You are on page 1of 59

TỔNG CỤC II

HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ

VẤN ĐỀ HẠT NHÂN TRONG QUAN HỆ MỸ - TRIỀU


DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG OBAMA

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP HỌC VIỆN

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế

Chủ nhiệm đề tài: Phạm Đức Dương - Lớp 10QH - Hệ 4


TỔNG CỤC II
HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ

VẤN ĐỀ HẠT NHÂN TRONG QUAN HỆ MỸ - TRIỀU


DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG OBAMA

Những người thực hiện đề tài:


Hạ sĩ, Phạm Đức Dương - Chủ nhiệm đề tài
Hạ sĩ, Nông Đức Hoàng

Giáo viên hướng dẫn: Đại úy, ThS. Trần Ngọc Hưng
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG I CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ MỸ - 8
TRIỀU
1.1 Những nhân tố bên ngoài 8
1.2 Những yếu tố nội tại tác động đến quan hệ Mỹ – 18
Triều
1.3 Tư duy lãnh đạo từ hai bên của mối quan hệ Mỹ - 29
Triều
Kết luận Chương I 32

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG QUAN HỆ MỸ - TRIỀU DƯỚI THỜI 33


TỔNG THỐNG OBAMA TRONG GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ HẠT NHÂN CỦA TRIỀU TIÊN
2.1 Các hành vi và chính sách của Triều Tiên 33
2.2 Phản ứng, chính sách của chính quyền Tổng thống 38
Barack Obama
2.3 Dự báo quan hệ Mỹ - Triều xoay quanh vấn đề hạt 44
nhân trên bán đảo Triều Tiên
2.4 Một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam 50

Kết luận Chương II 53

KẾT LUẬN CHUNG 54


TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Phòng khoa học
của Học viện Khoa học Quân sự đã trực tiếp và gián tiếp tạo điều kiện giúp đỡ
chúng tôi trong suốt quá trình tìm hiểu cũng như nghiên cứu đề tài này.
Bên cạnh đó, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến các thầy
cô Khoa Quan hệ Quốc tế về Quốc phòng - Học viện Khoa học Quân sự đã luôn
đồng hành, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt 4 năm qua.
Với sự quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình, chu đáo của thầy cô, đến nay nhóm
chúng tôi đã có thể hoàn thành đề tài: “Vấn đề hạt nhân trong quan hệ Mỹ –
Triều dưới thời Tổng thống Obama”.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo Đại úy, ThS.
Trần Ngọc Hưng, người đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn chúng tôi thực hiện đề
tài này trong thời gian vừa qua. Những chỉ dạy và sự nhiệt huyết của thầy là
nguồn động lực to lớn giúp tôi có thể vượt qua những khó khăn trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Và cuối cùng, không thể không nhắc tới những giúp đỡ nhiệt tình của Ban
chỉ huy Hệ 4 đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài khoa học này. Đồng thời, xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè cùng khóa
cũng như tập thể lớp 10QH, những người luôn sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ tôi
trong quãng thời gian nghiên cứu, hoàn thành đề tài này.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệp còn hạn chế, đề tài nghiên
cứu khoa học của nhóm chúng tôi sẽ không thể tránh khỏi một số thiếu sót nhất
định. Do đó, nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến
của các thầy cô để có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến thức của bản thân, phục
vụ tốt hơn cho công tác sau này.
Xin chân thành cảm ơn!

3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Nguyên nghĩa


1 SRBMs Short-Range Ballistic Missiles – Tên lửa Đạn
đạo tầm ngắn
2 SBM Submarine-Based Missiles – Tên lửa dựa trên
tầm ngắm
3 THAAD Terminal High Altitude Area Defense - Hệ
thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối
4 ICBM Intercontinental Ballistic Missile – Tên lửa
liên lục địa
5 IAEA International Atomic Energy Agency – Cơ
quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế

4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Bán đảo Triều Tiên hiện nay đã và đang là một điểm nóng trong các vấn
đề của quan hệ quốc tế. Cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo này đã trở
thành mối quan tâm lớn của Mỹ và tất cả các nước có lợi ích liên quan như Hàn
Quốc, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc,
bán đảo Triều Tiên bị chia cắt dẫn đến sự hình thành hai nhà nước có chế độ
chính trị khác nhau, quan hệ giữa hai quốc gai luôn trong tình trạng căng thẳng
và có thể xảy ra xung đột vũ trang bất cứ lúc nào. Đặc biệt, xuyên suốt thời gian
qua, việc Triều Tiên bí mật tiến hành chương trình hạt nhân càng khiến cho tình
hình trên bán đảo Triều Tiên diễn biến phức tạp, khó lường, tác động đến tình
hình an ninh khu vực và thế giới.
Quan trọng hơn, sau sự kiện 11/09/2001, vấn đề chống khủng bố quốc tế
trở thành ưu tiên hàng đầu của nhiều nước. Mỹ tuyên bố kẻ thù nguy hiểm nhất
hiện nay là chủ nghĩa khủng bố và những kẻ giúp đỡ các phần tử này. Bởi vậy,
việc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân khiến Mỹ lo ngại về khả năng Bình Nhưỡng
có thể bán vũ khí, nguyên liệu kỹ thuật hạt nhân ra ngoài để thu ngoại tệ. Đây có
thể coi là nguồn tiếp tay cho chủ nghĩa khủng bố khiến Mỹ và nhiều nước quan
tâm.
Do tính chất phức tạp và lợi ích an ninh chồng chéo của các nước lớn nên
việc giải quyết triệt đề vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên sẽ còn phải
mất nhiều thời gian. Các cuộc thương lượng sáu bên chỉ có thể thành công nếu
các bên, đặc biệt là Mỹ và Triều Tiên thực sự muốn có giải pháp thông qua đối
thoại, chứng tỏ được họ có cam kết chính trị để đưa vấn đề đến đích cuối cùng.
Việc Bắc Triều Tiên công khai thử vũ khí hạt nhân ngày 9/10/2006 đã
một lần nữa gây lo ngại rằng hành động phổ biến vũ khí hạt nhân có thể gây ra
hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh thế giới. Hầu hết các
nước đều cho rằng mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với loài người hiện nay
không phải là những nước có vũ khí hạt nhân mà là các tổ chức khủng bố quốc
tế tìm cách sở hữu hạt nhân. Lý do là ở chỗ các tổ chức khủng bố quốc tế không
phải là nhà nước, không có chính phủ, mọi hoạt động khủng bố đều tiến hành bí
mật ngấm ngầm mà cộng đồng quốc tế không thể kiểm soát nổi để có biện pháp
gây sức ép, ngăn chặn hiệu quả.

5
Sự chuyển biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường của vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên ở các mức độ khác nhau đều tác động tới an ninh quốc
tế, khu vực, quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu quan hệ
giữa Triều Tiên và Mỹ cùng với những chính sách đối ngoại hai quốc gia này là
vấn đề cần được chú ý và tìm hiểu nhiều.
Cho tới nay, riêng về khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã có
nhiều công trình nghiên cứu và bài viết liên quan đến vấn đề này. Chẳng hạn
qua những cuốn sách như: “U.S. - North Korea Relations under the Obama
Administration: Problems and Prospects” của Hong Nack Kim năm 2010;
“Comparing North Korea Policies of The Obama and Trump Administrations”
của Kim Huyn năm 2017; “The Coming North Korea Nightmare – What Trump
must do to reverse Obama’s Strategic Patience” của Fred Fleitz năm 2018.
Tuy nhiên, thông qua quá trình tìm hiểu, tại Học viện Khoa học Quân sự
hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Mỹ và Triều
Tiên, đặc biệt là về chính sách của hai quốc gia này về vấn đề hạt nhân trên bán
đảo Triều Tiên dưới thời gian tại chức của tổng thống Barack Obama. Do đó,
với mong muốn đóng góp làm phong phú thêm vào kho tư liệu nghiên cứu vấn
đề trên, tôi quyết định chọn “Vấn đề hạt nhân trong quan hệ Mỹ - Triều dưới
thời Tổng thống Obama” làm công trình nghiên cứu khoa học của mình.
2. Mục tiêu
Nhằm làm rõ chính sách của tổng thống Mỹ Obama đối với Triều tiên về
vấn đề hạt nhân và nêu ra mặt hạn chế và ưu điểm của chính sách này từ đó đưa
ra một số kiến nghị cho chính sách sắp tới của tổng thống Biden về vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ mối quan hệ của hai quốc gia Mỹ và Triều Tiên trong khoảng thời
gian 2008- 2016. Đồng thời, phân tích chính sách của tổng thống Obama trong
thời gian tại chức đối với Triều Tiên dưới góc độ quốc tế.
So sánh hai chính sách chiến lược của tổng thống Obama và tổng thống
Trump về việc giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Để từ đó dự
đoán đường lối và chính sách của ống Biden trong tương lai.
4. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề hạt nhân trong quan hệ giữa hai nước Mỹ và Triều Tiên.

6
5. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, đề tài tập trung nghiên cứu về vấn đề khủng hoảng hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên trong quan hệ Mỹ - Triều dưới thời Tổng thống
Mỹ Barack Obama.
Về thời gian, đề tài tập trung làm rõ vấn đề dưới thời tổng thống Mỹ
Obama từ năm 2008 đến năm 2016.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như nghiên cứu chính sách,
nghiên cứu quan hệ quốc tế, tổng hợp số liệu, phân tích và đánh giá số liệu, dự
báo. Bên cạnh đó, phương pháp lịch sử cũng được sử dụng nhằm tái hiện quá
trình hình thành và phát triển của mối quan hệ trên.
7. Đóng góp khoa học của đề tài
Ý nghĩa khoa học của đề tài: Đề tài là tổng hợp những diễn biến trong
quan hệ Mỹ - Triều trong thời gian tại chức của Tổng thống Obama, cũng như
chính sách đối ngoại của cả hai quốc gia.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Đề tài sẽ cung cấp những thông tin quan
trọng về quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực như chính trị, ngoại giao… Trở
thành một nguồn tư liệu hữu ích phục vụ học tập, nghiên cứu cũng như giảng
dạy.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận chung và Tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu gồm hai chương chính:
- Chương I – Khái quát vấn đề hạt nhân tại bán đảo Triều Tiên thông qua
… và quan hệ Mỹ - Triều.
- Chương II – Phân tích rõ thực trạng quan hệ Mỹ - Triều dưới thời Tổng
thống Barack Obama trong giải quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên và so sánh
với chính sách của người kế nhiệm (tức Donald Trump), từ đó rút ra được bài
học kinh nghiệm cũng như dự đoán cho các chính sách của chính quyền Joe
Biden.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu không tránh được những thiết sót
nhất định, do đó, nhóm tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các
đồng chí độc giả để đề tài khoa học được hoàn chỉnh hơn.

7
CHƯƠNG I
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUAN HỆ MỸ - TRIỀU

1.1. Những nhân tố bên ngoài


1.1.1. Bối cảnh quốc tế khu vực
Vào những năm đầu của thập niên 90, Chiến tranh lạnh chính thức kết
thúc sau sự sụp đổ của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông u, chấm dứt sự tồn tại của trật tự thế giới hai cực,
đối đầu, giữa hai khối nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa do hai quốc
gia Liên Xô và Mỹ đứng đầu mỗi khối.
Dựa trên nền tảng này, một trật tự thế giới mới từng bước được hình
thành cùng sự tập hợp lực lượng mới – cách mạng khoa học kỹ thuật có những
bước phát triển mạnh mẽ với một nhịp độ và quy mô chưa từng thấy trong lịch
sử kể từ thập niên 40 của thế kỷ XX, còn nhân tố kinh tế ngày càng giữ vai trò
chủ chốt hơn trong quan hệ quốc tế và tác động tới cục diện toàn cầu.
Mặc khác, ngoài những thời cơ lớn ra thì tình hình thế giới hậu Chiến
tranh lạnh vẫn tồn tại nhiều thách thức lớn, vấn đề phức tạp, căng thẳng. Các
nước vừa phải phấn đấu duy trì hòa bình, ổn định trên thế giới và khu vực vừa
phải tập trung sức lực vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; đồng thời
vừa phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức
tạp có thể xảy ra.
Cụ thể, bối cảnh quốc tế mới có một số đặc điểm nổi bật như sự phát triển
mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa - một xu thế khách quan, được diễn ra dưới tác
động có tính chất hối thúc của những thay đổi về dân số, chính trị, kinh tế và
công nghệ. Ngoài ra, còn đang tạo ra các cơ hội cho các nước đang phát triển
được tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu
kinh tế - xã hội mới thích ứng và góp phần rút ngắn quá trình hiện đại của các
nước này. Tuy nhiên, bên cạnh những cái được do toàn cầu hóa mang lại thì các
chủ thể tham gia quá trình này cũng phải chịu những thách thức không nhỏ do
chính toàn cầu hóa đẻ ra và trong đó không thể không kể đến tình trạng bị tổn
thương, thậm chí bị nghèo đi của nền kinh tế ở những quốc gia không xác định
được chiến lược phát triển phù hợp, không đủ sức chống đỡ trước sự cạnh tranh
quyết liệt mang tính toàn cầu; bất công xã hội có thể bị tăng lên; vấn đề bản sắc
văn hóa – dân tộc bị mai một…

8
Ngoài ra, về bối cảnh kinh tế quốc tế thì nét đặc thù nhất của nó hiện nay
là sự lan tỏa với tốc độ nhanh hơn của toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế và tác
động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đến việc hình thành xu hướng
phát triển kinh tế tri thức.
Đặc biệt, tình hình an ninh toàn cầu kể từ những năm đầu thế kỷ XXI đã
có những biến đổi sâu sắc với sự xuất hiện của Chủ nghĩa khủng bố và cuộc
chiến chống khủng bố. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới vấn đề khủng
bố và chống khủng bố đã trở thành vấn đề toàn cầu và một sắc thái mới lại xuất
hiện trong bức tranh chung về bối cảnh quốc tế mới thời kỳ hậu Chiến tranh
lạnh. Là quốc gia ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề từ chủ nghĩa khủng bố với sự
kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, Mỹ trở thành người đi đầu tiên phong trong trận
chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố và “Cuộc chiến chống khủng bố” do Mỹ
phát động từ năm 2001 đến nay rõ ràng đã tác động rất mạnh đến mọi lĩnh vực
trên quy mô toàn thế giới. Đặc biệt, Mỹ cũng coi việc sở hữu một kho vũ khí hạt
nhân là một mối đe dọa lớn với an ninh toàn cầu mà Mỹ cũng với các nước
phương Tây đang cố gắng đạt tới, cũng như mong muốn “phi hạt nhân hóa” thế
giới.
Trong đó, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã nhắc đến Triều Tiên là một
phần của “Trục ác quỷ” vì mối nguy hại đến từ kho vũ khí hạt nhân của nước
này và từ nhiệm kỳ của ông, nước Mỹ đặt việc giải quyết khủng hoảng hạt nhân
tại Bán đảo này là một trong những công việc quan trọng nhất trong chiến dịch
tiêu diệt chống khủng bố của mình và duy trì nền an ninh, hòa bình toàn cầu.
Quan trọng, không thể bỏ qua tình hình trong quan hệ giữa Mỹ và Triều Tiên
trong thời gian tại vị của Tổng thống Mỹ thứ 44, ông Barack Hussein Obama.
Tuy nhiên, trước khi nhắc đến tình hình của cuộc khủng hoảng hạt nhân
Triều Tiên cùng với mối quan hệ Mỹ – Triều trong thời gian tại nhiệm của Tổng
thống Obama, cần thiết phải xem xét đến những tác động có thể đến những quốc
gia láng giềng xung quanh bán đảo này.
1.1.2. Tác động và quan điểm từ các quốc gia xung quanh
a) Hàn Quốc
Đối với Hàn Quốc thì vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là vấn đề
ngoại giao nan giải kể từ sau chiến tranh Triều Tiên và điều đáng lo ngại lớn
nhất của Hàn Quốc chính là chính sách quá cứng rắn của Mỹ, bởi vì chính sách
kiềm chế đặc biệt đối với CHDCND Triều Tiên có thể làm đất nước này bị đổ
vỡ, suy sụp kinh tế, dẫn đến chiến tranh. Hơn nữa, việc Triều Tiên rút khỏi NPT
và Hiệp định khung 1994 gây tổn hại đến Hàn Quốc nhiều nhất. Bùng nổ căng
9
thẳng hạt nhân giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên đe dọa hòa bình, ổn định trên bán đảo
Triều Tiên và trực tiếp tác động đến mục tiêu tái thống nhất đất nước mà cả hai
miền Triều Tiên đang theo đuổi.
Bởi vậy, Hàn Quốc mong muốn hai nước Mỹ và CHDCND Triều Tiên
nhanh chóng giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình nhằm phi hạt nhân hóa
bán đảo Triều Tiên, để quá trình tái thống nhất đất nước diễn ra suôn sẻ. Do đó,
vì mục tiêu lâu dài của mình, Hàn Quốc đã thể hiện thái độ tích cực trong giải
quyết cuộc khủng hoảng mặc dù phải dựa vào Mỹ và đồng minh để ngăn chặn
CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân.
Đặc biệt, Hàn Quốc còn phản đối việc sử dụng sức mạnh quân sự để giải
quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên vì khác với Mỹ và Nhật Bản, Hàn Quốc và
Triều Tiên là “anh em sinh đôi”. Cho nên, đối với chương trình vũ khí hạt của
Triều Tiên, bên cạnh những điểm thống nhất với Mỹ và Nhật Bản, trong tính
toán chiến lược cũng như trong các biện pháp và bước đi, Hàn Quốc luôn kín
đáo giữ quan điểm riêng của mình. Hàn Quốc cũng có mong muốn cháy bỏng
thống nhất bán đảo Triều Tiên theo hướng sát nhập miền Bắc vào miền Nam.
Nhưng Hàn Quốc lựa chọn con đường tương đối lâu dài và thông qua trao đổi,
hợp tác kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội chứ không phải bằng quân sự. Ví dụ
như ngày 5/10/2004, tại cuộc điều trần trước Quốc hội Hàn Quốc, Bộ trưởng
Quốc phòng Yoon Kwang-woong đã khẳng định: “Nguyên tắc của Hàn Quốc
trong quan hệ với Mỹ là không cho phép tấn công phủ đầu CHDCND Triều Tiên
nếu không được Chính phủ Hàn Quốc chấp thuận và trong thời điểm hiện nay
quan hệ giữa quân đội hai nước Hàn Quốc và Mỹ là tốt đẹp”.
Nhằm đạt được mục tiêu này hiệu quả, đã hàng chục năm nay, Seoul đã
thành lập cơ quan chuyên trách về việc thống nhất đất nước, cử đi nhiều người
sang học tập kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức trong việc tổ chức sát
nhập Cộng hòa Dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức cuối những năm 1980
đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, tham khảo kinh nghiệm của Cộng hòa Liên
bang Đức giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sau khi
thống nhất hai miền và nhờ thông qua con đường đầu tư, trao đổi, hợp tác kinh
tế, văn hóa, khoa học, giáo dục, Hàn Quốc hy vọng cuối cùng sẽ thực hiện được
mục tiêu thống nhất đất nước. Tất nhiên, với biện pháp này cần một thời gian
nhất định nhưng quan trọng hơn là tránh được thảm họa đổ máu nếu dùng biện
pháp quân sự. Seoul đã hoàn toàn chủ động trong việc thúc đẩy thực hiện các
biện pháp nói trên và đã thu hút được kết quả to lớn, nhanh chóng trong chính
sách “Ánh dương” của mình.
10
Tuy nhiên, dù là “anh em sinh đôi” nhưng trong quá trình thúc đẩy mở
rộng trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai miền, Hàn Quốc vẫn luôn phải
dè chừng, cảnh giác đối với Bình Nhưỡng. Mặc dù Mỹ đã chủ động xây dựng
các kế hoạch tác chiến “tốc chiến tốc thắng”, sử dụng vũ khí hiện đại để tiến
công phủ đầu, vô hiệu hóa quân đội Triều Tiên (các kế hoạch tác chiến OPLAN
5026, 5027 và 5029), nhưng chính Hàn Quốc cũng đã đồng ý và trực tiếp tham
gia khởi thảo các kế hoạch tác chiến này với Mỹ. Chính điều này phản ánh tình
thế khó khăn “tiến thoái lưỡng nan” của Hàn Quốc đối với chương trình vũ khí
hạt nhân của Bình Nhưỡng.
Sau khi Bình Nhưỡng thử hạt nhân, chính phủ Hàn Quốc đã tuyên bố xem
xét lại chính sách “Ánh dương”. Chính sách đối với Bắc Triều Tiên của Hàn
Quốc thường dựa vào cá nhân từng Tổng thống. Chính quyền Hàn Quốc dưới
thời Tổng thống Kim Tê Chung và Rô Mu Hiên đều thực hiện những chính sách
mềm mỏng là chính sách “Ánh dương” và chính sách bao dung để tiếp cận Bắc
Triều Tiên. Xét về mặt nào đó, chính sách hòa hữu có thể mang lại những hiệu
quả to lớn, tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là mặc dù chính quyền Hàn Quốc phản
đối Bắc Triều Tiên sở hữu hạt nhân, song do tâm lý “cùng dân tộc” khiến cho
chính quyền Seoul tỏ ra mềm yếu trong việc thực hiện mục tiêu ngăn chặn Bình
Nhưỡng sở hữu hạt nhân.
Trong tình hình hiện nay ở Hàn Quốc, khi mà đa số người dân đều thuộc
thế hệ ít kinh nghiệm và không còn biết nhiều đến cuộc chiến tranh Triều Tiên,
thì việc trông đợi vào cuộc bầu cử Tổng thống vào cuối năm nay ở Hàn Quốc để
hy vọng có một sự thay đổi trong những chính sách của Seoul đối với Bình
Nhưỡng là dường như không có. Thêm vào đó, cho dù đã có những cam kết
Nhật - Mỹ - Hàn về xử lý những vấn đề an ninh chung, thì hy vọng Hàn Quốc có
thể dứt khỏi tâm lý coi trọng tình cảm láng giềng để giải quyết vấn đề hạt nhân
của CHDCND Triều Tiên và việc thống nhất hai miền là rất mong manh. Trừng
phạt Bắc Triều Tiên do nước này sở hữu hạt nhân đã khó, nhưng khó khăn lớn
hơn là làm cách nào để Hàn Quốc cùng chung ý thức ngăn chặn khả năng này.
b) Nhật Bản
Nhật Bản vốn là nước láng giềng nằm ở phía đông, cách bán đảo Triều
Tiên một vùng biển và là đồng minh quan trọng của Mỹ, có quan hệ ràng buộc
về kinh tế, chính trị và an ninh với Mỹ. Do đó, tình hình bán đảo Triều Tiên xấu
đi sẽ tác động trực tiếp tới an ninh ổn định của Nhật Bản. Cuộc khủng hoảng hạt
nhân lần thứ nhất (1993 – 1994) và sự kiện CHDCND Triều Tiên phóng tên lửa

