You are on page 1of 8

Vtht17A

Phẫu thuật tim : Lịch sử ngắn


Một vài thành tựu vĩ đại trong khoa học y học có thể là những thành tựu trong phẫu thuật tim. Ví dụ
thành công đầu tiên đc tiến hành trong năm 1896 bởi bác sĩ Ludwig Rehn ( Đức ), người đã phẫu thuật 1
vết thương dao đâm vào thất phải. Kỹ thuật mổ tim hở bản thân nó đã tồn tại từ năm 1950, trong khi đó
phẫu thuật bắt cẩn bắt đầu từ giữa năm 60. Năm 1980, 2/3 những người nhận tim cấy ghép có thể sống
trên 5 năm nữa. Hiện nay, phẫu thuật tim đã được tự động hóa: vết cắt vào tim đã được giảm tối đa và
thời gian hồi phục của bệnh nhân từ 6 tháng còn vài tuần.

1 trong những người tiên phong trong lĩnh vực phẫu thuật tim là bác sĩ Dwight Harken, 1 quân y của mỹ
phục vụ trong thế chiến thứ 2. Ban đầu , ô ấy thực hiện trên động vật để nâng cao kỹ năng, di chuyển
mỗ trên người lính từ chiến trường Châu Âu với viên đạn kẹt trong tim của họ.Việc đẩy viên đạn ra dẫn
đến cái chết, nhưng Harken phát triển 1 kỹ thuật cho phép ô ấy cắt vào trong thành 1 trái tim đang đập
và thành công lấy viên đạn ra. Theo thời gian, ngày càng thêm nhiều bệnh nhân sống sót, chứng tỏ rằng
kỹ thuật này thật sự có thể mổ trên tim người.

Kỹ thuật mổ tim đóng là 1 bước tiến tiếp theo trong sự phát triển mổ tim. Kỹ thuật đóng tim ( hay còn
gọi mổ tim mù ) là trái tim không cần phải được cắt mở ra và sau đó đóng lại. Kỹ thuật này được thực
hiện bằng cách đưa 1 ngón tay hay 1 con dao đi xuyên qua vào trong van 2 lá qua 1 vết cắt trên nhĩ trái
để loại bỏ mảnh mô. Sau những nỗ lực thất bại ban đầu, kỹ thuật Harken dần được cải tiến, và cuối cùng
thủ tục đã thực hiện an toàn. Các bệnh viện khắp thế giới bắt đầu sử dụng kỹ thuật này.

Tuy nhiên, vẫn còn 1 vấn đề quan trọng cần đc giải quyết nếu mổ tim muốn phát triển xa hơn nữa. Phẫu
thuật viên phải có khả năng làm trên 1 trái tim mở có điều là bn k chảy máu đến chết. Dừng tuần hoàn
tạm thời sẽ đưa cho bác sĩ khoảng 4 phút để thực hiện sự can thiệp của họ; tuy nhiên, theo sau đó là sự
thiếu oxy cho não là then chốt, kết quả là tổn thương não. Phẫu thuật viên người Cannada Bill Bigelow
bắt đầu tìm 1 giải pháp. Làm thí nghiệm trên các con chó, ô ấy cho thấy rằng hạ nhiệt độ cơ thể bệnh
nhân, cơ thể và não tiếp tục chức năng khoảng nhiều hơn 6 phút trong 1 mức độ giảm oxy máu. Điều
này đc bik như là “ sự giảm nhiệt độ gần mức nguy hiểm “

Năm 1952, phẫu thuật mở tim được cố gắng làm cho lần đầu tiên ở ĐH Minnesota. Cuộc mổ trên 1 bé
gái 5 tuổi đc sinh ra với 1 lỗ hõm ở ngay tim được thực hiện bởi bác sĩ Walton Lillehci và BS John Lewis.
Đầu tiên, nhiệt độ bn được giảm đến 81 độ F ( 27,2 độ C ). Thứ hai, khoảng 10 phút sau đó, Lillehei và
Lewis làm cho dừng dòng máu, mổ để mở trái tim cô bé và khâu lại cái hõm. Cuối cùng , bé gái được
nhúng trong nước ấm và nhiệt độ cô gái trở lại bth. Tim của cô gái hoạt động 1 cách toàn diện vào lần
đầu tiên.

Nhưng điều gì được làm cho bệnh nhân mak trái tim của họ đã bị hư hại vượt ngoài khả năng phẫu thuật
và duy nhất có 1 giải pháp là 1 trái tim mới ? Sự thành công trong ghép thận thực hiện năm 1063, nên tại
sao tim lại không thể ? Năm 1967 ở Nam Phi, BS Christiaan Barnard trở nên nổi tiếng khi ô ấy ghép 1 trái
tim của 1 phụ nữ trẻ vào 1 người đàn ông trung niên. Tuy nhiên, mặc dù sử dụng thuốc để ngăn cản sự
thải ghép tim do cơ thể, bệnh nhân sau đó chết.

