You are on page 1of 6

Câu 2.

Thầy/cô có suy nghĩ gì về vai trò của thiết bị công nghệ và phần mềm hỗ trợ
trong hoạt động dạy học và giáo dục có ứng dụng công nghệ thông tin?
TRẢ LỜI
Học liệu số và thiết bị công nghệ có vai trò rất quan trọng bởi đây là “nguồn tiềm lực”
quan trọng để khai thác và sử dụng trong dạy học, giáo dục. Thực tế cho thấy, khó có thể
tách rời khi nói về vai trò của thiết bị công nghệ và học liệu số trong dạy học, giáo dục.
Bên cạnh đó, cần thấy rằng thiết bị công nghệ và học liệu số chính là thành phần của
thành tố thiết bị dạy học và học liệu nói chung, vì thế có thể phân tích vai trò của chúng
từ cách tiếp cận tổng thể sau:
a) Tác động đến các thành tố của quá trình dạy học, giáo dục
Các thành tố xét theo quá trình có thể đề cập: mục tiêu, nội dung, phương pháp và kĩ
thuật, phương tiện và học liệu, phương pháp và công cụ kiểm tra đánh giá,... Học liệu số
và thiết bị công nghệ tác động một cách toàn diện đến từng thành tố này, có thể phân tích
một số nội dung sau
- Tác động đến mục tiêu dạy học
Mục tiêu dạy học bậc phổ thông ở Việt Nam hiện nay là phát triển các PC và NL ở HS
được quy định trong chương trình GDPT 2018. Việc sử dụng thiết bị công nghệ và học
liệu số để triển khai hoạt động học không những giúp HS phát triển NL đặc thù của môn
học, các NL chung mà còn góp phần phát triển NL tin học. Qua đó, HS có thêm cơ hội
thích nghi và hội nhập với thời kì cách mạng công nghiệp 4.0. Cũng cần thấy, khi máy vi
tính, thiết bị di động thông minh chưa được đưa vào quá trình học tập thì người học chủ
yếu làm việc với học liệu trong SGK hoặc các tài liệu do GV biên soạn. Khi máy vi tính
và Internet đã phổ biến, người học có điều kiện chủ động tiếp xúc với những nguồn dữ
liệu đồ sộ, đa chiều trong học liệu số. Cơ hội này cũng tạo thách thức cho người học đứng
trước các lựa chọn, sàng lọc các kiến thức, dữ liệu, hoạt động phù hợp cho mục tiêu học
tập. Thách thức đó cũng chính là cơ hội để người học hình thành, phát triển PC trách
nhiệm, NL tự chủ và tự học. Bên cạnh đó, khi GV kết hợp tổ chức hoạt động học trên lớp
với việc giao nhiệm vụ học tập tại nhà có ứng dụng thiết bị công nghệ và học liệu số thì
HS có thêm cơ hội chủ động phát triển được nhiều thành phần/thành tố của mỗi NL
chung như NL tự chủ và tự học, NL giải quyết vấn đề và sáng tạo trong quá trình tự học
đó.
Hiện nay, nhiều yêu cầu cần đạt trong chương trình môn học, hoạt động giáo dục đòi hỏi
GV sử dụng thiết bị công nghệ và học liệu số. Theo đó, nếu bối cảnh nhà trường không
có điều kiện cho HS tiến hành thí nghiệm thực thì việc sử dụng phần mềm thí nghiệm ảo
hoặc học liệu số dạng video là rất cần thiết để có thể giúp HS đáp ứng mục tiêu dạy học
mà chương trình môn học, hoạt động giáo dục đã đặt ra. Nhờ học liệu số, khi HS khai
thác phù hợp nghĩa là không chỉ phát triển về tri thức mà còn phát triển các kĩ năng sống
có liên quan: kĩ năng lựa chọn và khai thác thông tin. Bên cạnh đó, khi làm quen, tiếp cận
và sử dụng các thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục, HS sẽ có cơ hội để thực hành,
rèn luyện một cách trực tiếp hay mô phỏng, đồng thời đây cũng là cách để chuẩn bị cho
HS về tư duy làm việc khoa học, công nghệ để thay đổi cả suy nghĩ, định hướng thích
ứng với các yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Nói cách khác, thiết bị
và công nghệ góp phần thực thi nhằm đạt được mục tiêu dạy học, giáo dục thông qua các
hoạt động học hay chuỗi hoạt động học phù hợp.
