You are on page 1of 21

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH


-------------------------

TIỂU LUẬN
HP2 CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

ĐỀ TÀI:
An ninh phi truyền thống và tác động của nó tới độc lập dân tộc
ở Việt Nam hiện nay

Họ và tên sinh viên: Phan Ngọc Quỳnh Hoa


Mã số sinh viên: 2151070017
Lớp GDQP&AN: Lớp 14
Lớp hành chính: Truyền Thông Quốc Tế K41

Hà Nội, tháng 12 năm 2021


Mục Lục
Phần I: Mở Đầu ............................................................................................... 1
Phần II: Nội Dung ........................................................................................... 1
1. Một số vấn đề lí luận và thực trạng của mối đe dọa an ninh phi
truyền thống ở Việt Nam ............................................................................. 1
1.1. Một số vấn đề lí luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và
tác động của nó đến độc lập dân tộc ....................................................... 2
1.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ
năm 2015 đến nay...................................................................................... 6
2. Quan điểm, nội dung, hình thức, biện pháp bảo vệ độc lập dân tộc
trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2015 đến nay........ 10
2.1. Quan điểm của Việt Nam về độc lập dân tộc trước các mối đe dọa
an ninh phi truyền thống ........................................................................ 10
2.2. Nội dung, hình thức, biện pháp bảo vệ độc lập dân tộc trước các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống .................................................... 13
3. Trách nhiệm của sinh viên đối với an ninh phi truyền thống............ 17
Phần III: Kết Luận........................................................................................ 18
Tài Liệu Tham Khảo ..................................................................................... 18
1

Tiểu luận:
An ninh phi truyền thống và tác động của nó tới độc lập dân tộc
ở Việt Nam hiện nay

Phần I: Mở Đầu
Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới có nhiều thay đổi, xu thế hòa bình hợp
tác phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, nền độc lập dân tộc của các quốc gia đang phải đối mặt với những thách
thức mới từ mối đe dọa “an ninh phi truyền thống”. Tính chất nguy hiểm của
mối đe dọa an ninh phi truyền thống không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại,
sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con người, mà còn đối với sự ổn định
xã hội, đối với độc lập dân tộc của các quốc gia, sự an nguy của chế độ chính
trị, sự tồn vong của cộng đồng nhân loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Các thảm họa thiên tai, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu, nước biển dâng… ngày càng thách đố các
thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại và sự nỗ lực cố gắng của con người.
Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, những vấn đề tài
chính, năng lượng, lương thực…ngày càng thử thách nghiệt ngã năng lực điều
hành của các chính phủ.
Đối với Việt Nam, mối đe doạ an ninh phi truyền thống ngày càng trở nên
nghiêm trọng. Mối đe doạ an ninh phi truyền thống đã và đang thách thức nền
độc lập dân tộc của đất nước, đặc biệt là tính độc lập tự chủ và sự vững chắc
của nền kinh tế, sự ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền quốc gia, an
ninh đất nước và cuộc sống của nhân dân. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực
hiện nhiều chủ trương, biện pháp không chỉ để đối phó với mối đe doạ an ninh
phi truyền thống, mà còn để bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc, giữ vững chủ
quyền quốc gia, thể chế chính trị, nền kinh tế đất nước trước các mối đe dọa
đó.
Từ những lý do nêu trên, em chọn đề tài “An ninh phi truyền thống và tác động
của nó tới độc lập dân tộc ở Việt Nam hiện nay” để viết tiểu luận môn giáo dục
quốc phòng an ninh.

Phần II: Nội Dung


1. Một số vấn đề lí luận và thực trạng của mối đe dọa an ninh phi truyền
thống ở Việt Nam
2

1.1. Một số vấn đề lí luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và tác
động của nó đến độc lập dân tộc
1.1.1. Khái niệm về mối đe dọa an ninh phi truyền thống
An ninh, hiểu theo nghĩa chung nhất của ngôn ngữ chính trị quốc tế, “An ninh”
là khái niệm dùng để chỉ “Trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy
hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của từng tổ chức,
của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội”. Mặt khác, nội hàm
của khái niệm an ninh không chỉ giới hạn ở tình trạng như đã nêu, mà còn bao
hàm cả những biện pháp để mang lại tình trạng đó, tức là hành động để thực
hiện an ninh. Cách hiểu về khái niệm an ninh như vậy phản ánh nhu cầu và
quan niệm chung của cộng đồng quốc tế đồng thời nó bao hàm đầy đủ nội hàm
của khái niệm an ninh trong giai đoạn hiện nay.
An ninh truyền thống: lấy Nhà nước làm đơn vị (quốc gia) và chủ yếu đề cập
những quan hệ chính trị, tương quan sức mạnh quân sự giữa các quốc gia. Các
lợi ích đều phải đặt dưới lợi ích quốc gia. An ninh truyền thống là để bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, thể chế và giá trị của đất nước, trong đó cốt lõi là
bảo vệ đất nước trước các mối đe dọa từ bên ngoài bằng tấn công quân sự. Do
đó, quốc gia là chủ thể duy nhất đảm bảo sự sống còn của mình thông qua việc
tăng cường quyền lực quốc gia bằng sức mạnh quân sự và khả năng phòng thủ.
An ninh phi truyền thống: Là một quan niệm mới về một trạng thái an ninh
khác với an ninh truyền thống, nó phản ánh sự thay đổi nhận thức của con người
về an ninh và sự mở rộng nội hàm khái niệm an ninh quốc gia. Nếu an ninh
truyền thống coi an ninh quốc gia là bảo vệ đất nước các mối đe dọa hoặc tấn
công bằng chính trị, quân sự từ bên ngoài và bên trong thì an ninh phi truyền
thống không chỉ bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn bảo vệ con người, bảo vệ
cộng đồng, nó mang tính xuyên quốc gia do những mối uy hiếp, đe dọa của các
nhân tố bên trong và bên ngoài đối với môi trường sinh tồn và phát triển của
cộng đồng xã hội và công dân của mỗi quốc gia trong mối quan hệ chặt chẽ với
khu vực và thế giới.
Sự xuất hiện an ninh phi truyền thống không làm phai nhạt và biệt lập với an
ninh truyền thống vì hai vấn đề này luôn đan xen nhau và có thể chuyền hóa
lẫn nhau trong điều kiện nhất định. Trong thế giới hiện đại, an ninh của mỗi
quốc gia vừa bao hàm an ninh chính trị, quân sự truyền thống và đang đối mặt
với nhiều thách thức phi truyền thống như kinh tế, văn hóa, xã hội, thông tin,
môi trường, tài nguyên,
chủ nghĩa khủng bố, v.v…
Đến nay, việc nhận thức và xác định khái niệm, cũng như nội dung vấn đề an
ninh phi truyền thống vẫn chưa có sự thống nhất.
3

Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Các yếu tố đe dọa an ninh
phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn
cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”. “Những căng thẳng,
xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can
thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; tội phạm công nghệ cao trong
các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn
tiếp tục gia tăng”.
Đại hội XII đặt an ninh phi truyền thống bên cạnh an ninh truyền thống, chỉ ra
một số vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh
mạng, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố. Đồng thời có lưu ý đến “các hình
thái chiến tranh kiểu mới” với hàm ý khả năng chuyển hóa giữa an ninh phi
truyền thống và an ninh truyền thống.
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng” do Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn
Viết Thông làm đồng chủ biên định nghĩa: “An ninh phi truyền thống có thể
hiểu là một loại hình an ninh xuyên quốc gia do những yếu tố phi chính trị và
phi quân sự gây ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển và an ninh
của mỗi nước, cả khu vực và toàn cầu. Nội dung của an ninh phi truyền thống
là những vấn đề bức thiết đang nổi lên hiện nay như: cạn kiệt tài nguyên, bùng
nổ dân số, môi trường sinh thái cạn kiệt, xung đột tôn giáo, dân tộc, nghèo đói,
bệnh tật, tội phạm rửa tiền,… An ninh phi truyền thống ngày càng có biểu hiện
sâu đậm trong đời sống quốc tế và thành vấn đề toàn cầu, an ninh toàn cầu. Quá
trình toàn cầu hóa càng phát triển thì theo đó, an ninh phi truyền thống càng lan
rộng hơn và đậm nét hơn”.
Các quan niệm nêu trên dù không hoàn toàn giống nhau, nhưng đã xác định
được các vấn đề cơ bản về an ninh phi truyền thống. Kế thừa những quan niệm
nêu trên, với cách tiếp cận tổng hợp và bám sát vào sự phát triển của vấn đề,
luận án đưa ra khái niệm: An ninh phi truyền thống là khái niệm nhằm phân
biệt với an ninh truyền thống, dùng để chỉ các mối đe dọa phi truyền thống đối
với an ninh quốc gia, cuộc sống con người và cộng đồng nhân loại không xuất
phát trực tiếp từ yếu tố quân sự, nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên và xã hội, diễn
ra và tác động trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, thông tin, môi trường,...mang tính tổng hợp, xuyên quốc gia và có tính
nguy hiểm cao đe dọa tới độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
4

1.2.1. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân
tộc
Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân tộc là
sự tác động tổng hợp, toàn diện đến toàn bộ nội dung cấu thành độc lập dân tộc.
Ở đây, tiểu luận tập trung nghiên cứu tác động trên những vấn đề chính sau:
Một là, tác động đến độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia
Đây là một hướng tác động sâu sắc, gây nhiều ảnh hưởng đối với độc lập dân
tộc của đất nước. Một loạt các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như khủng
bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền, di dân trái phép,
buôn bán người, dịch bệnh, an ninh lương thực, các vấn đề môi trường, sinh
thái, thảm họa thiên nhiên... đe dọa trực tiếp đến độc lập, chủ quyền và an ninh
quốc gia. Trên thực tế, vấn đề khủng bố không chỉ gây hậu quả trực tiếp đến an
ninh quốc gia, mà việc giải quyết nó, việc chống khủng bố nhiều khi lại là “cái
cớ” cho sự can thiệp của các thế lực bên ngoài vào công việc nội bộ, kể cả sự
can thiệp bằng vũ lực.
Độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện đó bị uy hiếp nghiêm
trọng, thậm chí bị xâm phạm. Các nước, đặc biệt là các nước nhỏ có thể bị
“cuốn theo” một cách tự phát vào vòng xoáy của chống khủng bố, dễ dẫn đến
bị lệ thuộc và phụ thuộc vào các nước lớn trong các quan hệ quốc tế. Thậm chí
cả những việc cộng đồng quốc tế “góp sức” vào giải quyết các vấn đề dịch
bệnh, khắc phục thảm họa thiên nhiên ở một nước nào đó, khu vực nào đó, cũng
là “điều kiện” để các nước lớn can thiệp sâu vào đời sống chính trị -kinh tế - xã
hội đất nước.
Hai là, tác động đến thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển của dân
tộc.
Sự tác động và uy hiếp của mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến thể chế
chính trị đất nước và con đường phát triển của dân tộc thể hiện trên những vấn
đề chính là: thứ nhất, nó buộc nước phải có sự “điều chỉnh” về thể chế chính
trị, điều chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng mang tính “quốc tế” hơn; thứ hai,
nó đặt ra và “yêu cầu” các nước phải xem xét lại mô hình, thậm chí con đường
phát triển của dân tộc mình; thứ ba, nó “đòi hỏi” phải du nhập những khuôn
khổ, mô hình của bên ngoài, trên thực tế là từ các nước phương Tây, Mỹ. Chủ
nghĩa khủng bố tác động mạnh mẽ đến tâm lý của người bị hại, tạo nên tâm lý
hoảng sợ của con người, khiến cho người ta có thể phải từ bỏ sự ủng hộ đối với
chính phủ.
Trong điều kiện toàn cầu hóa, trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
các vấn đề tác động trên càng trở nên rõ ràng và cụ thể, thường gắn với sự
chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình”, đặc biệt đối với
5