11
qua vùng trời Nhật Bản năm 1998 đã đủ cho Nhật Bản thấy nguy cơ an ninh của
họ bị đe dọa như thế nào.
Mặt khác, Nhật Bản còn muốn đảm bảo lợi ích lâu dài của mình. Sau khi
khủng hoảng hạt nhân được giải quyết, vấn đề tiếp theo sẽ là thống nhất bán đảo
này. Điều này là thách thức to lớn đối với Nhật Bản, vì vậy, trước khi có vấn đề
thống nhất Nam Bắc Triều Tiên được đưa ra, nếu Nhật Bản không đạt được mô
hình hợp tác nào với bán đảo Triều Tiên thì họ rất có thể bị gạt ra ngoài khu vực
chiến lược Đông Bắc Á trong tương lai, từ đó ảnh hưởng tới vị trí của Nhật Bản
ở khu vực và thế giới. Do đó, Nhật Bản đã sử dụng thực lực kinh tế to lớn, sức
mạnh thống nhất bán đảo Triều Tiên dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Bởi vậy, quan
điểm của Nhật Bản trong cuộc khủng hoảng hạt nhân lần này là giữ lập trường
hài hòa với Mỹ, tranh thủ các cơ hội hòa bình, tăng cường gây sức ép với
CHDCND Triều Tiên như: Tuyên bố sẵn sàng ngừng viện trợ kinh tế và trao đổi
mậu dịch, tích cực tham gia các hoạt động ngăn chặn tàu thuyền CHDCND
Triều Tiên do Mỹ, Australia tổ chức với ý đồ thực chất là duy trì hiện trạng
không chiến tranh, không hòa bình trên bán đảo Triều Tiên. Nhật Bản ủng hộ cơ
chế đàm phán đa phương nhằm đưa các vấn đề bất đồng giữa Nhật Bản và
CHDCND Triều Tiên vào bàn thương lượng
c) Trung Quốc
Bán đảo Triều Tiên là khu vực vành đai bên ngoài của lục địa châu Á
hướng ra Bắc Thái Bình Dương. Dựa theo khái niệm địa - chiến lược thì bán đảo
Triều Tiên là khu vực vành đai điển hình. Nhìn từ góc độ địa lý, bán đảo Triều
Tiên từ trước đến nay chính là con đường tự nhiên nối liền lục địa châu Á với
các đảo Nhật Bản, là trung tâm địa lý của khu vực Đông Bắc Á, có đặc trưng địa
- chiến lược độc đáo. Nằm ở vị trí tiếp giáp lục địa và biển, là khu vực then chốt
có giá trị chiến lược về mặt quân sự. Cho nên bán đảo Triều Tiên đương nhiên
gắn chặt với vận mệnh của Trung Quốc - nước lớn của châu Á Đối với Trung
Quốc, bán đảo Triều Tiên rất quan trọng đối với an ninh của Trung Quốc.
Đối với kẻ thù của Trung Quốc, thì bán đảo Triều Tiên là chiến trường
trên bộ nguy hiểm nhất khi tiến hành đối kháng quân sự với Trung Quốc. Vì
Trung Quốc với bối cảnh tài nguyên nhân lực phong phú, lại có chiều sâu tác
chiến chiến lược, khiến không một đối thủ nào có thể chiến thắng được Trung
Quốc ở bán đảo Triều Tiên. Nhưng đối với Trung Quốc giai đoạn hiện nay lấy
hòa bình phát triển làm chiến lược quốc gia tối cao, thì việc duy trì hòa bình bán
đảo Triều Tiên còn quan trọng hơn việc tấn công kẻ thù trên bán đảo Triều Tiên.
Cho nên vì lợi ích quốc gia của mình, đòi hỏi Trung Quốc một mặt tích cực
12
tham gia tiến trình hòa bình của bán đảo Triều Tiên, mặt khác cũng cần duy trì
lực lượng quân sự để bảo vệ hòa bình bán đảo và khu vực phía Bắc Trung Quốc
khi nổ ra chiến tranh trên bán đảo. Cho nên, dù muốn thừa nhận hay không, Bắc
Triều Tiên vẫn là một con bài để Trung Quốc kìm chế bá quyền của Mỹ ở Đông
Á, cũng như Trung Quốc là con bài để Bắc Triều Tiên chống Mỹ. Chiến thuật
chơi bài không dựa trên cơ sở ý chí, mà dựa trên cơ cấu địa lý.
Khi vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên bùng phát vào thập kỷ 1990 của
thế kỷ XX, các bên liên quan chỉ có Mỹ và Bắc Triều Tiên tham gia thương
lượng đàm phán qua lại nhằm đạt được một hiệp định khung. Lúc đó Trung
Quốc hoàn toàn đứng ngoài cuộc, thực hiện sách lược “giấu mình chờ thời”, có
lợi ích cho việc duy trì hòa bình ổn định trong nước.
Tới những năm đầu thế kỷ XXI, khi tình hình trên bán đảo Triều Tiên trở
nên căng thẳng, Trung Quốc không còn thể hiện thái độ lãnh đạm, mà đã phát
huy vai trò tích cực trong việc thúc đẩy đàm phán giữa các bên. Điều này là do
cục diện tình hình có liên quan trực tiếp đến an ninh của Trung Quốc. Nếu để
tình hình căng thẳng dẫn đến chiến tranh, điều đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới
chiến lược phát triển đất nước của Trung Quốc, và sẽ phải chịu những thiệt hại
nặng nề. Nếu các công trình của CHDCND Triều Tiên bị rò rỉ, đây sẽ là một
thảm họa về môi trường sinh thái đối với vùng Đông Bắc và Hoa Bắc Trung
Quốc. Mặc dù chiến tranh chưa xảy ra, nhưng một hiện thực hiển nhiên là Bắc
Triều Tiên đang tiến hành phát triển vũ khí hạt nhân. Điều đó có khả năng khởi
động một cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước trong khu vực như Nhật, Hàn
Quốc. Tất nhiên, điều này hoàn toàn không có lợi cho Trung Quốc.
Ngoài mục tiêu ngăn chặn vũ khí hạt nhân, Trung Quốc còn muốn tránh
khỏi vấn đề tị nạn Bắc Triều Tiên nếu chiến tranh bùng nổ ra, nhằm đảm bảo sự
ổn định cần thiết để tăng trưởng kinh tế và xây dựng một xã hội tương đối giàu
có. Xét về lợi ích lâu dài, một bán đảo Triều Tiên phi hạt nhân sẽ phù hợp với
mục tiêu bảo đảm an ninh của Trung Quốc.
Khi tham dự vào vấn đề này, Trung Quốc cũng nhận thấy đây là một cơ
hội để đề cao vị thế của Trung Quốc ở Đông Bắc Á cũng như trong cộng đồng
thế giới. Trong thời điểm hiện tại, hai nước có khả năng phát huy ảnh hưởng lớn
tại bán đảo Triều Tiên chỉ có Mỹ và Trung Quốc. Vai trò của Nga ở đây bị hạn
chế do sức mạnh trong nước giảm xuống. Nhật Bản cũng khó gây tác động được
ở đây do thực lực quân sự chưa đủ mạnh, đồng thời còn vấn đề lịch sử để lại.
Ngoài ra, Trung Quốc còn có thể nâng cao ảnh hưởng của mình trên bán đảo
Triều Tiên khi có sự rạn nứt trong quan hệ Mỹ - Hàn xung quanh chính sách đối
13
với Bắc Triều Tiên. Trung Quốc cũng lo ngại Bắc Triều Tiên sụp đổ, muốn duy
trì hiện trạng trên bán đảo Triều Tiên và điều này nằm trong chiến lược lâu dài
đối với Đông Bắc Á của Trung Quốc. Đồng thời, quá trình quốc tế hóa của
Trung Quốc đang được đẩy mạnh, lãnh đạo Bắc Kinh hiển nhiên không muốn
Bắc Triều Tiên đứng cô lập khỏi cộng đồng thế giới.
Nếu Trung Quốc giúp đỡ Bắc Triều Tiên cải thiện quan hệ, tiến tới bình
thường hóa quan hệ với các nước, thì mọi vấn đề trên bán đảo Triều Tiên sẽ
tránh được nguy cơ bị nước ngoài can thiệp. Khi đó Trung Quốc có thể từng
bước phá vỡ sự bố trí chiến lược của Mỹ trong việc lợi dụng bán đảo Triều Tiên
để bao vây kiềm chế Trung Quốc.
Hơn bất kỳ nước nào khác, Trung Quốc có tác động lớn đối với Bắc Triều
Tiên. Bắc Kinh cung cấp cho Bình Nhưỡng phần lớn nhiên liệu và khối lượng
lớn lương thực. Nếu Bắc Kinh ngừng viện trợ, chắc chắn Bình Nhưỡng sẽ sụp
đổ. Bởi vậy, một câu hỏi đặt ra là vì sao Trung Quốc không hợp tác với Mỹ để
gây sức ép và ảnh hưởng hết mức của mình đối với Bắc Triều Tiên? Câu trả lời
của Trung Quốc có thể là giống như vấn đề Iraq, Trung Quốc đứng trước sự lựa
chọn khó khăn giữa “bạn” và “thù”, giữa “công lý” và “lợi ích quốc gia”.
Trung Quốc hy vọng Bắc Triều Tiên là bạn chứ không phải là kẻ địch,
Trung Quốc không muốn Bắc Triều Tiên trở thành một “Cuba” đối với Mỹ, vì
vậy sẽ làm tổn hại rất lớn tới lợi ích lâu dài của Trung Quốc. Vì vậy, cho dù
Trung Quốc không hài lòng với những hành vi và thái độ của Bắc Triều Tiên,
nhưng vẫn phải hết sức thận trọng khi xử lý quan hệ với Bắc Triều Tiên.
Quan hệ Trung - Triều trở nên lạnh nhạt và tồn tại nhiều mâu thuẫn từ khi
Trung Quốc hòa nhập với các nước châu Á khác, cuộc khủng hoảng hạt nhân lần
này đã tạo cho Trung Quốc làm ấm lại quan hệ Trung - Triều. Trung Quốc áp
dụng thái độ vô cùng thận trọng, vì Trung Quốc cho rằng việc Mỹ tranh thủ sự
ủng hộ của Trung Quốc nhằm phục vụ cho lợi ích riêng của họ chứ không phải
xuất phát từ lợi ích của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không thể chỉ vì
yếu tố Mỹ mà quên mất lợi ích lâu dài của mình, bởi lẽ cải thiện, phát triển quan
hệ hữu nghị tốt đẹp với Bắc Triều Tiên trong lúc này là phù hợp với lợi ích lâu
dài của Trung Quốc.
Xoá bỏ sự hiện diện của quân đội Mỹ ở bán đảo Triều Tiên chính là bước
đi đầu tiên và quan trọng để Trung Quốc có thể tiến tới thực hiện các mục tiêu
tổng thể lâu dài là tái thống nhất Đài Loan và tái khẳng định vị trí siêu khu vực
của mình.

14
Trong trường hợp quân Mỹ rút khỏi bán đảo Triều Tiên, Bắc Kinh hy
vọng sẽ kết bạn được cả hai miền Nam - Bắc Triều Tiên. Từ sau Chiến tranh
lạnh, Hàn Quốc đã không còn là nước thì địch của Trung Quốc mà đã trở thành
đối tác thương mại quan trọng. Nếu Nam - Bắc Triều Tiên thống nhất sẽ có lợi
cho Trung Quốc vì yếu tố cự ly và ảnh hưởng của Trung Quốc, một nước Triều
Tiên thống nhất sẽ hướng về Trung Quốc.
Những lý giải trên còn có thể giải thích lý do tại sao tháng 12/2002 Trung
Quốc cung cấp các chất liệu chủ yếu cho việc phát triển vũ khí hạt nhân cho Bắc
Triều Tiên có thực lực mạnh để yêu cầu Mỹ ngồi vào bàn đàm phán song
phương.
Sau khi tổ chức cuộc hội đàm ba bên Bắc Triều Tiên - Mỹ - Trung Quốc tháng
4/2003, Trung Quốc đã đóng vai trò trung gian trong các cuộc hội đàm sáu bên
trong năm 2003 và 2004. Các cuộc đàm phán sáu bên về Bắc Triều Tiên dù chưa
đưa đến kết quả nào, nhưng đã nhen nhóm hy vọng cho một hệ thống an ninh đa
phương ở Đông Bắc Á. Điều này cũng nằm trong lợi ích của Trung Quốc. Trung
Quốc mong muốn có một hệ thống an ninh đa phương, tồn tại song song với các
hiệp định song phương và với sự tham gia của Mỹ. Một cơ cấu an ninh như vậy
sẽ giúp giải quyết các vấn đề an ninh trong khu vực, trong đó có vấn đề Đài
Loan.
Trung Quốc tích cực trong vấn đề này cũng còn nhằm nhiều mục đích khác:
nâng cao ảnh hưởng của Trung Quốc trên bán đảo Triều Tiên khi có sự rạn nứt
trong quan hệ Mỹ - Hàn xung quanh chính sách đối với Bắc Triều Tiên; đề
phòng Mỹ tấn công Bắc Triều Tiên và ngăn chặn vấn đề hạt nhân; vấn đề người
tị nạn Bắc Triều Tiên cản trở tăng trưởng kinh tế và xây dựng “xã hội tương đối
giàu có” - những nhiệm vụ có tính chất quốc gia của Trung Quốc – cũng là một
trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc.
Do đó, có khả năng Trung Quốc sẽ tăng cường sử dụng viện trợ về năng
lượng, lương thực làm công cụ gây sức ép. Điều này sẽ được thấy rõ hơn sau khi
Bắc Triều Tiên thử hạt nhân, tình hình bán đảo Triều Tiên xuất hiện cục diện
“ba không” là “không chiến tranh, không hòa bình và không thống nhất”, đồng
thời đem đến cho Trung Quốc thời cơ mang tầm địa chiến lược, tạo điều kiện tốt
để phá vỡ tình trạng đóng băng trong quan hệ Trung - Nhật và mở ra trang mới
cho hợp tác Trung Quốc – Hàn Quốc. Trung Quốc cần phải nắm bắt cơ hội này,
trong đó quan trọng nhất là đẩy nhanh hợp tác với Hàn Quốc, nhanh chóng thúc
đẩy nhất thể hóa kinh tế hai nước. Bởi vì, nhìn về lâu về dài điều này không chỉ

15
mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc mà còn là việc Trung Quốc bắt buộc phải
làm.
Có thể thấy Trung Quốc không phải là nhân vật chính có quyền quyết
định, nhưng lại có trong tay con bài quan trọng. Trung Quốc là trụ cột viện trợ
kinh tế và là chỗ dựa về quân sự quan trọng nhất đối với Bắc Triều Tiên. Năm
1961, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã ký Hiệp ước hợp tác hữu nghị, trong đó
có điều khoản giúp đỡ về quân sự. Về mặt kinh tế, theo tính toán của Mỹ, có đến
30% lương thực và 88% nhiên liệu của Bắc Triều Tiên hiện nay là dựa vào nhập
khẩu từ Trung Quốc. Bắc Triều Tiên không sản xuất được dầu mỏ và than chất
lượng cao cung cấp cho ngành luyện kim. Mặt khác, nước này còn đang gặp khó
khăn về ngoại tệ nên khó có thể mua nhiên liệu từ thị trường thế giới. Bởi vậy,
sự vận hành của nền kinh tế Bắc Triều Tiên phụ thuộc rất lớn vào khoản viện trợ
dầu của Trung Quốc. Trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, Bắc Triều
Tiên không thể không tính tới sự an nguy của Trung Quốc. Từ trước đến nay,
Trung Quốc vẫn thực hiện chính sách không can thiệp vào công việc nội bộ của
Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, khi Bắc Triều Tiên công khai phát triển các công
trình hạt nhân, đe dọa trực tiếp đến tình hình an ninh của khu vực cũng như của
Trung Quốc, Trung Quốc đã không thể không bày tỏ quan điểm muốn “phi hạt
nhân hóa bán đảo Triều Tiên”.
Đối với vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Mỹ đặc biệt quan tâm là Bắc
Triều Tiên phải xóa bỏ hoàn toàn chương trình hạt nhân của mình. Đây là quan
điểm nhất quán của Mỹ trong tất cả các vòng đàm phán. Và mục tiêu lâu dài mà
Mỹ không che dấu, đó là thay đổi chính quyền ở Bắc Triều Tiên. Trong khi đó,
trọng điểm của Trung Quốc là duy trì sự ổn định trên bán đảo. Trung Quốc
không hề mong muốn việc chính quyền Bắc Triều Tiên sụp đổ. Quan điểm của
Trung Quốc trong vấn đề này là mong muốn không dẫn đến một cuộc chiến
tranh trên bán đảo Triều Tiên.
Sau vụ thử hạt nhân của CHDCND Triều Tiên khiến cho sự hợp tác giữa
Trung Quốc và Hàn Quốc tốt đẹp hơn. Trung Quốc và Hàn Quốc có thể coi đây
là cơ hội để triển khai hợp tác song phương sâu rộng hơn. Tuy nhiên, Trung
Quốc không thể không tham gia cơ chế cấm vận của quốc tế và tự buộc mình
lạnh nhạt trong quan hệ với Bắc Triều Tiên. Đương nhiên, điều này sẽ ảnh
hưởng đến quan hệ kinh tế Trung Quốc – Bắc Triều Tiên, nhất là các doanh
nghiệp Trung Quốc đã, đang và sẽ tiến hành đầu tư tại Bắc Triều Tiên. Từ nay
về sau, tình hình chính trị, kinh tế của Bắc Triều Tiên thay đổi như thế nào vẫn
còn là điều khó dự đoán, nhưng Trung Quốc điều chỉnh quan hệ với Bắc Triều
16
Tiên và Hàn Quốc, có thể hệ quả sẽ là không chỉ tạo ra được môi trường hợp tác
cùng có lợi nhiều hơn giữa hai nước, mà còn có vai trò quan trọng trong duy trì
hòa bình và ổn định tình hình tại khu vực Đông Á.
d) Liên bang Nga
Nga là nước láng giềng phía Bắc của CHDCND Triều Tiên, bất kỳ một
cuộc khủng hoảng nào ở đây cũng đều tác động trực tiếp tới vùng Viễn Đông
của Nga. Hiện nay, Nga đang tập trung phát triển kinh tế, do đó môi trường hòa
bình có ý nghĩa quan trọng với Nga. Nếu chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên
bùng nổ, sẽ tác động tới xây dựng kinh tế vùng Viễn Đông, ảnh hưởng tới các
nhà đầu tư. Mặt khác, nếu CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân sẽ tạo ra
phản ứng lan truyền. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng có thể phát triển vũ khí hạt
nhân làm cho khu vực bước vào cuộc chạy đua và phổ biến vũ khí hạt nhân, đe
dọa an ninh và khu vực, mất cân bằng sức mạnh quân sự, tác động mạnh đến lợi
ích an ninh của Nga. Đây là vấn đề chiến lược hết sức quan nguy hiểm. Nga rất
khó đối phó với các cuộc xung đột quân sự diễn ra ở Đông Bắc Á, đặc biệt là
chiến tranh hạt nhân.
Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên có kỹ thuật hạt nhân là điều đã được
khẳng định. Nêu chiến tranh xảy ra, CHDCND Triều Tiên có thể hợp tác với bất
kỳ quốc gia nào về vấn đề này, tên lửa, kỹ thuật và nhiên liệu hạt nhân sẽ có thể
rơi vào tay các nhóm khủng bố vũ trang điều này sẽ là mối nguy hiểm cho Nga.
Nếu Chesnia mua được kỹ thuật hạt nhân, Nga sẽ vĩnh viễn không có hòa bình.
Đồng thời, nếu Nga không can thiệp vào cuộc khủng hoảng này sẽ có nguy cơ
mất ảnh hưởng đối với khu vực, gây tổn thất cho lợi ích chiến lược lâu dài và địa
vị nước lớn của Nga. Mục tiêu chiến lược của Nga ở bán đảo Triều Tiên trong
quá trình trở lại châu Á – Thái Bình Dương là tạo ra môi trường hòa bình, ổn
định xung quanh Nga, tăng cường vai trò ảnh hưởng của Nga trong khu vực, tạo
lợi ích kinh tế…
Xuất phát từ lợi ích chiến lược về chính trị, an ninh và kinh tế, lập trường
cơ bản của Nga trong giải quyết khủng hoảng là phản đối CHDCND Triều Tiên
có vũ khí hạt nhân, duy trì phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, tuân thủ nghiêm
túc NPT, hợp tác với IAEA, quan tâm đến vấn đề an ninh của CHDCND Triều
Tiên, cung cấp viện trợ cần thiết cho nước này.
Không những vậy, xuất phát từ những lợi ích thiết thực như vậy nên Nga
đã có những nỗ lực trung gian ngay cả trong thời điểm khủng hoảng trên bán
đảo Triều Tiên trở nên căng thẳng và vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên được
dư luận chú ý rộng rãi. Nga luôn chủ trương thông qua con đường đàm phán
17
chính trị để giải quyết hòa bình , phản đối sử dụng vũ lực với Bắc Triều Tiên.
Nga chủ trương nên duy trì tình trạng phi hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên, đảm
bảo an ninh của các nước trong khu vực, cung cấp viện trợ cần thiết cho quốc
gia này.
Ngay từ tháng 4/1996, Bộ Ngoại giao Nga tuyên bố rằng Nga cần có vai
trò quan trọng trong tiến trình hòa bình trên bán đảo Triều Tiên. Nga đưa ra
phương án “2+2+2”, hình thành cơ chế phối hợp gồm Hàn Quốc và Bắc Triều
Tiên, Mỹ, Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Sau khi lên làm Tổng thống, Putin
chủ trương “hội đàm sáu bên” về vấn đề này. Hơn nữa, việc cân bằng Nam - Bắc
Triều Tiên cũng mang lại những lợi ích thiết thực cho Nga. Nhìn từ góc độ quan
hệ Bắc Triều Tiên – Hàn Quốc, quyền chủ động giải quyết vấn đề cơ bản ở phía
Bình Nhưỡng. Bởi vậy, điều chỉnh quan hệ với Bắc Triều Tiên sẽ nắm được
quyền chủ động đối với công việc trên bán đảo này. Sau khi ông Roh Moo Hyun
đắc cử tổng thống Hàn Quốc, chính sách “Ánh dương” có hy vọng được tiếp tục
quán triệt. Quan hệ Nga – Hàn cơ bản được đảm bảo. Nga phối hợp lập trường
với Hàn Quốc nhiều hơn. Kinh nghiệm của Nga là cố giữ vững ảnh hưởng của
Bắc Triều Tiên mới có thể thúc đẩy có hiệu quả quan hệ với Hàn Quốc.
Vấn đề hạt nhân một lần nữa trở thành mấu chốt trong chính sách đối
ngoại của Bắc Triều Tiên, trong khi Nga vừa có vũ khí hạt nhân khổng lồ, vừa
có kỹ thuật hạt nhân dân dụng tiên tiến, là một trong số rất ít nước có tiếng nói
trong lĩnh vực trên, có thể phát huy ưu thế và ảnh hưởng đối với tình hình bán
đảo này. Sau khi Bắc Triều Tiên tuyên bố khôi phục việc xây dựng các công
trình hạt nhân (ngày 12/12/2002), Nga triển khai một loạt hành động. Một mặt,
Nga kêu gọi lãnh đạo Bắc Triều Tiên kiềm chế và bình tĩnh, khẳng định lập
trường của Nga chủ trương bán đảo Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân, các
công trình hạt nhân của Bình Nhưỡng không đe dọa Mỹ. Thủ tướng ngoại giao
Nga, Alexander Lesukov thậm chí nhắc nhở Mỹ gây sức ép với Bắc Triều Tiên
chẳng những không có hiệu quả, mà còn gây nguy hiểm. Lập trường đó của Nga
trên mức độ nhất định chẳng những đã an ủi nhà lãnh đạo Triều Tiên, ngăn chặn
tình hình bán đảo Triều Tiên xấu đi, mà còn chuẩn bị điều kiện để sau này Nga
có thể tiếp nhận công việc xây dựng lò phản ứng nước nhẹ của Bắc Triều Tiên,
hoặc cung cấp dầu nặng cho nước này.
Có thể nói, Bắc Triều Tiên là tiêu điểm quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Việc quan hệ chặt chẽ với Bắc Triều Tiên là con đường quan trọng để Nga phát
huy vai trò trong khu vực và có ảnh hưởng đến cộng đồng quốc tế. Tăng cường

