You are on page 1of 32

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................2

Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH...........................3

1.1 Cơ sở khách quan..........................................................................................3

1.1.1 Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh...............................3

1.1.2 Những tiền đề tư tưởng – lý luận............................................................4

1.2 Nhân tố chủ quan..........................................................................................7

Chương 2:VAI TRÒ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC.................................................................................................................9

2.1 Sự phát triển lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân........................9

2.2 Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp............................12

2.3 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội...............................................15

2.4 Đại đoàn kết toàn dân tộc...............................................................................22

Chương 3: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢI PHÓNG


DÂN TỘC...............................................................................................................26

KẾT LUẬN.............................................................................................................30

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................31

1
MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi nói đến Việt Nam có lẽ bạn bè quốc tế sẽ nghĩ đến rất nhiều
vấn đề về hội nhập, về kinh tế… nhưng chắc hẳn rằng trong tâm tưởng của mỗi
quốc gia dân tộc trên thế giới sẽ không thể nào quên một Việt Nam – nhỏ mà
không yếu thông qua bề dày lịch sử với những cuộc chiến oanh liệt chống lại kẻ
thù xâm lược, bảo vệ nền độc lập, tự chủ cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh –
một vị cha già của dân tộc, suốt cuộc đời Người luôn hy sinh cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. 21 tuổi đã biết ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc, hơn 30
năm bôn ba nước ngoài Người đã tìm ra con đường đúng đắn để giúp dân tộc thoát
khỏi cảnh áp bức, bóc lột.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và của dân tộc ta, một
nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản, công nhân
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo của Người đều phấn đấu vì mục tiêu độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân
Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vĩ nhân đã in đậm dấu ấn vào lịch sử dân tộc
và lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX. Nhìn lại sự hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh, chúng t thấy cả một hệ thống quan điểm toàn diện, nhất quán và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong đó, tư tưởng của Người
về cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là một trong những vần đề quan trọng nhất
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người không những có giá trị, vai trò to
lớn trong thế kỷ này mà còn tỏa sáng trong những thế kỷ tiếp theo; cũng như không
chỉ có vai trò trong phong trào giải phóng dân tộc ta mà còn có vai trò rất lớn trong
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

2
3
Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1 Cơ sở khách quan
1.1.1 Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có
nhiều biến động.

Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc
xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền
bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.

Cho đến cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần
Vương” do các sĩ phu, văn than lãnh đạo cuối cùng đã thất bại. Hệ tư tưởng phong
kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có
sự biến chuyển và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt
đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng
dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thư”, “tân văn”, “tân báo” và những
ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam,
phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.

Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, , các sĩ phu Nho học có tư
tưởng tiến bộ, thức thời, tiêu biểu như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã cố
gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và
phương pháp mới. Song các chủ trương giải phóng dân tộc theo con đường dân chủ

4
tư sản đã thất bại. Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi
phải đi theo con đường mới.

Bối cảnh thời đại

Trong khi con thuyền Việt Nam con lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới,
việc cứu nước như trong đêm tối “không có đường ra” thì lịch sử thế giới trong
giai đoạn này cũng đang có những chuyển biến lớn.

Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc
quyền đã xác lập quyến thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa
đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.

Xã hội xuất hiện nhiều tầng lớp, bên cạnh những giai cấp trước kia, đã xuất
hiện them các giai cấp. tầng lớp mới, trong đó có giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản.

Từ những cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa,
đầu thế kỷ XX đã daẫn đến một cao trào cách mạng thế giớ với đỉnh cao là Cách
mạng Tháng Mười Nga (1917). Cuộc cách mạng này đã lật đổ nhà nước tư sản
thành lập chính quyền Xô viết, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại. Nó là
tấm gương cho các phong trào giải phóng dân tộc bị áp bức.

Sự ra đời của Quốc tế III (3-1919) làm cho phong trào công nhân của các
nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa phương Đông càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

1.1.2 Những tiền đề tư tưởng – lý luận


- Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

5
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị
truyền thống hết sức đặc sắc và cáo quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư
tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống yêu
nước, kiên cường, bất khuất, là tinh thần tương thân tương ái, long nhân nghĩa, ý
thức cố kết cộng đồng, là ý chí vượt qua mọi khó khăn, thử thách, là trí thông
minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc…

Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống , là tư tưởng và tình cảm cao quý, thiêng
liêng nhất , là cội nguồn của dân tộc và chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã
thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.

- Tinh hoa văn hóa nhân loại

Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành tựu
hiện đại của văn minh phương Tây – đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình
thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh

Đối với phương Đông, Hồ Chí Minh đã dung những hiểu biết của mình để
chắc lọc những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học, học trong tư tưởng
của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử,…Người đã tiếp thu những mặt tích cực của Nho
giáo như triết lý hành động, hành đạo, giúp đời, triết lý nhân sinh....

Về phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng
vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn….Đến khi trở thành người mátxít, Hồ Chí
Minh lại tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn vì thấy trong đó
“những điều thích hợp với điều kiện của nước ta”.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền văn hóa dân chủ và cách mạng
phương Tây. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp, tìm hiểu cuộc cách mạng ở

6
Pháp và Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác
ái qua các tác phẩm của các nhà khai sáng như Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ. Người
tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách
mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của
Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.

