You are on page 1of 18

HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ

KHOA ĐẶC NHIỆM-QUÂN SỰ

TIỂU LUẬN
TÊN TIỂU LUẬN: CHUYÊN ĐỀ: TRÌNH BÀY

Ngày nộp: .7/10/2022


Lớp: 10QH
Họ và tên: Phạm Đức Dương
Môn học: Chiến lược quốc phòng an ninh
NHỮNG NHẬN THỨC MỚI, TƯ DUY MỚI
VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG VĂN
KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG. LIÊN HỆ
BẢN THÂN

TIỂU LUẬN
Môn học: Chiến lược quốc phòng an ninh.
Lớp: 10QH Hệ: 4
Ngày nộp: 7/10/2022

Hệ: 4
Cán bộ chấm thi Số phách
(Ký ghi rõ họ tên)
CBCT số 1 CBCT số 2

Điểm Số phách
Bằng số Bằng chữ
HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ
HỆ HỌC VIÊN 4

TIỂU LUẬN
CHUYÊN ĐỀ: TRÌNH BÀY NHỮNG NHẬN THỨC MỚI, TƯ
DUY MỚI VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG VĂN KIỆN
ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG. LIÊN HỆ BẢN THÂN

HÀ NỘI – 2022
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần 1 Tình hình thế giới, khu vực, trong nước tác động đến 2
quốc phòng an ninh bảo vệ tổ quốc
1.1 Tình hình thế giới, khu vực và trong nước 2
1.2 Những thuận lợi, khó khăn trong lĩnh vực quốc phòng - an 5
ninh
Phần 2 Những nhận thức mới, tư duy mới về quốc phòng, an 8
ninh trong nghị quyết Đại hội XIII
1.1 Bảo đảm quốc phòng, an ninh 8
1.2 Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế 11
Phần 3 Liên hệ bản thân 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo vệ Tổ quốc được biết đến chính là quyền và nghĩa vụ của mỗi công
dân và cũng chính bởi vì thế nên mỗi công dân sẽ cần phải có nghĩa vụ và
trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân chính là lực lượng nòng cốt trong việc thực nhiệm vụ
quốc phòng an ninh, giữ vững trật tự, an toàn xã hội. Trong tình hình mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu đó chính là bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chung.
Đồng thời một mục tiêu cũng vô cùng quan trọng đó là bảo vệ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững môi trường hòa bình để từ đó có thể phát
triển đất nước, phát triển kinh tế – xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam chính là tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt, Đảng Cộng sản Việt
Nam quản lý tập trung thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng an ninh của
đất nước. Tiểu luận này giúp các học viên hiểu rõ hơn về tính cấp thiết trong
việc nắm vững quan điểm mới của Đảng về quốc phòng, an ninh
Cấu trúc của tiểu luận gồm có 3 phần :
Phần 1: Tình hình thế giới, khu vực, trong nước tác động đến quốc
phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc
Phần 2: Những nhận thức mới, tư duy mới về quốc phòng, an ninh
trong Nghị quyết Đại hội XIII
Khổ 3: Liên hệ bản thân.