18
quan hệ với Bình Nhưỡng là then chốt để Nga phát triển hợp tác kinh tế với bán
đảo này.
1.2. Những yếu tố nội tại tác động đến quan hệ Mỹ – Triều
1.2.1. Diễn biến và mục tiêu chính sách hạt nhân của Triều Tiên
Về mục tiêu chính, chính sách hạt nhân của CHDCND Triều Tiên được
hình thành dựa trên nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi lên ba nguyên
nhân chính sau đây.
Thứ nhất, nguyên nhân sâu xa trực tiếp của mọi vấn đề xung quanh vấn đề
hạt nhân của CHDCND Triều Tiên bắt nguồn từ quan hệ Mỹ - Triều dưới thời
điểm Chiến tranh thế giới thứ hai chính thức kết thúc.
Cụ thể, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bán đảo Triều Tiên bị chia cắt ra
thành hai bên với phía Bắc ảnh hưởng từ Liên Xô, còn Mỹ thì chi phối phía
Nam. Sau đó, bùng nổ Chiến tranh liên Triều kéo dài từ năm 1950 đến 1953 với
Mỹ là một bên ký Hiệp định đình chiến, dẫn đến việc bán đảo Triều Tiên bị chia
cắt thành hai miền lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Trong đó, Triều Tiên kiên định
con đường Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Triều Tiên.
Còn Mỹ thì đặt 45.000 quân Mỹ với các phương tiện chiến tranh, căn cứ quân sự
hiện đại trên lãnh thổ Hàn Quốc và các căn cứ quân sự trong khu vực, luôn luôn
thường trực một toan tính xóa bỏ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Từ
đó, khiến cho Triều Tiên lâm vào tình trạng có thể xảy ra chiến tranh bất cứ lúc
nào. Vì vậy, một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng hạt nhân đến
từ việc Triều Tiên phải tìm mọi cách để tự bảo vệ mình và phát triển chương
trình hạt nhân là ưu tiên hàng đầu.
Thứ hai, đối với Triều Tiên thì con bài hạt nhân chính là một phương tiện
hữu hiệu mà họ sử dụng triệt để để điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại
của mình, đặc biệt là việc điều chỉnh toàn diện chính sách đối ngoại. Ngoài ra,
còn nhằm duy trì và phát huy chiến lược toàn cầu của mình, trong đó khống chế
Châu u và Châu Á – Thái Bình Dương là mục tiêu chủ yếu do vị trí địa – chính
trị bán đảo Triều Tiên chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược mới ở
Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ.
Thứ ba, ngoài hai nguyên nhân chủ yếu như trên, thì hiện nay với những
diễn biến phức tạp và khó lường của tình hình thế giới, vấn đề tự bảo vệ mình để
phát triển đất nước trở thành một nhu cầu cấp thiết. Và để tự bảo vệ mình trước
các thế lực thù địch đòi hỏi các nước phải tự trang bị cho mình những trang thiết
bị vũ khí hiện đại nhất, trong đó vũ khí hạt nhân là một con bài chiến lược đặc
biệt quan trọng để răn đe các thế lực thù địch. Chính vì vậy rất nhiều quốc gia
19
trên thế giới tìm mọi cách để có được công nghệ sản xuất và chế tạo vũ khí hạt
nhân, trong đó CHDCND Triều Tiên cũng không phải là một ngoại lệ. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân để CHDCND Triều Tiên phát triển chương
trình hạt nhân của mình.
Về diễn biến cụ thể, lịch sử phát triển vũ khí hạt nhân của Triều Tiên bắt
đầu với sự kết thúc của Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc bằng 2 quả bom
nguyên tử do người Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản, và nhất
là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, bán đảo Triều Tiên chia thành 2
quốc gia, gồm CHDCND Triều Tiên (từ đây xin gọi tắt là Triều Tiên) và Đại
Hàn dân quốc (hay còn gọi là Hàn Quốc), trong đó Triều Tiên được sự hỗ trợ
tích cực của Trung Quốc và một phần từ Liên Xô, còn Hàn Quốc chủ yếu do
nước Mỹ hậu thuẫn. Nhận thức được sức mạnh của vũ khí hạt nhân trong việc
bảo vệ lãnh thổ và răn đe kẻ thù, năm 1956 - dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Kim
Nhật Thành, các nhà khoa học Triều Tiên bắt đầu tiến hành việc nghiên cứu với
sự giúp đỡ của Liên Xô, một số cán bộ kỹ thuật Triều Tiên sang Moskva để học
hỏi những kiến thức cơ bản.
Năm 1958, trước việc Mỹ triển khai tên lửa Honest mang đầu đạn hạt
nhân và lực lượng pháo hạt nhân 280mm đến Hàn Quốc, Triều Tiên và Liên Xô
lập tức ký một thỏa thuận hợp tác, theo đó phía Liên Xô sẽ giúp Triều Tiên xây
dựng Trung tâm hạt nhân Yongbyon. Năm 1962, các lò phản ứng đạt được công
suất 2MW rồi đến năm 1974, được nâng lên thành 4MW. Vào những năm tiếp
theo, đặc biệt vào năm 1962, các lò phản ứng ở Nyongbyon đạt được công suất
2MW rồi đến năm 1974, được nâng lên thành 4MW. Trong khi đó, từ năm 1970,
Triều Tiên bắt đầu khai thác quặng Urani ở một số mỏ nằm gần tỉnh Sunchon và
Pyongsan.
Sau khi nắm được những công nghệ cơ bản về chế tạo vũ khí hạt nhân,
song song với việc triển khai các lò phản ứng, từ năm 1980 đến 1985, Triều Tiên
tiến hành xây dựng thêm một nhà máy ở Trung tâm hạt nhân Yongbyon để tích
lũy Urania (hay còn được gọi là "Bánh Vàng" - Yellowcake). Đây là loại
Uranium thu được trong quá trình xử lý quặng Urani. Nó là loại bột màu vàng,
có mùi hăng, không tan trong nước, chứa khoảng 80% Oxit Uranium. Sau đó,
chất bột này được làm giàu (nghĩa là nâng thành phần Urani325 trong bột lên
đến mức có thể dùng để chế tạo bom nguyên tử). Theo báo cáo của Cơ quan
Năng lượng nguyên tử quốc tế Liên Hiệp Quốc (IAEA), các lò phản ứng hạt
nhân ở Yongbyon đã đạt đến sức mạnh 8 MW. Từ năm 1970, Triều Tiên bắt đầu
khai thác quặng Urani ở một số mỏ nằm gần tỉnh Sunchon và Pyongsan.
20
Sau khi nắm được những công nghệ cơ bản về chế tạo vũ khí hạt nhân,
song song với việc triển khai các lò phản ứng thì từ năm 1980 đến 1985, Triều
Tiên tiến hành xây dựng thêm một nhà máy ở Trung tâm hạt nhân Yongbyon để
tích lũy Urani. Tuy nhiên, vào năm 1985, mặc dù đã ký “Hiệp ước không phổ
biến vũ khí hạt nhân” (NPT) nhưng Triều Tiên vẫn lặng lẽ nghiên cứu và hoàn
thiện cách chế tạo loại công cụ hủy diệt hàng loạt này, mặc cho nhiều biện pháp
ngăn cản, trừng phạt, bao vây cấm vận của Liên Hợp Quốc cùng một số quốc
gia như Mỹ, Anh, Pháp … Bên cạnh đó, Bình Nhưỡng cũng không đồng ý để
các thanh sát viên IAEA đến kiểm tra các cơ sở hạt nhân của mình.
Mãi đến năm 1992, lần đầu tiên Triều Tiên mới cho phép một nhóm
chuyên gia IAEA đến Trung tâm hạt nhân Yongbyon. Kết quả kiểm tra đã phát
hiện nhiều mâu thuẫn, trái ngược với những tuyên bố của Bình Nhưỡng, rằng họ
phát triển công nghiệp hạt nhân chỉ nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu dân sự.
Hans Blix, người đứng đầu IAEA nghi ngờ Triều Tiên đang bí mật sử dụng lò
phản ứng và cơ sở tái chế ở Yongbyon để biến nhiên liệu đã qua sử dụng thành
Plutonium. Tiếp theo, các thanh tra IAEA tìm thấy thêm bằng chứng, chứng tỏ
Triều Tiên đã cố tình che giấu mức độ sản xuất chất phóng xạ này. Trước những
cáo buộc ấy, tháng 3-1993, Bình Nhưỡng đe dọa sẽ rút khỏi Hiệp ước NPT. Đến
tháng 12, Tổng Giám đốc IAEA Hans Blix thông báo “IAEA không dám bảo
đảm là Triều Tiên sẽ không sản xuất vũ khí hạt nhân”.
Đây cũng chính là khởi đầu chính thức của cuộc khủng hoảng hạt nhân
bắt đầu khi Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt
nhân mà nước này đã tham gia từ năm 1985. Bình Nhưỡng lý giải rằng hành
động này là vì sức ép quốc tế trong việc thanh sát chương trình hạt nhân bị cho
là để phát triển vũ khí nguyên tử. Triều Tiên bắt đầu tích trữ plutonium, nhưng
sau đó lại quyết định không rút khỏi Hiệp ước nói trên nữa.
Sau nhiều vòng đàm phán, ngày 12-10-1994, Mỹ và Triều Tiên đã ký một
thỏa thuận khung, trong đó Bình Nhưỡng đồng ý đóng băng chương trình sản
xuất Plutonium để đổi lấy xăng, dầu, lương thực cùng 2 nhà máy điện hạt nhân
nước nhẹ, phục vụ cho sinh hoạt dân sự. Đổi lại, Triều Tiên sẽ tháo dỡ các cơ sở
hạt nhân hiện có, và các thanh nhiên liệu Urani trong các lò phản ứng sẽ được
đưa ra khỏi Triều Tiên dưới sự giám sát của IAEA. Tuy nhiên, ông Hans Blix,
Tổng Giám đốc IAEA nói với Bộ trưởng Ngoại giao Anh quốc hồi ấy rằng:
“IAEA hoàn toàn không vui với bản ‘thỏa thuận khung’ vì nó mang lại cho Bình
Nhưỡng quá nhiều thời gian để họ có thể đối phó với việc thanh sát…”.