- Chủ nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh.

Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh điễn ra trên nền tảng
của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị,
vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục
tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.

Bản lĩnh trí tuệ đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo ở
Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam.

Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất là
chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được
những sai lầm dẫn tới ngõ cụt.

Gần 10 năm đi tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh biết đến chủ nghĩa Mác –
Lênin là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa. Người đã cảm động, phấn khởi vì đã tìm ra con đường cứu nước
cho dân tộc. Sau đó Người bắt đầu nghiên cứu sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác –
Lênin để rồi tiếp thu có chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo

7
đều mà Người vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn
cách mạng Việt Nam.

Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng
kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.

1.2 Nhân tố chủ quan


- Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập,
nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong
phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để
tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã có
những quan sát, như họ chưa nhận thấy, hoặc nhận thức chưa đúng về sự thay đổi
của dân tộc và thời đại. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám
phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa vàcuộc đấu tranh của các dân
tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt
động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận
thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách
mạng và khoa học.
- Phẩm chất đạo đức và năng lực họat động thực tiễn

Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và
sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có
hiệu quả cho dân tộc và cho nhân loại.

Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu
việt của Hồ Chí Minh.

8
Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh
giá các sự vật, sự việc chung quanh.

Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin
vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương
pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá ra
lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ
thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạn Việt Nam, kiên trì
chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng
lợi.

Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học tập để
chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân
chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương
dân sẵn sang chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng
bào.

9
Chương 2:VAI TRÒ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC

2.1 Sự phát triển lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân
Hồ Chí Minh nghiên cứu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc với tư cách
là một người dân mất nước, là nạn nhân trực tiếp của chủ nghĩa thực dân Pháp, để
tìm hiểu “kẻ thù” của dân tộc mình, đất nước mình, để tìm con đường “chống chủ
nghĩa thực dân”, và cứu dân, cứu nước.

Những bài viết, bài nói của Người trong thời kỳ từ 1916-1925 đều tập trung
vào những mục đích:

- Tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp
bức, bóc lột, nhận rõ kẻ thù, khắc phục tình trạng mơ hồ về “chính sách khai hóa”
của chủ nghĩa thực dân, và tình trạng an phận, cam chịu trước sức mạnh bạo lực
của kẻ xâm lược thống trị…

- Nêu rõ vai trò, vị trí của thuộc địa đối với chính quốc và chính sách đế
quốc chủ nghĩa đối với các thuộc địa và phụ thuộc, khắc phục tình trạng thờ ơ của
giai cấp vô sản chính quốc đối với các nước thuộc địa. Đặt rõ trách nhiệm của
Đảng Cộng sản chính quốc và Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề thuộc địa.

Những vần đề Hồ Chí Minh đề cập đến hết sức phong phú và có tính thuyết
phục cao. Đó chính là sự đóng góp lớn vào nhận thức chủ nghĩa thực dân mà có lẽ
cho đến lúc bấy giờ chưa ai đề cập đến. Ở đây, xin khái quát những nét lớn:

Trước tiên Hồ Chí Minh vạch rõ tính chất dã man, tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân: Lịch sử bất cứ cuộc xâm chiếm thuộc địa nào, thì từ đầu đến cuối đều
được viết bằng máu của người bản xứ. Đồng thời là ăn cướp, là hiếp dâm, là giết

10
người. Công cuộc khai hóa của chủ nghĩa thực dân rút cục lại là sưu thuế, lao dịch,
bóc lột nặng nề. Sau những cuộc tàn sát thẳng tay thì chính những chế độ lao dịch,
khuân vác, lao động khổ sai, rượu cồn, bệnh giang mai tiếp tực hoàn thành nốt
công cuộc tàn phá của sự khai hóa, “lòng nhân đạo” của chủ nghĩa thực dân không
nằm ngoài mục đích thị trường, cạnh tranh lợi tức, đặc quyền 1. Hồ Chí Minh còn
vạch rõ thủ đoạn bóc lột, đàn áp của chủ nghĩa thực dân: chiếm đất, cướp đất, lấn
đất; độc quyền rượu cồn, thuốc phiện; đủ mọi thứ sưu cao, thuế nặng: thuế chợ,
thuế than và nhất là thuế: thuế máu; chính sách ngu dân: nhà tù, đại lý rượu, thuốc
phiện nhiều hơn trường học; chính sách phân biệt chủng tộc, công lý của giai cấp
thống trị, chính sách chia để trị. Trừ tội ác, thủ đoạn bóc lột, đàn áp tàn bạo. Người
khái quát: “Cái chủ nghĩa thực dân này đã lạm dụng danh tiến tốt của nước Pháp để
bắt chúng tôi chịu những tai họa lớn như thế nào: phu sai, tạp dịch, thuế má nặng
nề, không một chút tự do, khủng bố không ngớt, khổ cực tinh thần và vật chất, bóc
lột tàn nhẫn…”2

