You are on page 1of 20

ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

BM TIẾNG ANH ĐẠI CƯƠNG - KHOA NGOẠI NGỮ

TÀI LIỆU HỘI THẢO


CẤP CƠ SỞ

ĐỔI MỚI, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP

GIẢNG DẠY, PHƯƠNG THỨC KIỂM TRA

ĐÁNH GIÁ CÁC HỌC PHẦN ANH VĂN CƠ BẢN

HẢI PHÒNG, 2015


CHƯƠNG TRÌNH HỘI NGHỊ ĐỔI MỚI, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP
GIẢNG DẠY, PHƯƠNG THỨC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
CỦA BỘ MÔN TIẾNG ANH ĐẠI CƯƠNG

Thời gian: 8.00 ngày 26/1/2015 tại VP Bộ môn, phòng 403 A5


Chủ trì: Th.S Nguyễn Hồng Ánh
Thư ký: Th.S Nguyễn Thị Thúy Thu

Thời gian Nội dung công việc Thực hiện Người giới
thiệu

8.00 - 8.10 Tuyên bố lý do tổ chức hội thảo Chủ trì hội nghị Nguyễn Hồng
Ánh
Th.S Nguyễn Hồng
Ánh
Tham luận 1: Thực trạng đào tạo GV Nguyễn Hồng Ánh
8.10-8.17 AVCB, kiến nghị giải pháp đổi Đại biểu phát biểu +
mới. trao đổi
Tham luận 2: Đổi mới phương GV Nguyễn Thị Huệ
8.20-8.35 pháp giảng dạy AVCB1 theo định Linh Nguyễn Hồng
hướng lấy việc học làm trung tâm. Đại biểu phát biểu + Ánh
trao đổi
Tham luận 3: Thực trạng tài liệu GV Lê Hiền Thảo
8.35-8.50 giảng dạy AVCB 1. Kiến nghị và Đại biểu phát biểu + Nguyễn Hồng
giải pháp cải tiến. trao đổi Ánh
Tham luận 4: Thực trạng tài liệu GV Ngô Thị Nhàn
8.50-9.05 giảng dạy AVCB 2 và Kiến nghị Đại biểu phát biểu + Nguyễn Hồng
và giải pháp cải tiến. trao đổi Ánh
Tham luận 5: Đánh giá điểm X và
9.05-9.20 GV Lê Minh Phương Nguyễn Hồng
điểm Y đối với các học phần
Đại biểu phát biểu +
AVCB hiện nay, kiến nghị và giải Ánh
trao đổi
pháp cải tiến.
Tham luận 6: Giải pháp lượng hóa
9.20-9.35 GV Lê Thị Hồng Loan Nguyễn Hồng
điểm Z3 đối với các học phần Anh
Đại biểu phát biểu +
văn dành cho SV các lớp chất Ánh
trao đổi
lượng cao.
Tham luận 7: Tổ chức thi trắc
9.35-9.50 GV Phùng Mai Trang Nguyễn Hồng
nghiệm AVCB1 trên máy tính,
Đại biểu phát biểu +
thuận lợi và khó khăn. Kiến nghị Ánh
trao đổi
và giải pháp cải tiến.

9.50-10.05 Kết luận + Chương trình hành động Nguyễn Hồng


Ánh

1
Họ và tên: ThS. Nguyễn Hồng Ánh
Đơn vị: Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại ngữ, ĐH Hàng hải Việt Nam
Chức danh: Trưởng Bộ môn

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO AVCB , KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI.

Với chủ trương của nhà trường về áp dụng chuẩn đầu ra là trình độ B1 quốc tế
(TOEIC 450) đối với sinh viên tất cả các hệ đại học và cao đẳng trong trường, đặc biệt
B2 đối với sinh viên các lớp chất lượng cao, BM Tiếng Anh đại cương đã nhận thức
được rằng chương trình giảng dạy và hệ thống kiểm tra đánh giá các học phần AVCB
phải giúp sinh viên tiếp cận gần hơn tới tiêu chí đạt chuẩn đầu ra về Tiếng Anh.
I. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO AVCB
Tài liệu giảng dạy: Tập thể cán bộ giảng viên BM Tiếng Anh đại cương đã
biên soạn mới 100% các tài liệu giảng dạy cho các học phần tiếng Anh cơ bản và
AVCB trong toàn trường. Hiện nay tất cả các tài liệu giảng dạy AVCB đều lựa chọn
nội dung từ các giáo trình sẵn có trên thị trường, được biên soạn phù hợp thời lượng 45
tiết/ 1 phần và bám sát mục tiêu chuẩn đầu ra đối với sinh viên hệ đại học của trường.
Việc biên soạn cũng chú trọng tới việc thiết kế các hoạt động hướng dẫn sinh viên tự
học, tự nghiên cứu.
- Học phần AVCB 1 tổng hợp và củng cố kiến thức ngữ pháp sinh viên đã được học
ở cấp độ phổ thông, giúp sinh viên sinh viên nắm được và vận dụng được hệ thống
ngữ pháp tiếng Anh cơ bản ở cấp độ B1 khung trình độ chung châu Âu (Pre-
intermediate).
- Các học phần AVCB 2 và 3 cung cấp từ vựng, hướng dẫn và thực hành các kĩ
năng nghe hiểu, đọc hiểu cơ bản phục vụ cho các tình huống giao tiếp hàng ngày và
trong môi trường làm việc có sử dụng tiếng Anh ở cấp độ B1 khung trình độ
chung châu Âu (Pre-intermediate).
Nhược điểm chung của các tài liệu giảng dạy AVCB hiện nay là do thời lượng
giảng dạy hạn chế, chương trình dạy và học AVCB chưa tập trung phát triển đồng
đều cả 4 kỹ năng ngôn ngữ: Nghe, nói, đọc, và viết. Ngoài ra, theo khảo sát từ
giảng viên và sinh viên, các giáo trình chưa giảm tải hợp lý phù hợp với thời lượng
học trên lớp.