1
Phần 1
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI, KHU VỰC, TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN
QUỐC PHÒNG, AN NINH BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.1. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước
1.1.1. Bối cảnh thế giới
Hiện nay, thế giới đang diễn ra nhiều thay đổi khó dự báo, tác động
trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. 
Thứ nhất, hòa bình, hợp tác và phát triển là nguyện vọng và là đòi hỏi
bức thiết, là xu hướng chung của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nhân
loại đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc, “Chiến tranh
lạnh” và chạy đua vũ trang đã nhiều lần đẩy thế giới đến bên bờ cuộc chiến
tranh hủy diệt. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, hàng loạt vấn đề tác động
không nhỏ đến môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế, như tranh chấp
chủ quyền, lãnh thổ và tài nguyên, xung đột tôn giáo, sắc tộc, hoạt động
khủng bố, chủ nghĩa dân túy, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng... tiếp tục
diễn ra gay gắt, đe dọa nền hòa bình của các nước trên thế giới. Vì vậy, hòa
bình và phát triển là vấn đề trung tâm của thời đại và là một nội dung cốt lõi
trong chiến lược của mọi quốc gia trên thế giới, với mong muốn đẩy lùi chiến
tranh, thiết lập một thế giới hòa bình, dân chủ và văn minh. Hòa bình là điều
kiện tiên quyết cho sự ổn định, hợp tác và phát triển của mọi quốc gia - dân
tộc và hợp tác là phương thức để phát triển và đạt tới hòa bình. Thế giới cần
hòa bình, nhân loại cần hợp tác, quốc gia cần phát triển, xã hội cần tiến bộ, tất
cả đã trở thành xu thế phát triển khách quan. Đúng như Đảng ta đã khẳng
định: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn”.
Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế
phát triển mạnh mẽ, ngày càng gắn chặt với nhau tạo thành một hợp lực, thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất toàn cầu; tác động đến mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh của mỗi quốc
gia, dân tộc. Đảng ta nhận định: “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo
ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia - dân tộc”. Bên cạnh đó, xu
thế chủ đạo hiện nay là các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa liên kết, vừa
cạnh tranh, cùng tồn tại và giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng phương thức

2
hòa bình, tránh đối đầu. Quan hệ đối tác - đối tượng đan xen phức tạp dẫn đến
đấu tranh và hợp tác trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng
trở nên phức tạp hơn, tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình nhìn nhận và xử
lý các quan hệ quốc tế.
Thứ ba, các nước lớn tiếp tục giữ vai trò chi phối cục diện thế giới, vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế và ngăn chặn lẫn nhau. Trong bàn cờ chính
trị quốc tế, các nước lớn đóng vai trò chính trong việc định hình trật tự, cục
diện thế giới, xây dựng luật chơi và cơ chế giải quyết các vấn đề nổi lên ở khu
vực, thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn tác động gián tiếp đến chính sách
của các quốc gia trong việc lựa chọn con đường và định hướng phát triển; tác
động đến xu thế hội nhập, bảo vệ độc lập, chủ quyền trên con đường phát
triển của các quốc gia - dân tộc. Hiện nay, quan hệ giữa các nước lớn đang tác
động và chi phối đến đời sống chính trị - kinh tế, an ninh thế giới. Trong
tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn, Mỹ vẫn là siêu cường số
một và không ngừng triển khai chiến lược toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế
giới một cực do Mỹ đứng đầu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, theo
đánh giá của nhiều chuyên gia, vị thế của Mỹ đã có phần suy giảm tương đối
cả về sức mạnh kinh tế và mức độ chi phối tới quan hệ quốc tế. Trong khi đó,
Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc đang vươn lên mạnh mẽ để
trở thành các trung tâm lớn của thế giới. Nga đang từng bước khôi phục địa vị
cường quốc của mình trên thế giới. Ấn Độ đang nỗ lực vươn lên để trở thành
một cường quốc. Nhìn chung, các nước lớn đang duy trì một cục diện quan hệ
vừa hợp tác, dàn xếp lợi ích, vừa đấu tranh quyết liệt để giành giật ảnh hưởng.
Xu thế trật tự thế giới đa cực ngày càng hiện hữu, như Đảng ta đã nhận định:
“Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa
cực ngày càng rõ nét”.
Thứ tư, tình hình khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
nhiều nhân tố bất ổn, khó lường. Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày
càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn
nhiều bất ổn”. Các hoạt động gia tăng ngân sách quốc phòng, hiện đại hóa
quốc phòng, chế tạo, mua sắm vũ khí, trang thiết bị khiến châu Á trở thành
“thị trường sôi động” của thế giới. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn
và những bất đồng, tranh chấp lẫn sự gia tăng sức mạnh quân sự của các quốc
gia khu vực đang đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh ở khu vực:
“Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng,