21
Hai năm sau đó vào ngày 18-3-1996, một lần nữa Hans Blix lại thông báo
với Triều Tiên là nước này vẫn chưa thực hiện kê khai số lượng Plutonium mà
họ có theo như yêu cầu trong bản thỏa thuận khung. Ngày 31-8-1998, Triều Tiên
bất ngờ phóng tên lửa Paektusan-1, mang theo vệ tinh thăm dò thời tiết
Kwangmyongsong. Các nhà phân tích quân sự Mỹ cho rằng vụ phóng vệ tinh
chỉ là nhằm che giấu việc thử nghiệm loại tên lửa đạn đạo tầm xa (ICBM). Tên
lửa này đã bay qua vùng lãnh hải Nhật Bản, khiến Chính phủ Nhật rút lại 1 tỷ
USD - là tiền viện trợ xây dựng 2 lò phản ứng nước nhẹ dân sự cho Bình
Nhưỡng.
Từ đó đến năm 2002, Triều Tiên vẫn tiếp tục nghiên cứu, chế tạo vũ khí
nguyên tử cho dù 2 nhà máy điện hạt nhân nước nhẹ phục vụ dân sinh đã bắt đầu
được xây dựng bởi Tổ chức phát triển năng lượng Hàn Quốc, cũng như phớt lờ
những cảnh báo của Tổng thống Mỹ George W. Bush. Đến ngày 13-12 cùng
năm, Bình Nhưỡng yêu cầu Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA loại
bỏ con dấu niêm phong và tháo gỡ thiết bị giám sát tại cơ sở hạt nhân
Yongbyon. Khi IAEA từ chối, Triều Tiên “tự xử” một mình đồng thời tiến hành
đưa các thanh nhiên liệu đến nhà máy Yongbyon để phục vụ cho việc sản xuất
Plutonium. Theo IAEA, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có 1.000 thanh nhiên
liệu được chuyển đến các lò phản ứng hạt nhân Yongbyon. Tiếp đến, vào ngày
27-12-2002, Bình Nhưỡng ra lệnh trục xuất các thanh sát viên IAEA đồng thời
chính thức công bố kế hoạch mở lại một nhà máy tái chế để có thể bắt đầu sản
xuất bom Plutonium trong vòng vài tháng.
Ngày 10-1-2003, một lần nữa Bình Nhưỡng lại tuyên bố sẽ rút khỏi Hiệp
ước không phổ biến vũ khí hạt nhân NPT và trong quãng thời gian suốt cả năm
2003, nhiều cuộc đàm phán giữa Hàn Quốc, Mỹ, IAEA với Triều Tiên đã diễn
ra nhưng hầu như không đạt được kết quả đáng kể. Trong một thông điệp liên
bang hàng năm, Tổng thống Bush cáo buộc Triều Tiên "đã lừa dối tất cả về tham
vọng hạt nhân của mình. Nước Mỹ và thế giới sẽ không thể bị hăm dọa". Đáp trả
lại, Bình Nhưỡng nói rằng bài phát biểu của ông Bush “là một tuyên bố ngụy tạo
nhằm xâm lược để lật đổ hệ thống chính trị của CHDCND Triều Tiên…”. Ngày
5 tháng 2 năm 2003, Triều Tiên cho biết họ đã kích hoạt lại các cơ sở hạt nhân
và mọi hoạt động bắt đầu diễn ra bình thường. Điều ấy phù hợp với những ghi
nhận của vệ tinh do thám Mỹ, chứng tỏ rằng Triều Tiên đang tiến hành chế tạo
một quả bom nguyên tử. Đến tháng 6 Bình Nhưỡng công khai tuyên bố họ sẽ
xây dựng một “lực lượng răn đe hạt nhân” trừ khi Chính phủ Mỹ từ bỏ chính
sách thù địch với họ.
22
Bước sang năm 2004, Triều Tiên đồng ý cho phép một nhóm các chuyên
gia Mỹ - trong đó có nhà khoa học hạt nhân hàng đầu là Tiến sĩ Siegfried
Hecker - thăm cơ sở hạt nhân Yongbyon. Trở về Mỹ, ông Siegfried Hecker nói
trước Quốc hội Mỹ rằng việc Triều Tiên làm giàu Plutonium là có nhưng ông
không nhìn thấy bất kỳ bằng chứng nào về sự chế tạo một quả bom hạt nhân.
Tuy nhiên, ngày 28-9, Bình Nhưỡng tự nhìn nhận là họ đã thành công trong việc
làm giàu Plutonium từ 8.000 thanh nhiên liệu đã qua sử dụng. Phát biểu tại Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc, ông Choe Su-hon, Thứ trưởng Ngoại giao Triều Tiên
nói: "Vũ khí hạt nhân là cần thiết để tự vệ, chống lại mối đe dọa từ phía Mỹ".
Năm 2005 trôi qua với một số vấn đề không rõ ràng về phía Bình Nhưỡng
khi mà tuyên bố đình chỉ tham gia vô thời hạn các cuộc hội nghị về chương trình
hạt nhân, nhưng lúc khác lại nói đã đóng cửa lò phản ứng Yongbyon để tìm
kiếm viện trợ lương thực, phân bón, điện năng từ Hàn Quốc. Trải qua nhiều
cuộc đàm phán tổ chức ở Bắc Kinh, Trung Quốc, một tuyên bố chung giữa Mỹ
và Triều Tiên được công bố ngày 19-9-2005, trong đó Triều Tiên đồng ý từ bỏ
tất cả các hoạt động hạt nhân của mình, đồng thời tái gia nhập Hiệp ước không
phổ biến vũ khí hạt nhân. Thế nhưng, ngay hôm sau, Bình Nhưỡng lại cho biết
sẽ không bỏ chương trình hạt nhân cho đến khi có được một lò phản ứng hạt
nhân dân sự.
Vào ngày 26 tháng 6 năm 2006, một báo cáo của Viện Khoa học và An
ninh quốc tế ước tính rằng thời điểm ấy, lượng Plutonium dự trữ của Triều Tiên
đủ để chế tạo từ 4 đến 13 quả bom hoặc đầu đạn hạt nhân. Ngày 4 tháng 7 năm
2006, Triều Tiên phóng thử nghiệm 6 tên lửa, trong đó có một tên lửa tầm xa
Taepodong-2. Hôm sau, họ phóng tiếp một tên lửa nữa với lời tuyên bố “sẽ tiếp
tục phóng”, bất chấp những cảnh báo lặp đi lặp lại từ cộng đồng quốc tế.
Ba tháng sau, ngày 3 tháng 10 năm đó, Đài BBC, Anh quốc đưa tin Triều
Tiên đã thông báo kế hoạch thử nghiệm một loại bom nguyên tử, mà nguyên
nhân là do chính sách thù địch của nước Mỹ. Ngay lập tức, một đặc sứ Mỹ lên
tiếng đe dọa: "Triều Tiên có thể có tương lai hoặc có thể có vũ khí hạt nhân
nhưng không thể có cả hai". Vị đặc sứ này cũng cho rằng "bất kỳ nỗ lực nào
nhằm thử nghiệm vũ khí hạt nhân sẽ được xem như là một hành động khiêu
khích cao độ". Vào khoảng ba ngày sau đó, vệ tinh tình báo Mỹ ghi nhận có một
vụ nổ xảy ra tại khu vực thử nghiệm Hwaderi, gần thành phố Kilju. Ngay lập
tức, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ra tuyên bố: “Hội đồng Bảo an kêu gọi
CHDCND Triều Tiên không tiến hành thử nghiệm vũ khí hạt nhân để tránh gây
thêm căng thẳng trong việc giải quyết các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế,
23
nhằm tạo điều kiện cho một giải pháp hòa bình, thông qua các nỗ lực ngoại
giao”.
Một bước tiến lớn của Triều Tiên trong việc phát triển vũ khí hạt nhân
chính là sự kiện ngày 9 tháng 10 năm 2006, khi mà Bình Nhưỡng tuyên bố thực
hiện vụ thử hạt nhân đầu tiên vào - tuy nhiên, đây cũng là một hành động bị
ngay cả những quốc gia đồng minh lên án mặc dù với độ mạnh chưa đầy 1
kiloton thì quả bom này thậm chí chưa bằng 1/10 quả bom Little Boy được thả
xuống Hiroshima năm 1945. Triều Tiên tiếp tục nhiều cuộc thử nghiệm hạt nhân
khác nhau cho đến năm 2008, khi đàm phán 6 bên đạt được thỏa thuận phi hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên và theo như đúng thỏa thuận, CHDC Triều Tiên đã
dỡ bỏ tháp làm lạnh trong tổ hợp hạt nhân Đông Piêng (tổ hợp hạt nhân lớn nhất
của nước này); tiếp đến, Bình Nhưỡng đã công khai các tài liệu liên quan đến
chương trình hạt nhân của mình. Đổi lại, Mỹ, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc đã
cung cấp viện trợ kinh tế cho Triều Tiên theo cam kết. Ngày 12-10-2008, Mỹ đã
đưa Triều Tiên ra khỏi danh sách "các nước tài trợ khủng bố". Đây được coi là
bước khởi đầu tiến tới việc bình thường hóa quan hệ với Bình Nhưỡng.
Tuy nhiên, đàm phán 6 bên ngày 12-12-2008 đã không đạt được thỏa
thuận về kế hoạch tiếp theo trong việc kiểm chứng Bắc Triều Tiên giải trừ hạt
nhân; do đó, tiến trình phi hạt nhân bị gián đoạn và Triều Tiên tiếp tục tiến hành
phóng vệ tinh, tuyên bố rằng hành động này thuộc chương trình nghiên cứu
không gian vì mục đích hòa bình. Song, Mỹ và một số nước phương Tây lại coi
đây là vụ thử nghiệm tên lửa tầm xa và đe dọa tiến hành các biện pháp trừng
phạt nước này, đẩy quan hệ Mỹ và Triều Tiên vào tình thế căng thẳng. Trong
tháng 4 năm 2009, báo cáo cho rằng Triều Tiên đã trở thành một "cường quốc
gia hạt nhân đầy đủ", một ý kiến được chia sẻ bởi Tổng Giám đốc IAEA
Mohamed ElBaradei.
Cuối cùng, vào ngày 25 tháng 5 năm 2009, bất chấp sức ép từ phương
Tây nhưng Triều Tiên vẫn tiếp tục tiến hành Vụ thử hạt nhân lần thứ hai, một
động thái khiến cả thế giới lo ngại. Đáp lại hành động này, vào ngày 12 tháng 6
năm 2009, Liên Hợp Quốc đã thảo ra những lệnh trừng phạt mới đối với Bình
Nhưỡng. Vụ thử này được tin cho là nguyên nhân gây ra một trận địa chấn 4,7
độ. Mặc dù không có thông tin chính thức về vị trí các của thử nghiệm, nó được
tin rằng nó đã xảy ra trong các khu vực đông bắc gần Kilju, địa điểm thử nghiệm
hạt nhân của Triều Tiên.
Ngày 12 tháng 2 năm 2013, Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân lần 3 có
sức công phá lớn hơn 2 lần trước nhưng vẫn nhỏ hơn vụ Hiroshima. Theo các
24
chuyên gia đánh giá, Triều Tiên đã có thể sản xuất được đầu đạn hạt nhân,
nhưng chưa thể làm chủ công nghệ tên lửa đẩy và cách thu nhỏ kích thước đầu
đạn để gắn lên nó.
Ngày 06 tháng 01 năm 2016, Triều Tiên tuyên bố thử thành công Vũ khí
nhiệt hạch trong vụ thử hạt nhân lần 4. Tuy nhiên, các chuyên gia quốc tế vẫn
tin rằng Triều Tiên chưa đủ khả năng để chế tạo Vũ khí nhiệt hạch. Và vào ngày
9 tháng 9 năm 2016, nhân dịp ngày kỷ niệm 68 năm quốc khánh, Triều Tiên tiến
hành vụ thử hạt nhân lần 5. Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ cho biết có rung
chấn mạnh 5,3 độ Richter xảy ra tại bãi thử hạt nhân Punggye-ri. Đây là vụ thử
lớn nhất của Triều Tiên tính tới nay, ít nhất là từ 20 đến 30 kiloton” và rung
chấn chỉ ra rằng vụ nổ có sức công phá lớn hơn quả bom nguyên tử Mỹ từng thả
xuống trong Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki
Ngày 3 tháng 9 năm 2017, Triều Tiên tuyên bố thử thành công Vũ khí
nhiệt hạch trong Vụ thử hạt nhân lần 6 gây chấn động lên đến 6,3 độ Richter.
Truyền thông nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đưa tin nước
này đã sản xuất được một loại bom H có thể gắn vào tên lửa đạn đạo xuyên lục
địa. Nhà lãnh đạo Kim Jong-un khẳng định tất cả các bộ phận cấu thành nên vũ
khí hạt nhân của Triều Tiên đều do nước này tự sản xuất, đồng thời tuyên bố
Bình Nhưỡng có thể chế tạo đủ số lượng vũ khí hạt nhân “tùy theo ý muốn”.
Năm 2021, Hãng thông tấn trung ương Triều Tiên (KCNA) dẫn phát biểu
của Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un tại Đại hội lần thứ VIII đảng Lao động
Triều Tiên cho biết nước này đã hoàn thiện các kế hoạch chế tạo tàu ngầm hạt
nhân. Ông Kim Jong-un tuyên bố rằng: “Công tác nghiên cứu lập hoạch mới để
chế tạo một chiếc tàu ngầm hạt nhân đã được hoàn tất và sẽ bước vào tiến trình
xem xét cuối cùng”. Nhà lãnh đạo Triều Tiên đồng thời cho biết Bình Nhưỡng
sẽ tiếp tục cải thiện các vũ khí hạt nhân như một lực lượng răn đe các thế lực thù
địch. KCNA cho biết thêm Triều Tiên dự kiến sẽ nâng tầm bắn của vũ khí hạt
nhân nước này lên khoảng 15.000km. Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un kêu gọi
Mỹ nên từ bỏ các chính sách thù địch để cải thiện quan hệ song phương.
1.2.2. Quan điểm và chính sách của Mỹ đối với tình hình Triều Tiên trước thời
Tổng thống Obama
Bán đảo Triều Tiên là một khâu quan trọng trong chiến lược Đông Á của
Mỹ, bởi vậy việc hoạch định chính sách đối với Bắc Triều Tiên của Mỹ phải
phục tùng bố trí chiến lược tổng thể toàn khu vực, trong đó việc duy trì đồng
minh quân sự và bố trí quân sự là nội dung cơ bản trong chiến lược an ninh
Đông Á thời Chiến tranh lạnh. Việc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân đã động chạm
25
đến lợi ích của Mỹ. Từ những lợi ích thiết thực đó đã khiến Mỹ có những tính
toán chiến lược đối với Bắc Triều Tiên.
Trước hết, xuất phát từ việc Mỹ có lợi ích toàn cầu: Sau Chiến tranh lạnh,
với sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ trở thành một cực duy nhất còn lại, và Mỹ luôn
luôn hành động để bảo vệ địa vị siêu cường độc tôn của mình. Việc “giữ gìn trật
tự thế giới” được Mỹ tự đặt ra như là một trách nhiệm của nước bá chủ, đồng
thời là lợi ích sát sườn của họ. Theo quan điểm của Mỹ, Bắc Triều Tiên đã trở
thành một nhân tố bất ổn trong cộng đồng quốc tế. Nếu Bắc Triều Tiên thực
hiện được kế hoạch phát triển vũ khí hạt nhân, điều đó sẽ phá vỡ cục diện hạt
nhân hiện tại, thách thức sự ổn định trật tự thế giới mà Mỹ đang nỗ lực duy trì.
Mặt khác, Bắc Triều Tiên sẽ có chiêu bài mới thách thức đối với vai trò của Mỹ.
Hơn nữa, Mỹ coi hành động của Bắc Triều Tiên là phá vỡ tính nghiêm túc của
hệ thống luật pháp quốc tế, vi phạm Hiệp ước NPT, do đó cần phải bị trừng
phạt.
Mỹ đưa ra chiến lược Âu – Á, coi việc khống chế châu Âu và châu Á –
Thái Bình Dương là mục tiêu chủ yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ. Vì vậy
tại châu Âu, Mỹ đã thúc đẩy mở rộng NATO sang phía Đông; tại khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương, Mỹ nhấn mạnh đồng minh quân sự song phương, muốn
thông qua việc khống chế các nước đồng minh để buộc họ trở thành công cụ của
Mỹ thi hành chiến lược toàn cầu.
Bán đảo Triều tiên được coi là nơi chiến lược quan trọng mà Mỹ quan
tâm. Mỹ xác định một vòng cung lớn từ bán đảo Triều Tiên tới Tây Á, bao gồm
vùng biển phía Nam Nhật Bản và Australia tới Bangladesh. Đây là vùng tranh
chấp và giành quyền khống chế của các lực lượng lớn trên thế giới. Trong tuyến
này có eo biển Đài Loan, eo biển Malacca, Nhật Bản, Đài Loan và các nước
Đông Nam Á sẽ tạo nên “vòng liên hoàn hảo”. Vòng liên hoàn duyên hải Đông
Á này kết nối với vòng liên hoàn Bangladesh ở Nam Á sẽ tạo nên vòng cung
nắm chắc châu Á. Bắc Triều Tiên và Iraq là hai đầu của vòng cung chiến lược
này được Mỹ coi là điểm dừng chân để thực hiện chiến lược toàn cầu. Vì vậy,
Mỹ không cho phép Bắc Triều Tiên phát triển hạt nhân, càng lo ngại việc Bắc
Triều Tiên bán kỹ thuật hạt nhân cho các quốc gia khác mà Mỹ coi là xấu xa.
Khống chế Hàn Quốc có nghĩa là không chế Đông Bắc Á. Nắm chắc bán
đảo Triều Tiên có nghĩa là nắm chắc vùng Đông Bắc Á. Vấn đề đóng quân ở
bán đảo Triều Tiên là chiếc chìa khóa mở hoặc khép lại cục diện hòa dịu ở bán
đảo này và liên quan tới sự can thiệp của Mỹ. Như vậy, khi nào Mỹ chưa rút
quân khỏi khu vực này thì họ vẫn tiếp tục duy trì quyền phát ngôn đối với những
26
vấn đề then chốt của Đông Bắc Á, từ đó ngăn chặn Nga, Nhật Bản, Trung Quốc
chung tay đuổi Mỹ ra khỏi khu vực này. Sau hội nghị thượng đỉnh Nam - Bắc
Triều Tiên, tình hình căng thẳng giữa hai miền được giảm bớt, vấn đề đặt ra là
sự tồn tại quân sự của Mỹ ở bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản. Mỹ lo ngại việc
Bắc Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân sẽ kích động Hàn Quốc, Nhật Bản
chạy đua vũ trang và không nghe lời Mỹ, khiến Mỹ không thể khống chế tình
hình trong khu vực.
Khống chế chiến lược đối với Trung Quốc và Nga. Mỹ lo ngại sự lớn
mạnh của Trung Quốc và Nga sẽ đe dọa tới lợi ích chiến lược của Mỹ ở Đông Á
và Châu Á – Thái Bình Dương, từ đó trở thành đối thủ quân sự của Mỹ. Vì vậy,
Mỹ thiết lập vòng cung châu Á nhằm tạo nên sự bao vây đối với Trung Quốc và
Nga, trong vòng cung này điểm chốt quan trọng là Bắc Triều Tiên và Iraq. Nếu
Mỹ chiếm được hai cứ điểm quan trọng này, sẽ dọn đường cho Mỹ thực hiện
chiến lược cân bằng châu Âu – châu Á trong tương lai.
Thứ hai, Mỹ có lợi ích chiến lược ở Đông Á: Mỹ muốn giữ nguyên trạng
bán đảo Triều Tiên nhằm bảo vệ trật tự quyền lực vốn có và duy trì nền hòa bình
và ổn định cần thiết. Sự tồn tại của một nước Bắc Triều Tiên thực hiện chính
sách chống Mỹ ở mức độ bình thường là có thể chấp nhận được đối với Mỹ,
thậm chí nó còn là cần thiết để tạo ra một áp lực, ngăn chặn xu hướng ly tâm từ
Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây chính là một trong các nguyên nhân để Mỹ tiến
hành chính sách tiếp xúc, đối thoại, thậm chí viện trợ nhân đạo cho Bắc Triều
Tiên từ những năm 1990 đến nay. Tuy nhiên, việc nền kinh tế Triều Tiên sa sút
và kế hoạch hạt nhân đang phát triển đã khiến Mỹ lo ngại, bởi điều này có khả
năng phá vỡ cơ cấu quyền lực chính trị quốc tế đang tồn tại ở đây.
Về lợi ích an ninh của Mỹ có thể thấy rằng sau sự kiện 11/09, Mỹ tuyên
bố kẻ thù chính nguy hiểm nhất hiện nay là chủ nghĩa khủng bố và những kẻ
giúp đỡ tiếp tay cho chúng. Gần đây, Mỹ đặc biệt quan tâm đến việc phổ biến vũ
khí hạt nhân. Các nước trước đây không có hạt nhân, nhưng bây giờ bắt đầu phát
triển chúng thì bị Mỹ coi là nơi tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các cuộc tấn công
khủng bố. Thực ra, việc Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân không khiến Mỹ lo
ngại về khả năng nước này có thể tấn công hạt nhân vào Mỹ, nhưng Mỹ cho
rằng Bắc Triều Tiên hoàn toàn có thể bán vũ khí hạt nhân ra ngoài để thu ngoại
tệ. Đây sẽ là nguồn tiếp tay cho chủ nghĩa khủng bố mà Mỹ phải ngăn chặn.
Từ khi Bắc Triều Tiên thành lập cho tới nay, Mỹ vẫn kiên trì chính sách
thù địch đối với nhà nước này. Khi Hiệp định khung năm 1994 không được thực
hiện nghiêm chỉnh, hai nước Mỹ - Triều đã mất lòng tin tối thiểu với bên kia.
27
Trong thời gian 2001 – 2002, cho đến khi Bắc Triều Tiên đưa khủng hoảng lên
đến đỉnh điểm bằng việc huỷ bỏ những hiệp ước trong quá khứ và công khai
theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân, chính sách của Mỹ vẫn là đối đầu không
nhân nhượng.
Đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, chính quyền Bush dù
bức xúc nhưng cũng có những hạn chế nhất định và điểm yếu: chưa biết bao giờ
Mỹ có thể rút chân ra khỏi vũng lầy ở Iraq và Afghanistan. Do những hành động
hiếu chiến, liều lĩnh của chính quyến Sarôn, tiến trình hòa bình Trung Đông của
Mỹ cũng đi vào ngõ cụt. Khi cuộc xung đột Israel – Palestine chưa có lối thoát
và không biết đến bao giờ mới chấm dứt thì chương trình dân chủ hóa thế giới
Hồi giáo - Đại Trung Đông còn lâu mới thành hiện thực; âm mưu khống chế
vùng chiến lược Trung Á và chi phối nguồn dầu mỏ Trung Đông còn nhiều khó
khăn. Hơn nữa, Nga, Trung Quốc, một số nước Tây Âu và nhân dân các nước Ả
Rập – Trung Đông cũng không khoanh tay đứng nhìn để Mỹ thực hiện các chiến
lược lớn ở Trung Đông và Trung Á. Đồng thời, phải thấy rằng đối với Mỹ thì
vùng Trung Đông, Trung Á có vị trí chiến lược quan trọng hơn nhiều so với vấn
đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Do đó, dù có bức xúc đến mấy thì Mỹ cũng
không liều lĩnh lao vào cuộc chiến hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên để bỏ rơi
những vùng chiến lược quan trọng bậc nhất đối với họ là Trung Đông và Trung
Á.
Cuộc đối đầu giữa Mỹ - CHDCND Triều Tiên căng thẳng và gay gắt còn
do âm mưu sâu xa của Mỹ. Trước mắt, Washington kiên quyết yêu cầu Bình
Nhưỡng từ bỏ chương trình hạt nhân. Đó chỉ là mục tiêu trước mắt. Sau khi
Bình Nhưỡng từ bỏ vũ khí hạt nhân, Washington sẽ bằng mọi cách, sử dụng mọi
thủ đoạn và phương tiện có thể xoá bỏ thể chế chính trị XHCN ở Bình Nhưỡng,
biến toàn bộ bán đảo Triều Tiên thành một đồng minh chiến lược của Mỹ để
kiềm chế Trung Quốc. Tất nhiên, cả Bắc Kinh và Bình Nhưỡng đều hiểu rõ điều
này.
Tháng 6/2004, Quốc hội Mỹ lên một kế hoạch về Bắc Triều Tiên của
riêng mình, đó là hai dự luật nhằm duy trì lệnh cấm vận thương mại và ngăn cản
viện trợ nhân đạo và những trợ giúp khác cho Bình Nhưỡng cho đến khi chính
quyền Kim Jong – Il thay đổi chính sách đối nội. Tuy nhiên, trong lúc này Bắc
Triều Tiên đang tạo được ấn tượng tốt khi công cuộc cải cách kinh tế bắt đầu,
đồng thời có chính sách ngoại giao tích cực về vấn đề tái thống nhất hai miền
Triều Tiên. Có thể thấy chính sách thời điểm này của Washington đang đi ngày
càng sai nhịp với các đối tác ở Đông Bắc Á. Bắc Triều Tiên đang cải thiện được
28
vị thế ở trong khu vực, trong khi Mỹ đang đánh mất vị trí của mình. Trong tình
hình đó Trung Quốc cam kết dùng ảnh hưởng của mình để các cuộc đàm phán
hạt nhân tiếp tục diễn ra, tuy nhiên ít có khả năng Trung Quốc sẽ dùng đến các
biện pháp cứng rắn.
Tuy nhiên, Mỹ cũng lo ngại rằng nếu Bắc Triều Tiên bị Mỹ coi là “nước không
lương thiện” và xếp trong “trục ma quỷ” có vũ khí hạt nhân, không chỉ đe dọa
lợi ích của nước Mỹ, mà Mỹ đặc biệt lo ngại khả năng Bắc Triều Tiên cung cấp
vũ khí hạt nhân cho những kẻ khủng bố có thiên hướng chống Mỹ hoặc cho “các
nước không lương thiện”. Ngoài ra, nếu cứ để mặc Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt
nhân, Mỹ sẽ không còn lý do ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân ở các khu vực
khác. Vì vậy, Mỹ coi đây là cơ hội tốt để giải quyết triệt để vấn đề hạt nhân.
Cộng đồng thế giới cho rằng mặc dù khuôn khổ đối thoại sáu bên đã được tạo ra,
song một mặt Mỹ thúc đẩy đối thoại, mặt khác tăng cường sức ép với Bắc Triều
Tiên.
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù Mỹ chưa lo ngại về mối đe dọa hạt
nhân trực tiếp đối với nước này bất chấp tên lửa tầm xa Taepodong -2 của Bắc
Triều Tiên được đánh giá là có thể bắn tới lãnh thổ Mỹ, song điều mà Mỹ lo
ngại là khả năng đảm bảo an toàn cho các lực lượng Mỹ đóng tại các căn cứ trên
lãnh thổ Hàn Quốc và Nhật Bản. Sự an toàn cho các lực lượng Mỹ tại hai nước
này cũng là sự an toàn cho đồng minh của Mỹ tại châu Á bởi mối quan tâm lớn
nhất của Mỹ chính là duy trì thể chế không phổ biến hạt nhân mang tính toàn
cầu. Việc một quốc gia ở châu Á tìm cách sở hữu hạt nhân vừa tạo mối đe dọa
cho lực lượng Mỹ tại châu Á, vừa ảnh hưởng nghiêm trọng đến tham vọng toàn
cầu của Mỹ, do vậy Mỹ sẽ tìm mọi cách để loại trừ mối đe doạ này.
1.3. Tư duy lãnh đạo từ hai bên của mối quan hệ Mỹ - Triều
1.3.1. Về phía Mỹ
Ông Barack Hussein Obama II (sinh ngày 4 tháng 8 năm 1961) là một
chính trị gia và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ từ năm 2009
cho đến đầu năm 2017. Với chỉ trong vòng 100 ngày cầm quyền đầu tiên, Tổng
thống Barack Obama đã có những quyết sách táo bạo, thực hiện những cú đảo
chiều, phá bỏ khuôn mẫu chính sách ngoại giao Mỹ.
Về vấn đề ngoại giao, giống như bất kỳ chính sách đa chiều nào khác,
chính sách đối ngoại của Barack Obama rất khó có thể được tóm gọn trong một
khẩu hiệu. Nhưng chính sách đó bắt nguồn từ một tư duy chiến lược nhất quán:
- Một là, khủng bố không phải là thách thức chiến lược duy nhất của Mỹ,
do đó, cần thực hiện “phi khủng bố hóa” chính sách đối ngoại.
29
- Hai là, chính sách đối ngoại không chỉ giới hạn ở khía cạnh quân sự, do
đó, cần chấm dứt việc quân sự hóa quá mức chính sách đối ngoại.
- Ba là, nếu như Mỹ không phải luôn là chủ thể tốt nhất để can thiệp về
mặt quân sự, thì họ thường là chủ thể tốt nhất để thức đẩy một giải pháp ngoại
giao.
Ngoài ra, Tổng thống Obama đã từng tuyên bố sử dụng một chính sách
ngoại giao mềm mỏng, đối thoại lôi kéo, không dùng vũ lực quân sự để can
thiệp như những người tiền nhiệm trước đây làm nền tảng cho việc đối ngoại tại
nhiệm kì thứ hai của mình. Tuy nhiên, nếu chính sách “Quyền lực mềm” này là
thứ hỗ trợ ông trong việc tái đắc cử nhiệm kỳ thứ 2, thì nó cũng được đánh giá là
biểu hiện chính cho sự thất bại của Tổng thống Obama trong việc điều hành
chính quyền trong nhiệm kỳ này và học thuyết mà vị Tổng thống Mỹ thứ 44
đang theo đuổi được ví như “một con thuyền bị rò nước” hơn là “một con tàu
vững chắc” trong chuyến hành trình thứ hai của ông trên cương vị người đứng
đầu nước Mỹ.
Như vậy, kết thúc hai nhiệm kỳ, Tổng thống Obama đã có khá nhiều dấu
ấn thành công trong ngoại giao và đặc biệt nhất là trong nhiệm kỳ thứ hai của
ông được ghi dấu bằng một số thành tựu trong đối ngoại nổi bật, bên cạnh đó
vẫn có một số sai lầm. Trước tiên, những thành tựu quan trọng của Obama được
thể hiện thông qua những sự kiện như việc dỡ bỏ vũ khí cấm vận tại Việt Nam
mà nhờ đó, tăng cường hợp tác giữa hai nước. Hoặc việc Obama đã thành công
khôi phục được mối quan hệ với Cuba và nhận được sự yêu mến từ nhân dân
quốc gia này. Hơn nữa, bằng việc siết chặt trừng phạt và linh động trong cách
tiếp cận, Mỹ và các đồng minh phương Tây đã đưa được Iran trở lại bàn đàm
phán với cán cân lợi thế nghiêng về phía mình hơn so với thời gian trước và ký
thỏa thuận hạt nhân với Iran.
Tuy nhiên, việc xử lý quan hệ với Nga và khủng hoảng Ukraine là một
thất bại của chính phủ Obama khi mà cách tiếp cận đối đầu trực diện của Mỹ chỉ
càng làm cho Tổng thống Nga Vladimir Putin thêm thủ thế. Không những thế,
vấn đề Triều Tiên vẫn được coi là một thất bại với Tổng thống Obama bởi chẳng
những không thể đưa Triều Tiên quay lại vòng đàm phán hạt nhân mà Triều
Tiên còn còn manh động và hiếu chiến hơn với hàng loạt vụ thử hạt nhân và tên
lửa, đặc biệt từ đầu năm 2016 đến nay manh động và hiếu chiến hơn với hàng
loạt vụ thử hạt nhân và tên lửa, đặc biệt từ đầu năm 2016 đến nay. Từ đó, khiến
cho thái độ thù địch của Triều Tiên với Mỹ không giảm mà còn ngày càng tăng,
thường xuyên đe dọa tấn công phủ đầu hạt nhân Mỹ.
30
1.3.2. Về phía Triều Tiên
Nhà họ Kim, hay còn được gọi chính thức là Dòng dõi Paektu, là một
chuỗi các thế hệ cai trị Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong ba thế hệ,
bắt đầu từ Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) năm 1948. Kim Il-sung nắm giữ
quyền lực ở phía Bắc vào năm 1945 sau khi Đế quốc Nhật Bản đầu hàng phe
Đồng Minh, dẫn đến sự chia cắt hai miền. Năm 1950, Kim Il-sung tiến hành
Chiến tranh Triều Tiên với ý đồ thống nhất hai miền thành một quốc gia, song
không thành công. Kim Il-sung phát triển một loại hình tư tưởng của cá nhân
ông, gọi là thuyết Tư tưởng Chủ thể, sau này được các con cháu tiếp tục áp dụng
để lãnh đạo Triều Tiên. Thời điểm này bắt đầu xuất hiện những bức tượng đầu
tiên của Kim Il-sung. Tư tưởng của Kim Il-sung đã phát huy tác dụng sau cuộc
thanh trừng hàng loạt vào năm 1953.
Sự tôn kính của người dân Triều Tiên đối với gia đình cầm quyền, gia tộc
Kim, đã tồn tại trong nhiều thập kỷ và có thể được tìm thấy trong nhiều ví dụ về
văn hóa Triều Tiên. Mặc dù không được chính phủ thừa nhận nhưng nhiều
người đào thoát và du khách thường bị nhận sự trừng phạt khá nặng khi không
thể hiện sự tôn trọng "đúng đắn" đối với chế độ. Sự tôn kính này mạnh mẽ đến
nỗi đã trở thành một trong những nét văn hóa của người dân, bắt đầu ngay sau
khi Kim Il-sung lên nắm quyền vào năm 1948 và ngày càng được mở rộng đáng
kể sau khi ông qua đời năm 1994.
Đặc biệt, Kim Jong-Il đã cho phát triển loại hình "sùng bái cá nhân" dẫn
tới sự cai trị tuyệt đối của họ Kim suốt 46 năm và mở rộng tới cả gia đình nhà
Kim. Điểm trung tâm của sự trung thành tuyệt đối trong Tư tưởng Chủ thể là
Suryong. Bốn năm sau khi Kim Il-sung qua đời, Hiến pháp CHDCND Triều
Tiên quy định gọi Kim Il-sung là Chủ tịch vĩnh viễn và con trai ông - Kim Jong-
Il, trở thành lãnh đạo đáng kính.
Như vậy, trong nửa thế kỷ qua, hệ thống chính trị ở Triều Tiên đã tôn
kính không chỉ Kim Jong-Il, mà là cả gia đình ông, với tư cách là một giáo phái
dân tộc. Do đó, Kim Jong-Il đã đưa ra yêu sách của mình là xứng đáng duy nhất
và đủ điều kiện để loại trừ tất cả các ứng cử viên tiềm năng khác cho vị trí lãnh
đạo bằng cách thúc đẩy cơ cấu "gia đình trị”.
Sau khi Kim Jong-Il mất vào năm 2011, con trai ông cũng đã lên ngôi và
trở thành nhà lãnh đạo tối cao đương nhiệm, Kim Jong-Un (Kim Chính Ân) -
người đã khéo léo xử lý các vấn đề chính trị thông qua việc cải tổ các cấu trúc
của Đảng và quân đội, đẩy nhanh việc xây dựng năng lực hạt nhân và tên lửa.
Khi Triều Tiên tìm cách phát triển kinh tế và mở cửa ra thế giới bên ngoài, các
31
chuyên gia cho rằng mối quan hệ của Kim Chính Ân với "giới tinh hoa" có thể
được kiểm tra và đây sẽ là điều rất quan trọng đối với sự sống còn của chế độ.
Hiện nay, sau 10 năm cầm quyền, tại Triều Tiên đã hình thành nên một hệ
tư tưởng chính trị mới được đặt tên là “chủ nghĩa Kim Jong-un”, một dấu hiệu
cho thấy Bình Nhưỡng tự tin vào vị thế và thành tựu của lãnh đạo trẻ tuổi. Đáng
chú ý nhất là vào bài phát biểu kết thúc Hội nghị toàn thể lần thứ tư của Ủy ban
Trung ương khóa 8 đảng Lao động Triều Tiên (WPK) ngày 31/12, chính Kim
Jong-Un đã tuyên bố thẳng thắn rằng mục tiêu chính của Triều Tiên năm 2022 là
phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân để vượt qua khó khăn, không
đề cập vấn đề hạt nhân hay quan hệ với Mỹ, nhấn mạnh rằng Triều Tiên đối mặt
“cuộc đấu tranh sinh tử rất lớn” bởi những tác động từ khủng hoảng kinh tế khi
các biện pháp đóng cửa biên giới để kiểm soát đại dịch càng khiến quốc gia này
bị cô lập hơn.