- Tác động đến nội dung dạy học
Theo chương trình GDPT 2018, nội dung trong SGK chỉ đóng vai trò tham khảo. GV có
thể chủ động xây dựng nội dung dạy học phù hợp từ nhiều nguồn học liệu khác nhau: học
liệu truyền thống trên trong SGK, hay học liệu số được chia sẻ trên Internet hoặc từ đồng
nghiệp nhất là các kho học liệu số hữu dụng, các học liệu số được kiểm duyệt và khuyến
khích dùng chung. Từ các nguồn học liệu đó, GV sẽ chủ động thiết kế, biên tập thành các
dạng học liệu số mới đa dạng hơn, sinh động hơn, phù hợp với nội dung dạy học và nội
dung kiểm tra, đánh giá được xác lập.
Đối với hoạt động học của HS, học liệu số có thể được coi là nguồn cung cấp thông tin
vô tận. Nó bao gồm các học liệu số mà GV cung cấp và học liệu số mà HS tự tìm kiếm,
tự lưu trữ để tham khảo phục vụ cho mục tiêu tìm hiểu, khám phá và vận dụng. Giúp
người học có thể chủ động tiếp cận không giới hạn nguồn tài nguyên ở lĩnh vực mà họ
đang học tập và nghiên cứu, từ đó khai thác và thúc đẩy việc phát triển NL ở các lĩnh vực
người học quan tâm, hứng thú cũng như có tiềm lực, tố chất. Thực tế cho thấy thiết bị
công nghệ dần trở nên quen thuộc với HS, không chỉ tiếp xúc ở trường học mà HS còn
làm quen, tìm hiểu ở nhiều nơi khác nhau. Điều này sẽ giúp HS có thể tìm hiểu chính
mình khi khai thác các nội dung có liên quan về tự đánh giá, tự nhận thức thông qua các
tính năng, giá trị của học liệu số và thiết bị công nghệ. Đây là cơ hội để nhận diện bản
thân: hứng thú, tính cách, nhu cầu, ước mơ... và định hướng kế hoạch phát triển chính
mình. Trên cơ sở này, nội dung dạy học, giáo dục sẽ được HS chủ động tìm kiếm, sở hữu
để khám phá, làm chủ và vận dụng một cách hiệu quả.
- Tác động đến phương pháp và kĩ thuật dạy học
Trong dạy học phát triển NL, HS là chủ thể của hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng và
chuyển hóa kiến thức, kĩ năng thành NL. Vì vậy, xét góc độ cách thức tổ chức dạy học,
để giúp HS phát triển NL thì GV cần sử dụng các phương pháp dạy học (PPDH) tích cực
hóa hoạt động của HS như dạy học trực quan, dạy học khám phá, dạy học hợp tác, dạy
học giải quyết vấn đề...
Học liệu số và thiết bị công nghệ tạo thêm cơ hội cho GV chủ động lựa chọn PPDH, lựa
chọn cách thức triển khai hoạt động học mà ở đó HS là chủ thể của hoạt động. Chẳng
hạn, với sự phối hợp giữa thiết bị trình chiếu đa phương tiện với học liệu số dạng video
thí nghiệm ảo, hình ảnh động, GV sẽ thuận lợi trong sử dụng PPDH trực quan hoặc dạy
học khám phá, thay thế cho phương pháp thuyết trình, diễn giảng. Nhờ đó, HS sẽ tiếp cận
thế giới tự nhiên một cách “trực quan” hơn, hấp dẫn hơn để dễ dàng nhận thức, khám phá
và giải quyết được vấn đề.
Nhìn chung, mỗi PPDH thường được triển khai qua bốn bước theo tiến trình chung. Thiết
bị công nghệ cùng tính đa dạng của học liệu số sẽ thể hiện ưu thế khác nhau trong hỗ trợ
đối với mỗi bước triển khai PPDH cụ thể. Chẳng hạn, thiết bị trình chiếu các học liệu số
dạng hình ảnh, video, câu hỏi sẽ rất hiệu quả trong bước chuyển giao nhiệm vụ học tập
của PPDH trực quan. Sử dụng thiết bị công nghệ và học liệu số giúp thể hiện thí nghiệm
ảo sẽ hiệu quả trong bước HS thực hiện nhiệm vụ học tập theo dạy học khám phá, dạy
học giải quyết vấn đề. Ở bước tổ chức thảo luận, việc trình chiếu các sản phẩm học tập
dạng học liệu số khác nhau cũng dễ dàng được triển khai bởi các thiết bị công nghệ phù
hợp (như máy vi tính với MS PowerPoint hoặc máy vi tính kết nối Internet cùng phần
mềm Padlet). Ở bước đánh giá, học liệu số phục vụ kiểm tra đánh giá có thể được trình
chiếu trực tiếp tại lớp học hoặc thể hiện qua công cụ trực tuyến. Bên cạnh đó, thiết bị
công nghệ phù hợp như điện thoại thông minh, máy tính bảng còn hỗ trợ GV (và cả HS)
cùng phân tích, đánh giá, phản hồi nhanh từ kết quả trả lời, làm bài của cá nhân HS và tập
thể HS.