3
phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải,
hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung
đột”.
1.1.2. Tình hình trong nước
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đảng ta luôn căn cứ vào nhiệm vụ
của cách mạng trong từng thời kỳ; để từ đó xác định đúng đắn nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh cho phù hợp.
Đảng và Nhà nước đã thông qua nhiều nghị quyết, luật, nghị định; để
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quản lý, điều hành đất nước. Công
tác quốc phòng an ninh được thực hiện tốt; đã giữ vững ổn định chính trị, bảo
vệ nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; tập hợp được sức mạnh tổng
hợp của quần chúng nhân dân.
Trong quá trình thực hiện mục tiêu đổi mới, xây dựng đất nước ngày
càng giàu mạnh và văn minh thì nhà nước ta cũng đã đạt được những thành
tựu to lớn, thông qua quá trình thực hiện mục tiêu đổi mới cũng đã tập hợp
được sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Dựa trên nguyên tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã đưa nước ta vượt
qua muôn vàn khó khăn, thách thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã xác định rõ quan điểm chỉ đạo
về quốc phòng và an ninh là nhận thức đầy đủ và toàn diện về nhiện vụ và
mục tiêu bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn hiện nay thì việc phát triển lý luận, tổng hợp sức mạnh
và lực lượng của nền quốc phòng an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cả thời bình và thời
chiến luôn được đánh giá là nhiệm vụ trọng tâm.
Đảng và Nhà nước cũng đã thông qua nhiều nghị quyết, luật, nghị định
để có thể từ đó góp phần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quản lý,
điều hành đất nước. Công tác quốc phòng an ninh vẫn luôn được thực hiện tốt
đã giữ vững ổn định chính trị, từ đó đã góp phần quan trọng bảo vệ nền độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như tập hợp được sức mạnh tổng
hợp của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, nước ta hiện nay vẫn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức
lớn, có tác động và diễn biến phức tạp, khó lường. Nhất là về tình trạng suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức cụ thể là tình trạng quan liêu, tham nhũng

4
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên từ đó đã làm giảm niềm tin của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước.
Một số cán bộ, đảng viên tuy giữ nhiệm vụ quan trọng nhưng hiện nay
vẫn chưa nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, chủ quan, mất cảnh giác, không nắm chắc tình hình ở cơ sở, không gắn
bó với nhân dân. Thế trận quốc phòng toàn dân cũng vẫn chưa được xây dựng
vững chắc trên một số địa bàn trên cả nước.
Lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ trong giai đoạn hiện nay
vẫn chưa được nâng cao thường xuyên về chiến thuật, kĩ thuật, trình độ khoa
học công nghệ nên sức chiến đấu lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ
vẫn còn chưa cao, chưa đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ. Hoạt động nghiên cứu,
dự báo về quốc phòng an ninh còn nhiều hạn chế, việc nắm bắt tình hình vẫn
còn để xảy ra sơ hở, bị động, bất ngờ.
Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chống phá Nhà nước ta bằng
nhiều thủ đoạn mới, các thế lực thù địch trên địa bàn đất nước cũng đã thực
hiện âm mưu diễn biến hòa bình nhằm mục đích để có thể thay đổi chế độ
chính trị nước ta. Mục tiêu của các thế lực thù địch đó chính là xóa bỏ sự lãnh
đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo cớ để từ đó có thể phát
động chiến tranh xâm lược kiểu mới.