32
KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Trước hết, thế giới đang tồn tại dưới một thực trạng bối cảnh quốc tế vô
cùng phức tạp từ sau Chiến tranh lạnh đến nay kèm theo nhiều diễn biến thay
đổi trên mọi lĩnh vực, đặc biệt về bối cảnh chính trị - an ninh và quan hệ quốc tế
có thể được phác họa qua những biểu hiện mới như ưu thế số một thế giới của
Mỹ, hình thành cục diện nhất siêu đa cường và sự tranh đấu của các nước lớn
nhằm phát triển thế giới theo hướng đa cực hóa; hòa bình và phát triển là chiều
hướng chủ đạo song vẫn có sự xen kẽ của các cuộc khủng hoảng và xung đột
mang tính chất khu vực; những vấn đề về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là hạt nhân
luôn gây ra những tác động nhiều chiều đến nền an ninh của khu vực và thế giới.
Dưới tình hình xu thế hợp tác, hòa bình thế giới bị đe dọa bởi sự xuất hiện
của Chủ nghĩa Khủng bố cùng với những tác động đáng kể của nó đặc biệt vào
sự kiện ngày 11 tháng 9, Mỹ hiện còn là quốc gia đứng đầu trong việc phát động
cuộc chiến chống khủng bố.
Bởi vậy, là một điểm nóng và một vấn đề nhức nhối trong quan hệ quốc
tế, Triều Tiên và cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo này đã trở thành một
vấn đề nóng bỏng, gây xôn xao dư luận thế giới, trở thành mối quan tâm đáng e
ngại đặc biệt của nước Mỹ. Có thể nói, một khi vấn đề hạt nhân vẫn chưa được
giải quyết triệt để thì an ninh khu vực và của thế giới vẫn bị đe dọa.
Từ đó, có thể nhận thấy một mối quan hệ nhạy cảm và then chốt giữa Mỹ
và CHDCND Triều Tiên. Hai bên có nguyện vọng chính trị cải thiện quan hệ,
nhượng bộ nhau đến đâu, có tính toán chiến lược như thế nào và những thỏa
thuận đạt được có thể thực hiện ở chừng mực lớn đến đâu, đều là những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ Triều - Mỹ và là nhân tố góp phần
ổn định tình hình an ninh khu vực.

33
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUAN HỆ MỸ – TRIỀU DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG OBAMA
TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA TRIỀU TIÊN

2.1. Các hành vi và chính sách của Triều Tiên


Là chủ thể chính trong vấn đề phi hạt nhân hóa, Triều tiên với thái độ
cứng rắn trong các vấn đề hạt nhân và chế độ chính trị đã và đang là thách thức
lớn đối với các quốc gia có liên quan. Sự gia tăng thử nghiệm vũ khí hạt nhân
của Triều Tiên được thức hiện dưới thời của Tổng thống Obama là một biểu
hiện cho thấy hành vi gây sức ép của Triều Tiên đối với các nước đối đầu.
2.1.1. Sự gia tăng thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Triều Tiên dưới thời
Obama
Triều Tiên từ trước đến nay luôn bị Mỹ coi là mối đe dọa tiềm tàng, một
những thành phần của “Trục ma quỷ”. Vì vậy mà các chính sách đối ngoại của
Triều Tiên đối với Mỹ vẫn luôn là sự không chịu nhún nhường mặc dù Mỹ là
một nước siêu cường mạnh về nhiều mặt. Sở dĩ Triều Tiên có thể làm được như
vậy là bởi sức mạnh quân sự đến từ vũ khí hạt nhân – nguyên nhân chính dẫn
đến việc Triều Tiên bị các nước khác trong khu vực và trên thế giới dè chừng.
Và để thể hiện mình cũng như là gia tăng áp lực đối với Mỹ để nhượng bộ mình,
Triều Tiên liên tục tiến hành các cuộc thử nghiệm tên lửa với quy mô ngày càng
lớn. Trong đó đáng báo động nhất là các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Các
cuộc thử nghiệm vũ khí của Triều Tiên đã được tiến hành qua hàng chục năm
dưới thời của nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành đến nhà lãnh đạo Kim-Jong Un.
Tuy nhiên chỉ có dưới thời của Tổng thống Obama các cuộc thử nghiệm được
diễn ra liên tục và quy mô ngày càng lớn.
Từ lúc nhậm chức đến khi chuyển giao quyền lực cho Tổng thống Donald
Trump đã có 6 vụ thử vũ khí hạt nhân dưới lòng đất tại bãi thử Punggye-ri với
quy mô và độ tiên tiến tăng lên qua từng đợt. Chứng tỏ rằng Triều Tiên đang
ngày càng khẳng định trình độ phát triển vũ khí chiến lược của mình. Con số
cho thấy cường độ thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Triều Tiên trong khoản thời
gian này cao hơn rất nhiều so với trước đây. Cụ thể:
+ Ngày 09 tháng 10 năm 2006 Triều Tiên công bố vụ thử hạt nhân đầu
tiên ở tỉnh Bắc Hamgyong. Theo thông báo của Trung tâm các vấn đề quốc tế
Belfer vụ nổ có đương lượng nổ thấp chỉ rơi vào 1 kiloton.

34
+ Ngày 25 tháng 5 năm 2009 Triều Tiên nói rằng họ đã thực hiện một vụ
thử hạt nhân mạnh dưới lòng đất. Chính phủ Hàn Quốc cho biết vụ thử được tiến
hành ở Kilju, phía đông bắc Triều Tiên.
+ Ngày 12 tháng 2 năm 2013 truyền thông nhà nước cho biết Triều Tiên
tuyên bố đã cho nổ thành công một thiết bị hạt nhân thu nhỏ tại một bãi thử phía
đông bắc, bất chấp lệnh của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về việc đóng cửa
hoạt động nguyên tử hoặc đối mặt với nhiều lệnh trừng phạt và cô lập quốc tế.
Phía Hàn Quốc cho rằng vụ nổ hạt nhân lần này của Triều Tiên lớn hơn hai lần
trước 6-7 kiloton. Đây là loại vũ khí mà Triều Tiên cho rằng “bom nguyên tử
thu gọn”.
+ Ngày 06 tháng 1 năm 2016 Triều Tiên tuyên bố họ đã tiến hành một vụ
thử bom khinh khí. Đài truyền hình nhà nước Triều Tiên tuyên bố chế độ đã thử
nghiệm một quả bom khinh khí "thu nhỏ", nâng "sức mạnh hạt nhân của nước
này lên một tầm cao mới" và cung cấp cho nó một vũ khí để tự vệ trước Mỹ và
các kẻ thù khác. Tuy nhiên cả phía Mỹ và đồng minh đều xác nhận rằng không
hề có dấu hiếu bức xạ nào sau vụ nổ.
+ Ngày 9 tháng 9 năm 2016 Triều Tiên cho biết họ đã tiến hành một vụ nổ
thử đầu đạn hạt nhân "ở cấp độ cao hơn"Đây là vụ thử nguyên tử thứ năm của
Bình Nhưỡng và là vụ thứ hai trong vòng tám tháng. Vụ nổ gây ra một cơn chấn
động gần 5.3 độ richter ở bãi thử Punggye-ri ngay sau cuộc tập trận của Mỹ và
Hàn Quốc.
+ Ngày 3 tháng 9 năm 2017 Triều Tiên cho biết họ đã phóng một quả
bom khinh khí trong vụ thử hạt nhân lần thứ sáu. Đây là vụ nổ lớn nhất từ trước
đến nay với vrung chấn lên đến 6.3 độ richter theo cơ quan Khảo địa chất Mỹ.
Cuộc thử nghiệm diễn ra với sự mất cảnh giác của Mỹ và Hàn Quốc và
cũng với mục đích nhằm phô trương sức mạnh của Triều Tiên trong lúc chuyển
giao quyền lực cho ông Kim Jong Un. Thông qua các cuộc thử nghiệm ông Kim
bày tỏ sự thất vọng của mình đối với lập trường không khoan nhượng trong
chính sách của ông Obama về vấn đề phi hạt nhân hóa và thiếu đi sự tích cực
trong việc tái thiết Triều Tiên. Có thể thấy thái độ của Triều Tiên đối với chính
sách của ông Obama mang tính chất tiêu cực và có ý định thù địch. Với mức độ
được tăng dần theo thời gian đây được coi như một hành động răn đe của Triều
Tiên đối với Mỹ và đồng minh nhằm tạo sức ép về mặt chính trị để tạo được trên
bàn đàm phán.
Triều Tiên có thể nói đã chứng kiến những bài học nhãn tiền đến từ các
nước đi tìm sức mạnh hạt nhân như là Iraq. Chính quyền của ông Saddam
35
Hussein đã bị chính quyền của Tổng thống Bush áp đặt các lệnh trừng phạt và
thực hiện các hành động phủ đầu nhằm loại bỏ hoàn toàn khả năng sở hữu hạt
nhân của nước này. Đứng trước những hành động này Iraq đã phải tuyên bố
chấm dứt việc theo đuổi phát triển hạt nhân trên đất nước mình. Lợi dụng điều
này Mỹ đã nhanh chóng lật đổ chính quyền ở nơi đây và thay thế bằng một
chính quyền than cận với Mỹ hơn. Triều Tiên hoàn toàn không muốn đi vào vết
xe đổ của Iraq và tránh để xảy ra thảm cảnh tương tự trên đất nước mình. Vì vậy
mà Bình Nhưỡng cho rằng chỉ có răn đe bằng hạt nhân mới giúp quốc gia này
giảm thiểu nguy các nguy cơ an ninh trước một đất nước với tiềm lực mạnh như
Mỹ.
Sau vụ thử hạt nhân đầu tiên, Bình Nhưỡng nhiều lần nhấn mạnh ý nghĩa
lịch sử của vị thế là một cường quốc hạt nhân, coi đó như một sự kiện quốc gia
có tầm quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện tham vọng từ lâu về sức mạnh
quốc gia và quân sự. Song đồng thời Triều Tiên cũng đã tối đa hóa sự nới lỏng
ngoại giao của mình bằng cách liên tục đề cập đến cam kết cơ bản của mình đối
với mục tiêu cuối cùng là một Bán đảo Triều Tiên phi hạt nhân hóa hoàn toàn
Con đường phát triển vũ khí hạt nhân của Triều Tiên có thể nói là cực kỳ
gian nan và tốn kém cả về mặt chính trị lẫn kinh tế. Tuy nhiên đây lại là con
đường mà chính quyền Triều Tiên lụa chọn để đối phó với các quốc gia đối địch
với mình. Ngay khi nhận thấy được sự “buông lỏng” từ phía chính quyền của
Tổng thống Obama, Bình Nhưỡng đã nhanh chóng thể hiện quan điểm của mình
qua các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Đây là một sự thách thức đối với Mỹ
và các đồng minh của Mỹ trong khu vực có liên quan. Đứng trước những hành
động khiêu khích này chính quyền ông Obama kiên quyết giữ vững lập trường
về chính sách “Chiến lược kiên nhẫn” của mình và đó là điều dẫn đến sự lớn
mạnh về khả năng hạt nhân của Triều Tiên.
2.1.2. Mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân Triều Tiên đối với các nước đồng minh
của Mỹ
Thứ nhất, về phía Hàn Quốc. Việc Triều Tiên gia tăng các lần thử nghiệm vũ
khí hạt nhân đã có những ảnh hưởng đáng báo động đối với các nước lân cận
than với Mỹ. Ở đây trước hết là Hàn Quốc, là một quốc gia đang trong tình trạng
chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào với Triều Tiên, đã phải e ngại trước sự
lớn mạnh về quân sự của nước láng giềng. Với tầm bắn xa hơn 12,874km vào
lần thử vũ khí gần đây nhất của Triều Tiên đã cho thấy Triều Tiên hoàn toàn có
thể bắn đến tên lửa có chứa đầu đạn hạt nhân đến bất cứ đâu trên lãnh thổ nước
Mỹ. Vì vậy mà Hàn Quốc có đầy đủ lý do để trở nên lo lắng và cố gắng dùng
36
mọi biện pháp có thể để ngăn chặn một cuộc chiến giữa Mỹ và Triều Tiên trong
khoảng thời gian này.
Đối với Hàn Quốc, Triều Tiên là một mối đe dọa quân sự cả về vũ khí
thông thường lẫn vũ khí hạt nhân. Mặc dù được Mỹ tài trợ về mặt công nghệ và
tiềm năng kinh tế to lớn của minhg nhưng Hàn Quốc vẫn phải tỏ ra lo ngại trước
sự đe dọa của Triều Tiên. Trước hết, Hàn Quốc mặc dù nằm dưới ô bảo trợ hạt
nhân của Mỹ, nhưng đối với việc một đất nước thù địch sở hữu vũ khí hạt nhân
thì việc có được sự bảo trợ hay không cũng vô ích. Nhất là khi thủ đô Seoul của
Hàn Quốc cách đường vĩ tuyến 38 không xa và nằm gọn trong tầm bắn tên lửa
của Triều Tiên đang phát triển. Chưa kể đến khả năng chứa đầu đạn hạt nhân
trong các tên lửa tầm xa của Triều Tiên. Đây là một mối nguy lớn đối với Hàn
Quốc khi mà cả hai miền của bán đảo Triều Tiên đang trong tình trạng đình
chiến. Bên cạnh đó, Hần Quốc cũng lo ngại về sự bất ổn chính trị trên đất nước
Triều Tiên khi đang tăng cường củng cố quyền lực bằng quốc phòng. Với sự gia
tăng về vũ khí quân sự thì việc bất ổn về chính quyền sẽ chỉ làm trầm trong thêm
những gánh nặng mà Hàn Quốc phải giải quyết cho sự hòa bình trên bán đảo
này.
Với những thăng trầm trong lịch sử của cả hai miền, có thể thấy được sự
khó khăn trong việc chấp nhận một bên sở hữu vũ khí hạt nhân còn bên kia thì
không. Việc Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân là một đe dọa vô cùng lớn đối
với một đất nước đối địch nhưng không sở hữu vũ khí hạt nhân như Hàn Quốc.
Triều Tiên hoàn toàn nhận thức được việc Hàn Quốc không thể đáp trả lại bằng
hạt nhân nếu như có xung đột xảy ra. Nhưng đồng thời Triều Tiên cũng cẩn
trọng trong việc tận dụng con bài hạt nhân này để gây sức ép với Hàn Quốc. Bởi
lẽ đứng đằng sau Hàn Quốc là một cường quốc hạt nhân -Mỹ. Điều này làm tình
trạng căng thẳng giữa hai bên ngày một kéo dài và trầm trọng thêm. Có thể thấy,
việc thuyết phục Triều Tiên từ bỏ chương trình hạt nhân để nhận lấy những
khoản viện trợ kinh tế quy mô lớn từ Hàn Quốc, ngay từ đầu đã không phải là
một giải pháp khả thi. Điều này có nghĩa là vấn đề hạt nhân chỉ được giải quyết
khi tình hình an ninh Triều Tiên được đảm bảo và hoạt động viện trợ quốc tế
được duy trì.
Thứ hai, về phía Nhật Bản. Sự đối địch giữa Triều Tiên và Nhật Bản đã
có từ thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Việc quân phiệt Nhật Bản tiến
hành xâm chiếm bán đảo Triều Tiên đã dẫn đến hàng trăm nghìn phụ nữ và trẻ
em của nơi đây bị bắt làm nô lệ tình dục. Điều này đã khắc sâu vào tâm khảm