2
- Với hệ đào tạo chất lượng cao, bắt đầu từ năm học 2015, BM đã áp dụng bộ giáo
trình American English files để giảng dạy các học phần Anh văn 2 và Anh văn 3 để
phát triển đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho sinh viên theo yêu cầu đặt ra trong
khung chương trình giáo dục đại học hệ chất lượng cao.
Tổ chức giảng dạy: Với sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường và Phòng
Đào tạo, hiện nay các lớp học AVCB trong toàn trường chỉ còn tối đa 35 sinh viên
một lớp. Phòng đào tạo cũng đã hỗ trợ Bộ môn sàng lọc sinh viên đăng ký các lớp học
phần AVCB theo trình độ thích hợp. Do đó giảng viên có điều kiện triển khai các hoạt
động giảng dạy ngôn ngữ theo phương pháp giao tiếp thuận lợi hơn. Tất cả các phòng
học hiện nay cũng đã được trang bị máy chiếu, hỗ trợ rất nhiều về mặt trực quan khi
giảng dạy từ vựng, cấu trúc câu và giao tiếp.
Phương pháp giảng dạy: chưa hoàn toàn lấy việc học làm trung tâm. Sinh viên
một số lớp thụ động trong tiếp thu kiến thức do một số giảng viên vẫn áp dụng phương
pháp giảng dạy truyền thống (giảng viên truyền đạt tri thức một chiều). Giảng viên chưa
triệt để áp dụng các biện pháp theo dõi sát sao để kiểm soát, đôn đốc SV tự học hiệu quả.
Hình thức kiểm tra đánh giá: Với mỗi học phần được đảm nhận, BM Tiếng
Anh đại cương đều đã biên soạn xong hệ thống ngân hàng câu hỏi thi tương ứng, bám
sát nội dung giảng dạy của từng học phần theo nguyên tắc "Học gì thi nấy". Việc tổ
chức thi và chấm thi được Phòng Khảo thí triển khai độc lập, đảm bảo sự công khai,
minh bạch trong thi cử. Ngoài ra, kết thúc học kỳ 1B, BM Tiếng Anh đại cương đã kết
hợp với Trung tâm quản trị mạng và Khoa Công nghệ thông tin để tổ chức thành công
kỳ thi Anh văn 1 trên máy tính cho 321 sinh viên các lớp chọn ĐKT, MKT và các lớp
chất lượng cao trong trường. Hình thức thi này đã giúp cắt bỏ chi phí in ấn đề thi, dễ
dàng cập nhật và hiệu đính nội dung trong quá trình SV làm bài và tính điểm cho sinh
viên, công khai kết quả thi ngay sau khi kết thúc bài thi, đảm bảo tuyệt đối sự khách
quan và công bằng trong kiểm tra, đánh giá.
Tuy nhiên, quy trình đánh giá điểm X hiện nay chưa thực sự có tác dụng
khuyến khích sinh viên tự học. Vì điểm X được tính là trung bình cộng của 2 bài kiểm tra
tư cách, không có quy định cụ thể về đánh giá sinh viên tự học.

KHÓ KHĂN HIỆN TẠI


1. Trình độ sinh viên: Với tổng thời lượng giảng dạy trên lớp là 135 tiết, 3 học
phần AVCB được thiết kế giảng dạy trên cơ sở sinh viên đạt trình độ A2 khung
trình độ chung Châu Âu trước khi bắt đầu học AVCB 1 và AVCB 2. Với sinh
viên thi đầu vào đại học khối A, đa số sinh viên chưa đạt được trình độ A1.

3
Chính vì thế, trong khi các sinh viên thi đầu vào khối D hoặc có nền tảng tiếng
Anh tốt không gặp nhiều trở ngại trong việc đạt chuẩn đầu ra, thì các sinh viên
này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu của 3 học phần AVCB
và chuẩn đầu ra TOEIC 450 nếu sinh viên không có thói quen tự học và giảng
viên không có hình thức đôn đốc, khuyến khích sinh viên tự học.
2. Thiếu giảng viên giảng dạy
BM Tiếng Anh đại cương đang bị quá tải về thời lượng giảng dạy. Với số lượng 12
giảng viên trực thuộc bộ môn, và sự trợ giúp từ 20 giảng viên từ các bộ môn khác
trong khoa, BM Tiếng Anh đại cương đảm nhận thời lượng khoảng 16.500 tiết dạy
hệ chính quy hàng năm (trung bình 500 tiết/ 1gv), chưa tính các lớp chương trình
tiên tiến, cao học, hệ vừa làm vừa học của trường. Sự quá tải này là một phần
nguyên nhân dẫn đến việc giảng viên khó có thể thường xuyên cải tiến, đầu tư sâu
về bài giảng.
3. Ý thức và động cơ học tập của SV còn kém. Nhiều SV vẫn giữ tâm lý "nước đến
chân mới nhảy" thay vì lập kế hoạch phấn đấu đạt chuẩn đầu ra ngay từ những năm
học đầu tiên.
4. Các phòng thực hành tiếng (Phòng Lab) vẫn còn hiện tượng máy móc thiết bị hỏng
hóc chưa được sửa chữa triệt để. Tình trạng kéo dài dẫn đến việc không thể khai thác
triệt để phòng Lab để SV lớp thực hành, và hiện tại không thể triển khai thi trắc
nghiệm trên máy tính dựa vào cơ sở vật chất của nhà trường giao Khoa Ngoại ngữ
quản lý.
I. KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI.
1. Giải pháp khuyến khích động cơ học tập của SV: Nhà trường quy định bằng văn
bản phổ biến rộng rãi các hình thức khuyến khích SV chủ động thi đạt chuẩn đầu ra ngay
từ năm thứ nhất. Cụ thể, miễn thi, thậm chí miễn học phí, và công nhận điểm của học
phần tiếng Anh kế tiếp đối với SV đã có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế (chứng chỉ phải nộp
trước khi đăng ký học phần và phải còn thời hạn sử dụng).
Trên cơ sở sàng lọc sinh viên và xếp loại sinh viên đăng ký các học phần AVCB
theo các nhóm cùng trình độ ngoại ngữ, Phòng đào tạo tổ chức các lớp các lớp tiếng
Anh bổ sung dành cho sinh viên các nhóm trình độ thấp để các em đạt được mục tiêu
đào tạo.
Thay đổi quy chế tính điểm X: bổ sung ít nhất 1 điểm thành phần trong công
thức tính điểm X là điểm đánh giá sinh viên tự học và thái độ, ý thức đóng góp của
sinh viên trong các giờ học.
2. Giải pháp về tài liệu giảng dạy AVCB:

