được sự năng động của sinh viên ngày nay và sự phổ
biến của việc đi làm bán thời gian trong giới sinh viên.
Một khảo sát nữa được thực hiện trên 100 sinh viên tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, thành phố Hồ Chí Minh để phục vụ cho đề
tài tiểu luận “Quan điểm của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM về việc đi làm thêm” cho thấy, có đến 59 sinh viên trả lời
là đang có công việc làm thêm. Các công việc làm thêm các bạn lựa chọn
thường là các công việc không liên quan đến ngành học và không yêu cầu
nhiều về kĩ năng.
2.3. Các công việc làm thêm phổ biến của sinh viên:
Tiếp tục với khảo sát 100 sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, kết quả thu được là các công việc phục vụ tại các quán ăn, quán
cà phê, cửa hàng thức ăn nhanh chiếm 35%, công việc gia sư chiếm 21%,
phụ bán shop chiếm 10% và các công việc khác chiếm 19%.
Theo số liệu điều tra ở trường Đại học Cần Thơ cũng cho thấy công
việc làm thêm được sinh viên lựa chọn nhiều nhất là nhân viên phục vụ với
tỉ trọng 40,2%, tiếp đến nhóm công việc được lựa chọn ở mức trung bình
như: gia sư, bán hàng, phát tờ rơi có tỉ trọng dao động trong khoảng từ 11 –
15%. Cụ thể, công việc gia sư là 15%; nhân viên bán hàng là 13,4%; phát tờ
rơi là 11,4%.

7
Trong bài luận văn “Sinh viên đi làm thêm, tốt hay không tốt?” của
nhóm sinh viên nghiên cứu thuộc trường Đại học Ngân hàng, thành phố Hồ
Chí Minh đã đưa ra những con số khảo sát dựa trên câu trả lời của sinh viên
5 khối trường (khối đại học công lập, khối đại học bán công, khối đại học
dân lập, khối học viện và khối cao đẳng) trên địa bàn thành phố như sau:
Công việc Nhân viên Nhân viên Nhân viên Gia Khác Tổng cộng
bán hàng phục vụ tiếp thị sư
Số lượng 89 123 68 140 32 152
Tỉ lệ (%) 19,69 27,21 15,05 30,97 7,08 100
Bảng 2. Công việc làm thêm của sinh viên
Số liệu trong bảng cho thấy công việc gia sư chiếm tỉ lệ cao nhất với
gần 31% sinh viên lựa chọn, tiếp đó là nhân viên phục vụ với hơn 27% lượt
bình chọn, gần như là ngang bằng với gia sư. Các công việc như nhân viên
bán hàng và nhân viên tiếp thì chiếm tỉ lệ nhỏ hơn, lần lượt là 19,7% và 15%.
Qua ba kết quả khảo sát của các trường đại học ở trên, ta thấy được
rằng công việc gia sư và phục vụ quán là hai công việc được sinh viên lựa
chọn nhiều nhất. Đối với việc làm gia sư dạy kèm thì đối tượng dạy là thường
là những học sinh phổ thông nên yêu cầu về mặt chuyên ngành không quá
cao, chỉ cần nắm rõ kiến thức cấp 1, cấp 2, cấp 3 là có thể dạy được, hơn nữa
công việc này tiền lương cũng tương đối và khả năng gặp các khách hàng
khó chịu được cho là thấp. Đối với công việc nhân viên phục vụ thì yêu cầu
công việc đơn giản, chỉ cần chăm chỉ và cẩn thận, sinh viên được tiếp xúc
với nhiều người và có nhiều cơ hội phát triển kĩ năng, cọ xát thực tế. Có lẽ
đây cũng chính là những lý do vì sao hai công việc này có nhiều sinh viên ưu
tiên lựa chọn khi kiếm việc làm thêm.
2.4. Thời gian sinh viên dành cho công việc làm thêm:
Một khảo sát được thực hiện bởi nhóm sinh viên trường Đại học Ngân
hàng, thành phố Hồ Chí Minh về số lượng thời gian sinh viên bỏ ra cho hoạt
động làm thêm của mình có kết quả như sau:
Thời gian (giờ) Dưới 2h Từ 2h đến 3h Từ 3h đến 4h Trên 4h
Số lượng 98 98 98 160
(sinh viên)
Bảng 3. Thời gian dành cho công việc làm thêm của sinh viên
Từ bảng số liệu trên, nhóm sinh viên trường Đại học Ngân hàng đã
tính ra được thời gian trung bình mà sinh viên dành ra cho hoạt động làm
thêm là 3,21 giờ/ngày.
Thêm một số liệu thực tế được trích từ bài báo cáo nghiên cứu khoa
học về đề tài “Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên Đại học Thủ Dầu