1.2. Những thuận lợi, khó khăn trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh
1.2.1. Về thuận lợi
Một là, vị trí địa lý thuận lợi. Nằm giữa khu vực Đông Bắc Á và Đông
Nam Á, Việt Nam có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở châu Á -
Thái Bình Dương; đóng vai trò “cầu nối” giữa các nước ở khu vực Đông Bắc
Á, Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Có thể nói, sự dịch chuyển quyền lực giữa
các nước lớn tại khu vực Đông Nam Á không thể không tính đến nhân tố Việt
Nam. Mặt khác, sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn ở khu vực Đông
Nam Á cũng làm gia tăng vai trò của Việt Nam trong việc trở thành “đầu
mối” của các hợp tác và liên kết kinh tế trong khu vực và thế giới; với tư cách
là “cửa ngõ” ra biển cho vùng Tây Nam của Trung Quốc, Lào và miền Bắc
Thái Lan; là “đầu cầu” trên đất liền, trên biển, trên không giữa Đông Bắc Á
và Đông Nam Á, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Vị trí địa - chính
trị của khu vực tạo thuận lợi cho Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách đối
ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, giữ vững độc lập, tự chủ
và đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực của

5
ASEAN, mà quan trọng hơn là nơi tiếp giáp, cầu nối trực tiếp cả phần đất liền
và biển giữa Đông Nam Á với Đông Bắc Á. Nếu xu hướng đa cực, đa trung
tâm tạo ra “nhiều không gian co giãn” trong lựa chọn chính sách, thì sự gia
tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở Đông Nam Á sẽ tạo dựng
thêm nguồn “tài nguyên - địa chính trị” của Việt Nam. Nhiều quốc gia trong
khu vực, nhất là các nước lớn đều muốn tăng cường quan hệ hợp tác với Việt
Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam có cơ hội hợp tác trên nhiều lĩnh
vực, trong đó có hợp tác về quốc phòng, an ninh với các nước có tiềm lực
quân sự, công nghệ hiện đại. Từ đó, thúc đẩy hiện đại hóa quân đội, gia tăng
sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Hai là, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng tạo điều kiện
thuận lợi đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, gia tăng nguồn lực, tăng cường
tiềm lực quốc phòng. Đối ngoại quốc phòng là một bộ phận không thể tách
rời trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Với phương châm thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà
nước. Xu thế toàn cầu hóa hiện nay là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy
mạnh quá trình hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tạo cơ hội tiếp thu
khoa học - kỹ thuật tiên tiến, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng và phát triển lực
lượng quân sự, quốc phòng của các nước đối tác; góp phần xây dựng tiềm lực
quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, toàn diện,
đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, thực
hiện chiến lược quốc phòng, tạo thế đan cài, gia tăng khả năng phòng thủ đất
nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Chiến lược quốc phòng Việt Nam là
chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, mang
tính hòa bình, tự vệ bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân kết hợp với sức
mạnh thời đại. Thực tế môi trường địa - chính trị - kinh tế thế giới hiện nay
cho thấy, việc các nước lớn, vừa hòa hoãn, vừa tập hợp lực lượng, vừa cạnh
tranh quyết liệt với nhau, sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tạo được thế đối
trọng, cân bằng chiến lược, tạo thế đan cài trong mối quan hệ với các cường
quốc, không để bị động bất ngờ, chi phối, gây sức ép từ bên ngoài; với mục
đích cuối cùng là tạo dựng, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tranh
thủ mọi nguồn lực, điều kiện để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
1.2.2. Về khó khăn, thách thức