4
Giảm tải, chỉnh lý giáo trình trên cơ sở ý kiến phản hồi của giảng viên và sinh viên,
nhưng vẫn bám sát mục tiêu đào tạo. Sau mỗi lần hiệu đính, lại tiếp tục khảo sát ý kiến
của giảng viên và sinh viên để cải tiến giáo trình.
3. Giải pháp để cải tiến phương pháp giảng dạy tiếng Anh:
Thay thế phương pháp giảng dạy truyền thống (diễn dịch) bằng phương pháp giảng
dạy tiên tiến (quy nạp). Thay vì truyền đạt lại kiến thức SV đã được học từ cấp 3, giảng
viên khơi gợi lại kiến thức của SV, tổ chức giảng dạy sao cho SV tự tổng hợp, phân tích
và đưa ra kết luận. Song song với việc giới thiệu kiến thức và thực hành, giảng viên tổ
chức SV tự học theo hướng dẫn và có hình thức giám sát, đánh giá việc tự học của SV.
Tiến hình khảo sát về phương pháp giảng dạy của giảng viên tại các lớp học phần
AVCB, gửi ý kiến phản hồi của SV tới giảng viên giảng dạy để giảng viên điều chỉnh
phương pháp giảng dạy.
Tăng cường sinh hoạt chuyên môn: Các cuộc họp chuyên môn không chỉ giới hạn
trong nội bộ BM tiếng Anh đại cương mà nên có sự tham gia của tất cả các giảng viên
tham gia giảng dạy các học phần Anh văn cơ bản, để phổ biến trực tiếp các nội dung đổi
mới.
Tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm giảng dạy tại các trường hoặc các trung
tâm có danh tiếng tốt về đào tạo ngoại ngữ.
4. Giải pháp về phương thức đánh giá học phần:
Cụ thể hóa đối với các điểm đánh giá quá trình (X, Z1, Z2, Z3) sao cho khuyến
khích sinh viên tự học và tích cực tham gia vào quá trình học trên lớp.
Nâng trọng số điểm X để điểm Z phản ánh chính xác hơn về quá trình học của sinh
viên trong suốt một học phần.
5. Khắc phục tình trạng hỏng hóc tại 4 phòng thực hành:
Kiến nghị nhà trường khảo sát toàn bộ tình trạng máy móc, thiết bị, mạng kết nối,
phần mềm và đầu tư máy chủ dành riêng cho các phòng thực hành tiếng để có thể khai
thác được các phòng này giống các phòng thực hành máy tính chuyên dùng tổ chức thi
trên máy tính tại khoa CNTT. Với cơ sở vật chất của riêng mình, BM TADC sẽ có thể tự
chủ về quy trình tổ chức thi, và tiến tới áp dụng mở rộng hình thức thi với số lượng sinh
viên đông đảo trong mỗi học phần.

5
Họ và tên: ThS. Nguyễn Thị Huệ Linh
Đơn vị: Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại ngữ, ĐH Hàng hải Việt Nam
Chức danh: Giảng viên BM Tiếng Anh đại cương

"ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY AVCB1 THEO ĐỊNH


HƯỚNG LẤY VIỆC HỌC LÀM TRUNG TÂM "
Với chủ trương của nhà trường về áp dụng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo, từ góc độ của giảng viên, tôi nhận thấy việc thay đổi phương pháp dạy truyền
thống (teacher-centred) sang phương pháp giảng dạy lấy nhu cầu học làm trung tâm
(learning-centred) là một giải pháp đúng đắn trong tình hình mới. Có thể nói cốt lõi của
đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập
thụ động. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải
là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương
pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng
ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có
trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng
được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không thành
công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải
kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập
chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có
sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì
mới thành công.
CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
1. Thuyết giảng theo kiểu tích cực
Thuyết giảng (lecture) là phương pháp chủ lực của lối giảng dạy truyền thống, đặc
biệt trong việc dạy lý thuyết về các hiện tượng ngữ pháp và cấu trúc câu ở AVCB1, nhưng
thuyết giảng không phải là thứ bỏ đi trong phương pháp giảng dạy tích cực. Nếu chủ yếu
thuyết giảng một chiều, nghĩa là đơn thuần truyền đạt kiến thức từ người dạy sang người
học, thì đó là phương pháp giảng dạy thụ động. Nhưng nếu thuyết giảng theo lối tương
tác, đặt vấn đề cho người học suy nghĩ và lôi cuốn người học cùng giải quyết vấn đề với
giảng viên thì đó lại là phương pháp giảng dạy tích cực. Như vậy, nếu biết cách thuyết
giảng thì vẫn đảm bảo tính tích cực và vẫn mang lại kết quả tốt cho người học.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để thuyết giảng hiệu quả?
Một là về phương pháp thuyết giảng. Trước hết, lời giảng phải gẫy gọn, súc tích, chặt
chẽ. Sau đó, tốt nhất và hiệu quả nhất là trình bày theo lối tương tác, nghĩa là liên tục trao
đổi với sinh viên trong quá trình thuyết giảng.