8
Một” của tác giả Nguyễn Minh Hiếu cũng cho ra một kết quả tương tự. Trong
đó, thời gian làm thêm dao động từ 2 giờ đến 4 giờ/ngày chiếm ti trọng cao
nhất với 46,4%; khoảng thời gian làm việc dưới 2 giờ/ngày và trên 4 giờ/ngày
chiếm tỉ trọng thấp hơn, lần lượt là 19,9% và 33,7%.
Qua số liệu khảo sát của hai nghiên cứu trên, ta có thể kết luận rằng
đa số sinh viên dành ra trung bình một buổi trong ngày để đi làm thêm. Dựa
theo kết quả phân tích của nhóm sinh viên thực hiện đề tài “Phân tích nhu
cầu đi làm thêm của sinh viên Đại học Cần Thơ” thì buổi tối chính là buổi
có nhiều sinh viên lựa chọn để đi làm thêm nhất chiếm 35% tổng số câu trả
lời. Điều này cũng là dễ hiểu vì phần lớn các sinh viên đi học vào ban ngày
nên thời gian rảnh rỗi vào ban tối sẽ được sử dụng cho các hoạt động làm
thêm. Tuy nhiên, việc đi làm thêm vào buổi tối – buổi đáng lẽ ra là để nghỉ
ngơi và tự học – với số giờ làm trung bình từ 3,21 giờ sẽ gây ảnh hưởng
không nhỏ đến sức khỏe cũng như là việc học của sinh viên.
2.5. Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên khi có công việc làm
thêm:
Khi sinh viên phải bớt thời gian học lại để dành nó cho các công việc
làm thêm thì chắc chắn việc học tập sẽ có những thay đổi. Sự thay đổi đó
được ghi nhận trong bài báo cáo khoa học về đề tài “Tác động của việc đi
làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Cần Thơ” trên
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Theo đó, số liệu điều tra cho
thấy điểm trung bình của sinh viên trước khi đi làm thêm và sau khi đi làm
thêm có sự khác biệt. Cụ thể là trước khi đi làm thêm, điểm trung của nhóm
sinh viên được khảo sát là 3,12 (theo thang điểm 4). Tuy nhiên, sau khi đi
làm thêm, điểm trung bình của họ đã bị giảm xuống chỉ còn 3,04.
Thêm một số liệu phản ánh thực trạng hoạt động học tập của sinh viên
khi có công việc làm thêm được trình bày trong bài nghiên cứu khoa học đề
tài “Thực trạng làm thêm của sinh viên Đại học Sư phạm Đà Nẵng”. Bài
nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề tiêu cực trong hoạt động học tập của sinh
viên phát sinh khi có việc làm thêm như: đi muộn, ngủ gật trong lớp, nợ môn
nhiều, vắng mặt quá số buổi quy định,… Theo khảo sát của bài nghiên cứu
cho thấy, có 16,7% sinh viên cho rằng những sinh viên đi làm thêm sẽ thường
xuyên xin về sớm khi đi học; 60% cho rằng sẽ ngủ gật trong lớp, 53,3% sẽ
đi học muộn và 58,3% sinh viên cho rằng khi đi làm thêm có thể sẽ bị rớt
môn, học lại.
Để có thể đánh giá đúng thực trạng hoạt động học tập của sinh viên đi
làm thêm thì kết quả học tập chính là minh chứng rõ nét nhất. Trong một bài
báo cáo về đề tài “Thực trạng đi làm thêm của sinh viên trường Đại học Kỹ
thuật y tế Hải Dương năm 2019” được đăng trên Tạp chí Y học Việt Nam
(2021), nhóm tác giả đã tiến hành so sánh và phân tích kết quả học tập năm

9
học 2018 – 2019 của hai nhóm đối tượng: sinh viên có đi làm thêm và sinh
viên không đi làm thêm, sau đó cho ra kết quả như sau: ở nhóm sinh viên
không đi làm thêm thì kết quả học tập đạt loại giỏi và khá lần lượt là 9,4%
và 57,4%; trong khi đó ở nhóm sinh viên có đi làm thêm, số sinh viên đạt
loại giỏi chỉ chiếm 4,6% và loại khá chiếm 50,7%. Tỷ lệ sinh viên đi làm
thêm có học lực trung bình tương đối cao, lên đến 43,7% nhưng ở nhóm sinh
viên không đi làm thêm thì chỉ có 32,7%.
Từ những số liệu trên, ta có thể nhận thấy việc đi làm thêm đang ảnh
hưởng khá nhiều đến hoạt động học tập của sinh viên. Là một sinh viên thì
việc học phải là việc ưu tiên số một, tuy nhiên việc đi làm thêm đang khiến
sinh viên bắt đầu có những biểu hiện không tốt trong học tập như mất tập
trung, đi muộn, ngủ gật và những điều này sẽ dần dần đẩy kết quả học tập đi
xuống.