Vấn đề phức tạp trong thải ghép mô vẫn còn lại xuyên suốt những năm 1970. Một cái khám phá của BS
Norman Shumway ( USA) ở vịnh nhỏ của Na-Uy sẽ làm thay đổi hoàn toàn trong PT cấy ghép.
Cyclosporine, tìm thấy trong nấm bào tử phát triển ở vịnh, sẽ sớm được sử dụng trong các bệnh viện
khắp thế giới trong việc kiểm soát sự thải ghép cơ quan mak không có sự xóa bỏ tất cả sức đề kháng dẫn
đến nhiễm trùng

Việc tiên lượng cho bệnh nhân ghép tim có 1 cải thiện vĩ đại trong 20 năm qua. Tỉ lệ sống trong 5 năm
cho bệnh nhân là 71,2% cho nam và 66,9% cho nữ (2006). Năm 2007 Tony Huesman trở thành bệnh
nhân ghép tim sống lâu nhất, trong khi Kelly Perkins, 1 người ghép tim nổi tiếng khác, thường xuyên leo
núi khắp thế giới để quảng cáo nhận thức tích cực trong việc hiến cơ quan. 1 ví dụ khác, Edward
Daunheimer, người nhận quả tim của anh ấy năm 1997 ở tuổi 65 ( 1 cái tuổi trên giới hạn cho ghép tim)
đã sống 1 cách lâu với 1 cuộc sống khỏe mạnh cho 12 năm với tim anh ấy, khác với việc mak thống kê đã
nói trong tài liệu

Tuy nhiên, 1 vài thành tựu có 1 vài hạn chế. Thật sự, có hơn 2 triệu người mỗi năm đều biểu hiện suy tim
sung huyết nói riêng ở Mỹ (2001), nhưng chỉ với 2500 quả tim hiến có sẵn mỗi 1 năm, hang ngàn người
thì rời khỏi trong thất vọng cho 1 trái tim hiến tặng

Vắc xin thủy đậu

1 trong những thành tựu vĩ đại của thế kỷ 20 trong y học là loại bỏ toàn cầu bệnh thủy đậu. Thủy đậu là
1 trong những căn bệnh tàn phá được biết đến cho nhân loại. Năm 1867, nó được đánh giá bởi Cơ quan
sức khỏe thế giới (WHO) là 2 triệu người đã chết vì nó trong năm đó.

Thủy đậu được gây ra bởi virus variola và là được truyền bệnh thường nhất bằng cách hít phải con virus.
Bệnh có thời kỳ ủ bệnh từ 7 đến 17 ngày, sau đó triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Triệu chứng ban đầu là
giống như cúm. 1 đặc trưng ý nghĩa của bệnh là sự phát triển các nốt phồng ở phần thân trên cở thể,
điều đó cuối cùng là đóng vảy lên và để lại vết sẹo khi vảy biến mất. Khoảng 30% người nhiễm chết,
thường trong 2 tuần khi triệu chứng xuất hiện.

Cố gắng đầu tiền trong việc kiểm soát bệnh là sử dụng 1 kỹ thuật được biết là sự chủng đậu (
variolation). Mô vảy khô từ bệnh nhân được sử dụng tiêm có mục đích vào 1 người trẻ. Trong những
người đc tiêm, 1% bị chết, ít hơn rất nhiều so với 30% người chết bởi nhiễm theo cách thông thường.
Mặc dù có rủi ro, sự chủng đậu ( variolation ) vẫn còn đc sử dụng trong 1 vài cộng đồng tách biệt cho
đến gần đây

Tuy nhiên, 1 sự khám phá ra vắc xin bởi Edward Jenner năm 1796 đã đánh dấu 1 bước tiến lớn trong
việc kiểm soát bệnh. Vắc xin quản lý sự chuẩn bị rằng cho phép cơ thể phát triển sức đề kháng với bệnh
mak k có bị phơi nhiễm nó. Bằng cách lây nhiễm cho trẻ em bệnh đậu mùa của súc vật, 1 bệnh tương đối
yếu, Jenner tìm thấy là họ biểu hiện sự miễn nhiễm với đậu mùa. Năm 1853, những trẻ sơ sinh ở Vương
quốc Anh được yêu cầu bởi luật là được tiếm vắc xin chống đậu mùa, mặc dù việc sử dụng vắc xin không
phải luôn luôn có hiệu quả.