Trong quá trình triển khai PPDH cùng với việc sử dụng thiết bị công nghệ, GV sẽ giảm
được thời gian ghi bảng, thay vào đó, có thể quan sát, kịp thời hỗ trợ, điều chỉnh hoạt
động của HS, nhất là ở bước HS thực hiện nhiệm vụ học tập, báo cáo, thảo luận.
- Tác động đến phương tiện dạy học và học liệu dạy học, giáo dục
Về bản chất, thiết bị công nghệ và học liệu số cũng là phương tiện và học liệu dạy học,
giáo dục. Như vậy, chính thiết bị công nghệ và học liệu số có vai trò làm đa dạng hoá,
hiện đại hóa các phương tiện và học liệu dạy học, giáo dục, từ đó giúp cho việc dạy học,
giáo dục trở nên “trực quan” hơn, hứng thú và hiệu quả hơn.
- Tác động đến quá trình kiểm tra, đánh giá
Việc tổ chức kiểm tra đánh giá trong dạy học phát triển phẩm chất, năng lực đòi hỏi đa
dạng về hình thức, phương pháp, công cụ đánh giá. Các thiết bị công nghệ và học liệu số
dạng câu hỏi, bài tập kiểm tra đánh giá góp phần giải quyết yêu cầu trên. Nói cách khác,
sự đa dạng của các thiết bị công nghệ và học liệu số sẽ thích ứng với sự đa dạng về hình
thức đánh giá, phương pháp và công cụ đánh giá. Chẳng hạn, trong lựa chọn phương
pháp kiểm tra đánh giá, dạng học liệu số là câu hỏi sẽ phù hợp với phương pháp hỏi - đáp
và phương pháp kiểm tra viết, dạng học liệu số là bài tập sẽ chủ yếu phù hợp với phương
pháp kiểm tra viết. Để đánh giá PC thông qua hành vi, bên cạnh sự quan sát trực tiếp, GV
còn có thể sử dụng dữ liệu của thiết bị camera ghi lại hình ảnh hoạt động của HS tại lớp,
sử dụng các dữ kiện được ghi nhận trên hệ thống hỗ trợ học tập khi HS tham gia trực
tuyến. Để có kết quả kiểm tra, khảo sát nhanh, đồng thời phân tích khách quan và lưu trữ
dễ dàng thì GV có thể sử dụng máy vi tính hoặc thiết bị di động thông minh có phần mềm
thân thiện như Google Forms, Quizziz.
Hai trong số những yêu cầu quan trọng của quá trình kiểm tra đánh giá là bảo đảm tính
khách quan và nhanh chóng có sự phản hồi kết quả. Sự kết hợp hợp lí giữa một số thiết bị
công nghệ và học liệu số cùng với đội ngũ nhân sự tinh gọn cũng sẽ cho cho phép tiến
hành quá trình kiểm tra, đánh giá hay các kì thi đáp ứng hai yêu cầu trên. Việc tổ chức
các kì thi đánh giá NL HS phổ thông trên máy vi tính gần đây ở Việt Nam đã chứng minh
vai trò đắc lực của thiết bị công nghệ và học liệu số trong kiểm tra, đánh giá.