các nước như Việt Nam. Những “yêu cầu”, “khuyến nghị” đối với Việt Nam
rằng, cần phải từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải thực hiện
“đa nguyên, đa đảng”; xây dựng nhà nước pháp quyền theo kiểu phương Tây;
thực hiện “xã hội dân sự”; cần phải đi theo con đường và mô hình dân chủ tư
sản... trong thời gian gần đây, đã cho thấy sự tác động, đặc biệt là sự lợi dụng
những tác động từ các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân tộc
là rất to lớn.
Ba là, tác động đến nền kinh tế độc lập tự chủ của quốc gia.
Trước tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, tính độc lập tự
chủ của nền kinh tế đất nước bị uy hiếp, dễ rơi vào phụ thuộc, lệ thuộc vào bên
ngoài. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập tự
chủ của kinh tế là tác động trực tiếp trên các vấn đề: lợi ích kinh tế; chủ quyền
kinh tế; định hướng phát triển kinh tế; thể chế kinh tế; sự ổn định kinh tế, đặc
biệt là về tài chính, tiền tệ và quan hệ hợp tác kinh tế thương mại quốc tế của
quốc gia. Nền kinh tế đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ lợi ích kinh tế
quốc gia bị đe doạ; phương hướng phát triển nền kinh tế có thể bị xáo trộn.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ còn làm nảy sinh những nguy hại xã hội rất to
lớn, với những hậu quả khó lường, khiến cho các quốc gia đang phát triển có
thể trở thành kiệt quệ và dẫn đến mất ổn định xã hội cục bộ, hoặc xung đột giữa
các dân tộc, tôn giáo và đoàn thể xã hội khác nhau. Chính điều này lại tác động
mạnh mẽ và đe dọa trực tiếp, dù là khách quan hay chủ quan, đến sự ổn định
và tính độc lập tự chủ và cả thể chế của nền kinh tế đất nước. Thông qua các
khoản viện trợ kinh tế, cho vay ưu đãi, hiệp định thương mại và các quan hệ
kinh tế khác để tăng cường gây sức ép về chính trị, can thiệp nội bộ, từng bước
chuyển hoá theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Chúng còn dùng sức mạnh kinh tế
thông qua hợp tác để thực hiện ý đồ chuyển hoá chế độ chính trị; thực hiện tư
tưởng chỉ đạo: “Đầu vào kinh tế, đầu ra chính trị”.
Bốn là, tác động đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường, sinh thái.
Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái là những nhân tố dễ bị tác động
bởi sự tác động từ các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có nguồn gốc từ
chính con người. Vấn đề môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, khan hiếm
nguồn nước sạch, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng… đôi khi lại đe dọa
nhiều hơn đối với cuộc sống của người dân ở những quốc gia không phải là
“thủ phạm” gây ra những biến đổi, cạn kiệt đó.
Sự khai thác thiếu kiểm soát, tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, “hiệu
ứng nhà kính”, khí hậu nóng lên, tầng ôzon bị phá hoại và tổn hao, tính đa dạng
sinh vật giảm, đất hoang mạc hoá, tình trạng nước biển dâng, bão, lụt, sóng thần
không những chỉ là xuất phát từ tự nhiên, bởi tự nhiên, mà chúng còn nói lên
6

rất rõ sự trừng phạt của tự nhiên đối với con người, đối với những hành động
ứng xử thiếu văn hóa và thiếu trách nhiệm của con người đối với chính tự nhiên.
Năm là, tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nội dung, một yêu cầu đặc
biệt quan trọng của việc giữ gìn và củng cố độc lập dân tộc của các quốc gia
trong thời đại ngày nay. Sự lợi dụng của các thế lực bên ngoài đối với vấn đề
dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền trong quá trình hợp tác quốc tế ứng phó
với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, đã đe dọa nhiều giá trị dân tộc và
bản sắc văn hóa dân tộc. Sự hình thành, phát triển của mọi nền văn hoá cũng
đều là sự thống nhất của tính riêng và tính chung trong nền văn hoá đó. Tính
dân tộc không chỉ là đặc trưng cơ bản của một nền văn hoá, mà nó còn là nội
hàm cốt lõi của sức sống của nền văn hoá ấy. Giữ gìn tính dân tộc của văn hoá
là điều kiện cơ bản của phát triển văn hoá dân tộc, đồng thời nó cũng là động
lực nội tại của sự sinh tồn và phát triển dân tộc.
1.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm
2015 đến nay
1.2.1. Biến đổi khí hậu
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề
nhất của biển đổi khí hậu, trong đó đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba
đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất. Biến đổi khí hậu hiện hữu ở Việt
Nam có nguy cơ tác động ngày càng lớn hơn.
Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Việt Nam tương đối rõ nét trong vòng 50 năm
qua, đặc biệt trong 15 năm gần đây. Nhiệt độ trung bình hàng năm tăng 0,5 độ
C; mực nước biển dâng cao hơn 0,2 m; thiên tai, bão, lũ gia tăng cường độ và
tính cực đoan. Do biến đổi khí hậu, nhiều công trình chắn sóng, chắn cát, đê
sông, đê biển dễ bị phá vỡ trước lũ lụt, thiên tai.Các hệ sinh thái tự nhiên cũng
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là miền Trung, nam Trung bộ và đồng bằng
sông Cửu Long. Ngập triều tăng mạnh ở Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh,
tỉnh Cà Mau và tỉnh Vĩnh Long. Diện tích đất bị hoang mạc hóa ngày càng mở
rộng, thậm chí có thể bị sa mạc hóa. Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, dự
báo vào năm 2030, nếu không có giải pháp ứng phó quyết liệt thì khoảng 45%
diện tích của khu vực này sẽ bị nhiễm mặn cục bộ. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay,
dưới tác động của biến đổi khí hậu, tần suất và cường độ thiên tai đối với Việt
Nam ngày càng tăng, gây tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng kinh
tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường, sinh thái. Từ năm 2015 đến
nay, ở Việt Nam các loại thiên tai như: bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập,
hạn hán, xâm nhập mặn và các thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người
và tài sản, làm chết và mất tích hơn 10.711 người, thiệt hại về tài sản khoảng
1,5% GDP/năm.
7