3. Ảnh hưởng của hoạt động làm thêm đến hoạt động học tập
của sinh viên
3.1. Ảnh hưởng tích cực:
Đi làm thêm không hoàn toàn là điều không nên. Thật ra, làm những
công việc bán thời gian ấy chính là một cách để học. Có những thứ mà trường
học không thể dạy cho sinh viên, chỉ có bước ra ngoài cuộc sống mới có thể
học được những kiến thức ấy. Trong thời đại phát triển ngày nay thì nhà
tuyển dụng đã không còn tìm kiếm những tên “mọt sách”, đầu nặng lý thuyết
nữa, cái họ cần chính là những con người linh hoạt, dẻo dai, có kĩ năng và
kinh nghiệm thực tế. Tuy nhiên việc kết hợp vừa dạy lý thuyết vừa trọng thực
hành thì không phải trường đại học nào cũng làm tốt được. Bởi lẽ đó, sinh
viên muốn trở thành người hữu dụng thì phải tự thân vận động, tự tìm cơ hội
để được va chạm thực tế cuộc sống, cho nên việc tham gia các hoạt động làm
thêm chính là cách mà đa số các sinh viên lựa chọn. Ảnh hưởng tích cực của
việc đi làm thêm đó là giúp sinh viên mở rộng tư duy, tiếp thu kinh nghiệm
cũng như kiến thức có thể phục vụ cho chuyên ngành của mình và cuộc sống.
Ví dụ như ngành học của một sinh viên nọ là sư phạm, và sinh viên ấy lựa
chọn công việc làm gia sư. Với công việc như vậy, bạn ấy sẽ được áp dụng
các kiến thức mình đã học ở trường vào việc dạy kèm, môi trường công việc
thực tế như thế sẽ giúp bạn tích lũy kĩ năng cũng như kinh nghiệm mà sau đó
còn có thể áp dụng lại vào trong những bài học ở trường của mình
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Như ở phần thực trạng mà ta đã nhìn thấy, ngoài những ảnh hưởng
tích cực vừa kể đến bên trên ra thì việc tham gia vào các hoạt động làm thêm
sẽ gây ra khá nhiều tác động không tốt đến việc học tập của sinh viên. Đi làm

10
thêm cũng đồng nghĩa với việc sinh viên bớt đi thời gian tự học của mình để
dành cho việc làm thêm. Thời gian học cũng như thời gian nghỉ ngơi bị rút
ngắn lại khiến cho những biểu hiện như ngủ gật trên giảng đường hay không
nhớ bài, không tập trung vào bài xảy ra. Theo số liệu được lấy từ đề tài nghiên
cứu “Tác động của việc đi làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên trường
Đại học Cần Thơ” cho thấy ảnh hưởng của số giờ làm thêm đến kết quả học
tập là khá tiêu cực. Khi số giờ đi làm thêm càng tăng thì càng có nhiều sinh
viên bị giảm thời gian học trên lớp, giảm thời gian tự học, không có thời gian
học bài và còn ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Kết quả điều tra cho thấy, nếu
sinh viên dành ra từ 4 – 8 giờ/ngày để làm thêm thì có gần một nửa số sinh
viên (45,9%) gặp các vấn đề về sức khỏe. Thời gian không có để ôn bài, học
bài, sức khỏe giảm sút sinh ra mệt mỏi, muốn cúp học để nghỉ ngơi còn kiến
thức thì vẫn ngày một nặng thêm. Quá chuyên tâm vào các việc làm thêm mà
bỏ bê bài vở, dần dà sẽ hình thành nên suy nghĩ “làm việc trước, học hành
sau” dẫn đến không còn hứng thú với việc học, tình hình học tập của sinh
viên sẽ lao dốc rồi rớt môn, nợ môn và cuối cùng là không thể ra trường đúng
hạn. Không lẽ nào chỉ vì vài đồng lương giá “sinh viên” mà chấp nhận đánh
đổi sức khỏe, đánh đổi cả tương lai phía trước?
Mặc dù nếu công việc làm thêm của sinh viên là đúng với chuyên
ngành của mình thì sẽ không ảnh hưởng tiêu cực nhiều đến việc học, nhưng
đâu phải ngành học nào cũng dễ dàng tìm được công việc làm thêm. Người
ta thường nói cái gì nhiều quá cũng không tốt, vì thế cho nên, nếu sinh viên
không có sự chấn chỉnh về thời gian và cường độ làm việc sao cho phù hợp
với hoạt động học tập và nghỉ ngơi thì sẽ để lại nhiều hậu quả khôn lường.