6
Khi tương tác, kinh nghiệm cho thấy là giảng viên nên tìm cách đặt vấn đề để sinh
viên suy nghĩ trước khi giảng viên nói ra điều muốn nói, không nên nói trước kết quả mà
hãy dẫn dắt sinh viên cùng tư duy để đi đến kết quả. Cách làm này sẽ mang lại hiệu quả
cao trong việc phát triển khả năng tư duy độc lập và gia tăng mức độ tiếp thu bài của sinh
viên. nếu sinh viên được yêu cầu tham gia suy nghĩ thay vì thụ động tiếp nhận thông tin
thì họ sẽ tập trung hơn, có thể tự kiểm tra sự hiểu biết của bản thân họ, đồng thời được gợi
ý về việc chọn lựa nội dung cần nhấn mạnh.
Hai là phải tổ chức các hoạt động đan xen trong quá trình thuyết giảng . Hoạt động có
thể là đặt vấn đề để sinh viên suy nghĩ và phát biểu, chứng minh một vấn đề, thảo luận
từng đôi, thảo luận nhóm, v.v… Việc này tưởng chừng như hao phí thời gian nhưng thực
ra cái lợi thu được sẽ lớn hơn nhiều so với trường hợp dành toàn bộ lượng thời gian đó
cho giảng viên nói.
2. Giảng dạy dựa trên vấn đề (Problem- Based Teaching)
Phương pháp này nhằm hướng dẫn người học chủ động làm việc trên vấn đề được
đặt ra. Giảng viên đóng vai trò là người gợi mở vấn đề, giám sát quá trình làm việc, và hỗ
trợ người học đúc kết vấn đề.
Phương pháp này sẽ hiệu quả hơn nếu tổ chức cho người học làm việc theo nhóm.
Một vấn đề đặt ra được xem là tốt nếu: phù hợp với mục tiêu của học phần; gắn với thực
tế; thuộc dạng vấn đề “có vấn đề”; phát sinh nhiều giả thiết; cần sự nỗ lực của một nhóm
người (nghĩa là cá nhân giải quyết sẽ gặp khó khăn); được xây dựng trên những kiến thức
và kinh nghiệm đã có; thúc đẩy sự phát triển khả năng nhận thức bậc cao: phân tích, tổng
hợp, đánh giá.
Lợi ích của phương pháp là giúp người học nâng cao kỹ năng phát hiện và giải
quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm, tính chủ động trong việc tìm kiếm và xử lý thông
tin.

3. Giảng dạy thông qua tình huống (Case – Study Teaching)

Đây là phương pháp giảng dạy dựa vào các sự kiện, sự việc đã hoặc đang diễn ra
trong thực tế.Tình huống có thể được trình bày dưới dạng viết, một đoạn phim, một mẩu
kịch ngắn, nhưng thông dụng nhất là dạng viết. Một tình huống tốt phải cho phép có nhiều
phương án lựa chọn khả dĩ. Kỹ thuật làm việc nhóm thường được sử dụng để giải quyết
tình huống. Giảng viên đóng vai trò giám sát, đúc kết.
Cấp độ thấp của phương pháp này là yêu cầu người học dựa vào lý thuyết để phân
tích tình huống, hiểu và phát hiện được vấn đề trong tình huống. Ở cấp độ cao hơn, người
học phải đưa ra các giải pháp, phương án, quyết định, nhằm giải quyết những vấn đề phát
sinh trong tình huống theo quan điểm người học.

7
Lợi ích của phương pháp là giúp người học làm quen với việc tiếp cận thực tiễn,
phát triển khả năng tư duy độc lập và nhận thức bậc cao, rèn luyện kỹ năng phát hiện và
giải quyết vấn đề, tác động mạnh đến việc hình thành ý thức tập thể, tham gia và trao đổi.
4. Giảng dạy theo kiểu truy vấn (Inquiry – Based Teaching)
Truy vấn là phương pháp giảng viên đặt câu hỏi liên tục để sinh viên tự trả lời và
làm sáng tỏ nội dung bài học, từ đó rút ra kết luận chung. Thực ra, truy vấn chỉ là một kỹ
thuật dùng trong các phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, đối với một số nội dung, kỹ
thuật này có thể được nâng lên thành một phương pháp giảng dạy áp dụng cho cả một bài
học hoặc một buổi giảng hay một tiết giảng.
Phương pháp truy vấn được áp dụng có hiệu quả đối với những nội dung mà người học đã
ít nhiều biết đến hoặc có thể dễ dàng tự nhận thức, tự lý giải khi được đặt vấn đề. Hệ
thống câu hỏi dùng trong truy vấn cần phải hướng người học liệt kê được nội dung chính
của bài học và đưa ra cách giải quyết những vấn đề đặt ra trong từng nội dung. Việc đặt
câu hỏi cũng phải hết sức linh hoạt, phụ thuộc rất lớn vào diễn tiến các câu trả lời của sinh
viên. Nó đòi hỏi người dạy phải biết cách dẫn dắt, gợi ý, hướng dẫn người học hướng vào
mục tiêu chính của bài học. Lợi ích của phương pháp này là kích thích sự động não liên
tục, rèn luyện tư duy lô-gic cũng như khả năng độc lập giải quyết vấn đề.