1.2.2. Vấn đề kinh tế, tài chính


Hiện nay, Việt Nam đang nằm trong danh sách cảnh báo về thị trường tài chính
gặp nhiều rủi ro trong giao dịch tài chính quốc tế.
Mối đe dọa an ninh tài chính kinh tế đối với Việt Nam bao gồm:
Một là, từ những yếu tố bên ngoài tác động.
Hai là, từ các yếu tố đe dọa đổ vỡ của hệ thống tổ chức tín dụng, ngân hàng
trong nước.
Ba là, từ các loại tội phạm liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ. Do tác động
của những khó khăn về kinh tế - xã hội và ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, tội
phạm trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, tiền tệ diễn biến phức tạp với tính chất
và mức độ nguy hiểm hơn so với trước đây. Tình hình tội phạm kinh tế, tham
nhũng, lãng phí, nhất là trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ xảy ra rất phức tạp với
nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, gây thiệt hại nghiêm trọng tài
sản của Nhà nước, tổ chức và công dân. Nguyên nhân tình trạng trên có nhiều,
nhưng chủ yếu là chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí, tầm quan trọng của
công tác đảm bảo an ninh kinh tế, tài chính, còn chủ quan, mất cảnh giác, chưa
chú trọng bảo vệ bí mật nhà nước; đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
nhân viên bị suy thoái, thậm chí móc nối với bên ngoài để phạm tội.
Vì thế, vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ và phòng, chống tội
phạm trong lĩnh vực này là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp
bách vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi quyết tâm cao, sự kiên trì,
bền bỉ, sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng.
1.2.3. Từ vấn đề năng lượng
Sự phát triển kinh tế “nóng” của các quốc gia châu Á đi kèm với nhu cầu về
năng lượng tăng cao. Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng khá nhanh,
nhưng tiêu hao năng lượng nhiều. Điều chú ý là tiêu hao năng lượng cho một
đơn vị sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam cao hơn so với
các nước khu vực. Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao
hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5 - 1,7 lần. So với các nước phát triển, tỷ
lệ giữa nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam cao gấp gần
2 lần, trong khi ở các nước phát triển tỉ lệ này là dưới 1. Các đơn vị nhà nước
được giao nhiệm vụ đầu tư sản xuất cung cấp điện như EVN, PVN, cũng gặp
khó khăn về hoàn vốn, đảm bảo đủ chi phí hoạt động điện lực…
Năng lượng là huyết mạch cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân
dân, với bối cảnh chung toàn cầu và điều kiện cụ thể của Việt Nam, an ninh
năng lượng ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn. Chính phủ Việt Nam
đã có những cơ chế năng động và hiệu quả để năng lượng được đảm bảo cung
8

cấp ngày càng đầy đủ với giá cả hợp lý, đảm bảo đủ năng lượng cho công cuộc
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.4. Vấn đề lương thực
Việt Nam là một nước nông nghiệp, với hơn 70% dân số là nông dân, lao động
nông nghiệp chiếm hơn 76% lao động của cả nước, đóng góp từ 25% - 27%
GDP của cả nước…; vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân có tầm quan
trọng đặc biệt.
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, chính sách đất đai cùng với việc di dân
tự do đang có diễn biến phức tạp, đặt ra những vấn đề nổi cộm, bức xúc. Ở các
thành phố lớn, các tỉnh có tốc độ đô thị hoá nhanh, số hộ nông dân không có
đất chiếm tỷ lệ lớn hơn so với cả nước, như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Hải Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng… Hiện trạng đất đai nhiều nơi đang bị thoái
hoá và thu hẹp dần. Cả dẻo đất miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận
đang bị sa mạc hoá. Đất ở đồng bằng và thành thị đang bị thu hẹp do quá trình
công nghiệp hoá, đô thị hoá. Đất ở miền núi lại càng khan hiếm do nạn chặt
phá rừng bừa bãi làm đất đai bị suy thoái, môi trường bị ô nhiễm, nguồn nước
dần bị cạn kiệt. Đất canh tác nông nghiệp, đất rừng tự nhiên, rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ bị thu hẹp dần diện tích do bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện đó, vấn đề bảo đảm diện tích đất nông nghiệp; khai hoang,
phục hóa hơn 1,6 triệu ha đất chưa sử dụng; cải tạo một bước các vùng đất bị ô
nhiễm; không để mở rộng thêm diện tích đất bị thoái hóa, bạc màu, hoang mạc
hóa theo Đề án của Chính phủ, sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức. Việc ổn định
diện tích đất nông nghiệp là nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo
an ninh lương thực quốc gia hiện nay.
1.2.5. Tội phạm công nghệ cao
Trên thế giới, tội phạm công nghệ cao thực sự là mối đe dọa đến độc lập chủ
quyền quốc gia và thể chế chính trị đất nước. Những biến động chính trị, bạo
loạn, xung đột, dẫn đến lật đổ chế độ ở một số quốc gia Bắc Phi và Trung Đông
năm 2011- 2013, bắt nguồn từ những lời kêu gọi được truyền đi trên các trang
mạng xã hội, và người ta đã nói đến các cụm từ: “cách mạng xã hội trên
internet”, “cách mạng từ internet” như là đặc điểm nổi bật của các “phong trào”
biến động, bạo loạn này, cho thấy mối đe dọa an ninh phi truyền thống của tội
phạm công nghệ cao.
Tội phạm công nghệ cao xuất hiện ở Việt Nam cùng với quá trình phát triển
công nghệ thông tin, hệ thống máy tính phát triển mạnh mẽ, loại tội phạm công
nghệ cao cũng có sự phát triển. Tình hình mất an toàn thông tin số diễn biến
phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến việc ứng dụng công
9

nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an
ninh. Xu hướng tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam chuyển dần từ phá hoại
sang trục lợi một cách tinh vi.
Điều chú ý là, tội phạm công nghệ cao còn được thực hiện với ý đồ chống phá
cách mạng Việt Nam thông qua hệ thống truyền thông hiện đại, các mạng xã
hội; các hacker nước ngoài tiến công vào hệ thống mạng của các cơ quan Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Trong Báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Mỹ, Jon Aloisi (cựu
Phó Đại sứ Mỹ tại Việt Nam) cho rằng: “Thành công lớn nhất là đã thực hiện
việc đưa vào Việt Nam mạng lưới Internet. Đó là phương tiện hữu hiệu cho
chiến dịch truyền bá các tư tưởng phương Tây nằm trong chiến lược nhằm thay
đổi chính thể ở quốc gia này”. Hiện nay, có trên 400 trang mạng, 380 tờ bào,
tạp chí, 60 đại phát thanh tiếng Việt ngày đêm chĩa vào chống phá Việt Nam.
Theo Hiệp hội An toàn thông tin (VNISA), tình trạng tin tặc xâm nhập, cài đặt
virút gián điệp vào hệ thống mạng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương
có kết nối với mạng internet để đánh cắp thông tin, bí mật quốc gia diễn ra khá
nghiêm trọng.
1.2.6. Tội phạm xuyên quốc gia
Sau khi là thành viên WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam có nhiều
yếu tố, điều kiện thuận lợi bảo đảm ANQG, nhưng các cá nhân và tổ chức tội
phạm quốc tế lợi dụng xu thế hội nhập, hợp tác của Việt Nam tiến hành các
hoạt động tội phạm ngay trên lãnh thổ Việt Nam hoặc lợi dụng lãnh thổ Việt
Nam làm địa bàn trung gian. Trong các loại tội phạm xuyên quốc gia ở Việt
Nam, đáng chú ý: Tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài, sử dụng
hộ chiếu giả để đưa phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài hoạt động mại dâm, bán
làm vợ người nước ngoài, bóc lột sức lao động... tập trung một số nước, vùng
lãnh thổ, như Nga, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Campuchia,
Malaixia... Tội phạm đưa người ra nước ngoài trái phép, tội phạm ma túy, tội
phạmsản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả, gian lận thương mại, buôn lậu, lừa
đảo kinh tế, trốn thuế xuất nhập khẩu ở khu kinh tế thương mại tự do, thương
mại điện tử, hoạt động khủng bố liên quan đến Việt Nam. Trong những năm
tới, tình hình tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam sẽ diễn
biến phức tạp. Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đang là một thách thức lớn
trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
10

2. Quan điểm, nội dung, hình thức, biện pháp bảo vệ độc lập dân tộc
trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2015 đến nay
2.1. Quan điểm của Việt Nam về độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống
2.1.1 Quan điểm về bảo vệ độc lập dân tộc
Bảo vệ độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Bảo
vệ độc lập dân tộc là tổng thể những hoạt động của các chủ thể nhằm “phòng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm”,
các hoạt động phá hoại để giữ gìn, bảo vệ độc lập dân tộc. Đó là việc huy động
sức mạnh nội sinh, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, kết hợp với ngoại lực để
bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt
động xâm phạm, phá hoại. Đó là hành vi “tự bảo vệ” trước sự tác động của tình
hình và mọi sự đe dọa, uy hiếp, xâm phạm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc
gia từ bên ngoài. “Tự bảo vệ” vừa là “phương thức” vừa là “phương châm” chỉ
đạo trong bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ độc lập dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc không có nghĩa chỉ bằng nỗ lực và sức mạnh của bản thân mình,
mà phải kết hợp tốt với sức mạnh bên ngoài, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn
nhất để bảo vệ, đặc biệt trong điều kiện tác động mạnh mẽ của mối đe dọa an
ninh phi truyền thống.
Hiện nay, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ toàn
diện trên tất cả các nội dung cấu thành Tổ quốc, cả phương diện tự nhiên - lịch
sử và cả phương diện chính trị - xã hội trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt
nhau, không thể tách rời trong mục tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Năm 2003, Hội nghị ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới:
Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiện hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá;
Sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2006, Đại hội X của Đảng tiếp tục xác
định:
11

Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì
trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn
ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá, thù địch,
không để bị động, bất ngờ.
Năm 2011, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ:
Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo
đảm anh ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất
bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Năm 2013, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định tiếp tục thực hiện những mục tiêu, quan điểm,
phương hướng, phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa IX năm 2003 đã đề ra, đồng thời
bổ sung, phát triển Chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình. Hội nghị
chỉ rõ những vấn đề rất cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, là phải: “Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta:
“Dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế
sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Phải
thực hiện cho bằng được: “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực
phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối
đoàn kết thống nhất”.
2.1.2 Quan điểm về bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống
Bảo vệ độc lập dân tộc Việt Nam trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
là một bộ phận cấu thành của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, đặt trong điều kiện trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Theo đó, có thể quan niệm: Bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh
phi truyền thống là tổn thể hoạt động của quốc gia nhằm huy động sức mạnh
tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh bên ngoài để phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực từ an ninh phi truyền thống
và đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động lợi dụng các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống, nhằm giữ gìn, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia.
12