Những tiến bộ xa hơn nữa năm 1920 với sự phát triển vắc xin khô ở Pháp và Hà Lan. Việc này có thêm
hiệu quả nhưng lại khó khan trong việc dự trucx trong khí hậu nóng. 1 sự bùng nổ của đậu mùa ở TP
New York năm 1947 dẫn đến sự phát triển 1 kỹ thuật làm lạnh khô qua đó vắc xin được dự trữ khoảng 1
tháng mak k cần ướp lạnh, thậm chí trong khí hậu nhiệt đới.
Năm 1966, WHO đặt ra mục tiêu trong 10 năm cho sự loại bỏ hoàn toàn đậu mùa trong toàn cầu. Nguồn
cung cấp đáng kể được đóng góp cho sự phát triển máy móc cho báo cáo và kiểm tra bệnh. Nâng cao
khoa học kỹ thuật và vắc xin tốt hơn cũng giúp.

Năm 1980, WHO tuyên bố 1 cách chính thức về việc loại trừ đậu mùa toàn cầu. Ca nhiễm tự nhiên cuối
cùng xảy ra được báo cáo năm 1977, Somalia. Người chết cuối cừng ở Vương quốc Anh năm 1978, sau
khi sự thoát virus từ phòng nghiên cứu. Đây là lần đầu tiên bệnh truyền nhiễm ở người được loại bỏ
hoàn toàn. Đậu mùa không còn là bệnh giết người lâu năm.

Đậu mùa có 1 số đặc trưng riêng biệt mak làm cho nó có thể được loại bỏ. Triệu chứng của nó phát triển
nhanh chóng, làm cho người nhiễm nhận thức được bệnh ở giai đoạn đầu và giảm thiểu khả năng phát
tán vô ý của bệnh cho người khác. Bởi vì nó gần như quá đặc biệt cho người, có rất ít khả năng của đậu
mùa tồn tại trong động vật gây tái nhiễm cho người. Tác dụng hiệu lực của vắc xin cũng là 1 yếu tố cần
thiết. Cuối cùng, mức độ chết cao từ bệnh làm cho nó dễ dàng đạt được đồng ý toàn cầu trong sự loại
bỏ nó

Mặc dù đậu mùa đã dừng giết người, nó để lại 1 tiềm năng nguy hiểm cho nhân loại. Dù khả năng sống
sót của virus trong động vật rất thấp, nó vẫn có thể. Đó là sự phóng thích tình cờ các vật liệu được sử
dụng làm chủng đậu cho các cộng đồng vùng xa. Tuy nhiên, sự khiếp sợ đè nặng nhất là các kho dự trữ
virus variola để dành cho các nghiên cứu có mục đích có thể 1 vài ngày được sử dụng như 1 tác nhân
sinh học cho chiến tranh. Đề xuất năm 2003, là tiêm phòng cho các nhân viên y tế ở vài nước chống lại
khả năng đó cho thấy rằng tiềm năng chết chóc của bệnh đậu mùa để lại vẫn còn mạnh như trước.

Chăm sóc sức khỏe


Vai trò của việc chăm sóc ban đầu trong việc phòng ngừa bệnh

Tầm quan trọng của chăm sóc sức khỏe ban đầu là ý nghĩ của y học phòng ngừa, tin rằng bệnh hoặc sự
tàn tật nên được ngăn chặn tốt hơn là chữa. Làm sao đưa cái điều này vào thực tiễn là 1 điều mak được
các bác sĩ đa khoa quan tâm. Trên cơ sở hoàn toàn về kinh tê, cái lợi ích liên quan đến y học dự phòng là
rất lớn. Đầu tiên, kinh phí cho sự chữa bệnh là không cần yêu cầu. Ngoài ra, cá nhân mỗi người vẫn có
thể tiếp tục làm việc và đóng góp cho kinh tế. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh có thể được ngăn ngừa.
Ví dụ, bao gồm các bệnh nhiễm trùng như thương hàn, nguyên nhân là do các thức ăn bẩn. Tuy nhiên,
các bệnh như ĐTĐ type 2 có thể đc ngăn ngừa rộng rãi. Với sự già hóa dân sô trong các nước phát triển,
việc quan trọng là sự ngăn ngừa nên có 1 ưu tiên cao trong chăm sóc sức khỏe ban đầu.

3 khía cạnh của sự ngăn ngừa cần được đưa vào báo cáo bởi các bác sĩ khi các dịch vụ liên quan mak họ
cung cấp. Đầu tiên, sự phòng ngừa đầu tiên là cải thiện sức khỏe và ngăn ngừa bệnh, bao gồm chương
trình tiêm vắc xin và cố gắng đảm bảo 1 môi trường an toàn cho mỗi cá nhân. Thay đổi lối sống ( cung
câp lời khuyên và động viên bệnh nhân làm sao thay đổi lối sống tốt hơn ) là 1 công cụ để cải thiện sức
khỏe ở mức độ cá nhân. Các trung tâm cai thuốc là 1 vd tốt.