8
Họ và tên: ThS. Lê Thị Hiền Thảo
Đơn vị: Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại ngữ, ĐH Hàng hải Việt Nam
Chức danh:

“THỰC TRẠNG TÀI LIỆU GIẢNG DẠY AVCB 1, KIẾN NGHỊ VÀ


GIẢI PHÁP CẢI TIẾN"
Hiện nay, học phần AVCB 1 đang được thực hiện với hiện trạng là một học phần
không bắt buộc, chính vì vậy mục tiêu đề ra của học phần này là tổng kết lại những kiến
thức SV đã được học từ chương trình phổ thông, cụ thể là củng cố lại hệ thống ngữ pháp
để làm nền tảng cho việc học các học phần AVCB 2, và 3. Xuất phát từ mục tiêu này, bộ
môn Tiếng Anh đại cương đã được chỉ đạo soạn mới tài liệu giảng dạy AVCB 1. Dưới
góc độ giảng viên, tôi xin được đưa ra đánh giá thực trạng của tài liệu này cùng với những
giải pháp và kiến nghị để tài liệu này được đổi mới, phục vụ tốt hơn cho mục tiêu đã đề ra.
1. Thực trạng tài liệu giảng dạy AVCB 1
Tài liệu giảng dạy AVCB 1 đã được biên soạn mới và đưa vào sử dụng từ học kì 1A, nội
dung tài liệu gồm 15 chương, bao quát kiến thức ngữ pháp tiếng Anh cơ bản một cách hệ
thống.
Mỗi chương gồm có phần kiến thức bài giảng trên lớp kèm theo bài luyện tập áp
dụng. Ngoài ra, các chương đều có phần kiến thức tự học liên quan theo hướng nâng cao
hoặc mở rộng phần lý thuyết trên lớp đã học cùng bài tập bổ trợ nhằm định hướng cho
sinh viên phát triển khả năng tự học tự nghiên cứu..
Phần kiến thức lý thuyết cả trên lớp và tự học đều được trình bày rõ ràng, dễ hiểu,
có ví dụ minh họa đầy đủ.
Phần bài tập áp dụng phù hợp với các kiến thức lý thuyết đã đưa ra.
Tuy nhiên, qua quá trình giảng dạy thực tế, tôi nhận thấy tài liệu giảng dạy AVCB 1 vẫn
còn một số vấn đề cần khắc phục như sau: .
Phần kiến thức lý thuyết đưa ra có một số phần khó, không cần thiết, xét trên trình
độ sinh viên cần đạt được là chuẩn B1 theo chương trình khung tham chiếu Châu Âu. Một
số kiến thức nằm ở yêu cầu chuẩn B2 thậm chí C1 như: Thì tương lai hoàn thành tiếp diễn,
quá khứ hoàn thành tiếp diễn, câu điều kiện hỗn hợp, đảo ngữ với các trạng từ phủ định,
v.v… Điều này khiến cho khối lượng kiến thức trở nên tương đối nặng làm giảm động cơ,
hứng thú học tập và giảng dạy.
Phần bài tập của từng chương tuy đã bám sát kiến thức đưa ra trong chương nhưng
phần bài tập dành cho tự học vẫn chưa nhiều.
Ngoài ra, do tài liệu giảng dạy AVCB 1 chỉ tập trung củng cố kiến thức ngữ pháp nên có
phần đơn điệu, nhàm chán.

9
2. Kiến nghị và Giải pháp cải tiến
a. Về vấn đề cải tiến tài liệu
- Tài liệu cần bám sát hơn nữa vào các chủ điểm ngữ pháp đề ra theo chuẩn B1, khung tham
chiếu châu Âu, rà soát loại bỏ những kiến thức chưa phù hợp về yêu cầu trình độ sinh viên và
đưa những kiến thức khó vào phần kiến thức tự học.
- Bổ sung thêm bài tập cho phần tự học.
- Thiết kế thêm bài tập từ vựng cho từng chương để kiểm tra củng cố ngay những từ có trong
các bài tập khác và trong ví dụ của chương đó. Việc làm này là rất hữu ích vì có thể giúp một
phần cho sinh viên trong việc học tập ở các học phần tiếng Anh cơ bản tiếp theo cũng như đọc
tài liệu sau này.
b. Về vấn đề khai thác tài liệu
- Để giảm, tránh sự nhàm chán của một tài liệu tiếng Anh chỉ tập trung vào ngữ pháp, tăng
tính tương tác với tài liệu và tính chủ động của sinh viên trong việc tiếp thu kiến thức, kiến
nghị giáo viên sử dụng biện pháp cho sinh viên đọc tài liệu trước, thảo luận nhóm, thuyết
trình trên lớp.