4. Nguyên nhân việc đi làm thêm gây ảnh hưởng đến việc học
tập của sinh viên
Ngày nay, hiện tượng sinh viên đi làm thêm không còn là chuyện hiếm
hoi nữa mà đã trở thành một xu hướng có thể coi là tất yếu đối với đời sống
sinh viên. Mục đích việc tham gia vào các hoạt động làm thêm của sinh viên
phần lớn là để kiếm thêm thu nhập trang trải cho việc học, phụ giúp gia đình
và trau dồi kinh nghiệm cho bản thân. Vì vậy, động cơ quyết định có việc
làm thêm của sinh viên là cực kì ý nghĩa. Tuy nhiên, sau khi nêu ra hiện trạng
và những ảnh hưởng của việc đi làm thêm đối với hoạt động học tập của sinh
viên, ta có thể nhận thấy rằng ngoài lợi ích về mặt cuộc sống thì tác động tiêu
cực của nó đến việc học là đáng lo ngại. Vậy nguyên nhân nào đã khiến các
công việc làm thêm gây trở ngại cho hoạt động học tập của sinh viên?
Nguyên nhân tác động nhiều nhất có lẽ là từ mong muốn thỏa mãn
nhu cầu bản thân của sinh viên. Dựa theo thuyết nhu cầu của Abraham
Maslow thì đi làm thêm chính là cách mà các sinh viên lựa chọn để đáp ứng
11
nhu cầu của mình. Chẳng hạn như khi sinh viên xa nhà lên thành phố học thì
nhu cầu sinh học gồm các loại như ăn, uống, nhà ở,… sẽ cần được đáp ứng
nhất, lúc đó đi làm thêm kiếm tiền chi trả cho những chi phí đó là cách thức
để sinh viên thỏa mãn nhu cầu của mình. Một giả thuyết khác, nhu cầu của
sinh viên đang ở bậc 3 (nhu cầu xã hội) hoặc bậc 4 (nhu cầu được tôn trọng)
trên tháp nhu cầu thì việc lựa chọn đi làm thêm chính là cách giúp sinh viên
có thể hòa nhập vào xã hội, gắn bó, liên kết với các mối quan hệ hoặc nâng
cao năng lực của mình và nhận được sự tôn trọng từ người khác. Tuy nhiên,
khi sự ham muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân dâng cao, cộng với sức hấp
dẫn của những thứ mà việc làm thêm mang lại có thể sẽ khiến sinh viên thờ
ơ với việc học mà đắm chìm vào các công việc ấy ngày càng sâu, dẫn đến
kết quả học tập sa sút.
Nguyên nhân tiếp theo chính là việc sinh viên dành quá nhiều thời
gian cho các công việc làm thêm, không cân bằng được giữa việc học, việc
làm và nghỉ ngơi sẽ khiến sức khỏe suy giảm, chất lượng học tập không được
đảm bảo. Phần lớn sinh viên đi làm thêm vào ban tối, nên sau khi kết thúc
công việc, sinh viên không được nghỉ ngơi ngay mà còn phải hoàn thành bài
vở trên trường. Đã có không ít hiện tượng sinh viên thức khuya, thậm chí
thức đến sáng để làm bài tập rồi sau đó lên giảng đường ngủ gục, không tỉnh
táo để tập trung vào bài giảng dẫn đến mơ hồ trong kiến thức. Thời gian dành
cho làm thêm quá nhiều nên lắm khi về nhà là ngủ chứ không còn sức để
xem lại bài, rồi kết quả cuối cùng là rớt môn, nợ môn.
Một nguyên nhân không thể không kể đến chính là áp lực công việc.
Đã đi làm là không thể tránh khỏi việc phải chịu áp lực, hơn nữa bản thân
sinh viên còn phải chịu thêm áp lực học tập đè nặng. Khi mà áp lực chồng áp
lực như vậy sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý của sinh viên, có thể gây ra các
bệnh như trầm cảm, rối loạn âu lo,… vì thế mà nó trở thành một cản trở
không nhỏ đến hoạt động học tập của sinh viên.