Bảo vệ độc lập dân tộc Việt Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống là
quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực
từ các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến toàn bộ các nội dung cấu thành
của độc lập dân tộc. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu,
tội phạm công nghệ cao, an ninh lương thực, tội phạm xuyên quốc gia, khủng
bố... ngày càng uy hiếp nghiêm trọng đến an ninh quốc gia. Vì thế, vấn đề phát
hiện, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực từ sự uy hiếp, đe dọa đó
trở thành vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong bảo vệ độc lập dân tộc trước
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Bảo vệ độc lập dân tộc Việt Nam trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
là quá trình đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động lợi dụng các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống và lợi dụng việc hợp tác quốc tế trong đối phó với các
mối đe dọa này, để xâm phạm độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước của các thế
lực thù địch. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, nhất là trong bối cảnh hiện nay,
khi các nước tư bản phát triển, các nước lớn ra sức đẩy mạnh việc lợi dụng quá
trình hợp tác quốc tế đối phó với mối đe dọa an ninh phi truyền thống để can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc trên thế giới, yêu sách thay
đổi chính sách, pháp luật, thậm chí đòi cải cách, thay đổi thể chế chính trị.
Đó là hai quá trình quan hệ chặt chẽ với nhau trong bảo vệ độc lập dân tộc Việt
Nam trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, không được coi nhẹ một
quá trình nào. Mối quan hệ hữu cơ này phải được nhận thức đúng và giải quyết
tốt trong thực tiễn bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống. Bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống là phải trực tiếp phục vụ và góp phần hướng tới thực hiện thắng lợi mục
tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ độc lập dân tộc trước các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống được thể hiện một cách toàn diện, rõ nét
và sâu sắc, đó là: bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không chỉ là giữ
vững chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Đảng, bảo vệ
Nhà nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo
vệ bản sắc văn hóa dân tộc... Các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia bao gồm cả
nguy cơ quân sự và phi quân sự, cả từ bên trong và bên ngoài. Với ý nghĩa đó,
ngoài việc phát triển luận điểm “thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ xa”, Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định “tự bảo vệ” là phương thức hữu hiệu để bảo vệ từng con
người, từng tổ chức và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là quan
điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng, chống các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống để bảo vệ độc lập dân tộc trong tình hình mới.
13

2.2. Nội dung, hình thức, biện pháp bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối
đe dọa an ninh phi truyền thống
2.2.1. Nội dung bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa
Nội dung bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa là rộng lớn và toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực. Các yếu tố cấu thành độc lập dân tộc là: bảo vệ những
giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc; là bảo vệ chủ quyền quốc
gia về lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, đối ngoại trong các
quan hệ quốc tế, không bị lệ thuộc và phụ thuộc vào bên ngoài; là bảo vệ lợi
ích dân tộc, chủ quyền quốc gia gắn với bảo vệ quyền con người; là đấu tranh
chống mọi sự áp đặt, nô dịch dân tộc, sự lợi dụng từ các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống để chống phá độc lập dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia Việt
Nam của các thế lực thù địch… trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời. Bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
trên những nội dung cơ bản, cụ thể sau đây:
Một là, bảo vệ độc lập về chính trị, bảo vệ đường lối xây dựng và phát triển đất
nước; bảo vệ độc lập, chủ quyền trong xác định đường lối đối nội, đối ngoại,
định hướng phát triển trên các lĩnh vực của quốc gia trong các mối quan hệ
quốc tế, không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào bên ngoài trước các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống.
Hai là, là bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia trên tất cả các lĩnh vực, từ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại và quyền con
người trong các quan hệ quốc tế trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Ba là, là đấu tranh ngăn chặn, chống lại mọi sự xâm phạm, phá hoại độc lập
dân tộc của các thế lực thù địch trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống;
không ngừng gia tăng sức mạnh và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của đất
nước trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Các nội dung bảo vệ độc lập dân tộc quan hệ chặt chẽ với nhau trong chỉnh thể
thống nhất của độc lập dân tộc, gắn bó chặt với nội dung bảo vệ Tổ quốc; bảo
vệ nội dung này cũng là góp phần bảo vệ nội dung khác và ngược lại.
2.2.2. Hình thức, biện pháp bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh
phi truyền thống
Hình thức, biện pháp bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống rất phong phú, đa dạng. Mỗi quốc gia dân tộc có thể thực hiện
những hình thức, biện pháp khác nhau, nhằm bảo vệ độc lập dân tộc trước các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Trong từng giai đoạn khác nhau, căn cứ
vào tình hình cụ thể cũng như những tác động cụ thể của các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống khác nhau mà thực hiện những nội dung, hình thức, biện
pháp bảo vệ khác nhau, đồng thời phải tìm cách kết hợp các nhóm giải pháp
14