10
Họ và tên: ThS. Ngô Thị Nhàn
Đơn vị: Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại ngữ, ĐH Hàng hải Việt Nam
Chức danh: Giảng viên

"THỰC TRẠNG TÀI LIỆU GIẢNG DẠY ANH VĂN CƠ BẢN 2,


KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CẢI TIẾN"
Việc đổi mới nội dung tài liệu giảng dạy tiếng Anh là một yêu cầu thiết thực đối
với hiệu quả học tập của SV. Tài liệu giảng dạy phù hợp sẽ hỗ trợ đắc lực không chỉ cho
việc giảng dạy của giáo viên mà còn cả quá trình học của sinh viên. Từ góc độ của giảng
viên, tôi nhận thấy việc rà soát và đổi mới giáo trình anh văn được sử dụng giảng dạy
trong trường Đại học Hàng hải Việt Nam nói chung và giáo trình anh văn cơ bản 2 nói
riêng là việc làm cấp thiết.
1. Thực trạng giáo trình anh văn cơ bản 2 được sử dụng tại trường Đại học
Hàng hải Việt Nam
Trong nhiều năm Khoa Ngoại ngữ đã có nhiều nỗ lực trong việc biên soạn mới và
sửa đổi tài liệu giảng dạy các học phần anh văn cơ bản. Giáo trình anh văn cơ bản 2 vừa
mới được biên soạn vào đầu năm 2014 nhằm tạo ra một tài liệu giảng dạy cho phù hợp
với thời lượng giảng dạy và nhu cầu của người học. Sau 2 kì đưa giáo trình này vào giảng
dạy tôi xin đưa ra những ưu điểm và nhược điểm của giáo trình này như sau:
a. Ưu điểm
- Nội dung biên soạn đã được cân nhắc cho phù hợp với thời lượng giảng dạy.
- Định hướng kiến thức phù hợp với nhu cầu của người học, cụ thể là nhu cầu học
ôn thi TOEIC để đạt được chuẩn đầu ra theo quy định của nhà trường. Giáo
trình chú trọng phát triển cả 2 kĩ năng cần thiết cho sinh viên là kĩ năng đọc hiểu
và nghe hiểu.
- Hình thức của giáo trình đẹp, bắt mắt đối với người học, chữ in rõ ràng.
- Phần từ vựng đã có từ được liệt kê đầy đủ rõ ràng cả phiên âm , từ loại và nghĩa,
hỗ trợ rất tốt cho việc học của sinh viên.
- Phần phát triển kĩ năng nghe hiểu kĩ năng đọc hiểu được phân chia rõ ràng theo
các kĩ năng cần thiết khi thực hiện một bài thi Toeic.
b. Nhược điểm:
- Trong giáo trình rải rác vẫn xuất hiện những lỗi do quá trình biên soạn.
- Phần từ vựng có xuật hiện một số bài tập khó so với trình độ sinh viên.

11
- Phần phát triển kĩ năng nghe hiểu: các bài nghe tốc độ quá nhanh, xuất hiện
nhiều từ vựng mới, chất lượng đĩa cd còn kém.
- Phần phát triển kĩ năng đọc hiểu: phần lớn các bài đọc chứa đựng nhiều từ mới,
cú pháp câu của bài đọc khó so với trình độ sinh viên. Các bài đọc chưa ăn nhập
với chủ đề của bài.
2. Kiến nghị và giải pháp
Dựa vào những ưu điểm và nhược điểm liệt kê trên tôi xin đưa ra những kiến nghị sau đối
với giáo trình anh văn cơ bản 2:
- Tiếp tục giữ nguyên khung nội dung gồm 3 phần lớn trong mỗi bài là từ vựng,
nghe hiểu và đọc hiểu. Tuy nhiên bổ sung thêm nữa phần ôn tập các vấn đề ngữ
pháp cần thiết xuất hiện trong bài thi Toeic.
- Lựa chọn những bài nghe có tốc độ chậm hơn
- Lựa chọn các bài tập đọc hiểu có nội dung phù hợp với chủ đề của bài và có
lượng từ mới ít hơn.
- Bài tập của phần từ vựng thay đổi cho độ khó dễ đồng đều, tránh bài quá khó,
bài quá dễ.
- Rà soát lại để sửa các lỗi do biên soạn và in ấn.

12
Họ và tên: ThS. Lê Thị Minh Phương
Đơn vị: Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại ngữ, ĐH Hàng Hải Việt Nam
Chức danh: Giảng viên