Điều cực kỳ quan trọng là Hồ Chí Minh đã thấy rõ mối quan hệ giữa chính
quốc và thuộc địa, cả về phía những kẻ bóc lột, thống trị, cả về phía nhân dân lao
động. Đối với chủ nghĩa tư bản Người viết: “Hiện nay, tất cả sinh lực của chủ
nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy
nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hang, mộ công nhân rẽ
mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính người bản xứ
cho các đạo quân phản cách mạng của nó” 3 và “Ngày nay chủ nghĩa đế quốc đã
tiến tới một trình độ hoàn bị gần như là khoa học. Nó dung những người vô sản da
trắng để chinh phục những người vô sản các thuộc địa. Sau đó lại tung những
người vô sản ở một thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa

1
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr.46-138
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.4, tr. 65
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr. 234

11
khác. Sau hết, nó dựa vào những người vô sản ở các thuộc địa để thống trị những
người vô sản da trắng”4.

Về phái giai cấp công nhân Pháp, Hồ Chí Minh nhận định: Điều mà giai cấp
công nhân Pháp không thể biết đến là chủ nghĩa tư bản dựa vào thuộc địa để chống
lại tất cả mọi phong trào giải phóng mà giai cấp công nhân Pháp định mưu đồ. Do
đó, Người muốn tất cả công nhân ở chính quốc cần phải biết rõ thuộc địa là gì?
Phải biết những gì đã xảy ra ở các thuộc địa, phải biết rõ nỗi đau khổ mà những
người anh em vô sản ở thuộc địa đang chịu đựng đau khổ gấp ngàn lần nỗi đau khổ
của họ. Người lấy làm tiếc, vì “một số đông chiến sĩ vẫn còn tưởng rằng, một thuộc
địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với
mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì đến”5

Từ những chứng cứ trên, Hồ Chí Minh đi đến kết luận nổi tiếng về quan hệ
gắn bó giữa chính quốc và thuộc địa, phong trào cách mạng ở chính quốc và phong
trào cách mạng ở thuộc địa: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt hai
vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tực hút máu của giai
cấp vô sản; con vật vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” 6. Điều
đó. Người muốn chỉ cho chúng ta một cách sâu sắc rằng, chủ nghĩa tư bản muốn
tồn tại phải dựa vào hai nơi để bóc lột. Thiếu một trong hai nơi đó nó không tồi tại
được. Và như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản
ở chính quốc phải cùng tiến công ở hai đầu: “một đầu ở chính quốc, một đầu ở
thuộc địa, thì cách mạng mới dễ giành thắng lợi. Cách mạng vô sản ở chính quốc
có tác dụng công phá ngay tận sào huyệt của chủ nghĩa đế quốc, còn cách mạng

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr. 246
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr.63
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr. 298

12
giải phóng dân tộc thuộc địa lại có tác dụng đánh vào các hậu cứ của nó” 7. Đó là
mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại giữa cách mạng vô sản ở các nước đế
quốc với cách mạng của các dân tộc thuộc địa, hình thành một mặt trận chung
chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức.

2.2 Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời vận dụng thế giới quan và phương pháp luận
biện chứng mátxít phân tích tình hình cụ thể của Việt Nam. Người nêu lên những
đặc điểm cơ bản của Việt Nam mà nổi bật là lực lượng sản xuất lạc hậu, chủ nghĩa
tư bản chưa phát triển, sự phân hóa giai cấp trong nội bộ dân tộc chưa sâu sắc như
ở các nước phương Tây, mâu thuẫn cơ bản của xã hội không phải là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư bản, mà là mâu thuẫn giữa một bên là dân tộc
Việt Nam mà tuyệt đại bộ phận là nông dân với một bên là đế quốc Pháp và bọn
địa chủ phong kiến tay sai. Từ đó Hồ Chí Minh khẳng định đối với Việt Nam,
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân là
nhiệm vụ cơ bản, trước mắt, là giai đoạn xuất phát của toàn bộ sự nghiệp giải
phóng xã hội, con người.

Vì vậy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội., Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn
mạnh yếu tố dân tộc, nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Người đã đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên trên hết, trước hết và yếu tố dân tộc là quan trọng, xuyên suốt
mọi giai đoạn của quá trình cách mạng Việt Nam.

Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX những bài viết của Hồ Chí Minh đã
đề cập đến tình hình các nước thuộc địa và phụ thuộc, ra sức tố cáo tội ác của chủ
7
Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, tr. 177

13
nghĩa thực dân đế quốc, hết sức quan tâm đến khát vọng và tiềm năng của nhân
dân thuộc địa, đồng thời phân tích những khả năng, triển vọng của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc thuộc địa.

Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm
1924, Người đã viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương
Tây…”8 và “Mác cho ta biết rằng sự tiến triển các xã hội trải qua ba giai đoạn: chế
độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản; và trong mỗi giai đoạn ấy, đáu tranh giai
cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai
giai đoạn đầu không? Từ nhiều thế kỷ nay, họ chẳng hưởng được thái bình hay sao
để đến mức làm cho người châu Âu khinh rẻ họ (lười nhác, mê muội hang nghìn
năm…)”9. Về vai trò của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, Người cho đó là một “động
lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó
dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản
đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn
thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc;
nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật
Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”10.