b) Tạo điều kiện và kích thích GV tổ chức hoạt động dạy học, giáo dục đa dạng, hiệu quả
- Thiết bị công nghệ và học liệu số tạo động lực, kích thích người dạy khai thác ý tưởng
dạy học mới, thiết kế kế hoạch bài dạy hiện đại với sự kết hợp giữa CNTT, học liệu số và
yêu cầu khác có liên quan đến thiết bị công nghệ. Chẳng hạn với một ý tưởng sư phạm tổ
chức kế hoạch bài dạy thành một “game show”- trò chơi giáo dục liên hoàn, nếu không
có học liệu số hay thiết bị công nghệ, GV khó có thể thực hiện một cách khả thi với các
điều kiện về thời gian, môi trường, thiết bị dạy học... không thay đổi. Hay ý tưởng sư
phạm tổ chức dạy học bằng hình thức thi đua các nhóm, đội hoặc du lịch qua từng chặng
nhờ vào thiết bị công nghệ và học liệu số, GV cùng HS sẽ có thể cùng đầu tư, cùng tương
tác một cách hiệu quả. Song song đó, học hiệu số và thiết bị công nghệ còn góp phần hỗ
trợ cho việc số hóa các nguồn học liệu, tài nguyên phục vụ dạy học, giáo dục theo các ý
tưởng, kịch bản sư phạm đã được đầu tư.
- Thiết bị công nghệ còn hỗ trợ người dạy triển khai các ý tưởng sư phạm để tổ chức dạy
học, giáo dục đa dạng theo hình thức dạy học trực tuyến, dạy học bán trực tuyến kết hợp.
Thực tế cho thấy, các hình thức dạy học này đã và đang trở thành yêu cầu thực tiễn đáp
ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của người học, cũng như thực hiện trong bối cảnh có
thể xảy ra thiên tai, bất thường cho nên thiết bị công nghệ và học liệu số trở thành “tài
nguyên, công cụ” quan trọng và thiết yếu để có thể thực hiện dạy học, giáo dục nhằm đáp
ứng nhu cầu thực tiễn, phát triển người học. Ngoài ra, có thể hỗ trợ việc kiểm tra, đánh
giá và tổ chức công tác kiểm tra, thi cử trong dạy học, giáo dục một cách thuận lợi và đạt
hiệu quả trong những điều kiện khó khăn về giãn cách xã hội.
Thiết bị công nghệ và học liệu số còn tạo điều kiện để GV chủ động chọn lựa phương
pháp, kĩ thuật dạy học, hình thức dạy học, công cụ kiểm tra, đánh giá kết quả học tập,
giáo dục đáp ứng yêu cầu của dạy học, giáo dục phát triển NL, PC. Ví dụ với sự phối hợp
giữa thiết bị trình chiếu đa phương tiện và học liệu số có liên quan như video thí nghiệm
ảo, hình ảnh động... GV sẽ kết hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học trực quan, trải
nghiệm gây hiệu ứng với HS. Các thiết bị công nghệ sẽ giảm thời gian thao tác trực tiếp
như: ghi bảng, sắp xếp các đồ dùng thực để có thể cùng HS thực hành, lấy kết quả phản
hồi, lưu trữ và tái phân tích để rút kinh nghiệm. Hay đòi hỏi đa dạng hóa về phương thức
và công cụ kiểm tra đánh giá sẽ khả thi khi có nguồn học liệu phong phú để lựa chọn, sắp
xếp; thiết bị công nghệ kết hợp phần mềm cho phép thiết kế các công cụ đánh giá khách
quan và phản hồi kết quả nhanh chóng mà việc đánh giá NL trên máy tính là một minh
chứng. Thiết bị công nghệ còn hỗ trợ GV kết hợp dữ liệu quan sát trực tiếp với dữ kiện
ghi hình, thu âm cả học trực tiếp và trực tuyến để làm rõ, đối chiếu nhằm đánh giá không
chỉ về NL mà còn thái độ của HS khách quan, thuyết phục.
- Thiết bị công nghệ và học liệu số còn góp phần hỗ trợ, cải tiến các phương pháp dạy
học, giáo dục truyền thống cũng như thay thế khi cần thiết, phù hợp nhất là trong điều
kiện tự nhiên, các bối cảnh khó khăn của dịch bệnh, các tác động khó kiểm soát khác từ
bối cảnh ảnh hưởng đến việc dạy học, giáo dục để triển khai dạy học, giáo dục một cách
chủ động. Cụ thể, có học liệu số và thiết bị công nghệ, có thể dạy học trong các điều kiện
khác nhau với thời gian hạn định vẫn đảm bảo các yêu cầu cần đạt và mục tiêu mong đợi
ở người học. Khi có học liệu số, thiết bị công nghệ, thời gian đầu tư trực tiếp để chuẩn bị
học liệu và đồ dùng dạy học sẽ giảm đi, thay vào đó là đầu tư để làm chủ thiết bị công
nghệ, đánh giá, lựa chọn và sử dụng học liệu số phù hợp. Mỗi GV sẽ có thể khai thác học
liệu số và thiết bị công nghệ theo định hướng sư phạm để hoạt động trên lớp dành thời
gian tối đa, điều kiện tối đa cho HS thể hiện và rèn luyện bản thân.