Ở mức độ cộng đồng phổ cập kiến thức sử dụng để tăng cường nhận thức , như là dán các poster ăn
uống lành mạnh. Sự phòng ngừa thứ 2 là liên quan với sự nhận ra bệnh sớm và cung cấp điều trị kịp thời
để giảm thiểu thiệt hại. Điều nay bao gồm làm các chương trình tầm soát, nơi các xét nghiệm các bệnh
đặc trưng được thực hiện 1 cách thường quy.
Thứ 3 sự phòng ngừa là sự giảm các ảnh hưởng của bệnh và tàn tật trên bệnh nhân, bao gồm giảm sự
đau đớn của bệnh nhân bằng cách sử dụng thích hợp các thuốc giảm đau hoặc đẩy mạnh tự quản lý, tự
quản lý bệnh bởi chính bản thân bệnh nhân. 1 ví dụ tốt của sự tự quản lý là với bệnh nhân ĐTĐ.

Bác sĩ đa khoa cũng sử dụng chương trình tầm soat, là các xét nghiệm được thực hiện cho các bệnh đặc
trưng trong khoảng thời gian đều đặn.Chương trình có thể đem lại những lợi ích to lơn trong việc giảm
thiểu tác hại của bệnh. Khi sử dụng chung bệnh sử, trong đó có các thông tin bệnh nhân có khả năng
trong sự phát triển bệnh đặc trưng sử dụng dữ liệu từ hồ sơ bệnh nhân, nó rất hiệu quả về mặt kinh tế.
Chẩn đoán sớm, khi bệnh or triệu chứng được biết ở giai đoạn sớm, có nghĩa là bệnh đc chữa dễ hơn và
có thể đc chữa hoàn toàn trong 1 vài ca. Các bệnh được tầm soát là ung thư cổ tử cung, ung thư vú và
bệnh tim. Tuy nhiên, tầm soát lại k thích hợp cho tất cả các bệnh. Một vài xét nghiệm có thể có mức độ
dương tính giả cao- kết quả sai chỉ ra sự hiện của bệnh. Hơn nữa các xét nghiệm được yêu cầu để xác
nhận cái mak làm khó chịu bệnh nhân. Các xét nghiệm có thể mắc và đem lại ít kết quả nếu bệnh đó
hiếm gặp.Sự cẩn thận cần được đưa vào quyết định có nên thiết lập 1 chương trình tầm soát cho bệnh
đặc trưng.

Trong sự phát triển của thế giới, kết quả của 3 bệnh có liên quan đến hành vi có thể cung cấp những lợi
ích to lơn cho con người và tài chính. Đầu tiên là hút thuốc, gây nên cái chết qua ung thư phổi và bệnh
mạch máu như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Có bảng đánh giá là khoảng 100 triệu cái chết là do hút
thuốc trong thế kỷ 20 và cho rằng 2030 sẽ tiếp tục tăng đến hàng tỷ. Ăn quá nhiều thức ăn dầu mỡ và
ngọt và k tập thể dục là 1 trong những nguyên nhân của ĐTĐ.Theo WHO, ĐTĐ có khả năng là 1 trong
những đe dọa quan trọng cho cái chết con người trong thế kỷ 21, với 1 đề án tài chính tốn 192 tỷ đô
năm 2020 cho riêng Mỹ. Nếu chẩn đoán sớm, nó có thể đc giải quyết tương đối dễ dàng. Hành vi cuối
cùng là giảm sự lạm dụng cồn. Nghiên cứu cho thấy sự lạm dụng cồn có thể là nguyên nhân cho sự nhập
viện lên đến 5% và tác động 1 cách đáng kể trên bệnh tim, ĐTĐ và suy gan. Chuyên gia y tế nhận ra rằng
trong 1 thời gian dài là sức khỏe dân số được tăng cường bằng cách phòng ngừa. Với sự già hóa dân số,
điều đó quan trọng để đưa ra 1 kết luận tương tự bởi chính quyền trong sự phát triển thế giới

Tương lai của y học

A Y khoa tái tạo và phục hồi

Bây giờ, cơ quan và mô từ người sống hiến được ghép để thay thế cho người bị suy hoặc hoại tử cơ
quan và mô đó. Tuy nhiên, trong vài ca nhu cầu cho sự thay thế nội tạng vướt quá xa sự cung cấp, xét
đến khía cạnh nơi mak chúng chỉ bán và trả giá bởi những người hiến nghèo khổ trong các nước tư bản
nghèo. Một phương pháp mới của sự thay thế nội tạng, sử dụng người hiến đã chết, đã được phát
triển. Được sử dụng thành công trong cuộc mổ để cung cấp cho bệnh nhân 1 khí quản mới. Quá trình
này thay thế DNA của cơ quan đc hiến, sử dụng tế bào gốc được sinh ra từ mô người nhận. Trong ca
thay thế khí quản nó tốn gần như 6 tiếng để hoàn thành. Bởi vì sự dời chỗ DNA, cơ thể người nhận nhận
ra khí quản dời chỗ giống như của cô ấy và không đào thải nó. Đầy là 1 sự phát triển lơn, đưa ra 1 tiềm
năng của sử dụng kỹ thuật này cho 1 cái tạng rỗng khác như phổi trong tương lai gần đây.