37
của người dân Triều Tiên về một đất nước Nhật Bản dã man và khủng khiếp.
Đây là hệ quả của chiến tranh để lại nhưng nó đã kéo dài đến ngày nay qua các
cuộc xung đột giữa Triều Tiên và Nhật Bản. Một phần là vì đóng cửa với thế
giới không tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa của thế giới, phần khác là vì yếu
tố lịch sử đã in sâu vào tâm trí các nhà cầm quyền và tâm trí của người dân
Triều Tiên và cũng có thể nói Nhật bản là một trong những đồng minh với Mỹ,
điều này đã dẫn đến sự xung khắc trong lập trường của hai nước này.
Là một nước thân cận với Mỹ nhưng lại nằm trong khu vực Đông Bắc Á
và là nước láng giềng của Triều Tiên nên Nhật Bản luôn đứng trước những lo
ngại nhất định về việc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Triều Tiên. Với mức độ
và cường độ ngày càng được gia tăng qua từng thời kỳ Nhật Bản ra sức lên tiếng
phản đối và bày tỏ quan ngại của mình về an ninh khu vực. Cụ thể hơn Triều
Tiên đã nhiều lần thử nghiệm vũ khí của mình ở gần vùng biển của Nhật Bản và
gần đây nhất là ngày 29/8 năm 2017, Bộ Quốc phòng Mỹ đã xác nhận Triều
Tiên vừa phóng một tên lửa bay qua Nhật Bản. Theo quân đội Hàn Quốc, tên
lửa Triều Tiên đã bay được khoảng 2.700km với độ cao tối đa đạt 550km. Ngày
15/9, chính phủ Nhật Bản cho biết, tên lửa bay qua phía trên không phận Nhật
Bản và rơi xuống biển tại vị trí cách mũi Erimo của đảo Hokkaido (Nhật Bản)
khoảng 2.200km về phía đông vào lúc 7h16 (giờ địa phương). Tên lửa trong vụ
phóng trước đó rơi xuống vị trí cách đảo Hokkaido 1.180km về phía đông.
Những vụ thử nghiệm vũ khí này một phần là gia tăng sức ép đến Nhật
Bản, phần khác là để đưa ra lời đe dọa đến từ phía Bình Nhưỡng. Triều Tiên đã
đưa ra tuyên bố về việc sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân như là một biện pháp
tối ưu để răn đe Nhật Bản và có thể “nhấn chìm” Nhật Bản nếu như những yêu
sách của mình không được cân nhắc. Đối với Nhật Bản việc thử nghiệm vũ khí
của Triều Tiên đã vi phạm vào chủ quyền của Nhật Bản một cách nghiêm trọng.
Điều này làm mất an ninh chủ quyền của Nhật Bản và đe dọa tới hòa bình của
nước này. Khi mà Nhật Bản mới chỉ khôi phục nền quốc phòng của mình trong
khoảng thời gian gần đây vào năm 2010. Vì vậy Nhật Bản vẫn còn yếu về mặt
quân sự chưa thể đối chọi trực tiếp lại được Triều Tiên. 
Nhật Bản bên cạnh việc lo ngại là mục tiêu của vũ khí hạt nhân đến từ
Triều Tiên, thì Tokyo lúc đó còn lo ngại một mối nguy hiểm tiềm tàng đến từ
các cuộc xung đột giữa Mỹ, Hàn Quốc và Triểu Tiên. Dù liên quan hay không
liên quan thì Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp khi mà các lợi ích sống
còn của Nhật Bản đến từ biển. Việc xảy ra xung đột sẽ khiến cho vùng biển

38
Nhật Bản trở nên nguy hiểm và khiến cho các hoạt động thương mại trên biển
trở nên đình trệ. Là một quốc gia thiếu thốn tài nguyên và phải nhập khẩu các
nguồn năng lượng qua vùng biển này, vì thế mà đây sẽ là một vấn đề khó khăn
đối với Triều Tiên nếu như vùng biển này không thể hoạt động được.
Chính vì điều này mà Nhật Bản luôn gia sức thể hiện lập trường hòa bình
của mình để hạn chế việc xảy ra xung đột. Nhưng đồng thời Nhật Bản cũng
không muốn bán đảo Triều Tiên thống nhất, vì điều này sẽ đe dọa đến vị thế của
Nhật Bản. Có thể thấy chính sách của phía Tokyo lúc này là cố gắng cân bằng
tình thế đang diễn ra ở khu vực này. Chỉ dừng lại ở trước ngưỡng cửa chiến
tranh là điều mà Nhật Bản đang hướng đến.
2.2. Phản ứng, chính sách của chính quyền Tổng thống Barack Obama
Có thể nói chính sách và đường lối của chính quyền Tổng thống Obama là
nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng về các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân
của Triều Tiên. Là một người theo Đảng Dân Chủ Tổng thống Obama thể hiện
lập trường lợi dụng các cuộc đàm phán đa phương để giải quyết các vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên. Cùng với đó là thực hiện chính sách “Kiên nhẫn
chiến lược” - cơ hội to lớn để Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân của mình với
quy mô ngày càng khó kiểm soát.
2.2.1. Các chính sách của Mỹ đối với Triều Tiên trong hai nhiệm kỳ của Tổng
thống Barack Obama
Vào thời tổng thống George W. Bush ông đã có lên tiếng gọi các nước
Iraq, Iran và Bắc Triều Tiên với cái tên “Trục ma quỷ”. Ông cho rằng chính
quyền của Clinton đã quá “mềm dẻo” và “ngây thơ” trước những hành động của
Triều Tiên. Là một người thuộc Đảng phái Cộng Hòa ông đã thể hiện lập trường
cứng rắn của mình đối với Triều Tiên. Vào năm 1994, chính quyền của ông
Bush và Triều Tiên đã ký được một thỏa thuận khung Geneva với mục đích với
mục đích đóng băng hoạt động hạt nhân của Bắc Triều Tiên cũng như dần xóa
bỏ các lò phản ứng nước nặng.  Bên cạnh đó việc đi đến cuộc đàm phán 6 bên có
thể nói là bước tiến mới trong quan hệ Mỹ-Triều giai đoạn này. Với sự tham dự
của các nước lớn trong đó có Trung Quốc, Nga, Nhật Bản để đóng vai trò gần
như là phương tiện gây sức ép với Triều Tiên trên vòng đàm phán. Trong nhiệm
kỳ của mình từ năm 2001-2009 tổng thống Bush đã thể hiện thái độ thù địch của
mình đối với Triều Tiên. Ở đây Mỹ và các bên đồng minh đều cho rằng đã thành
công trong việc làm trì hoãn tiến trình phát triển vũ khí hạt nhân của Triều Tiên.
Tuy nhiên trên thực tế, đàm phán đi vào bế tắc với sự bỏ ngỏ của cả đôi bên. Khi
mà lúc này Mỹ đã dần mất đi niềm tin và sự kiên nhẫn đối với Triều Tiên.
39
Ngược lại phía Triều Tiên cũng dần không còn muốn mãi ngồi đợi nguồn viện
trợ “hứa hẹn” từ phía Mỹ và các nước đồng minh.
Tưởng chừng rằng với vị thế là một tân tổng thống của nước Mỹ, tổng
thống Obama sẽ đưa ra những phương hướng giải quyết mang tính triệt để về
vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Đối mặt Triều Tiên, một đất nước mà
rất nhiều đời tổng thống sử dụng cái tên “rogue nation”- “quốc gia nổi loạn”.
Thế nhưng chính quyền của Tổng thống Obama lại lựa chọn tiếp tục con đường
đàm phán đa phương với sự tham gia của nhiều bên. Mỹ đã nhiều lần tuyên bố
rằng sẽ không có một cuộc đàm phán nào giữa Mỹ và Triều Tiên nếu không có
sự tham gia của phía Hàn Quốc. Tuy nhiên phía Triều Tiên lại mong đợi một
cuộc đàm phán song phương giữa hai nước trong khoảng thời gian làm nhiệm kỳ
Tổng thống thứ hai của Obama. Đứng trước quan điểm này của Triều Tiên,
chính quyền Tổng thoongd Obama đã đưa ra những tuyên bố về việc sẵn sàng
tiến hành một cuộc gặp mặt song phương nhưng chỉ trên cơ sở cuộc gặp đó sẽ đi
đến mục đích cuối cùng là phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Trong giai
đoạn tranh cử tổng thống năm 2008 của ông Obama, phía Triều Tiên đã muốn
mở rộng mối quan hệ đối với Mỹ bằng cách ngỏ ý đưa đại diện của mình sang
Mỹ để tham dự lễ nhậm chức của Obama. Thế nhưng đứng trước động thái này
đội cố vấn làm việc cho Obama đã từ chối lời đề nghị này bởi một lý do đó là
trên thực tế không hề có một sự ràng buộc ngoại giao một cách chính thức giữa
hai quốc gia. Điều này có thể thấy mối quan hệ giữa hai nước đang hết sức căng
thẳng khi mà Mỹ đang muốn gia tăng sức ép về mặt ngoại giao đối với Triều
Tiên nhằm đạt dược một lợi thế nhất định cho mình trong tương lai.
Đứng trước những tuyên bố cứng rắn của Triều Tiên về vấn đề hạt nhân
khi mà người phát ngôn của Bộ ngoại giao Triều Tiên đã khẳng định rằng:
“Quan điểm của chúng tôi với tư cách là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân
đó là sẽ không nhún nhường miễn là mối nguy hiểm hạt nhân của Mỹ vẫn còn là
mối đe dọa với chúng tôi, dù chỉ một chút”, đi cùng với đó là lời khẳng định về
một Triều Tiên có thể tồn tại mà không cần bình thường hóa quan hệ (ở đây ám
chỉ nước Mỹ), nhưng không thể thiếu những biện pháp hạt nhân cứng rắn, tổng
thống Obama đã có những quyết định khác với người tiền nhiệm trước đó.  Ông
đã nhấn mạnh lập trường của mình đối với vấn đề hạt nhân của Triều Tiên là
đàm phán đa phương thay vì đi theo chủ nghĩa đơn phương một chiều như của
tổng thống Bush. Đây có thể nói là một trong những cố chấp trong chính sách
của tổng thống Obama khi mà đã nhiều lần phía Triều Tiên kêu gọi một cuộc
đàm phán song phương giữa Mỹ và Triều Tiên nhưng bị từ chối bởi Mỹ vì lý do
40
phía tổng thống Obama nhất quyết phải đàm phán đa phương vì lo sợ phía Triều
Tiên sẽ không giữ đúng cam kết của mình như những lần trước. Về phía Triều
Tiên cũng đã xuống thang và đồng ý nối lại các cuộc đàm phán đa phương
nhưng chỉ khi Mỹ đồng ý đàm phán riêng với Triêu Tiên. Về phía Mỹ cũng thể
hiện quan điểm mềm dẻo của mình khi đồng ý đàm phán riêng nhưng với điều
kiện trong khuôn khổ của một cuộc đàm phán đa phương. Đây là những lập
trường trái chiều của cả đôi bên khi đều muốn phía còn lại phải nghe theo yêu
cầu của mình. Đồng thời có thể thấy sự cương quyết của Mỹ đối với Triều Tiên
và chính quyền của Obama đã phải nhận hậu quả khi để cho tình trạng quan hệ
giữa hai nước ngày càng leo thang. Đỉnh điểm là những lần thử vũ khí hạt nhân
và tên lửa của Triều Tiên ngày càng nhiều dưới thời ông Obama.
Bên cạnh vấn đề chính là hạt nhân giữa Mỹ và Triều Tiên thì chính quyền
của ông Obama cũng phải đối mặt với những vụ việc liên quan đến những mâu
thuẫn giữa Triều Tiên và các đồng minh của Mỹ. Nổi bật lên là vụ đánh chìm
tàu hải quân ROKS Cheonan của Hàn Quốc bởi một tàu ngầm của Triều Tiên.
Vụ việc này đã dẫn đến 46 trên 104 thủy thủ đoàn của tàu Cheonan thiệt mạng
và tất nhiên phía Triều Tiên đã lên tiếng phủ nhận vụ việc này. Tuy nhiên, một
cuộc điều tra đã được tiến hành giữa các bên liên đới gồm có Hàn Quốc, Mỹ,
Thụy Điển, Anh, Mỹ và Úc đã cho rằng con thuyền bị đánh đắm bởi quả ngư lôi
mang dấu hiệu CHT-02D với trọng lượng gần 250 kg và được sản xuất tại Triều
Tiên. Vụ việc trên đã gia tăng mức độ căng thẳng giữa hai quốc gia và dẫn đến
hành động pháo binh Triều Tiên bắn vào đảo Yeonpyeong của Hàn Quốc Ngày
23 tháng 11 năm 2010, làm 4 người chết và bị thương 19 người. Đáp trả hành
động này của Triều Tiên, Mỹ và Hàn Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận
thường xuyên hơn, gia tăng các hiệp định phòng thủ để bảo vệ cho Hàn Quốc
(THAAD).
Sang nhiệm kỳ thứ hai của mình, Tổng thống Obama thực hiện chính sách
mang tên “Kiên nhẫn chiến lược”. Đúng như tên gọi của nó chính sách này thể
hiện thái độ và quan điểm của các nhà cầm quyền nước Mỹ. Chính quyền Tổng
thống Obama đang chờ đợi cho sự lụi tàn về sức mạnh của Triều Tiên bằng cách
gây sức ép về kinh tế và chính trị đối với Triều Tiên. Mặc dù có thể nói việc
triển khai chính sách này của ông Obama vào thời điểm nước Mỹ đang phải đối
phó với nhiều vấn đề nội bộ phức tạp là một nước đi phù hợp với quốc gia này.
Chương trình nghị sự các vấn đề đối nội lớn như cắt giảm thâm hụt ngân sách,
cải cách thang bậc thuế, kiểm soát buôn bán súng đạn, cách tân chế độ nhập cư,
nhập tịch đều có tính cấp bách, nhưng không có sự chuyển động tích cực nào.
41
Chương trình cải cách chế độ bảo hiểm và chăm sóc y tế, thường gọi là Obama
Care, được đưa vào thực thi trong tranh cãi cộng thêm "cú sốc vỡ mạng" khiến
nhiều người "mất cả chì lẫn chài" do bỏ chế độ bảo hiểm cũ nhưng không đăng
ký được bảo hiểm mới. Đây là con đường an toàn và hợp lý nhất mà chính
quyền ông Obama kiên quyết đi theo. Tuy nhiên chính sách này lại là “con dao
hai lưỡi” nếu như tính toán tới sự đảm bảo về mặt lâu dài.
Việc triển khai chính sách này cho thấy chính quyền ong Obama đang
muốn đẩy gánh nặng Triều Tiên cho đời Tổng thống tiếp theo. Bên cạnh đó việc
chờ đợi cho một chế độ tự sụp đổ bởi cấm vận từ nhiều phía lại dấy lên nhiều
mối nguy hại tiềm tàng từ chính quốc gia này. Với sự thờ ơ của chính quyền
Obama, Bình Nhưỡng đã tận dụng triệt để cơ hội này để phát triển tiềm lực hạt
nhân của mình. Một con số đáng báo động khi mà dưới thời Tổng thống Obama
đã có 5 vụ thử hạt nhân đến từ phía Triều Tiên trên tổng số 6 vụ. Điều này cho
thấy mức độ phát triển quân sự khó lường đến từ phía đất nước của ông Kim
Jong Un. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn Triều Tiên đã thực sự đưa ra được
“thanh gươm báu” của mình để đối chọi lại Mỹ và các nước đồng minh. Vụ thử
hạt nhân lần thứ 6 năm 2017 đã minh chứng được điều này. Với sự ra đời của
bom khinh khí đã đưa Triều Tiên trở thành quốc gia mạnh về vũ khí hạt nhân đ
sức đối địch lại với Mỹ dù phía chính quyền Tổng thống Obama muốn hay
không. Đây có thể nói là một di sản không mấy tốt đẹp mà Tổng thống Obama
để lại cho tân Tổng thống kế nhiệm là ông Trump.
2.2.2. Một số đánh giá và nhận xét
Nếu như vào năm 2012 thỏa thuận mà phía Mỹ gọi là “The Leap Day
Agreement” (Ngày Nhuận) thành công thì tương lai đã có thể rất khác. Đây là
một trong những thất bại của chính quyền ông Obama và cũng là sự kiện dẫn
đến chính sách mới của ông Obama mang tên “Kiên nhẫn chiến lược”. Ngày
29/2, Mỹ và Triều Tiên đưa ra hai tuyên bố riêng để nói về thỏa thuận họ đã đạt
được. Theo thỏa thuận “Ngày Nhuận”, Mỹ sẽ cung cấp cho Triều Tiên 240.000
tấn lương thực, còn Triều Tiên đồng ý với lệnh cấm phóng tên lửa tầm xa, thử
hạt nhân, các hoạt động hạt nhân tại Yongbyon cũng như cho phép quan sát viên
của IAEA giám sát các địa điểm hạt nhân. Tuy nhiên với sự tác động từ nhiều
yếu tố mà hiệp định này đã đi đến sụp đổ. Tạo ra một thách thức mới cho chính
quyền ông Obama khiến cho chính sách “Kiên nhẫn chiến lược” ra đời. Cái tên
của chính sách này đã nói lên tất cả khi mà lúc này do sự sụp đổ của “Ngày
Nhuận” đã làm cho chính quyền của ông Obama thực sự bị chao đảo và mất
niềm tin vào việc giải quyết triệt để vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
42
Thứ hai, chính quyền Obama đã đặt cược lớn vào một thỏa thuận hạt nhân với
Iran mà nước này biết sẽ khó đạt được và sẽ bị phản đối mạnh mẽ bởi các đảng
viên Cộng hòa trong quốc hội và một số đảng viên Dân chủ. Thêm nữa, khi mà
lúc này mọi sự tập trung đang đổ dồn về phía Trung Đông với sự kiện Mùa xuân
Ả Rập vào năm 2011 đã làm sao nhãng chính quyền của ông Obama về vấn đề
hạt nhân ở Triều Tiên khi mà các thành phần khủng bố đã tấn công vào lãnh sự
quán của Mỹ ở Benghazi vào 11 tháng 9 năm 2012.
Từ đó Triều Tiên mới có thể phát triển những loại vũ khí mới với quy mô
ngày càng vượt trội cả về sức công phá và tính chiến lược. Cuối cùng với việc
chuẩn bị cho tranh cử nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo chính quyền Obama đã
miễn cưỡng tham gia vào các cuộc đàm phán với Triều Tiên với mục đích tạo
điểm tốt cho công tác tranh cử. Với những sự kiện trên chính quyền ông Obama
đã thể hiện sự chán nản về vấn đề hạt nhân của Triều Tiên vì thế mới đưa ra
chính sách “Kiên nhẫn chiến lược” với mục đích là đẩy mớ rắc rối này cho
nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo giải quyết và ở đây là ông Donald Trump. Trên
thực tế vào ngày 20 tháng 1 năm 2017, trước khi rời Nhà Trắng Obama đã có
gửi cho tân tổng thống Donald Trump và nói rằng Triều Tiên sẽ là vấn đề đối
ngoại cấp bách nhất mà ông này sẽ phải đối mặt với cương vị tân tổng thống.
Chính sách “Kiên nhẫn chiến lược” tập trung vào việc gây áp lực kinh tế
và ngoại giao lên Triều Tiên, đồng thời vẫn bày tỏ mong muốn đối thoại. Ví dụ,
trong một bài phát biểu vào tháng 11/2013, Cố vấn An ninh Quốc gia Susan nói
rằng Mỹ đang chuẩn bị để đàm phán với Triều Tiên “với điều kiện họ đúng và
đáng tin cậy, đàm phán toàn bộ chương trình hạt nhân của Triều Tiên, và dẫn
đến kết quả là các bước đi thực chất và không thể đảo ngược tiến tới việc phi
hạt nhân hóa”. Việc triển khai chính sách “Kiên nhẫn chiến lược” đã cho thấy
sự không tha thiết của tổng thống Obama về phương hướng giải quyết đối với
Triều Tiên. Ngay sau sự kiện “Ngày Nhuận” Triều Tiên đã ngày càng tăng
cường phát triển hệ thống quân sự của mình với số lần thử vũ khí hạt nhân và
các tên lửa tầm xa ngày càng gia tăng. Đây là giai đoạn căng thẳng quan hệ giữa
hai bên lên đến đỉnh điểm và tưởng chừng như có thể nổ ra một cuộc chiến hạt
nhân bất cứ lúc nào. Đối diện với vấn đề đó chính quyền của ông Obama lại
phản ứng có phần yếu ớt đối với Triều Tiên so với các vấn đề khác mà nước Mỹ
đang gặp phải.
Thực tế cho thấy căng thẳng Mỹ - Triều Tiên luôn ở mức cao từ thời gian
này qua năm 2013 và tiếp diễn đến tận bây giờ. Mùa hè năm 2013, hình ảnh vệ