c) Góp phần phát triển hứng thú học tập và kĩ năng của người học
- Thiết bị công nghệ và học liệu số góp phần “trực quan hoá” các dữ liệu học tập cùng với
các tiện ích của chúng đã tạo thêm sự hứng thú học tập, kích thích ý tưởng và hoạt động
khám phá, sáng tạo của người học. Ngoài ra, còn giúp người học có động lực và trách
nhiệm hơn trong việc tự học để hoàn thiện chính mình, góp phần phát triển khả năng
người học nói chung và khả năng công nghệ trong việc khai thác học liệu số và thiết bị
công nghệ. Nhờ học liệu số, khi HS khai thác phù hợp nghĩa là không chỉ phát triển về tri
thức mà còn phát triển các kĩ năng sống có liên quan: kĩ năng lựa chọn và khai thác thông
tin. Bên cạnh đó, khi làm quen, tiếp cận và sử dụng các thiết bị công nghệ trong dạy học,
giáo dục, HS sẽ có cơ hội để thực hành, rèn luyện một cách trực tiếp hay mô phỏng, đồng
thời đây cũng là cách để chuẩn bị cho HS về tư duy làm việc khoa học, công nghệ để thay
đổi cả suy nghĩ, định hướng thích ứng với các yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ 4.0.
Thiết bị công nghệ và học liệu số giúp người học có thể chủ động tiếp cận không giới hạn
nguồn tài nguyên ở lĩnh vực mà họ đang học tập và nghiên cứu, từ đó khai thác và thúc
đẩy việc phát triển NL ở các lĩnh vực người học quan tâm, hứng thú cũng như có tiềm
lực, tố chất. Thực tế cho thấy thiết bị công nghệ dần trở nên quen thuộc với HS, không
chỉ tiếp xúc ở trường học mà HS còn làm quen, tìm hiểu ở nhiều nơi khác nhau. Điều này
sẽ giúp HS có thể tìm hiểu chính mình khi khai thác các nội dung có liên quan về tự đánh
giá, tự nhận thức thông qua các tính năng, giá trị của học liệu số và thiết bị công nghệ.
Đây là cơ hội để nhận diện bản thân: hứng thú, tính cách, nhu cầu, ước mơ... và định
hướng kế hoạch phát triển chính mình. Hoặc kho học liệu số và các thành phần khác có
liên quan đến hệ sinh thái giáo dục với cầu nối là các thiết bị công nghệ sẽ tạo điều kiện
để HS tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu...
Cụ thể, với các ứng dụng thiết bị công nghệ, quá trình tương tác của người học với sản
phẩm của trí tuệ nhân tạo (AI), ứng dụng Robot trong dạy học, công nghệ nhận diện
khuôn mặt (Face recognition), tâm trắc (Biometrics), nhận diện cảm xúc (Emotive
recognition) sẽ tạo ra cơ hội tiếp cận thông tin mới, đa dạng đối với học tập cá nhân hóa.
Thực tế ảo (VR)/thực tế tăng cường (AR)/thực tế hỗn hợp (MR)/thực tế tạo ảnh (CR) sẽ
tạo ra các cơ hội tương tác trong không gian vật chất/ảo, đa chiều, tăng khả năng tiếp cận,
xử lí thông tin; nới rộng không gian, môi trường học tập; phát triển năng lực tư duy sáng
tạo, giải quyết vấn đề. VR và AR sẽ hữu ích đối với những môn học cần nghiên cứu các
mô hình phức tạp như giải phẫu cơ thể người hay thiết kế xây dựng. HS có thể tiếp cận
với đồ họa 3D trực quan thay vì những hình vẽ 2D nhàm chán trong sách hỗ trợ dạy và
học đạt đến hiệu quả tích cực.
Thiết bị công nghệ và học liệu số còn góp phần làm đa dạng các hình thức tương tác
trong hoạt động của HS: tương tác giữa HS - HS, HS - GV, HS - cộng đồng. Các tương
tác này tạo cơ hội phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác bên cạnh các phẩm chất và
năng lực đã được xác định trong chương trình GDPT 2018.

You might also like