Sau khi phân tích chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc, Hồ Chí
Minh nêu lên phương hướng, cương lĩnh chung: Phát động chủ nhĩa dân tộc bản
xứ, nhân danh Quốc tế Cộng sản…một chính sách hiện thực tuyệt vời, giờ đây,
người ta chẳng có thể làm gì được cho người Việt Nam mà không dựa trên những
động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ…

Không phải không có cơ sở, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở
Việt Nam (2-1930), Hồ Chí Minh đề nghị lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr. 464
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr.465
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.1, tr. 466

14
Người trình bày dự thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và được Hội nghị nhất trí thông qua. Lần đều tiên,
Đảng ta có một Cương lĩnh đúng đắn thể hiện những nguyện vọng thiết tha của dân
tộc, phản ánh khách quan quy luật vận động của xã hội Việt Nam, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp.

Tuy nhiên, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại Hội VI
Quốc tế Cộng sản có khoảng cách nhất định trong giải quyết quan hệ dân tộc và
giai cấp của cách mạng Việt Nam. Do đó, không phải ngay từ đầu mọi người đều
đã hiểu và quán triệt đúng tư tưởng này của Người, nên đã có lúc, có người cho
rằng Hồ Chí Minh coi nhẹ vấn đề giai cấp mà nặng vần đề dân tộc, rơi vào khuynh
hướng hữu khuynh, dân tộc, cải lương…

Phong trào cách mạng Việt Nam từ 1930 -1931 cho đến sau này, có lúc, có
nơi đã quá nhấn mạnh giai cấp, đấu tranh giai cấp, chưa nhận thức đầy đủ yếu tố
dân tộc nên đã có ảnh hưởng đến sự phát triển của nhiệm vụ giải phóng dân tộc và
của phong trào cách mạng. Đồng chí Lê Duẫn, cố Tổng bí thư của Đảng đã có
nhận xét: Trong phong trào 1930-1931, nội dung Mặt trận phàn đế nặng về giai cấp
hơn dân tộc, ta đã phạm sai lầm “tả” khuynh làm cho phong trào có phần cô độc:
phong trào 1936-1939, Mặt trận có tính chất dân chủ chung hơn là dân tộc; Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ, đường lối Mặt trận của Đảng mới có nội dung giai
cấp, dân chủ, dân tộc thực tế, đầy đủ; đến năm 1941, hình thức Mặt trận lại có ý
nghĩa dân tộc rõ ràng hơn, đó là Mặt trận Việt Minh.

Sự khẳng định mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, thể hiện ở mối quan hệ
giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở thuộc địa, là sự xác
nhận tính tất yếu của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại chúng ta, nó
không phải là một công thức để vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, giáo điều

15
mà phải hết sức linh hoạt, sáng tạo. Về chiến lược, Hồ Chí Minh đặt công cuộc giải
phóng dân tộc trong cách mạng vô sản, nhưng trong chỉ đạo cụ thể lại không bao
giờ coi nhẹ nhiệm vụ dân tộc và đề cao một cách không thực tế nhiệm vụ giai cấp.
Tuy nhiên, khi đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Người nhắc nhở
không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi giai cấp công nhân và nông dân cho một
giai cấp nào khác. Hơn nữa, tập trung giải quyết việc giải phóng dân tộc cũng
nhằm mục đích góp phần giải quyết nhiệm vụ giai cấp.

Phải nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945) và toàn bộ cách
mạng Việt Nam sau này, chứng minh Đảng ta, nhân dân ta đã thực hiện những tư
tưởng và đường lối có ý nghĩa quyết định đó của Hồ Chí Minh.

2.3 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là tư tưởng cơ bản, là hạt nhân
và nền tảng quan trọng cho các học thuyết chính trị của Người. Tư tưởng ấy đã
được cách mạng Việt Nam kiểm chứng, được lịch sử giải phóng dân tộc trên thế
giới khẳng định. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, tư tưởng độc lập, tự do
của Hồ Chí Minh không chỉ là động lực, mục tiêu, mà còn là cơ sở của chiến lược
tập hợp lực lượng rộng rãi trong cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong bước đi tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã gặp Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vân đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
như một sự kỳ ngộ của những tư tưởng lớn. Tư tưởng giải phóng toàn thể nhân dân
lao động thuộc địa và thực hiện quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc trong Sơ
thảo là sự trả lời đầy thuyết phục cho những vấn đề Người đang nung nấu, đang
khao khát tìm kiếm. Một chân trời mới được mở ra cho niềm tin và hoạt động của
Người trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, giải phóng các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân

16
tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” 11 . Thông qua cá
hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện và phát triển
những luận điểm của mình về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, mà
trong đó tư tưởng độc lập, tự do dân tộc là ngọn cờ hiệu triệu, là điểm sáng chói
ngời tính nhân văn, quy tụ, tập hợp lực lượng, tập hợp sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc vào cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người.