"ĐÁNH GIÁ ĐIỂM X VÀ ĐIỂM Y ĐỐI VỚI CÁC HỌC PHẦN


AVCB HIỆN NAY – KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CẢI TIẾN"
Nhằm tiến tới thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy tiếng Anh
một cách toàn diện, bộ môn tiếng Anh đại cương đã có những đợt rà soát, chỉnh lý và sửa
đổi giáo trình, bài giảng chi tiết cũng như cách đánh giá điểm X và điểm Y đối với các
học phần anh văn cơ bản hiện nay. Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực cả về nội
dung và phương pháp và nhận được những phản hồi tốt từ phía sinh viên và giảng viên,
cách đánh giá điểm X và điểm Y vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần được khắc phục.
Trước hết cần nhìn lại thực trạng cách đánh giá điểm X (điểm giữa học phần) và điểm Y
(điểm cuối học phần) hiện nay để tìm ra nguyên nhân cũng như biện pháp khắc phục.
1. Thực trạng cách đánh giá điểm X và Y đối với các học phần AVCB hiện nay
Nếu như trước đây (năm học 2012 đổ về trước) giáo trình giảng dạy dành cho các học
phần AVCB 1,2,3 là bộ New Headway (Elementary đến Pre – Intermediate) và cách tính
điểm X là trung bình cộng của d1 (điểm phần trăm đến lớp) và 2 bài kiểm tra tư cách giữa
học phần. Với cách đánh giá này, sinh viên đi học tương đối đầy đủ, điểm X khá cao và
đồng đều giữa các lớp, tuy nhiên chưa khuyến khích được tinh thần tự học của sinh viên.
Từ năm 2013 đến nay đã có sự thay đổi rõ rệt, các lớp AVCB1 ôn lại các hiện tượng ngữ
pháp và học giáo trình tự soạn của BM TAĐC, còn các lớp AVCB2,3 học theo định
hướng TOEIC cũng là giáo trình tự soạn. Điểm X là trung bình cộng của hai bài kiểm tra
tư cách giữa học phần. Điểm d1 trở thành điều kiện dự thi: Số tiết tham gia trên lớp
của sinh viên phải  75% tổng số tiết của học phần; Các điểm Xi ≥ 4 với i = 1,2 cho
2 bài tư cách giữa học phần. Điểm đánh giá học phần được tính theo công thức:
Z = 0.3*X + 0.7*Y
Tuy nhiên cách tính này xảy ra tình trạng điểm X giữa các lớp không đồng đều
bởi không có tiêu chí chung đánh giá giữa các giáo viên. Thứ nhất hình thức
kiểm tra cũng như độ khó của các bài kiểm tra không thống nhất. Thứ hai, mỗi
giáo viên có tiêu chí khuyến khích tinh thần tự học ở nhà và sự chuyên cần của
sinh viên khác nhau. Vì vậy, điểm X tương đối mang tính chủ quan của mỗi giáo
viên dẫn đến tình trạng sinh viên thường đăng ký những giáo viên “dễ tính” và
cho điểm không quá khắt khe.

13
2. Kiến nghị và giải pháp cải tiến
Trên cơ sở thực trạng, khó khăn nêu trên, tôi xin đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp sau:
- Thay đổi quy chế tính điểm X: bổ sung ít nhất 1 điểm thành phần trong công
thức tính điểm X là điểm đánh giá sinh viên tự học và thái độ, ý thức đóng
góp của sinh viên trong các giờ học hoặc có thể cộng trực tiếp vào điểm hai
bài kiểm tra tư cách. Tuy nhiên, hình thức và mức động cộng điểm cũng nên
thống nhất giữa các giáo viên.
- Thống nhất hình thức ra đề và mức độ khó của hai bài kiểm tra tư cách giữa
học phần. Mặc dù các giáo viên đa số đều ra đề theo dạng bài thi cuối kỳ
nhưng mức độ khó và số lượng câu là khác nhau nên cần có sự thống nhất
ngay từ đầu học kỳ để đảm bảo tính công bằng, khách quan.
- Với tình trạng lớp đông (35 sinh viên/lớp) mặc dù xếp một đến hai sinh viên
1 bàn với nhiều mã đễ, sinh viên vẫn có thể trao đổi và nhìn bài bạn. Vì vậy,
nên thay một trong hai bài kiểm tra tư cách theo hình thức trắc nghiệm bằng
hình thức tự luận nhằm hạn chế tình trạng trên.

14
Họ và tên: Lê Thị Hồng Loan
Đơn vị: Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại Ngữ, Đại học Hàng hải Việt Nam
 
“GIẢI PHÁP LƯỢNG HÓA ĐIỂM Z3 ĐỐI VỚI CÁC HỌC PHẦN ANH VĂN
DÀNH CHO SINH VIÊN CÁC LỚP CHẤT LƯỢNG CAO”
Hiện nay, nhà trường có chương trình đào tạo đại học chất lượng cao dành cho
ngành Kinh tế vận tải biển và Kinh tế ngoại thương với việc học tập và giảng dạy được
định hướng quốc tế. Phương thức tính điểm trong các loại học phần dành cho chương
trình này có những điểm khác biệt so với chương trình đại trà. Đặc biệt là điểm Z3
đánh giá thái độ học tập trên lớp và tinh thần tự học, làm việc nhóm của sinh viên.
Việc lượng hóa điểm Z3 giúp khuyến khích tinh thần tự học, tự nghiên cứu và làm
việc nhóm của sinh viên. Đồng thời việc mô tả cụ thể hình thức đánh giá điểm Z3 giúp
giảng viên đánh giá phần tự học và làm việc nhóm của sinh viên chính xác và hiệu quả
hơn.
1. Phương thức tính điểm các học phần trong chương trình đào tạo đại học chất
lượng cao
Các học phần trong chương trình đào tạo đại học chất lượng cao được tính điểm
theo công thức : Z=0.1*Z1 + 0.2*Z2 + 0.2*Z3 + 0.5*Z4, trong đó:
 Z1 là điểm chuyên cần, tính theo tỷ lệ số tiết có mặt trên lớp.
 Z2 là trung bình cộng 2 bài kiểm tra giữa học kỳ.
 Z3 là điểm bài tập chuyên đề, lập dự án, đánh giá thái độ học tập trên lớp, tinh
thần tự học và làm việc nhóm của sinh viên.
 Z4 là điểm bài thi hết học phần.
2. Khó khăn trong việc đánh giá điểm Z3
Việc mô tả điểm Z3 thông qua thái độ học tập, tinh thần tự học và làm việc
nhóm của sinh viên chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn cho giảng viên trong việc đánh
giá một cách chính xác quá trình học tập của sinh viên và gây ra sự mơ hồ đối với sinh
viên.
3. Giải pháp
Điểm Z3 có thể được đánh giá bằng bài tập nhóm, nhưng sinh viên cần được
thông báo cụ thể và rõ ràng về thang điểm cho loại bài tập này. Giảng viên có thể chia
lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 3 đến 5 sinh viên, tìm hiểu và trình bày về một
vấn đề liên quan đến môn học trong khoảng 15 phút. Ngoài việc cả nhóm trình bày về
một vấn đề của môn học, mỗi sinh viên trong nhóm được yêu cầu viết một bài luận
khoảng 500 từ, tóm tắt những kiến thức sinh viên đó tìm hiểu được thông qua bài tập