B Mô hình chấm dứt sự chênh lệch sức khỏe toàn cầu.

1 đứa trẻ sinh ra ở Thụy Điển thì có khả năng cao gấp 30 lần sống sót hơn 1 đứa trẻ ở Swaziland. Dù tỷ lệ
quốc gia giấu, sự chênh lệch nhau mức độ tử vong giữa giàu và nghèo, thành thị và nông thôn, có thể
cho thấy rằng sự giàu có của 1 quốc gia là mốt yếu tố quyết định xác định sự tử vong. Tuy nhiên, chứng
cứ hoàn toàn cho biết rằng sự tử vong bị ảnh hưởng bơi những yếu tố khác hơn giàu có của quốc gia. Cái
ví dụ nổi bật là sự so sánh giữa Mỹ và Cuba. Dù tình trạng cuộc sống của cả hai hầu như y hệt nhau, Mỹ
tốn 200 đô mỗi người ít hơn trong chăm sóc sức khỏe trong khi Cuba tốn gần như 4400 đô cho mỗi
người. Cooper và các cộng sự (2006) phát biểu rằng đa phần của việc trên là do 1 số lượng tương đối
nhỏ trong việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng kết hợp với sự chiến lược tốt của sức khỏe cộng đồng. Như
Cooper và cộng sự tiếp tục nhấn mạnh rằng nếu kinh nghiệm của Cuba có thể được mở rộng cho các
nước mức thu nhập nghèo và trung bình khác, sức khỏe con người có thể được thay đổi. Tuy nhiên, từ
năm 1980 Cuba dồn vào vào việc phát triển kỹ thuật.Nghiên cứu, phát triển và tiếp thị của các thuốc tiến
bộ trên quy mô toàn cầu đã minh họa cho thấy 1 quốc gia thu nhập thấp cóa thể đạt được bao nhiêu.

C tiềm năng y học của công nghệ nano

Sự phát triển công nghệ nano có tiềm năng to lớn cho sự thay đổi hệ thống phân phối thuốc. Tất cả mục
đích là cho phép thuốc được phân phối đến vùng trong cơ thể nơi mak nó nhắm đến. Thành phần hoạt
động của thuốc được đặt trong 1 cái bao bọc được thiết kế để đặt vào 1 phần liên quan của cơ thể. Cái
bao bọc được hút vào tế bào thụ cảm của vùng liên quan và dính vào nó, phóng thích các thành phần
hoạt động của nó. Kết quả ban đầu thì rất ấn tượng. Phân phối thuốc chống ung thư đến não là 1 vấn đề
lớn vì hàng rào máu não. Tuy nhiên, thuốc chống ung thư kết hợp với vật liệu nano thành công vượt
qua hàng rào máu vào và phóng thích thuốc ở nồng độ điều trị trong não

D Giải quyết dịch lớn trong tương lai

Không rõ nơi mak virus HIV xuất hiện từ đâu. Có 1 điều rõ ràng là từ khi bùng nổ dịch vào năm 1981,
khoảng 25 triệu ng trên toàn thế giới đã chết vì nó. Thuốc kháng retro virus chống lại HIV/AIDS được
công nhận ít hơn so với các tiến bộ trong nghiên cứu gen đã diễn ra hơn 15 năm qua. Đó là nghiên cứu
mak ta phải xem xét khi ta đối mặt với 1 bệnh dịch đe dọa. Ví dụ H5N1 ( được biết là cúm gia cầm) đã
xuất hiện nhảy từ gia cầm sang người có lẽ được biết rộng rãi nhất. Hiểu biết vĩ đại của con người về
sinh vật học và nhân đôi virus đã xuất hiện từ nghiên cứu gần đây cho gen con người đem lại cho chúng
ta 1 vũ khí sinh tồn để đấu tranh. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong việc cung cấp thuốc chống retro virus cho
bệnh nhân để đấu tranh bệnh do đề nghị của công ty thuốc cho thuốc đó quá nhiều tiền, cho thấy rằng
cái kiến thức này không được áp đụng công bằng cho tất cả các nước và cá nhân.