Hồ Chí Minh chọn con đường cách mạng vô sản, chọn đi theo chủ nghĩa xã
hội, chủ trương gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội vì theo Người, “chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Là một người Việt Nam yêu nước nhiệt thành, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến việc giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, độc lập dân tộc, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, không phải là độc lập của một nước quân chủ phong kiến cũng không
phải là độc lập của một nước dân chủ tư sản như nước Mỹ và nước Pháp mà là độc
lập của một nước xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân lao động được giải phóng
hoàn toàn làm chủ, nhân dân được hưởng trọn vẹn tự do, hạnh phúc và nền độc lập
thực sự của mình.

Tư tưởng độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân luôn là tư
tưởng chủ đạo, xuyên suốt trong toàn bộ nhận thức và hoạt động cách mạng của
Người. Lúc nào Người cũng đặt NƯỚC đi liền với DÂN; nước độc lập thì dân phải
được hạnh phúc. Đó là lẽ tự nhiên và cũng là mục tiêu phấn đấu của mọi cuộc cách
mạng thực sự vì dân. Nếu cách mạng chỉ giành được độc lập cho dân tộc nhưng
không giải phóng được nhân dân lao động khỏi ách nô lệ, dân không được tự do,
hạnh phúc thì cách mạng đó cũng chỉ là một cuộc cách mạng nửa vời, không triệt
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t. 9, tr.314

17
để (như cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp), sớm muộn nhân dân ta phải làm cuộc
cách mạng lần nữa.

Trong tư duy và nhận thức của mình, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xác định
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; độc lập trên nền tảng xã hội chủ
nghĩa. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp trước mắt, có tính cấp bách, nhưng
không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Giành độc lập cho dân
tộc mới chỉ là hoàn thành được mục tiêu cơ bản trước mắt. Muốn hoàn thành được
mục tiêu cuối cùng, giải phóng hoàn toàn các tầng lớp nhân dân lao động khỏi áp
bức bóc lột thì phải đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi theo con đường chủ
nghĩa xã hội, không có con đường nào khác. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội
là một bảo đảm cho độc lập dân tộc được vững chắc, bền lâu. Chỉ có dưới chủ
nghĩa xã hội, một xã hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”, “làm cho mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do” thì nhân dân lao động mới sẵn sang đem
hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ gìn nền tự do độc lập ấy.

Tổng kết mấy chục năm đấu tranh cách mạng của Đảng, của nhân dân và
của dân tộc, Hồ Chí Minh viết: “Trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa một
bên là giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức với một bên
là bọn đế quốc cùng bè lũ tay sai bán nước, bọn phong kiến địa chủ và tư sản phản
động, nhân dân các nước cần có tinh thần cách mạng triệt để, luôn luôn giương cao
ngọn cờ của chủ nghĩa anh hung cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên
quyết đấu tranh đến cùng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” 12. Đó là kết luận
của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam – một kết luận mang tính
khái quát cao, ở tầm quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
trong thời địa ngày nay.

12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t. 12, tr. 304

18
Với việc nêu lên tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh đã thực sự đứng trên lập trường giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề độc
lập dân tộc, đứng trên quan điểm cách mạng vô sản để giải quyết vấn đề giải phóng
dân tộc, đã làm cho độc lập dân tộc mang nội dung mới, có sự phát triển mới so
với quan điểm của các bậc cách mạng tiền bối. Đó là, độc lập dân tộc vận động và
phát triển trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và cách mạng thế giới, tiến tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm cơ bản, trung tâm
và xuyên suốt trong toàn bộ quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. Nó là cơ sở để hình thành và phát triển đường lối cách mạng
Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử - đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tư tưởng độc lập, tự do là kim chỉ
nam, quyết định mọi thắng lợi hơn 70 năm qua. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội xuất phát điểm vì con người, vì dân tộc, lấy con người, lấy
dân tộc làm động lực, mục tiêu. Độc lập , tự do là quy luật phát triển và tồn tại của
dân tộc Việt Nam chứa đựng ba yếu tố: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Tìm hiểu tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh phải tìm
hiểu trên những khía cạnh sau:

- Độc lập gắn liền với thực hành dân chủ

Đất nước ta vốn là nước thuộc địa, nữa phong kiến; mâu thuẫn cơ bản của
nước ta lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và tay sai,
mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Ngay từ CHánh cương,
Sách lược vắn tắt (2-1930), Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách mạng Việt Nam là
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng; tiến lên xã hội cộng sản nhằm

19
mục tiêu độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày, dân chủ cho nhân dân. Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị lấy tên nước là nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người xác định:

“Nước ta là nước dân chủ.

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”13

Trên ý nghĩa ấy một khi đã giành được độc lập cho Tổ quốc, tực hiện giải
phóng dân tộc, thì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đó phải đưa nhân dân lên vị
trí làm chủ đất nước, thực hiện giải phóng triệt để con người khỏi thân phận nô lệ,
làm thuê. Tính triệt để cách mạng đó trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã pân biệt rõ
tính chất cuộc cách mạng giải phóng dân tộc kiểu mới do giai cấp công nhân lãnh
đạo với tất cả các phong trào cách mạng trước đây đã từng diễn ra ở Việt Nam.

- Độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân

Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh cho độc lập, tự do, rút cục lại phai đem đến
hạnh phúc cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”14 và “Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”15.

13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.5, tr.698
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.4, tr. 56
15
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.4, tr. 152

20
Khi nắm chính quyền, làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minhluôn luôn quan tâm
đến mọi mặt đời sống của nhân dân: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành…quan tâm đến
mọi lớp người từ cụ già đến em bé, từ phụ nữ đến thanh niên, từ công nhân đến
nông dân, trí thức, những nhà tu hành…

Người nhấn mạnh: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm
nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.

Vì vậy cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức
quan tâm đến đời sống của nhân dân”16.

- Độc lập phải gắn với thống nhất Tổ quốc

Kẻ thù ra sức chia cắt đất nước Việt Nam. Dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, chúng chia nước Việt Nam thành ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ có chế
độ cai trị riêng, kết hợp với Cao Miên và Lào thành Liên bang Đông Dương. Sau
thắng lợi Cách mạng tháng Tám của Việt Nam, thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược nước ta them một lần nữa, chúng đưa con bài Nam kỳ tự trị, Tây nguyên tự
trị, chia rẽ dân tộc ta, làm suy yếu sức mạnh của dân tộc để dễ dàng thực hiện âm
mưu thâm hiểm của chúng là cướp nước ta một lần nữa. Sau thắng lợi của Hội nghị
Giơnevơ, đế quốc Mỹ lại muốn biến giới tuyến tạm thời thành biên giới chia cắt
vĩnh viễn hai miền Nam – Bắc.

Vì vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, độc lập bao giờ cũng gắn liền với
thống nhất đất nước; Nam Bắc một nhà. Người khẳng định chân lý: “Đồng bào
Nam Bộ là dân nước Việt Nam.

16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.7, tr. 572

21
Sông có thể cạn, núi có thể nòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”17.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh mong muốn cả nước đẩy mạnh công cuộc “xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” 18.
Rõ ràng, lúc đó Hồ Chí Minh đặt yêu cầu thống nhất lên trước độc lập và dân chủ
vì lúc bấy giờ âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai là chia cắt lâu dài đất nước ta.

- Độc lập là “độc lập thực sự”, không phải là “độc lập giả hiệu”. Đấu
tranh cho độc lập tự do đi đôi với quyết tâm giữ vững độc lập tự do.

Kẻ thù thường xuyên dung mọi thủ đoạn gieo rắc ảo tưởng về độc lập tự do,
nêu lên những khẩu hiệu “độc lập tự do, dân chủ, dân quyền và thiện chí” giả hiệu.
Chính quyền chúng dựng nên chỉ là chính quyền tay sai cho chủ nghĩa thực dân đế
quốc. Nền kinh tế chúng xây dựng chỉ là nền kinh tế thực dân, làm cho nền kinh tế
dân tộc bị phụ thuộc, què quặt. Nền giáo dục mang tính thực dụng, cắt xén nhằm
phục vụ cho việc đào tạo nên một đội ngũ những viên chức làm việc cho bộ máy
thống trị. Nền văn hóa lại càng mất dần tính chất dân tộc, ca ngợi chế độ thực dân
và bọn xâm lược, hạ thấp truyền thống đạo đức của dân tộc.

Chính vì vây, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải đấu tranh giành cho được độc
lập thực sự, phải chống chủ nghĩa thực dân cũ và cả chủ nghĩa thực dân mới để
giành độc lập ,tự do, hòa bình, thống nhất cho đất nước. Khi đã giành được độc
lập, tự do, “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mang và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”19. Trong dịp thăm đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”20. Câu nói này của Người biểu hiện một chân lý, một quy luật tồn tại và phát

17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t. 4, tr.246
18
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t. 12, tr. 512
19
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.4, tr.4
20
Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh – Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên
tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, t.5, tr.533

22
triển của dân tộc ta, xác định nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam là
xây dựng đất nước gắn với bảo vệ đất nước. Trên tinh thần ấy, Đảng ta đã coi xây
dựng kết hợp với bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản của nhân dân
ta.

Tư tưởng về độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc,
hoàn chỉnh, triệt để. Tư tưởng đang và vẫn tiếp tục trở thành mục tiêu, lý tưởng của
toàn dân Việt Nam. Nguyên lý: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” đã trở thành chân lý, khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân Việt
Nam làm nên kỳ tích vĩ đại: Đánh thắng hai đế quốc to, đưa đến thắng lợi độc lập,
thống nhất toàn vẹn của đất nước. Tư tưởng đó mãi mãi là ngọn cờ chỉ đạo, là khẩu
hiệu động viênm cổ vũ nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” hiện nay.

2.4 Đại đoàn kết toàn dân tộc


- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng

Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân
dân ta. Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao
động phải tự mình cứu lấy mình bằng  cách mạng vô sản.