15
nhóm. Điểm bài tập nhóm nên được đánh giá bằng 50% điểm đánh giá chung của cả
nhóm và 50% điểm đánh giá cho từng cá nhân. Điều này giúp đánh giá chính xác việc
tham gia của từng cá nhân trong nhóm.
Bài trình bày của cả nhóm có thể được đánh giá theo các tiêu chí sau:
 Cách tổ chức bài thuyết trình: Nhóm trình bày bài thuyết trình theo một trật tự
rõ ràng, dễ hiểu và hợp lý, giúp người nghe dễ theo dõi. (10%)
 Nội dung kiến thức trình bày: Nhóm trình bày kiến thức đầy đủ, chính xác với
ví dụ minh họa cụ thể, có thể trả lời và giải thích các câu hỏi của người nghe.
(20%)
 Ngữ pháp và phát âm: Bài thuyết trình được trình bày không có lỗi ngữ pháp và
phát âm. (10%)
 Giao tiếp: Nhóm duy trì việc giao tiếp với người nghe trong suốt bài thuyết
trình, không chỉ đọc những kiến thức được chuẩn bị trước. (10%)
 
 
 

16
Họ và tên:  Phùng Thị Mai Trang
Đơn vị:  Bộ môn Tiếng Anh đại cương, Khoa Ngoại ngữ, ĐH Hàng hải Việt Nam
Chức danh: Giảng viên
 

Tổ chức thi trắc nghiệm AVCB1 trên máy tính, thuận lợi và khó khăn. Kiến nghị và giải

pháp cải tiến.

Học kỳ I năm học 2015, Bộ môn Tiếng Anh Đại Cương đã tiến hành thí điểm thi AVCB1

dạng trắc nghiệm trên máy tính đối với các lớp chất lượng cao và lớp chọn. Trong các giải

pháp mã nguồn thi trắc nghiệm hiện tại, Moodle được đánh giá là giải pháp mã nguồn vượt

trội hơn hẳn và đã được nhiều trường ĐH ở Việt Nam (ĐH Bách Khoa, ĐH RMIT, ĐH Mỏ

Địa Chất, ĐH Công nghệ, ect.) áp dụng.

Sau khi áp dụng thi AVCB1 trên máy tính học kỳ I năm học 2014 - 2015, chúng tôi rút ra

được một số thuận lợi và bất tiện như sau.

THUẬN  LỢI

 Thi trắc nghiệm trên máy tính có những lợi thế nhất định trong việc trộn và tạo đề để

đánh giá kiến thức của sinh viên một cách toàn diện và chính xác nhất.

 Cơ sở dữ liệu thi trên máy tính tập hợp được kiến thức chuyên môn của tập thể đội

ngũ giảng viên có chất lương cao.

 Việc triển khai thi trắc nghiệm trên máy tính cắt giảm được thời gian và chi phí in ấn

đề

 Đặc việt thi trắc nghiệm trên máy tính tiết kiệm được chi phí chấm thi cho giáo viên

và cán bộ quản lý.

 Việc chấm thi được máy tính thực hiện sẽ đảm bảo nhanh chóng và kết quả chính xác,

khách quan. Sinh viên biết điểm ngay sau khi kết thúc bài thi.

 Việc thi trắc nghiệm trên máy tính tạo tiền đề cho sinh viên có thói quen tiếp cận và

ứng dụng CNTT trong học tập vào nghiên cứu, có khả năng thích ứng cao hơn với môi

trường làm việc trong thời đại CNTT sau này.

17
Tuy nhiên thi trắc nghiệm trên máy tính vẫn còn một số những khó khăn nhất định:

Về cơ sở vật chất:

 Khi tổ chức thi tập trung, địa điểm thi cần có máy tính nối mạng. Hiện tại cơ sở vật

chất phòng lab của khoa Ngoại Ngữ chưa đáp ứng được hết lượng sinh viên nếu như

áp dụng thi trong toàn trường.

 Đồng thời để triển khai được hệ thống trắc nghiệm trên mạng thì hệ thống mạng kết

nối máy trạm và máy chủ phải tương đối mạng để xử lý đồng thời các thông tin được

yêu cầu từ máy trạm. Giả sử mỗi lần thi khoảng 30 – 40 thí sinh thi cùng môt lượt thì

máy chủ phải đủ mạnh để đáp ứng được yêu cầu truy cập đồng thời từ 40 máy trạm

vào máy chủ để sinh đề, làm bài, lưu kết quả thi,

Về đội ngũ giảng viên và thí sinh:

 Đồng thời việc tổ chức thi cũng đòi hỏi cả người dạy và người học, người coi thi phải

được trang bị những kỹ năng nhất định về tin học.


KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI. 

Khắc phục tình trạng hỏng hóc và nâng cấp hệ thống mạng máy chủ, máy trạm tại 4 phòng

thực hành.

Với cơ sở vật chất của riêng mình, BM TADC sẽ có thể tự chủ về quy trình tổ chức thi, và

tiến tới áp dụng mở rộng hình thức thi với số lượng sinh viên đông đảo trong mỗi học phần.

18
Kêt luận

19

You might also like