Máy tính từ tầng hầm đến cạnh giường

Hạn chế

Việc sử dụng máy tính trong ngành y đã tồn tại từ giữa năm 1960. Ngay thời điểm đó, máy tính thì rất
lơn, thường được chứa trong tầng hầm bởi sự kích thước của nó và mắc. Công việc chính của nó ( tự
động hóa lăp lại nhiệm vụ đơn giản) thì không thích hợp tốt tính phức tạp của y học, dù nó có tiềm năng
sử dụng trong ngành này. 1 ví dụ là sử dụng máy tính trong tự động hóa tạo thành danh sách Index
Medicus, 1 danh sách các bài báo xuất bản trong tạp chí y học. Sau đó, cơ sở dữ liệu được tạo sẵn trên
mạng, dưới cái tên Medline, tăng tốc độ và hiệu quả trong việc tìm bài báo liên quan. Máy tính cũng bắt
đầu được sử dụng trong phòng thí nghiệm với các xét nghiệm đơn giản và cho kết quả có giá trị.

Tuy nhiên, trong năm 1970, khi máy tính trở nên nhỏ mảnh và ít tốn kém, khả năng sử dụng nó trong
chăm sóc bệnh nhân bắt đầu được nghiên cứu. Một bước tiến lớn là thiết lập thông tin y khoa như 1 quy
định năm 1977, trong đó xem xét các vấn đề liên quan việc thu nhập, phân tích và phổ biến thông tin
trong quá trinh chăm sóc sức khỏe. Bởi vì khả năng sử lý tương đối thấp của mấy tính tại thời điểm đó,
các thông tin y học để lại 1 lượng lý thuyết lơn. Thực hành sử dụng máy tính trong bệnh viện thì bị hạn
chế đối với hành chính, như theo dõi hóa đơn và gửi hóa đơn.

Giữa năm 1980, một cách tiếp cận mới và thực tế hơn nhiều về thông tin y học trở nên thiết thực. Sự
giảm chi phí của thiết bị điện tử, kết quả của sự phát triển máy tính cá nhân bởi IBM năm 1980, có nghĩa
là nghiên cứu lý thuyết có thể đc kiểm tra trong thực nghiệm bây giờ.Kết quả của việc này là sự gia tăng
số lượng bệnh viện và vphòng khám y tế sử dụng máy tính để theo dõi hồ sơ bệnh nhân. Hồ sơ điện tử
của bệnh nhân cung cấp nhiều thuận lợi lớn hơn so với hồ sơ giấy trong về giới hạn tiết kiệm không gian
lưu trữ, truy cập lẹ và khá dễ dàng sao lưu. Ngoài ra, nghiên cứu về bệnh tật sử dụng dữ liệu từ hồ sơ
bệnh nhân có thể được thực hiện bằng cách sử dụng phần mềm để tự động chạy báo cáo.Vào cuối
những năm 1980, phần lớn các bệnh viện và phòng khám có ít nhất 1 máy tính xử lý hồ sơ bệnh nhân.

Sự phát triển của Internet từ đầu những năm 1990 trở đi đánh dấu 1 giai đoạn khác trong sử dụng máy
tính trong y khoa. Vì dữ liệu có thể được truyền nhanh và rẻ tiền khắp thế giới, có vẻ dường như những
lợi ích tiềm ẩn của telemedicine ( y khoa từ xa ) có thể nhận ra bây giờ. Bao gồm khả năng bác sĩ theo dõi
bệnh nhân từ xa, sử dụng thiết bị cảm biến trên người để lấy được dữ liệu dấu hiệu sinh tồn và cho
phép chẩn đoán nhiều loại bệnh. Phẫu thuật từ xa, 1 nhánh của y khoa từ nha, sẽ cho phép bác sĩ phẫu
thuật đa khoa có thể nhận lời khuyên và hướng dẫn từ bác sĩ phẫu thuật chuyên khoa, dựa trên hình
ảnh của các cuộc phẫu thuật truyền theo thời gian thực. Cuộc phẫu thuật có thể được quản lý từ xa ,
mak không có sự hiện diện của bác sĩ phẫu thuật.