5. Các giải pháp đề xuất


5.1. Đối với nhà trường:
Thứ nhất, nhận thấy nhiều sinh viên có mục tiêu đi làm thêm chính là
kiếm tiền trang trải cho cuộc sống nên giải pháp đầu tiên đối với nhà trường
đó là có các gói hỗ trợ học phí cho sinh viên nghèo, học bổng học tập nói
chung và học bổng khuyến khích học tập cho sinh viên có hoàn cảnh khó
khăn đạt thành tích tốt nói riêng.
Thứ hai, có các phương pháp quản lý chất lượng đối với sinh viên có
công việc làm thêm. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần đưa ra các biện pháp
thắt chặt, đảm bảo thời gian học tập cho sinh viên.

12
5.2. Đối với sinh viên:
Thứ nhất, sinh viên phải xác định rằng học tập là nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu, những cái khác ngoài việc học chỉ là phụ trợ thêm cho mình và
không nên tốn quá nhiều thời gian vào những việc ấy.
Thứ hai, quan tâm đến sức khỏe của mình. Có sức khỏe thì mới có thể
vừa đi làm vừa đi học được. Nếu thấy sức khỏe không đảm bảo thì hãy biết
cách giảm lượng công việc xuống và cho bản thân mình thời gian nghỉ ngơi.
Xây dựng chế độ ăn uống lành mạnh để có đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể.
Dù công việc học tập và làm thêm chiếm nhiều thời gian trong ngày nhưng
hãy cố gắng ngủ đủ giấc. Giấc ngủ cũng rất quan trọng, có ngủ đủ giấc thì
tinh thần mới minh mẫn để học tập và làm việc hiệu quả.
Thứ ba, lập kế hoạch hay thời gian biểu hợp lý để có thể cân bằng giữa
việc học, việc làm và sinh hoạt. Sắp xếp lịch học, cũng như lịch làm thêm
sao cho có các khoảng nghỉ ở giữa, tránh để chồng chéo lên nhau dẫn đến
trường hợp phải cúp học đi làm thêm.
Thứ tư, lựa chọn công việc làm thêm phù hợp với chuyên ngành để có
thể đi làm song song với việc thực hành kiến thức. Hoặc nếu không tìm được
thì ít nhất cũng nên chọn những việc không quá sức đối với bản thân, thời
gian linh hoạt, có thể xoay ca đổi ca để phù hợp với lịch học.
Thứ năm, chọn phương pháp học tập mất ít thời gian, dễ ghi nhớ được
kiến thức để phù hợp với lịch trình học trên trường và làm thêm dày đặc.