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được  Người coi là vấn đề
sống còn của cách mạng.
- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản,
nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

23
- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh,
là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng
đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất.
Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô của đoàn kết quyết
định quy mô,mức độ của thành công.
- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại
lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là
vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định toàn dân
Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không
chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất
và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường
đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào,
đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại.
Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên  thắng lợi của
Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích:
Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của
toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo
đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.Lực lượng
toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Sử dạy cho ta bài học này:
Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại,
lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn.
Và Người khuyên dân ta rằng:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:

24
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”21
Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi
vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ  của quần chúng, do quần chúng, vì quần
chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức
mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân,
hạnh phúc cho con người.
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu
tiên,  không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết dân
tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh
chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức,
có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”22.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng
với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào
dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công
nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được
củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại
bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ:

21
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t. 3, tr. 229
22
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t. 7, tr.438

25
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công.

Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân
tộc  là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được thực hiện thành công là một nhân tố quyết định cách mạng dân
tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên
giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

26
Chương 3: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC

Việc khẳng định ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng thể hiện rõ tầm cao trí tuệ cũng như giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua
biên giới Việt Nam đến với nhiều quốc gia dân tộc có hoàn cảnh như Việt Nam
trong đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Nói về Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường
giải phóng các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới... Vấn đề
là ở chỗ, cần làm rõ ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh
vực lý luận cũng như thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước ta trong bối cảnh
hiện nay như thế nào.

Tiếp thu đồng thời phát triển học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã thấy
thế giới là thống nhất, không chỉ gồm các nước tư bản phát triển mà cả nhân loại
cần lao đang cần được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, khỏi nghèo nàn, lạc hậu để
có cuộc sống thật sự ấm no, hạnh phúc, cuộc sống đúng với ý nghĩa của nó. Người
tìm thấy đối tượng cần được giải phóng cũng như nguồn lực sức mạnh đấu tranh
giải phóng con người không chỉ có giai cấp vô sản mà là những người lao động
trên khắp hành tinh, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, mầu da, nam, nữ
và cả chính kiến.

Chính vì lẽ đó, từ khi đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với học thuyết Mác và
chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ tìm được con đường cứu nước mà còn
trang bị cho mình một nhân sinh quan mới, tìm thấy con đường phát triển của một
đất nước còn lạc hậu, kém phát triển như Việt Nam. Ðây là quá trình Hồ Chí Minh
tìm hiểu và vận dụng những nguyên lý cách mạng và học thuyết của học thuyết

27
Mác và chủ nghĩa Lênin vào Việt Nam với tư duy độc lập, sáng tạo. Chính quá
trình đó, Người không chỉ thành công trong việc vận dụng một học thuyết vốn có
cơ sở thực tế từ xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa vào thực tiễn một nước thuộc
địa, nông nghiệp, chưa phát triển như Việt Nam mà còn phát triển học thuyết Mác
lên một tầm cao mới phù hợp không chỉ với thế giới tư bản chủ nghĩa mà cả với
phần thế giới còn lại là những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản
mà Việt Nam là một điển hình.

Từ đó, có thể nói, nếu học thuyết Mác và chủ nghĩa Lênin mang tính thời đại
bao nhiêu thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng mang giá trị thời đại bấy nhiêu. Với
Mác, ý nghĩa thời đại của học thuyết cách mạng và khoa học diễn ra trực diện và
phù hợp với những nước phát triển chủ nghĩa tư bản. Với Lênin, thời đại đã được
xác định với tên gọi cụ thể nhưng vẫn tập trung ở ý nghĩa đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp công nhân và chủ nghĩa tư bản. Với Hồ Chí Minh, ý nghĩa và giá trị thời
đại không chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển mà còn bao quát hơn ở tất cả các
nước chưa phát triển; không chỉ bao gồm cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp
công nhân với chủ nghĩa tư bản mà cuộc đấu tranh đã được mở rộng trên tất cả các
phạm vi và lĩnh vực đời sống xã hội; không chỉ là đấu tranh giai cấp với ách áp
bức, bóc lột mà cả đấu tranh xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu, nhằm xây dựng một thế
giới mới theo mục tiêu lý tưởng của Mác: "Tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Hồ Chí Minh tiếp thu Mác ở hai khía cạnh lớn: Ðó là phương pháp luận biện
chứng và nhân sinh quan tất cả vì con người, cho con người và do con người.
Nhưng, Người tập trung hơn vào phát hiện thứ ba của Mác được Ăng-ghen nhắc
đến sau khi Mác qua đời, đó là lịch sử phát triển các nền văn minh, tập trung vào lý
tưởng giải phóng con người không chỉ khỏi áp bức, bóc lột mà còn phải giải phóng

28
con người khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Ðây là vấn đề có ý nghĩa thời đại cấp bách
hiện nay.