Không may, trong khi 1 vài lợi ích được thực hiện, tiềm năng của Internet trong y khoa từ xa vẫn chưa
được khai thác triệt để. Một lĩnh vực mak máy tính được khai thác triệt để là trong giới thiệu của PACS (
Hệ thống lưu trữ hình ảnh và truyền tải thông tin). Đây là 1 thành tựu công nghệ to lớn cho phép hình
ảnh X-quang được thu được và dự trữ số hóa.Nó được xem là 1 kỹ thuật tiêu chuẩn cho X-quang, và
thiết bị mới tuân theo đặc điểm kỹ thuật. Tuy nhiên,mặc dù công nghệ tiến bộ, nhưng để lại những rào
cản trong việc đưa hoàn toàn đưa công nghệ vào thực tiễn hằng ngày. Những vấn đề về đạo luật và đạo
đức không được giải quyết áp đặt những ràng buộc đáng kể trong việc trao đổi hồ sơ y tế dưới dạng
điện tử giữa các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc. Điều này có nghĩa rằng X-quang, có thể truy cập kỹ
thuật từ mọi nơi trên thế giới, có thể vẫn còn không thể tiếp cận đến bác sĩ trong bệnh viện lân cận. Vấn
đề như vậy hoàn toàn hiện diện ởpháp luật trong thông tin y khoa với 1 thách thức đang diễn ra.

Nguồn gốc của dược học

Sự hiểu biết nguồn gốc của dược học thành lập thành phần thiết yếu trong nghiên cứu thuốc. Bắt nguồn
từ chữ “pharmakon” của Hy Lạp, Dược học là nhánh của khoa học y học mak nó giải quyết các cơ chế về
hoạt động, sử dụng, tác hại và hậu quả của thuốc trên động vật và con người.Dược học nghiên cứu con
đường mak thuốc gây ra những tác dụng phụ có lợi và hại trên cơ thể.

Nhà nghiên cứu dược học tìm ra con đường mak các quá trình sinh hóa, sinh lý và tâm lý và bệnh bị ảnh
hưởng bởi thuốc. Khi chúng ta nói về thuốc, chúng ta đang đề cập đến hợp chất hoạt tính sinh học mak
thay đổi tình trạng hoạt động của cơ thể và cải thiện sức khỏe bằng 1 số cách- VD: làm giảm nhẹ cớn
đau, làm dịu bệnh nhân hoặc loại trừ nhiễm trùng. Chúng ta đề cập đến tăng cường con đường mak
thuốc được thử nghiệm, nên cuối cùng thuốc có thể đưa những lợi ích tuyệt vời trong điều trị bệnh.

Có 1 vài phân loại dược học, và có thể phân chia môn này thành 4 loại khác nhau. Đầu tiên, dược học về
tk tự chủ là nghiên cứu tác dụng của các chất hóa học và thuốc trên chức năng của hệ tk tự chủ. Nghiên
cứu cấu trúc phân tử bên trong receptor và thiết kế phân tử thuốc để tương tác với vùng receptor đặc
biệt được biết như dược học phân tử, trong khi dược học hóa sinh là nghiên cứu ảnh hưởng của các
chất hóa học trong quá trình sinh hóa liên quan tới chức năng của các tế bào. Loại thứ tư và cuối cùng
của môn học là chất độc học, xem xét các ảnh hưởng có hại của hóa chất trên cơ thể, tác dụng phụ của
thuốc và ảnh hưởng của chất gây ô nhiễm môi trường trên cơ thể.

Bởi vì dược học bao gồm kiểm tra ảnh hưởng của hóa chất trên hệ sinh học ở 1 số mức độ khác nhau, có
1 liên kết hoàn toàn giữa khoa hóa sinh và dược học. Ví dụ thuốc và chất độc thường hoạt động bằng
cách gây cản trở với những phản ứng chuyển hóa đặc biệt. Kháng sinh penicilin là 1 ví dụ tốt về ảnh
hưởng của chất hóa học trên hệ sinh học, bởi vì nó tiêu diệt vi khuẩn bằng cách ngăn chặn enzym tổng
hợp polysaccharide thiết yếu của thành vi khuẩn.

Dược học như 1 môn học khoa học đã tồn tại từ giữa những năm 1800, nhưng sự phát triển của nó diễn
ra hơn nhiều thế kỷ và bị ảnh hưởng bởi nhiều nền văn minh khác nhau. Sự khám phá của nhiều loại
thuốc và các cây thuốc chữa bệnh thì phần lớn thông qua sự thử nghiệm và sai sót. Khắp thế giới khi
một người đàn ông trong 1 bộ lạc tìm ra thức ăn, anh ấy sớm nhận ra những vùng rừng địa phương của
anh ấy chứa nhiều loại rể, vỏ cây,quả và lá không chỉ là nguồn thức ăn mak còn trong 1 vài trường hợp
sở hữu đặc tính trị bệnh ( phục hồi , làm dịu và điều trị). Anh ấy cũng tình cờ gặp những vấn đề như là
độc tính cao. Thông tin về các loại cây này được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, cung cấp nhiều
kiến thức cơ sở cho chúng ta ngày nay. 1 ví dụ như này là người da đỏ Nam Mỹ, người đã đưa cho chúng
ta thuốc giãn cơ đầu tiên: loại thuốc gọi là curare mak họ đã bôi lên đỉnh cái giáo để làm bất động con
vật khi săn bắt. Ngày nay thuốc mak sở hữu đặc điểm tương tự được sử dụng bởi bác sĩ để giãn cơ bệnh
nhân trong phẫu thuật. Một loại khác là cocaine, đã được chứng minh bằng tài liệu từ rất sớm vì là 1
chất ảnh hưởng sâu sắc trên cơ thể con người, nó kích thích hệ tk trung ương và được sử dụng như là 1
chất ức chế sự thèm ăn, thuốc giảm đau và thuốc gây tê.