6
Cạnh tranh quyền lực và điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tạo ra
nhiều khó khăn, thách thức đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập, chủ quyền của
Việt Nam, trong đó phải kể đến mối quan hệ giữa ba cường quốc Mỹ - Trung
Quốc - Nga. Mỹ với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, tiếp tục đẩy
mạnh triển khai các chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp
lực lượng, điều chỉnh chính sách với từng khu vực để có thể kiểm soát, kìm
hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số một” của Mỹ. Trung Quốc với mục
tiêu khẳng định vị thế cường quốc khu vực, quốc tế và hiện thực hóa “giấc
mộng Trung Hoa” đã triển khai nhiều biện pháp, chiến lược, như nâng cao
sức mạnh quân sự, chú trọng phát triển lực lượng hải quân, mở rộng hoạt
động ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Nam Á và
từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Nga với mục tiêu giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng
truyền thống đã không ngừng đẩy mạnh triển khai các chiến lược để khẳng
định vị thế cường quốc của mình.
Quan hệ giữa các nước lớn đã và đang tác động sâu sắc đến Việt Nam
trên mọi phương diện, tiềm ẩn những nguy cơ có thể gây phương hại đến lợi
ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông. Những sự kiện chính trị - quân sự gần đây ở Biển Đông đã và
đang ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện các cam kết về hợp tác trên
mọi lĩnh vực giữa Việt Nam với các nước đối tác, trong đó có cả đối tác chiến
lược và đối tác toàn diện. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ vững độc lập,
chủ quyền, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc và phát triển đất nước trước
những tác động đến từ sự cạnh tranh chiến lược của các cường quốc.

7
Phần 2
NHỮNG NHẬN THỨC MỚI, TƯ DUY MỚI VỀ QUỐC PHÒNG,
AN NINH TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII

1.1. Bảo đảm quốc phòng, an ninh


Quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân nên luôn được thể hiện sâu sắc và rõ nét trong văn
kiện các Đại hội Đảng. Qua mỗi kỳ Đại hội, những nhận định, đánh giá, định
hướng chính sách của lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tùy theo tình hình thực
tế, đều có sự bổ sung, phát triển mới.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng
khẳng định: “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với
quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước” . Điểm mới của Đại hội XIII
trước hết thể hiện ở việc đánh giá một số thành tựu nổi bật trong lĩnh vực
quốc phòng, an ninh: 1- Tư duy về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có
bước phát triển và ngày càng hoàn thiện, sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh
với kinh tế, văn hóa và đối ngoại ngày càng hiệu quả; 2- Đã ban hành và triển
khai đồng bộ các chiến lược quan trọng như Chiến lược quốc phòng, Chiến
lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên
giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; 3- Nhận
thức và giải quyết các mối quan hệ về đối tác, đối tượng có bước chuyển biến
quan trọng; 4- Chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các
loại tội phạm và ứng phó kịp thời các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; 5-
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, có mặt tiến nhanh lên hiện đại, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII cũng chỉ rõ những hạn chế, đó là:
Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi
chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược
về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật sự chủ động; tội phạm và tệ nạn xã

8
hội còn diễn biến phức tạp; an ninh trên một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật
vững chắc, nhất là an ninh mạng, an ninh trong đầu tư nước ngoài; nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến an ninh, an toàn con người chưa được quan tâm giải quyết
triệt để; xử lý khiếu kiện đông người về vấn đề đất đai và một số tình huống
phức tạp nảy sinh ở một số địa bàn, cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, lúng
túng. Công tác quản lý, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế.
Việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh ở một số địa
phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng
về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt.
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp,
khó dự báo; đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen với những
khó khăn, thách thức; nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Vì vậy, Đại hội
XIII của Đảng xác định: Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với Đại hội XII của Đảng, việc xác
định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của Đại hội XIII có mặt
đậm nét hơn và có những điểm mới:
Một là, bổ sung nội dung trọng yếu của quốc phòng, an ninh.
Khi trình bày mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh, Báo cáo
chính trị Đại hội XIII đã thống nhất về cơ bản với nội dung của Văn kiện Đại
hội XII, nhưng có bổ sung một đoạn mới nhằm nhấn mạnh những nhiệm vụ
mới nổi lên cần giải quyết, đó là: “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ
cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đồng thời, nhấn mạnh thêm: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột,
chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp
với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển”.
Hai là, nội dung xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh rõ nét hơn,
toàn diện hơn.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khái quát: “Tăng cường tiềm lực
quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân vững chắc”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII thể hiện vấn đề này
một cách đầy đủ hơn: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng
và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và