để đưa lại hiệu quả cao nhất trong quá trình ứng phó với các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống.
- Phải huy động sức mạnh tổng hợp, toàn diện của quốc gia. Đây là hình thức,
biện pháp cơ bản đầu tiên mang tính quyết định đến khả năng và hiệu quả bảo
vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống của quốc gia.
Bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bao gồm
tổng thể các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, khắc phục những tác
động tiêu cực, đấu tranh của quốc gia, với tư cách là một chủ thể trong quan hệ
quốc tế. Nó bao gồm tổng thể các hoạt động nhằm huy động, phát huy mọi
nguồn lực trong nước, sức mạnh nội sinh của quốc gia dân tộc về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh để bảo vệ độc lập dân tộc trước các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc đặt ra rất
gay gắt trong điều kiện toàn cầu hóa và trước các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống, bao gồm cả việc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất quốc gia, giữ
vững độc lập tự chủ về chính trị, kinh tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc.
An ninh phi truyền thống, thì vấn đề quyết định là Việt Nam phải kiên định và
xây dựng cho mình mạnh lên; phải giữ vững định hướng phát triển đất nước,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Đây là hình
thức, biện pháp cơ bản vừa thể hiện tinh thần bảo vệ độc lập dân tộc vừa tạo
nền tảng, cơ sở để bảo vệ độc lập dân tộc. Giải pháp đối phó với các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống cũng đồng thời nằm trong các giải pháp xây dựng,
phát triển và bảo vệ đất nước, bảo đảm cho đất nước phát triển, độc lập chủ
quyền, an ninh quốc gia được giữ vững. Tiền đề quan trọng tăng cường sức
mạnh quốc gia là đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước toàn diện và đồng bộ.
Những vấn đề: phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học công
nghệ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân, tăng cường
quốc phòng và an ninh... là những vấn đề cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp
quốc gia, nâng cao nội lực để bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống.
- Phối kết hợp với các chủ thể quan hệ quốc tế khác để bảo vệ độc lập dân tộc
trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Đây là hình thức, biện pháp
quan trọng trong điều kiện hiện nay. Bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống bao gồm cả các hoạt động phối kết hợp với các
chủ thể quan hệ quốc tế khác, với các quốc gia khác, khu vực khác, với các tổ
chức quốc tế và khu vực, như hợp tác song phương, đa phương, hợp tác khu
vực, quốc tế, hợp tác quốc tế cụ thể trên các lĩnh vực. Ví dụ: hợp tác quốc tế
trong chống khủng bố, trong chống dịch bệnh, khắc phục, phòng chống thảm
15

họa thiên tai, bão lụt, thảm họa môi trường sinh thái, trong phòng chống tội
phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia. Nghị quyết của Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế ngày 10 tháng 4 năm 2013 xác
định rõ quan điểm và chủ trương:
Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh
mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ ASEAN và
do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các cơ chế
đa phương khác; trong đó, có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao
hơn, như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, kiểm soát phổ biến vũ
khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào
chiều sâu ổn định, bền vững.
- Phối kết hợp các chủ thể, lực lượng, các nhóm giải pháp tạo nên sức mạnh
tổng hợp trong bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh phi truyền
thống
Theo quan điểm sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực, sức mạnh bên trong là chính; lực
lượng bảo vệ Tổ quốc là cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Vì thế, chủ thể và
lực lượng bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
là cả dân tộc, toàn thể hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức và
nhân dân; trong đó nhà nước - quốc gia với tư cách là vai trò chủ thể trong quan
hệ quốc tế, là lực lượng chủ đạo; lực lượng vũ trang, quân đội và công an có
vai trò đặc biệt quan trọng.
Quan điểm trước đây cho rằng, giải quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống không phải là nhiệm vụ của quân đội, nhưng trong thực tế, khi xảy ra các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống, chỉ có quân đội Việt Nam phải phối hợp
với quân đội các nước khác mới đủ khả năng và điều kiện để giải quyết. Trong
thực tiễn, quân đội có đóng góp rất quan trọng về nhân lực, vật lực trong giải
quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như: động đất, sóng thần, cháy
rừng, bão lũ, các thảm họa thiên tai khác. Việc nâng cao hiệu quả hợp tác giữa
quân đội Việt Nam với quân đội các nước ASEAN nhằm đối phó với mối đe
dọa an ninh phi truyền thống ở khu vực để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền
và an ninh quốc gia, hòa bình và ổn định khu vực đã và đang trở thành vấn đề
cấp thiết hiện nay.
Vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là giải quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống, mà là bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống. Xét dưới góc độ bảo vệ, quân đội không những là lực lượng quan trọng
mà quân đội còn phải là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc nói chung,
16

trong bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống nói
riêng. Thực tiễn cũng đã chứng tỏ điều đó. Trong các phiên đối thoại Shangri-
La năm 2014 và 2015 tại Singapore, ở các Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các
nước ASEAN mở rộng(ADMM+)Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có
các cuộc gặp song phương với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Bộ
trưởng Quốc phòng Singapore, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Brunei, Bộ
trưởng Quốc phòng Philippines, Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia và Bộ
trưởng Quốc phòng Miammar. Các Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước
ASEAN mở rộng(ADMM+) đã bàn đến việc phối hợp các nước giải quyết các
vấn đề hợp tác trên biển, bảo đảm độc lập, chủ quyền biển các các nước ở Biển
Đông, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam khi Trung Quốc hạ đặt
giàn khoan vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, thực hiện
xây dựng đảo nhân tạo làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái
biển theo Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 và Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông(DOC). Các cuộc gặp cũng nhấn mạnh về việc
cần thiết phải thực thi đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
Biển Đông(DOC), tiếp tục các nỗ lực sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử Biển
Đông(COC).
Công an nhân dân cũng là một lực lượng quan trọng, không thể thiếu trong bảo
vệ độc lập dân tộc trước đe dọa an ninh phi truyền thống. Thật vậy, trong bối
cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình
hình an ninh, chính trị, kinh tế thế giới và khu vực bên cạnh mặt thuận lợi, tiếp
tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường.
Thế giới phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu như khủng bố quốc
tế, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ; những
vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh mạng, thiên tai,
dịch bệnh,… đe dọa trực tiếp đến hoà bình, ổn định của các quốc gia, trong đó
có Việt Nam. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng, đòi hỏi lực lượng công an nhân dân phải tích cực, chủ động mở rộng quan
hệ đối ngoại, tham gia vào các tổ chức hợp tác an ninh quốc tế và khu vực…Phải
tăng cường phối hợp, hiệp đồng với các ngành, đoàn thể trong công tác bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, antoàn xã hội, kết hợp với việc xây dựng lực
lượng Công an nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, những nội dung bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Tính chất nguy hiểm, mức
độ lây lan, tính chất xuyên quốc gia của các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống trong bối cảnh toàn cầu hóa, đòi hỏi và quy định yêu cầu, nội dung, hình
thức, biện pháp, chủ thể, lực lượng và sự phối kết hợp giữa các nhân tố này
trong bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
17