Từ những phát hiện mới, Hồ Chí Minh phát huy chủ nghĩa dân tộc chân
chính gắn với chủ nghĩa quốc tế chân chính nhằm tổ chức cuộc đấu tranh trường
kỳ, anh dũng để giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước ta phát
triển theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Ðó là sự khởi đầu mang tính thời đại một
cách sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay chủ nghĩa tư bản không còn
phát triển bình thường nữa, chính nó đã tạo ra sự vận động hình thành không
ngừng những ý niệm, vì theo Mác, những quan hệ sản xuất trong đó giai cấp tư sản
vận động, không có một tính chất nhất trí, một tính chất đơn mà là một tính chất
kép; rằng trong cùng quan hệ ấy sự giàu có được sản sinh ra thì sự khốn cùng cũng
được sản sinh ra; trong cùng những quan hệ ấy, có sự phát triển của lực lượng sản
xuất thì cũng có một lực lượng sản sinh ra áp bức; rằng những quan hệ ấy chỉ sản
sinh ra sự giàu có tư sản, nghĩa là sự giàu có của giai cấp tư sản, bằng cách không
ngừng thủ tiêu sự giàu có của những thành viên cấu thành của giai cấp ấy và bằng
cách sản sinh ra một giai cấp vô sản không ngừng tăng lên. Ðó là biểu hiện của sự
thoái trào của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự phá sản tất yếu
của nó, là hậu quả tất yếu của phương thức sản xuất hiện đang tồn tại "những dấu
hiệu chứng tỏ rằng phương thức sản xuất đó bắt đầu tan rã" như Ăng-ghen dự báo.

Trên cơ sở thực tiễn ấy, Hồ Chí Minh đã rút ra nhận định: "Thời đại chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại của một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài
chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc". Chính nhóm nước lớn, do bọn tư bản
tài chính cầm đầu được xem là "thầy phù thủy" không kiểm soát nổi của chủ nghĩa
tư bản, đang tạo nên sự phá sản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi
một phương thức sản xuất mới thay thế. Ðó chỉ có thể là chủ nghĩa xã hội. Không
phải là ngẫu nhiên, trong sự vận động hình thành những ý niệm trong lòng chủ
29
nghĩa tư bản, cũng xuất hiện cả ý niệm về chủ nghĩa xã hội. Ðiều đó chứng minh
rằng, chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản.

Hiện nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra sức sản xuất mới
đáng lẽ phải có một chế độ xã hội mới cao hơn là chủ nghĩa xã hội tương ứng với
nó, nhưng xã hội mới đó lại chưa đủ mạnh để thay thế chủ nghĩa tư bản đã không
còn thích hợp nữa. Trong bối cảnh đó, nhân loại hướng về việc tìm kiếm một mô
hình về chủ nghĩa xã hội, dường như là điều tất yếu. Và, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với Việt Nam mà còn có ý
nghĩa và giá trị thời đại ở ngay cả các nước tư bản phát triển, dù cho quan niệm về
chủ nghĩa xã hội đang cũng có nhiều ý kiến khác nhau.

Phát hiện quan trọng nữa của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở những nước chưa phát triển như Việt Nam, không chỉ là đấu tranh giai cấp
mà trước hết và trên hết phải tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, làm sao
cho dân giàu, nước mạnh, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Ðó là con đường phấn
đấu lâu dài, gian khổ, liên tục trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn
hóa và xã hội, y tế và giáo dục.

30
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng trong phong trào giải
phóng dân tộc. Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam nói
riêng và cho tất cả dân tộc trên thế giới nói chung. Người đã chủ động lên án tội ác
của bọn chủ nghĩa thực dân, thức tĩnh nhân dân các nước thuộc địa đứng lến đấu
tranh chống lại bọn chủ nghĩa thực dân đế quốc. Người đã giải quyết mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, mối quan hệ hữu cơ của cách mạng giải phóng dân tộc
của nhân dân các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc; Người đã đề
ra đường lối, bước đi của cách mạng giải phóng dân tộc và chỉ ra những nhân tố
đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. người còn khẳng định sự phát triển từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là con đường tất
yếu để hoàn thành triệt để sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực trong phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng và cho cả thế giới nói chung; nó còn có
ý nghĩa rất lớn cho sự phát triển ngày nay của nước ta và đối với cuộc đấu tranh
của các dân tộc, nhất là nhân dân các nước đang phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một đóng góp to lớn vào kho tàn của dân tộc và
của cả thế giới. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ
hết sức to lớn và không ít khó khăn, đòi hỏi sự đóng góp trí tuệ và kiến thức củ
nhiều nhà khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cả trong nước và ngoài nước. Do đó,
việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ còn tiếp tục, chẳng những để làm sáng tỏ
những giá trị đích thực của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà con để vận dụng sáng tạo
vào đời sống thực tiễn hiện nay. Đó cũng chính là làm cho tư tưởng của Người

31
ngày càng phát huy sức sống mạnh mẽ trong sự nghiệp cách mạng của nhâ ndân ta
nói riêng và của cả nhân loại nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
2. Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông
tin lý luận.
3. TS. Đinh Xuân Lý (Chủ biên) (2005), Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 1.
5. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3.
6. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4.
7. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5.
8. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7.
9. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 9.
10.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12.
11.TS. Nguyễn Đình Thuận (2002), Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc (1911 – 1945), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12.Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh – Viện
Hồ Chí Minh (1995): Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia.
13. Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước đi đôi với giữ nước, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

32

You might also like