9
nền an ninh nhân dân... Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong
từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương
trình, kế hoạch cụ thể”.
Ba là, xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng lực lượng.
Kế thừa nội dung trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Đến năm 2025, cơ bản xây
dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu
năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức
và cán bộ”. Văn kiện Đại hội XIII đã bổ sung mới nhiệm vụ “Xây dựng lực
lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên
các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ
sở”. Văn kiện Đại hội XIII còn nhấn mạnh điểm mới: “Tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách, nâng cao chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Bốn là, xác định rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận về
quốc phòng, an ninh.
Trước những diễn biến mới nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế
giới và khu vực cũng như sự phát triển mạnh mẽ các loại vũ khí, trang thiết bị
hiện đại do việc ứng dụng những thành quả khoa học và công nghệ, cần phải
có sự nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh. Báo cáo chính trị
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về
quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh
quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới. Nâng cao năng lực dự báo chiến
lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức, viên chức và
cho toàn dân, bảo đảm phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng giáo dục, thống
nhất, nâng cao nhận thức về đối tác và đối tượng; nắm vững đường lối, quan
điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

10
Năm là, xác định rõ hơn nhiệm vụ triển khai thực hiện các chiến lược
về quốc phòng, an ninh.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh. Đến nay, các chiến lược về
quốc phòng, an ninh đã được hoàn thiện, do vậy, Văn kiện Đại hội XIII nhấn
mạnh điểm mới là: “Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược
bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và
các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác”.
Để thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Báo
cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng xác định: “Giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự
nghiệp quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác
đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp
ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị,
làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới”
1.2. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế
Đại hội XIII của Đảng khẳng định sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
đạt nhiều thành tựu nổi bật và có một số điểm mới: Thứ nhất, quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo
khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Thứ hai, chủ động
tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương
khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng
giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác
khác. Thứ ba, tăng cường công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt
Nam ở nước ngoài.
Tuy nhiên, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt, có lúc chưa
theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những tác động bất lợi; chưa
khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích đan xen với các đối tác
quan trọng; sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong công tác đối
ngoại chưa chặt chẽ, thường xuyên.

11
Đại hội XIII của Đảng xác định triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả
hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng với các điểm mới sau:
Lợi ích quốc gia - dân tộc luôn được quan tâm và xác định là mục tiêu
trọng yếu trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng
có cách nhìn nhận và xác định rõ hơn: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia -
dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Lợi ích quốc gia - dân tộc bao gồm rất nhiều yếu tố lợi ích: chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Trong bối cảnh thế giới hiện
nay, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng lên, tất cả các
nước đều chịu ràng buộc bởi “luật chơi chung”, mỗi quốc gia không còn là
một cá thể riêng biệt mà phải chấp nhận hoặc gắn bó với nhau trong các mối
quan hệ, liên kết hợp tác và cả cạnh tranh xung đột do sự đan xen cùng chiều
và khác biệt về lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong quan hệ phức tạp đó, bất kể
quốc gia nào nếu chỉ theo đuổi lợi ích vị kỷ của mình sẽ dẫn tới căng thẳng,
đối đầu. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có cách nhìn nhận
về vấn đề này một cách thấu đáo, nhạy bén và xác đáng trong bối cảnh tình
hình thực tế của thế giới.
Xác định rõ hơn vai trò của hoạt động đối ngoại.
Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy
vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là lần đầu tiên Văn kiện Đại hội
Đảng xác định cụ thể và sâu sắc vị trí, vai trò của công tác đối ngoại và hội
nhập quốc tế. Điều đó làm sáng rõ hơn nhiệm vụ trọng yếu của công tác đối
ngoại là tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại
để phục vụ đối nội. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thúc đẩy quan hệ kinh
tế, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh.