3. Trách nhiệm của sinh viên đối với an ninh phi truyền thống
1) Tích cực rèn luyện học tập nâng cao trình độ tri thức, nâng cao hiểu biết của
bản thân đặc biệt về vấn để đảm an ninh phi truyền thống.
2) Luôn luôn tin tưởng và chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng
và pháp luật của nhà nước, quy định của địa phương và các nội qui quy chế của
nhà trường đang theo học. Đồng thời vận động, tuyên truyền cho người thân,
gia đình bạn bè cùng chấp hành và làm theo.
3) Tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, rèn luyện đức tính tiết kiệm, không
phung phí và cùng kêu gọi mọi người xung quanh thực hành tiết kiệm.
4) Kiên định ủng hộ với mục tiêu, chủ trương của đảng, nhà nước đối với đảm
bảo an ninh phi truyền thống. Lên án, phê phán và tích cực đấu tranh vs các
luận điệu xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng ta, nhà nước ta của bọn
phản động, các thế lực thù địch và các đối tượng xấu.
5) Ra sức học tập nâng cao kiến thức hiểu biết của bản thân, tích cực rèn
luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống của bản thân. Luôn luôn nêu gương
về tấm gương tư tưởng đạo đức phong cách và lối sống của chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại.
6) Chủ động làm tốt các công việc được giao của bản thân để đóng góp một
phần công sức nhỏ bé vào việc đảm bảo an ninh nguồn nước trong tình hình
hiện nay.
7) Mỗi sinh viên phải thường xuyên tìm hiểu, nắm cơ bản các vấn đề liên quan
đến an ninh phi truyền thống trong tình hình hiện nay để hiểu, nắm được thực
trạng, diễn biến đang xảy ra của các nước trên thế giới cũng như của việt nam,
giữa Việt Nam với các nước khác. Từ đó, có thể đưa ra các biện pháp hay, hiệu
quả để giữ vững an ninh phi truyền thống này. Hoặc không để bị các thế lực
xấu lôi kéo dắt mũi.
8) Có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng
với nhà nước, nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bảo vệ quan điểm của đảng, đấu tranh với các luận điệu xấu, độc hại.
9) Tích cực tham gia các phong trào đoàn hội do các cấp từ trung ương đến địa
phương, do nhà trường tổ chức đặc biệt các hoạt động có liên quan đến vấn đề
an ninh phi truyền thống. Thông qua các phong trào đó để tích lũy kiến thức
cho bản thân mình đồng thời lồng ghép để tuyên truyền đến các bạn sinh viên
khác và rộng hơn là cho mọi người biết về vấn đề này.
10) Chủ động sắp xếp thời gian khoa học hợp lý giữa việc học với sinh hoạt và
việc nghiên cứu các văn bản; giữa nâng cao trình độ với rèn luyện phẩm chất
18

đạo đức; giữa tự nghiên cứu với tham gia các hoạt động, các diễn đàn... có lối
sống lành mạnh trong sáng và khoa học.

Phần III: Kết Luận


An ninh phi truyền thống là khái niệm nhằm phân biệt với an ninh truyền thống,
dùng để chỉ các mối đe dọa phi truyền thống đối với an ninh quốc gia, cuộc
sống con người và cộng đồng nhân loại, không xuất phát trực tiếp từ yếu tố
quân sự, nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên và xã hội, diễn ra và tác động trên nhiều
lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thông tin, môi trường...,
mang tính tổng hợp, xuyên quốc gia và có tính nguy hiểm cao đe dọa tới độc
lập chủ quyền quốc gia. Bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống là khách quan và cấp thiết của các quốc gia dân tộc trên thế
giới trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong
đó có Việt Nam. Đó là tổng thể hoạt động của quốc gia huy động sức mạnh
tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh bên ngoài để phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực từ an ninh phi truyền thống
và đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động lợi dụng mối đe dọa này nhằm giữ gìn,
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
nói riêng mà Việt Nam thực hiện, các nước có thể học hỏi, tham khảo để đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống và
sự lợi dụng chống phá của các lực lượng đế quốc, thù địch.

Tài Liệu Tham Khảo


1. Nguyễn Đình Ban (2011), Tăng cường ứng phó với mối đe dọa an ninh “phi
truyền thống” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, tại trang
http://tapchiqptd.vn/, truy cập ngày 17/1/2015.
2. Ban Cán sự Đảng Chính phủ (2013), Báo cáo tóm tắt Đề án trình Hội nghị
Trung ương 7 khóa XI: Chủ trương, giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu; đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường, Hà Nội.
3. Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (2016), Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng.
4. Đàm Trọng Tùng (2014), “Củng cố độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia
trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống trong xu thế toàn cầu hóa”, Tạp chí
Giáo dục Lý luận quân sự, số 4/146.
19

5. Thái Văn Long - Đàm Trọng Tùng (2015), “Bảo đảm an ninh văn hóa trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị
và truyền thông, số 01.
6. Đàm Trọng Tùng (2015), “Bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trước
các mối đe dọa an ninh biển hiện nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 3.
7. Giáo trình giáo dục Quốc phòng - An ninh tập 2, NXB Giáo dục.

You might also like