43
tinh cho thấy Triều Tiên có thể đã tăng gấp đôi quy mô hệ thống máy ly tâm ở
Yongbyon và tái khởi động lò phản ứng sản xuất plutoni bị đóng cửa trước đó.
Suốt năm 2014, Triều Tiên thực hiện hàng loạt vụ phóng tên lửa tầm trung và
tầm ngắn, và cũng dọa sẽ thực hiện vụ thử hạt nhân lần thứ tư. Đây là hệ quả tất
yếu đến từ chính sách của Tổng thống Obama. Sự thiếu cương quyết trong việc
phi hạt nhân hóa của Mỹ trong khoảng thời gian này đã dẫn đến một đất nước
Triều Tiên khó kiểm soát và nguy hiểm. Mối quan hệ căng thẳng dai dẳng này
làm cho tình hình khu vực Đông Bắc Á khó có thể ổn định khi mà cuộc chay
đua vũ trang giữa hai bên là Triều Tiên đối đầu với Mỹ và cá nước đồng minh
đang ngày một khó lường.
Chính sách “Kiên nhẫn chiến lược” của chính quyền ông Obama đã thất
bại đối với một Triều Tiên quyết không nhân nhượng. Đây có lẽ cũng là nguyên
nhân chính dẫn đến sự thất bại của đường lối này. Triều Tiên đã tuyên bố một
cách cứng rắn về phương hướng phát triển đất nước của mình đó là quyết tâm
trở thành một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo để đảm bảo
cho an ninh của đất nước trước sự đe dọa mà Triều Tiên lo sợ từ Mỹ và các
nước đồng minh. Mặc dù đã được khuyến khích rằng sẽ được hỗ trợ về mặt kinh
tế để phát triển đất nước nhưng Triều Tiên lại cương quyết theo đuổi chính sách
vũ khí hạt nhân của mình khi mà đất nước này đã sửa đổi hiến pháp vào tháng 4
năm 2012 để tự miêu tả mình là “một quốc gia được trang bị vũ khí hạt nhân”.
Bên cạnh đó Triều Tiên cũng cho rằng vũ khí hạt nhân không phải là “con bài
mặc cả” như nhiều chuyên gia nhận định mà họ khẳng định “vũ khí hạt nhân
như là một thanh gươm báu toàn năng để bảo vệ an ninh và chủ quyền của đất
nước”. Có thể nói Triều Tiên đang tự lực hợp pháp hóa việc sở hữu vũ khí hạt
nhân của mình để có thể đối chọi lại với những chính sách mang tính cưỡng chế
đến từ các nước khác đặc biệt ở đây là Mỹ. Vì vậy mà việc quay trở lại bàn đàm
phán với mục đích tìm ra con đường phù hợp nhất để giải quyết vấn đề hạt nhân
thì theo phía Triều Tiên là không còn cần thiết.
Việc dẫn đến thất bại của chính sách này đến từ nhiều yếu tố trước hết là
những tính toán sai lầm của phía Mỹ về Triều Tiên khi cho rằng đất nước này sẽ
không còn khả năng phát triển cả về mặt quân sự lẫn kinh tế nếu như các hình
thức trừng phạt đối với Triều Tiên là thực sự nghiêm khắc. Tuy nhiên đi ngược
lại với dự đoán của Mỹ thì Triều Tiên vẫn có mức độ tăng trưởng GDP hằng
năm ở mức có thể chấp nhận được đối với đất nước này. Đặc biệt, nền kinh tế
của Triều Tiên được báo cáo là đã tăng trưởng vào năm 2016 với tốc độ nhanh
nhất kể từ năm 1999, bất chấp việc Liên Hợp Quốc ban bố các biện pháp trừng
44
phạt kinh tế. Theo dữ liệu của ngân hàng trung ương Hàn Quốc, Triều Tiên có
mức GDP vào năm 2016 tăng 3,9% so với cùng kỳ năm ngoái, là mức cao nhất
kể từ mức tăng 6,1% vào năm 1999. Sự tăng trưởng phần lớn được thúc đẩy bởi
hoạt động khai thác của nó trên các lĩnh vực sản xuất năng lượng, cùng với chi
tiêu cho quân sự. Ngoại thương của Triều Tiên cũng tăng đều đặn trong thập kỷ
qua, cụ thể là trong năm 2016 nó đã tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước đạt
6,55 tỷ đô la, tăng 123% so với giá trị thương mại năm 2007.
Có thể nói, chính sách “Kiên nhẫn chiến lược” của ông Obama là sự kết
hợp cả hai phương thức đàm phán và gia tăng trừng phạt đa phương. Đây là
chính quyền đầu tiên ở Mỹ đã áp dụng phương thức này khi mà ra sức thuyết
phục Triều Tiên phi hạt nhân hóa trên toàn bộ đất nước và ngừng các chương
trình phát triển tên lửa thông qua các cuộc họp cấp cao giữa nhiều bên nhưng
cũng đồng thời áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đa phương và đến
nhiệm kỳ lần thứ hai thì tăng cường trừng phạt để ép Triều Tiên quay trở lại bàn
đàm phán. Tuy nhiên thực tế cho thấy chính sách này đã thất bại trong việc phi
hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Không những thế chính quyền Tổng thống
Obama cũng đã hình thành nên một mối nguy hiểm khó lường cho cả mình và
các nước đồng minh trong khu vực. Việc thờ ơ trước sự lớn mạnh về quân sự
của Triều Tiên đã khiến cho Mỹ phải nhận một hậu quả với mức độ nguy hiểm
nhất từ trước đến nay. Thực tế cho thấy Bình Nhưỡng đã đủ sức mạnh để tạo lợi
thế cho mình cả về mặt chính trị ngoại giao và kinh tế để ép buộc Mỹ và Liên
Hợp Quốc xóa bỏ các lệnh trừng phạt đối với mình.
2.3. Dự báo quan hệ Mỹ - Triều xoay quanh vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều
Tiên
Việc đưa ra những chính sách đường lối kém hiệu quả cho vấn đề trên bán
đảo Triều Tiên của chính quyền ông Obama đã làm cho các đời Tổng thống sau
ông tiếp theo phải đối mặt với mối đe dọa tiềm tàng to lớn đến từ Triều Tiên.
Đứng trước vấn đề này Tổng thống Trump và Biden đã có những bước đi chiến
lược của riêng mình để có thể đồng thời giải quyết triệt để vấn đề hạt nhân trên
bán đảo Triều Tiên và nâng cao vị thế của mình cho lần tái bầu cử tiếp theo.
2.3.1. Cơ sở dự báo từ sự thay đổi trong chính sách của Mỹ dưới thời Tổng
thống Donald Trump
Sau khi kết thúc nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Obama đã nêu ra vấn đề
hạt nhân là rắc rối cần phương hướng giải quyết cấp bách nhất mà ông Trump sẽ
phải đối mặt khi lên chức tổng thống. đây cũng là điều mà Tổng thống Trump
nhận ra và đã triển khai ngay phương hướng giải quyết đối với vấn đề hạt nhân
45
trên bán đảo Triều Tiên. Khác với tiền nhiệm của mình là Tổng thống Obama,
ông Trump ngay từ đầu đã có những động thái nhất định trong việc siết chặt hơn
các lện trừng phạt đối với Triều Tiên và sẵn sàng sử dụng vũ lực nếu cần thiết.
Bên cạnh đó Tổng thống Trump cũng tiến hành chỉ trích phía Trung Quốc trong
việc thiếu tính răn đe đối với Triều Tiên. Khi nhậm chức, tổng thống Trump đã
nêu ra những mặt hạn chế từ nhiều khía cạnh của chính sách “Kiên nhẫn chiến
lược” của ông Obama và cương quyết loại bỏ chính sách này để đưa ra chính
sách mới mà ông cho rằng phù hợp hơn lúc này đó là chính sách “Trách nhiệm
giải trình chiến lược”.
Ở đây có thể thấy được một số điểm giống nhau đến từ chính sách của cả
hai người. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cả hai chính sách trước hết đều không đưa vấn đề hạt nhân trên
bán đảo Triều Tiên là một mục tiêu cần giải quyết cuối cùng mà đều cương
quyết cho rằng việc Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân và trở thành một quốc gia
hạt nhân là không thể chấp nhận được. Bởi lẽ điều này sẽ tạo ra một tiền lệ về
một quốc gia khác với các nước đã tham gia trong câu lạc bộ hạt nhân sở hữu và
phát triển vũ khí hạt nhân. Sự hình thành này sẽ dẫn đến các nước khác có tiềm
năng phát triển hạt nhân như Iran sẽ có cơ hội phát triển vũ khí hạt nhân riêng
của mình. Trên thực tế các chuyên gia chính sách của Mỹ đã đề cập đến việc cho
Triều Tiên trở thành quốc gia hạt nhân và sử dụng biện pháp kiềm chế bằng hạt
nhân với đất nước này thay vì chạy theo và thuyết phục. Tuy nhiên chính quyền
của ông Obama cũng như của ông Trump đã từ chối ý kiến này và sẽ không bao
giờ công nhận Triều Tiên là một quốc gia hạt nhân.
Thứ hai, cả chính sách “Trách nhiệm giải trình chiến lược” và chính sách
“Kiên nhẫn chiến lược” đều theo một phương thức áp dụng đối với Triều Tiên
đó là: “Tập trung tăng cường các biện pháp trừng phạt đa phương thông qua
Liên Hợp Quốc đối với Triều Tiên. Cả hai đều cố gắng không tiếp cận Triều
Tiên mà không có một điều khoản áp đặt cụ thể nào đồng thời cũng ra sức
thuyết phục phía Triều Tiên quay trở lại đàm phán để giải quyết vấn đề hạt nhân.
Ở đây cả hai chính sách đều chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Triều Tiên
chỉ khi mà chính quyền Mỹ thấy dấu hiệu cho rằng Triều Tiên đang tích cực phi
hạt nhân hóa trên đất nước mình
Thứ ba, cả hai tổng thống Obama và Trump đều nhận ra được nguy cơ
phát động chiến tranh hạt nhân quy mô lớn nếu như họ chấp nhận phương án lật
đổ chính quyền cai trị bằng phương pháp vũ lực, điều mà chính quyền Mỹ đã

46
tùng làm trong quá khứ đối với nhiều quốc gia. Việc can thiệp vào nội bộ của
Triều Tiên bằng con đường bạo lực là một lựa chọn vô cùng mạo hiểm. Sự trả
đũa của Triều Tiên đối với Mỹ sẽ là vô cùng khủng khiếp nếu như điều này thất
bại. Việc áp dụng cách thức này đối với một chế độ chính Đảng như Triều Tiên
khi mà những người dân nơi đây đều có sự trung thành tuyệt đối cho người lãnh
đạo của mình, thì sẽ chỉ phản tác dụng và đẩy nước Mỹ đến với bờ vực của một
cuộc chiến tranh hạt nhân.
Có thể thấy cả hai chính sách đều nhấn mạnh sức ảnh hưởng của Trung
Quốc đối với các vấn đề liên quan đến Triều Tiên. Thái độ của Trung Quốc đối
với các chính sách trừng phạt Triều Tiên ảnh hưởng rất nhiều đến sự thành công
hay thất bại trong chiến lược của cả hai tổng thống. Vì là đồng minh lâu năm
của Triều Tiên, việc lên tiếng kêu gọi Triều Tiên tiến hành các hoạt động phi hạt
nhân hóa và quay trở lại bàn đàm phán là hết sức cấn thiết. Cuối cùng, sự giống
nhau của hai chính sách này là đều sẵn sàng tăng cường hợp tác với Hàn Quốc
và Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là quân sự. Mỹ và các nước
đồng minh đều gia tăng các cuộc tập trận và các biện pháp trừng phạt đối với
Triều Tiên để thể hiện sự răn đe đối với những lời đe dọa và khiêu khích đến từ
nước này.
Tuy nhiên, chính sách của ông Trump là sự kế thừa và phát triển chính
sách của ông Obama vậy nên ở trong chính sách “Trách nhiệm giải trình chiến
lược” có sự thay đổi và loại bỏ đi những điều mà tổng thông Trump cho rằng
còn “yếu ớt”. Sự khác biệt ở đây là do đường lối tư tưởng và lập trường ngoại
giao của cả hai vị Tổng thống. Xuất phát từ hai Đảng khác nhau, một bên là
Đảng Cộng Hòa bên kia là Đảng Dân Chủ, điều này cho thấy được những quan
điểm của hai người đều phải đi từ lợi ích của chính Đảng của mình. Vì vậy mà
sự khác nhau trong tư duy đối ngoại về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên
đã được thể hiện qua những khía cạnh sau.
Trước hết, ông Trump đã đặt vấn đề giải quyết hạt nhân của Triều Tiên
lên hàng đầu. Ông cho rằng vấn đề này đây là thách thức lớn nhất mà Mỹ đang
phải đối mặt và khẳng định rằng cần phải giải quyết triệt để vấn đề này bằng các
biện pháp cấp bách và hợp lý hơn. Trong khi đó chính quyền Tổng thống Obama
lại cho rằng việc giải quyết vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên sẽ tốn kém hơn và mất
nhiều công sức hơn. Việc tập trung vào giải quyết vấn đề hạt nhân ở Iran sẽ là
phương hướng tối ưu nhất cho Mỹ lúc bấy giờ. Sở dĩ Tổng thống Obama quyết
định như vậy vì theo ông Triều Tiên đã đủ khả năng để tự phát triển vũ khí hạt

47
nhân cỡ nhỏ rồi. Từ đây thấy được sự chủ quan của chính quyền Tổng thống
Obama khi cho rằng Triều Tiên sẽ không phát triển được nếu như bị bỏ mặc. Để
rồi nước Mỹ dưới thời ông Trump phải đôi diện với một Triều Tiên với tiềm lực
khác hoàn toàn trước đây.
Tiếp theo, chính quyền của ông Trump đã thể hiện thái độ quyết liệt hơn
đối với Trung Quốc trong vấn đề Triều Tiên. Chính quyền của ông Trump ra sức
đã thúc đẩy Trung Quốc thực hiện đầy đủ các biện pháp trừng phạt và tăng
cường gây áp lực đốivới Triều Tiên. Đặc biệt phía Washington đã đưa ra các
lệnh trừng phạt thứ cấp đối với Trung Quốc buộc Trung Quốc phải nhìn vấn đề
Triều Tiên một cách có hiệu quả hơn. Có thể thấy biện pháp trừng phạt này được
đưa ra để ngăn chặn các cuộc giao dịch của Trung Quốc với Triều Tiên. Đây là
động thái khác biệt hoàn toàn đối với Tổng thống Obama, chính quyền ông
Trump đã nhìn nhận ra vấn đề cốt lõi trước mắt cho việc phi hạt nhân hóa trên
bán đảo Triều Tiên đó là chế độ của ông Kim sẽ không bao giờ dụp đổ nếu Bình
Nhưỡng vẫn tiếp tục được Trung Quốc tiếp viện ở của khẩu hai nước. Mặc cho
các lệnh trừng phát đến từ Mỹ nhưng Triều Tiên vẫn tồn tại và còn phát triển về
tiềm lực quân sự hơn trước. Cho thấy được gây áp lực đối với Trung Quốc là
con đường phù hợp để tạo sức ép với Triều Tiên.
Thứ ba, sự khác biệt rõ ràng nhất trong chính sách của ông Trump và
chính sách của ông Obama đó là sự cứng rắn toàn diện trong việc sử dụng quân
sự để trấn áp Triều Tiên. Ông Trump đã sử dụng các biện pháp trừng phạt đa
phương đi đôi với các biện pháp trừng phạt đơn phương. Đây là điểm khác biệt
căn bản trong chính sách của ông Trump khi mà người tiền nhiệm trước đó đã
chọn cho mình lối đi răn đe Triều Tiên bằng công cụ Liên Hợp Quốc và các
cuộc họp đa phương. Đến nay ông Trump đã tiến hành hàng loạt các biện pháp
trừng phạt kinh tế đơn phương đối với Triều Tiên nhằm cô lập đất nước này một
cách toàn diện và triệt để hơn. Việc sử dụng các biện pháp trừng phạt đơn
phương vào khoảng thời gian dưới thời ông Trump có thể nói là phù hợp. Bởi lẽ
Triều Tiên từ trước đến nay vẫn tồn tại bất chấp các lệnh trừng phạt từ Mỹ và
Liên Hợp Quốc, cho dù các cuộc họp đa phương được diễn ra thf nó cũng chỉ là
vấn đề thời gian cho sự trở lại con đường hạt nhân của Triều Tiên nếu như đàm
phán không đi đến kết quả như Bình Nhưỡng mong đợi.
Như thế, có thể thấy một điều rằng, với chính sách và các biện pháp cứng
rắn hơn của mình đã thực sự phải làm cho chế độ của ông Kim Jong Un phải
xem xét một cách cẩn trọng chứ không thể tự tung như dưới thời ông Obama.

48
Mặc các quyết định của ông Trump có phần bảo thủ và mang tính một chiều
nhưng không thể phủ nhận độ hiệu quả khi mà cả Mỹ và Triều Tiên đã tiến hành
cuộc đam phán song phương vào năm 2018. Đây là cuộc gặp chính thức đầu
tiên giữa hai người đứng đầu của đất nước này. Song dưới nỗ lực của cả hai bên,
Mỹ và Triều Tiên đều không đi đến được kết quả đáng mong đợi mà lại đi vào
thất bại như các cuộc đàm phán trước đây.
Mặt khác, đối với Tổng thống hiện tại của Hoa Kỳ - ông Joe Biden, việc
tiếp cận Triều Tiên là một vấn đề chính cần phải có đường lối chính sách cụ thể
và khác biệt so với các chính sách cũ của những tổng thống tiền nhiệm. Sau 100
ngày nhậm chức tổng thống Mỹ, ông Biden đã đưa ra một con đường để giải
quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Theo như tuyên bố Mỹ sẽ giải
quyết vấn đề Triều Tiên một cách linh hoạt nhưng không mất bình tĩnh. Đây là
phương hướng mà chính quyền ông Biden khẳng định rằng không phải “Kiên
nhẫn chiến lược” và chính sách “Trách nhiệm giải trình chiến lược”. Có thể thấy
phương án sử dụng vũ lực quân sự của Mỹ vào thời gian này là không khả thi
bởi sự phát triển lớn mạnh của hệ thống quân sự Triều Tiên. Triều Tiên hiện giờ
đây đã là một mối nguy tiềm tàng và có thể nổ ra chiến tranh mang tầm thế giới
bất cứ lúc nào. Vì vậy con đường ngoại giao là khả quan nhất cho chính quyền
của ông Biden. Thế nhưng các cuộc đàm phán trước đây từ các đời tổng thống
trước đều không thành công và đi vào bế tắc. Vậy nên ông Biden cần phải có
biện pháp khác hơn, hiệu quả hơn và hợp lý hơn trong tình hình mới này.
2.3.2. Một số dự báo về chính sách của Tổng thống Joe Biden trong tương lai
Tổng thống Biden, vốn đang bận rộn đối phó với đại dịch Covid-19 và
thúc đẩy các chính sách trong nước, có thể sẽ xem xét những di sản phức tạp của
ông Trump với Triều Tiên và có một hướng tiếp cận từ tốn hơn. Nhà lãnh đạo
Mỹ cũng có thể sẽ tiếp nối chính sách của cựu Tổng thống Obama khi áp dụng
lập trường "kiên nhẫn chiến lược" với Bình Nhưỡng. Điều này có thể thấy rõ
qua việc chính quyền Mỹ không quan tâm đến những cuộc trao đổi trực tiếp với
ông Kim Jong Un trong suốt nhiệm kỳ thứ hai của ông Obama bởi họ tin rằng
sức ép tài chính sẽ buộc Triều Tiên phải quay lại bàn đàm phán với những
nhượng bộ thực sự.
Trước hết nhìn lại các đời tổng thống trước đều cố gắng đưa Triều Tiên
trở thành quốc gia phi hạt nhân toàn bộ một cách nhanh chóng và gấp rút. Khi
mà trên bàn đàm phán các điều khoản mà Mỹ đưa ra đều tập trung vào một mục
tiêu duy nhất đó là dỡ bỏ toàn bộ các cơ sở nhà máy hạt nhân và chương trình