12
Xác định chủ trương mới trong xây dựng nền ngoại giao và đội ngũ
cán bộ đối ngoại.
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “đổi mới nội dung,
phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại; chăm lo đào
tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối
ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp”. Đến Đại hội XIII của Đảng, Báo cáo
chính trị xác định: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột
là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Như vậy,
cùng với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, tiến tới hiện đại, Đại hội XIII của Đảng đề cập đến việc xây dựng nền
ngoại giao toàn diện, hiện đại. Đây là bước tiến mới có tính đột phá đối với
hoạt động đối ngoại.
Cùng với việc chú trọng xây dựng nền ngoại giao hiện đại, Đại hội XIII
của Đảng còn xác định: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách
chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại
và hội nhập quốc tế”.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chủ trương: Triển khai mạnh mẽ định
hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội XIII đã cụ
thể hóa hơn và xác định những định hướng và nhiệm vụ sâu rộng hơn về hội
nhập quốc tế. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt,
hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền
quốc gia. Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng
của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự
chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước”.

13
Phần 3
LIÊN HỆ BẢN THÂN

Từ những phân tích được nêu trên, chúng ta cũng nhận thức được sâu
sắc về tầm quan trọng của công tác quốc phòng an ninh trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vững mạnh. Bản thân mỗi chúng ta đều là
một công dân Viêt Nam. Chính vì thế mà tôi hiểu rằng bản thân mình cần
phải nỗ lực học tập và rèn luyện tốt để cống hiến sức lực và tri thức cho đất
nước. Bên cạnh đó cũng cần nêu cao tinh thần cảnh giác với các thế lực thù
địch, không để những cám dỗ về vật chất tác động đến bản thân, làm suy giảm
lòng tin vào Đảng, Nhà nước. Mỗi người cũng cần phải giữ vững ổn định về
tư tưởng chính trị, không để các thế lực thù địch có cơ hội dụ dỗ, lôi kéo. Bên
cạnh đó sẽ cần đấu tranh phòng ngừa, phát hiện những âm mưu, thủ đoạn của
cá thế lực chống phá.
Chúng ta cũng cần phải thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn
và bản lĩnh chính trị, cũng như cần phải kiên định với đường lối xã hội chủ
nghĩa, với lý tưởng của Đảng, với niềm tin của nhân dân. Không những thế
bản thân mỗi người cần thường xuyên nâng cao hiểu biết, nhận thức về chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Cần phải đóng góp hết khả năng của mình vào công
cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong thời đại mới, cũng như cần
phải hoàn thành tốt nhiệm vụ của một công dân, chấp hành nghiêm chỉnh quy
định pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Bản thân mỗi người cũng cần vận động nhân dân và người thân cần
phải chấp hành các quy định của pháp luật, không tham gia vào các tệ nạn xã
hội, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, làm suy thoái tư tưởng chính trị. Bên
cạnh đó, cần phải phát hiện, tố cáo các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp
luật, làm nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Mỗi công
dân cần phải tăng cường đoàn kết trong nhân dân, tuyên truyền, làm sâu sắc
hơn nữa mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc, tôn giáo, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân vững mạnh và thế trận an ninh nhan dân vững chắc.
Mỗi công dân cần phải cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa
bình của các thế lực thù địch, kiên định về tư tưởng, lập trường, ngăn chặn
quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa trong tư tưởng, lối sống.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Quốc phòng an ninh tập 1. Nxb GDVN, Hà Nội-2016.


2. Tạp chí cộng sản. “Những nhận thức mới về quốc phòng, an ninh, đối
ngoại trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng”
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/825040/nhung-nhan-thuc-moi-ve-quoc-phong%2C-an-
ninh%2C-doi-ngoai-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
3. Trang thông tin điện tử Lý luận trung ương. “Dự báo tình hình và những
vấn đề đặt ra với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong thập niên
tới”. https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/du-bao-tinh-hinh-va-nhung-
van-de-dat-ra-voi-quoc-phong-an-ninh-bao-ve-to-quoc-trong-thap-nien-
toi.html

15

You might also like