13
PHẦN III: KẾT LUẬN
Hiện tượng đi làm bán thời gian của sinh viên ngày nay đang trở nên
rất phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Hơn nữa nó
còn là một xu hướng tất yếu và trong tương lai có thể trở thành hoạt động
chính mà sinh viên nào cũng cần phải tham gia.
Có thể nói, việc đi làm thêm chính là một cách mà các sinh viên lựa
chọn để thỏa mãn nhu cầu về chi phí, kĩ năng và kinh nghiệm trong cuộc
sống. Cũng vì ham muốn nhu cầu của mình được đáp ứng mà không ít sinh
viên đã cắt bớt thời gian học tập của mình để dành nhiều thời gian cho việc
làm thêm. Qua các số liệu điều tra ở phần trên, ta đã thấy được thực trạng
làm thêm và hoạt động học tập của sinh viên có công việc làm thêm đang
diễn ra như thế nào. Không ít trường hợp chỉ vì ham mê đi làm kiếm tiền mà
kết quả học hành sa sút, xuống sức khỏe, xuống tinh thần, như thế liệu có
đáng? Dù đúng là không thể phủ nhận những lợi ích mà việc đi làm thêm
mang lại, nhưng nhiệm vụ hàng đầu của sinh viên chính là học. Sinh viên
nên chú tâm vào hoạt động học tập nhiều hơn các hoạt động khác vì trước
khi có thể trình bày bạn có kinh nghiệm dồi dào như thế nào thì thành tích
học tập chính là thứ đến tay các nhà tuyển dụng đầu tiên.
Tóm lại, đi làm thêm không xấu nhưng quan trọng là sinh viên phải
biết cân bằng thời gian như thế nào sao cho phù hợp để không ảnh hưởng
đến việc học tập cũng như sức khỏe của mình. Nhà trường cũng cần có các
hành động hỗ trợ sinh viên nghèo khó khăn, tạo điều kiện để những sinh viên
ấy có cơ hội học tập tốt hơn.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình, báo cáo nghiên cứu
1. Nguyễn Phạm Tuyết Anh, Châu Thị Lệ Duyên và Hoàng Minh Trí (2013).
Tác động của việc làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên Trường Đại
học Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 26, trang 31-
40.
2. Nguyễn Dương Cầm, Hoàng Thị Thu Hiền, Lê Thúy Hường, & Phạm Thị
Thanh Thủy. (2021, tháng 6). Thực trạng đi làm thêm của sinh viên Trường
Đại học Kỹ thuật y tế Hải Dương năm 2019. Tạp chí Y học Việt Nam, tập
503, số 2, trang 182 – 186.
3. Vương Quốc Duy, Trương Thị Thúy Hằng, Nguyễn Hồng Diễm, Lê Long
Hậu, Nguyễn Văn Thép, & Ong Quốc Cường. (2015). Xác định các nhân tố
ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm của sinh viên Đại học Cần Thơ. Tạp
chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 40, trang 105 – 113.
4. Vương Quốc Duy, Nguyễn Thị Kim Phượng, La Nguyễn Thùy Dung, Lê
Kim Thanh, Lê Thị Ngọc Vân, Trương Thị Ánh Vân, & Huỳnh Phú Tân.
(2016). Đánh giá kết quả học tập của sinh viên đi làm thêm và sinh viên
không đi làm thêm ở các khoa trong Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, số 42, trang 107 – 116.
5. Nguyễn Minh Hiếu (2015). Thực trạng việc đi làm thêm của sinh viên Đại
học Thủ Dầu Một. Báo cáo Nghiên cứu Khoa học, Đại học Thủ Dầu Một.
6. Ths. Nguyễn Văn Nên. (2019). Tác động của việc làm thêm đến kết quả học
tập của sinh viên khối ngành kinh tế khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu
Hội nghị khoa học của cán bộ, giảng viên trẻ và người sau đại học, trường
Đại học Kinh tế - Luật năm 2019.
7. Đào Phú Quý. (2010). Thuyết nhu cầu của A.Maslow với việc động viên
người lao động. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, số 26,
trang 78 – 85.
8. Richard J. Gerrig, & Philip G. Zimbardo. Tâm lý học và Đời sống. Nhà xuất
bản Lao Động.
Tài liệu trực tuyến
1. Bùi Anh Kiệt, Lê Trúc Nguyên, Nguyễn Thị Bích Ngự, Huỳnh Vũ Đa Sa.
Phân tích nhu cầu đi làm thêm của sinh viên trường Đại học Cần Thơ.
Trường Đại học Cần Thơ - https://text.xemtailieu.net/tai-lieu/phan-tich-nhu-
cau-di-lam-them-cua-sinh-vien-truong-dai-hoc-can-tho-666872.html
2. Nhóm KMUV. Sinh viên đi làm thêm, tốt hay không tốt?. Báo cáo Nghiên
cứu Khoa học môn Nguyên lý Thống kê. Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí
Minh - http://dulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-
cd-dh/file_goc_768758.pdf

15
3. Thu Hà. (2018, tháng 8). HSBC: Sinh viên đại học làm thêm nhiều hơn đi
học. Vietnamfinance - https://vietnamfinance.vn/hsbc-sinh-vien-dai-hoc-
lam-them-nhieu-hon-di-hoc-20180504224210877.htm
4. Quan điểm của sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thành phố
Hồ Chí Minh về việc làm thêm, Tiểu luận -
https://123docz.net//document/2518386-tieu-luan-de-tai-quan-diem-cua-
sinh-vien-dh-khxhnv-tp-hcm-ve-viec-lam-them.htm
5. Sinh viên với việc làm thêm - https://tailieudep.com/tai-lieu/de-tai-sinh-vien-
voi-viec-lam-them
6. Thực trạng làm thêm của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng (2016).
Báo cáo Nghiên cứu Khoa học, Đại học Sư phạm Đà Nẵng -
https://123docz.net/document/3833630-de-tai-nckh-ve-thuc-trang-lam-
them-cua-sinh-vien-da-nang.htm

16

You might also like