49
phát triển vũ khí hạt nhân. Mặc dù đây là mục đích cuối cùng của Mỹ từ trước
đến nay thế nhưng cách tiến hành có phần gấp rút và vội vàng. Đây là điều mà
phía Triều Tiên không hề hài lòng khi mà vũ khí hạt nhân là “con bài chiến
lược” duy nhất của họ trên bàn đàm phán và điều này hoàn toàn có thể hiểu
được khi Triều Tiên đòi hỏi Mỹ những yêu sách nhiều hơn mà Mỹ có thể đáp
ứng được. Vì vậy mà ông Biden có thể tiếp cận Triều Tiên một cách từ từ,
không nóng vội mà giải quyết từng bước, từng “con bài” một của Triều Tiên.
Tuy nhiên khi thực hiện giải pháp nối lại đàm phán Mỹ-Triều và giải quyết theo
tùng đợt sẽ khiến cho chính quyền của ông Biden gặp nhiều khó khăn thử thách.
Điều này dễ dẫn đến việc phi hạt nhân hóa sẽ không thực hiện được và đồng thời
cũng dễ đến việc vô tình công nhận Triều Tiên là một quốc gia hạt nhân.
Bên cạnh việc giải quyết từng bước các vấn đề liên quan tới Triều Tiên.
Chính quyền ông Biden cũng cần xem xét về việc gây sức ép tổng thể đối với
việc các chương trình phát triển vũ khí của Triều Tiên. Nếu như điều này kéo
dài quá lâu Mỹ sẽ phải đối mặt với một Triều Tiên khủng khiếp hơn bây giờ.
Một minh chứng rõ ràng đó là qua cuộc đàm phán 6 bên, phía Mỹ khẳng định đã
thành công trong việc trì hoãn Triều Tiên tiến hành các vụ thử vũ khí hạt nhân.
Thế nhưng các chuyên gia nhận định đây là cơ hội để cho Triều Tiên có thời
gian nghiên cứu thêm về việc phát triển chương trình hạt nhân của mình. Đây có
thể là cái cớ cho Đảng Cộng Hòa công kích ông Biden khi mà các chính sách
đưa ra để đối phó với Triều Tiên quá nhẹ nhàng so với các đối sách cũ của ông
Trump. Điều này có thể giảm mức tín nhiệm của ông Biden cho cuộc tranh cử
tiếp theo cho nhiệm kỳ tổng thống của mình. Vì vậy chính quyền của ông Biden
lúc này chỉ có thể đợi Triều Tiên thay đổi quan điểm qua các cuộc đàm phán
trong tương lai nhưng không đưa ra những đề xuất bồi thường quá ưu đãi đối với
Triều Tiên.
Xây dựng một lộ trình phi hạt nhân hóa hoàn toàn bán đảo Triều Tiên
trong khi vẫn bảo đảm sự tôn trọng lẫn nhau và nguyên tắc bất di bất dịch của
mỗi bên là một nhiệm vụ đầy thách thức đối với chính quyền Tổng thống Joe
Biden. Thế nhưng, Triều Tiên luôn là một vấn đề không thể phớt lờ và việc tìm
ra “công thức phù hợp” để kiểm soát điểm nóng này vẫn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng đối với Mỹ. Nếu chưa thể loại bỏ ngay sự nguy hiểm từ
chương trình vũ khí hạt nhân và công nghệ tên lửa của Triều Tiên thì ít nhất Mỹ
cũng có cơ chế để ngăn chặn được nguy cơ mối đe dọa này trở nên tồi tệ hơn.
Triển vọng này sẽ dễ trở thành hiện thực, nếu Nhà Trắng có sự phối hợp chính
sách triệt để với các đồng minh của mình tại khu vực, như: Hàn Quốc và Nhật
50
Bản. Vì có một thực tế là, việc bỏ qua những người bạn có chung lợi ích bằng
một chính sách đơn phương như cách mà cựu Tổng thống Donald Trump tự tin
thực hiện trong nhiệm kỳ của mình đã không giúp thúc đẩy lòng tin và đem lại
tiến triển đáng kể nào trong giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên.
Như vậy, có thể tóm tắt đường lối chính sách mới với Bình Nhưỡng của
Chính phủ Biden đó là: giữ nguyên mục tiêu phi hạt nhân hóa một cách toàn
diện bán đảo Hàn Quốc, hướng giải quyết vấn đề là qua con đường ngoại giao,
và trong quá trình đó, Washington sẽ tuần tự triển khai những đàm phán từ cấp
chuyên viên đến những thỏa thuận lớn hơn với Bình Nhưỡng.
2.4. Một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Có thể nói thái độ của Việt Nam đối với Triều Tiên từ trước đến nay không
hề mang ý đối địch như là Mỹ đối với Triều Tiên. Từ lâu Việt Nam và Triều
Tiên đã có mối quan hệ hòa hảo với nhau khi mà cả hai nước đều hỗ trợ lẫn
nhau lúc cần thiết. Tuy nhiên về phía Việt Nam, việc thử nghiệm và phát triển
vũ khí hạt nhân là điều mà chính quyền nơi đây không hề ủng hộ. Người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ông Lê Hải Bình đã khẳng định lập trường nhất
quán của Việt Nam là ủng hộ phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên, ủng hộ việc
cấm thử hạt nhân toàn diện, không phổ biến vũ khí hạt nhân và tiến tới giải trừ
loại vũ khí này. Vì vậy việc Triều Tiên thử nghiệm vũ khí hạt nhân với mức độ
ngày càng tăng cao đã không được sự ủng hộ của Việt Nam mặc dù Triều Tiên
và Việt Nam luôn là đồng minh cùng khối xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung luôn coi vũ khí hạt nhân là biện
pháp không nên có và sử dụng. Việt Nam vẫn luôn cùng với các nước khác ra
sức kêu gọi cộng đồng quốc tế thức hiện phi hạt nhân hóa trên toàn thế giới khi
mà sức hủy diệt của loại vũ khí này quá lớn đối với bất kỳ quốc gia nào tren thế
giới. Việc sở hữu vũ khí hạt nhân và thử nghiệm cho ra đời các loại vũ khí khác
tân tiến hơn sẽ dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang không đáng, đặt thế giới vào
tình trạng nguy hiểm và có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh thảm khốc hơn bao
giờ hết như là thời kì chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô.
Có thể nói mặc dù không quyết liệt trong việc phi hạt nhân hóa trên bán
đảo Triều Tiên như là Mỹ và các nước đồng minh nhưng Việt Nam luôn tỏ rõ
thái độ qan ngại sâu sắc về vấn đề này. Việc Triều Tiên thử nghiệm bom nhiệt
hạch đã vi phạm các Nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,
làm gia tăng căng thẳng, đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực. Đối với Triều Tiên
và Mỹ, Việt Nam luôn phải thể hiện lập trường trung lập, không phiến diện một

51
chiều, nghiêng về một nước để công kích quốc gia còn lại. Có thể thấy rõ điều
này qua cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-Triều diễn ra năm 2018 khi mà cả hai nước
này đều chọn Việt Nam là nước trung gian cho cuộc gặp mặt. Cũng nhờ có thái
độ yêu chuộng hòa bình của Việt Nam được thể hiện rõ qua truyền thông quốc
tế mà Việt Nam được tin tưởng bởi cả hai nước.
Mặc dù thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc ngăn chặn phổ biến vũ
khí hạt nhân, song thực tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa từ loại vũ khí
giết người hàng loạt này. Các chương trình giải trừ vũ khí hạt nhân đã được khởi
động từ nhiều năm qua, nhưng còn bộc lộ nhiều tồn tại do chính sách thực thi
chưa cụ thể, trước hết trong việc quản lý, đặc biệt là từ phía các cường quốc hạt
nhân.
Tiến trình cắt giảm vũ khí hạt nhân trên thế giới đang diễn ra rất chậm chạp
và các cường quốc sở hữu vẫn tiếp tục hiện đại hóa hệ thống vũ khí hạt nhân của
mình. Mới đây, Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Xtốckhôm (SIPRI) cho biết,
tính đến đầu năm 2016, có 9 quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, gồm Mỹ, Nga,
Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Israel và Triều Tiên, với tổng cộng
4.120 đơn vị vũ khí hạt nhân. Nếu tính riêng các đầu đạn hạt nhân thì con số là
15.395 đơn vị (đầu năm 2015 là 15.850 đơn vị). Các đầu đạn đã triển khai là số
đã được lắp đặt trên các tên lửa hoặc đang nằm trong thành phần trang thiết bị
vũ khí của các lực lượng tác chiến.
Chưa kể, một loạt những động thái gần đây cũng đang khiến cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan ngại, đó là việc Triều Tiên liên tiếp tiến hành các vụ thử
tên lửa đạn đạo liên lục địa. Ngày 17-8-2016, Triều Tiên xác nhận đã nối lại
hoạt động sản xuất Plutoni, đồng thời khẳng định Bình Nhưỡng không có kế
hoạch ngừng thử hạt nhân với lý do vì những mối đe dọa từ Mỹ.
Giải trừ vũ khí hạt nhân là một trong những mục tiêu sớm nhất mà Liên
hợp quốc đã đề ra và cũng đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc nhấn mạnh
trong nghị quyết đầu tiên năm 1946. Trong nhiều năm qua, Liên hợp quốc đã thể
hiện vai trò đi đầu trên mặt trận ngoại giao để thúc đẩy giải trừ vũ khí hạt nhân,
và điều này đã được thể hiện qua những hành động và nỗ lực cụ thể của mỗi
Tổng thư ký Liên hợp quốc. Đáng chú ý là vào năm 2008, cựu Tổng thư ký Liên
hợp quốc Ban Ki-moon đã công bố kế hoạch 5 điểm hướng tới mục tiêu giải trừ
vũ khí hạt nhân.
Thế kỷ XX đã phải chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp của vũ khí hạt nhân,
chứng kiến cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân ráo riết về mọi mặt, gây ra căng

52
thẳng trong đời sống quốc tế, tiêu phí những nguồn lực lẽ ra có thể dành cho
phát triển và đặt thế giới trước mối hiểm họa hủy diệt chưa từng có. Cũng trong
thế kỷ XX, nhiều chính phủ, tổ chức và cá nhân đã tham gia vào một phong trào
thế giới đòi thủ tiêu vũ khí hạt nhân, chống chiến tranh hạt nhân và bảo vệ hòa
bình. Tuy nhiên, sau một hành trình dài mà chúng ta đã đi qua, ngày nay, mối đe
dọa vẫn còn đeo đẳng khi khoảng 13.400 vũ khí hạt nhân còn hiện hữu trên trái
đất. Trong khi chỉ 1 vũ khí hạt nhân trong số này được ấn nút “rời khỏi bệ
phóng” cũng sẽ để lại những hậu quả tàn khốc, có thể san phẳng cả một thành
phố, hủy hoại môi trường tự nhiên và cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế,
hiện nay, Việt Nam đang tham gia nhiều cơ chế hợp tác thuộc nhiều tầng nấc từ
hợp tác tiểu vùng, khu vực, cho tới liên khu vực và toàn cầu, như: Liên hợp
quốc, APEC, ASEM, ASEAN và các cơ chế hợp tác tại khu vực Mekong. Việt
Nam cũng tham gia vào việc hình thành các hiệp định thương mại thế hệ mới,
như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế
toàn diện khu vực (RCEP)....
Đối với Việt Nam các liên kết khu vực và quốc tế là hết sức quan trọng,
đây là một yếu tố cần thiết cho sựu phát triển của Việt Nam trên tất cả các lĩnh
vực. Chính vì vậy việc sở hữu vũ khí hạt nhân ở trong khu vực ở đây là Đông
Nam Á sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến công tác đối ngoại cũng như là các hoạt động
liên kết khu vực sau này. Một nước ở Đông Nam Á không tính riêng Việt Nam
cũng sẽ có một vị thế khác biệt so với các nước còn lại. Đây sẽ là một mối đe
dọa hoặc là sức mạnh tăng cường của khu vực ASEAN thì còn phải phụ thuộc
vào quan điểm của từng nước cũng như là vị thế và uy tín của đất nước đó. Vì
vậy mà Việt Nam đã ra sức kêu gọi các nước chung tay phi hạt nhân hóa trên
toàn thế giới để giữ vũng được môi trường liên kết hòa bình và bền vững.

53
Kết luận Chương II

Với các cuộc thử vũ khí hạt nhân hàng loạt và động thái bất thường của
Triều Tiên, việc đưa ra những chính sách phù hợp để giải quyết triệt để vấn đề
hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã và đang là thử thách đối với các tổng thống
Mỹ qua từng thời kỳ.
Qua đời tổng thống Obama có thể thấy Mỹ đã thực sự phản ứng một cách
yếu ớt trước những động thái của Triều Tiên để từ đó dẫn đến hàng loạt các vụ
thử vũ khí hạt nhân của Triều với mức độ ngày càng cao. Chính sách “Kiên
nhẫn chiến lược” đã bị các chuyên gia chính trị cho rằng đây là sự thất bại trong
việc nỗ lực phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Tiếp nối ông Obama, tổng thống Trump lên cầm quyền và đưa ra hàng loạt
các biện pháp cứng rắn một cách toàn diện mang tên chính sách “Trách nhiệm
giải trình chiến lược” trên nhiều lĩnh vực kể cả đối với Trung Quốc để ép Triều
Tiên ngồi vào bàn đàm phán. Nhưng cho dù nỗ lực rất nhiều, ông Trump vẫn
không thể giải quyết các vấn đề còn tồn đọng liên quan đến Triều Tiên trong
nhiệm kỳ của mình. Để rồi ông Biden lên nhậm chức và phải đương đầu một
cách khó khăn với một Triều Tiên đã quá mạnh về quân sự.
Đối với mối quan hệ ngày càng căng thẳng giữa Triều Tiên và Mỹ thì Việt
Nam đã phải khéo léo ngoại giao một cách trung lập, không quá thiên vị về một
nước để giữ mối hòa hảo giữa hai bên. Tuy nhiên Việt Nam cũng bày tỏ quan
điểm không ủng hộ việc phát triển vũ khí hạt nhân khi mà đây là việc làm có sự
ảnh hưởng đáng quan ngại tới môi trường quốc tế trong khu vực và trên thế giới.

54
KẾT LUẬN CHUNG

Kể từ sau các cuộc khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên, Mỹ
nhận thấy mối đe dọa và nguy cơ tiềm tàng từ năng lực hạt nhân của Triều Tiên.
Đứng trước nguy cơ chủ nghĩa khủng bố đang phát triển mạnh mẽ thì Mỹ càng
ra sức đề phòng sự tồn tại của Triều Tiên. Để đối phó các tình huống có thể xảy
ra giữa hai quốc gia sở hữu hạt nhân này, cả Bình Nhưỡng và Washington đều
triển khai các chính sách đối địch với nhau. Tập trung vào thời kỳ Tổng thống
Obama, với các chiến lược được đưa ra từ ông có thể thấy đã tạo ra cơ hội cho
Triều Tiên phát triển lĩnh vực quân sự của họ. Qua đó quan hệ giữa Mỹ và Triều
Tiên đang ngày càng gia tăng mức độ căng thẳng.
Thực tế cho thấy đã có những cuộc đàm phán đa phương và song phương
giữa hai quốc gia sở hữu hạt nhân này. Tuy nhiên các cuộc đàm phán đều có
chung một kết quả thất bại bởi lập trường xung khắc giữa Mỹ và Triều Tiên. Đối
với Triều Tiên lập trường củng cố quốc phòng bằng vũ khí hạt nhân không thay
đổi còn về phía Mỹ qua từng thời kỳ Tổng thống thái độ và lập trường cũng thay
đổi. Vì vậy có thể thấy dưới thời kỳ ông Obama các chính sách của Mỹ đối với
Triều Tiên cũng khác hẳn so với người tiền nhiệm.
Đứng trước một đất nước mà Mỹ cho rằng đối địch với mình, Tổng thống
đã đưa ra các chính sách yếu ớt để đối phó với hoạt động thử nghiệm vũ khí hạt
nhân của Triều Tiên. Điều này đã tạo ra một khoảng trống cơ hội cho Triều Tiên
củng cố năng lực quốc phòng của mình bằng vũ khí hạt nhân. Điều này đã có tác
động tiêu cực không chỉ đối với Mỹ mà còn với đồng minh của mình là Hàn
Quốc và Nhật Bản. Lúc này khu vực Bắc Á đang trở nên phức tạp hơn bao giờ
hết khi mà các mối nguy hiểm tiềm tàng đến từ Triều Tiên đang làm cho cả Hàn
Quốc và Nhật Bản đang phải phụ thuộc rất nhiều về quốc phòng của Mỹ ngày
càng lo sợ hơn.
Tuy nhiên đến thời Tổng thống Trump các nhược điểm trong chính sách
của Tổng thống Obama đã được khắc phục phần nào với bằng chứng thuyết nhất
là hai cuộc họp thượng đỉnh giữa hai nước ở Singapore và Việt Nam. Mặc dù
không đi đến thành công nhưng đó cũng là một dấu ấn nổi bật trong quan hệ
ngoại giao giữa hai nước, đánh dấu mong muốn hợp tác giữa hai quốc gia. Với
dấu mốc đó, tân Tổng thống Joe Biden cần phải vượt qua và làm tốt hơn nữa.

55
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt
1. Anh Lê, Lê Hồng Hiệp (2015), “Chính sách của Mỹ đối với các “quốc
gia bất hảo””, Nghiên cứu Quốc tế,
http://nghiencuuquocte.org/2015/08/19/chinh-sach-cua-my-doi-voi-cac-quoc-
gia-bat-hao
2. Vương Phương Bình, “Lại bàn vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều
Tiên”, Nghiên cứu Quốc tế, số 59.
3. Khổng Hà (2017), “Lời giải nào cho cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều
Tiên?”, Công an Nhân dân, https://cand.com.vn/Binh-luan-quoc-te/Loi-giai-
nao-cho-cuoc-khung-hoang-hat-nhan-Trieu-Tien-i456872/
4. Thanh Hảo (2013), “Chi tiết các vụ thử hạt nhân của Triều Tiên”, Báo
VietNamNet, https://vietnamnet.vn/vn/the-gioi/chi-tiet-cac-vu-thu-hat-nhan-cua-
trieu-tien-109148.html
5. Hoa Huyền (2018), “Vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên: Công
phá... thế bế tắc”, Công an Nhân dân, https://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-
antg/Van-de-hat-nhan-tren-Ban-dao-Trieu-Tien-Cong-pha-the-be-tac-i490718/
6. Lê Thế Mẫu, Nguyễn Anh (2017), “Thế giới 25 năm sau Chiến tranh
lạnh: Một số nét nổi bật”, Tạp chí Cộng sản,
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/
2018/42862/the-gioi-25-nam-sau-chien-tranh-lanh--mot-so-net-noi-bat.aspx
7. Ngô Phương Nga (2005), “Vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên trong quan
hệ Mỹ - Trung”, Châu Mỹ ngày nay, số 4/2005.
8. Lê Thị Thu (2004), “Khủng hoảng hạt nhân lần thứ hai trên bán đảo
Triều Tiên và quan hệ Mỹ - Triều”, Châu Mỹ ngày nay, số 9/2004.
9. Cao Trí (2016), “Lịch sử phát triển vũ khí hạt nhân của CHDCND
Triều Tiên”, An ninh thế giới online, https://antg.cand.com.vn/Ho-so-mat/Lich-
su-phat-trien-vu-khi-hat-nhan-cua-CHDCND-Trieu-Tien-i404779/
10. Phó Thị Huyền Trang (2007), “Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều
Tiên”, Đại hội Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, https://123docz.net/document/6233392-van-de-hat-nhan-tren-ban-dao-
trieu-tien.htm

56
11. Thu Lan (2020), “Xóa bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân”, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, https://dangcongsan.vn/thoi-su/xoa-bo-hoan-toan-vu-
khi-hat-nhan-564285.html
12. Phan Ngọc Uyển (2005), “Về lập trường các bên trong vòng đàm phán
thứ tư về phi hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông
Bắc Á, số 3 (57) tháng 06/2005.
13. Đỗ Trọng Quang (2006), “Nhìn lại quá trình thương lượng Mỹ - Bắc
Triều Tiên về tên lửa và vũ khí hạt nhân”, Châu Mỹ ngày nay, số 08/2006.
II. Tiếng Anh
1. Jack David (2012), “Obama's 'Victory' with North Korea”, Hudson
Institute, https://www.hudson.org/research/8765-obama-s-victory-with-north-
korea
2. Daniel R. Depetris (2019), “A More Realistic and Restrained US Policy
toward North Korea”, 38North,
https://www.38north.org/2019/08/ddepetris081219
3. Nicholas Eberstadt (2018), “The Method in North Korea’s Madness”,
Commentary, https://www.commentarymagazine.com/articles/method-north-
koreas-madness/
4. Fred Fleitz (2018), “The Coming North Korea Nightmare – What
Trump must do to reverse Obama’s Strategic Patience”, Center for Security
Policy Press, https://www.amazon.com/Coming-North-Korea-Nuclear-
Nightmare/dp/1986282112
5. John Hayward (2017), “Clare Lopez: North Korean Crisis a Decades-
Long Failure of Political Will”, Breitbart.com,
http://www.breitbart.com/radio/2017/09/04/clare-lopez-north-korean-crisis-
decades-long-failure-political-will/
6. Kim Hyun (2017), “Comparing North Korea Policies of The Obama
and Trump Administrations”, Nanzan Review of American Studies Volume 39.
7. Cha Du Hyeogn (2021), “Prospects on Biden administration’s North
Korea policy: Issues, Pyongyang’s response, and policy implications for ROK”,
The Asan Institute for Policy Studies, https://en.asaninst.org/contents/prospects-
on-biden-administrations-north-korea-policy-issues-pyongyangs-response-and-
policy-implications-for-rok/
8. Hong Nack Kim (2010), “U.S. - North Korea Relations under the
Obama Administration: Problems and Prospects”, North Korean Review, 6(1).
57
9. Ankit Panda (2016), “A Great Leap to Nowhere: Remembering the US-
North Korea ‘Leap Day’ Deal”, The Diplomat,
https://thediplomat.com/2016/02/a-great-leap-to-nowhere-remembering-the-us-
north-korea-leap-day-deal/
10. Choe Sang-Hun (2009), “North Korea Calls U.S. Policy ‘Unchanged’
Under Obama”, The New York Times.
11. Yoon Young-Kwan (2015), “Rapprochements with Rogue States”,
Project Syndicate, https://www.project-syndicate.org/commentary/obama-
foreign-policy-iran-iraq-north-korea-by-yoon-young-kwan-2015-08
12. Daniel Wertz, Matthew McGrath, Scott LaFoy (2018), “North Korea's
Nuclear Weapons Program”, The National Committee on North Korea,
https://www.ncnk.org/resources/publications/DPRK-Nuclear-Weapons-Issue-
Brief.pdf#footnoteref53_i6rk76w

58

You might also like