Vậy tương lai tiếp tục cho dược học đương đại là gì ? Làm ra 1 số tiến bộ có ý nghĩa cho lĩnh vực, nhà
nghiên cứu bây giờ đã tạo ra 1 cái gọi là “ thiết kế thuốc”. Điều này được thực hiện bằng cách thay đổi
cấu trúc hóa học của thuốc hiện nay.Cũng có 1 sự hiểu biết lớn hơn các cấu trúc phân tử của virus và kết
quả là các nhà hóa sinh có thể thiết kế chất chống virus. Cả hai khám phá chắc chắn có hậu quả sâu rộng
cho tương lai y học.

Y học chứng cứ trong lâm sàng

Người ta thường đồng ý rằng thuật ngữ y học chứng cứ ( EBM) xuất hiện năm 1991 từ công việc của 1
nhóm bác sĩ ở Đại học McMaster, Ontario ( Sackett et al. , 1997). Nó đề ra 3 yếu tố khác nhau cần được
kết hợp để cung cấp mức độ có thể chăm sóc tốt nhất cho bệnh nhân. Đầu tiên, chứng cứ tốt nhất có giá
trị được sử dụng khi quyết định sự điều trị nào mak bệnh nhân nên nhận. Thứ hai, kinh nghiệm của bác
sĩ thực hiện điều trị nên được sử dụng đầy đủ khi đưa ra 1 quyết định. Cuối cùng, lựa chọn của bệnh
nhân nên được đưa vào cân nhắc. Lợi ích lâm sàng từ việc sử dụng y học chứng cứ cho bệnh nhân thì rõ
ràng hiển nhiên, nhưng cũng có lợi ích kinh tế. Sackett ( et al, 1996) tuyên bố rằng y học chứng cứ là sử
dụng 1 cách chu đáo, rõ ràng và thận trọng các chứng cứ tốt nhất hiện nay trong việc đưa ra những
quyết định về chăm sóc bệnh nhân.

Phần lớn bác sĩ hành nghề dường như đồng ý rằng mong muốn thực hành 1 cách tốt nhất, nhưng tài liệu
cho thấy rằng có những rào cản to lớn trong việc đưa y học chứng cứ vào thực hành lâm sàng. Chứng cứ
từ tài liệu cho biết phần lớn những rào cản quan trọng là sự khác biệt trong việc nhận ra điều trị tốt nhất
cho bất cứ các bệnh cụ thể. Số lượng bài báo nghiên cứu tăng nhanh chóng hơn 20 năm qua, và bác sĩ
không có thời gian nhận ra và đọc tất cả chứng cứ có sẵn từ nghiên cứu. Khi Greenhalgh ( 2006) tuyên
bố, chi có 1 số tỷ lệ nhỏ của nghiên cứu y khoa thay đổi được áp dụng vào thực tế. Rõ ràng, sau đó,
không phải tất cả bài báo đều liên quan. Rõ ràng là sự xem xét có hệ thống tụ họp lại với nhau và đánh
giá tất cả bằng chứng trong 1 đề tài lâm sàng có giúp khắc phục vấn đề to lớn này. Nhất trí là xem xét có
hệ thống chỉ sử dụng thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên là 1 tiêu chuẩn vàng của chứng cứ trong việc
điều trị hiệu quả.Việc làm ra những thử nghiệm này là 1 quá trình kéo dài tuy nhiên, chỉ có 5000 thử
nghiệm được đưa ra năm 2007. Vì lý do này, bằng chứng lâm sàng ( 2009) là 1 nguồn bổ sung nổi bật. Nó
tóm tắt tầm quan trọng và hàm ý của nghiên cứu mới khi nó được công bố, giữ cho bác sĩ cập nhật
những thay đổi quan trọng.

Một số tác giả gợi ý có 1 cách tiếp cận để thực hiện y học chứng cứ trong bệnh viện. Tiếp cận từ trên
xuống bao gồm quản lý thực hiên chi tiết các hướng dẫn lâm sàng cho tất cả thủ tục sử dụng chứng cứ
hữu hiệu tốt nhất. Bằng cách đảm bảo rằng nhân viên y tế tuân thủ chặt chẽ các hướng dẫn này, chắc
chắn quản lý công việc được thực hiện bởi bác sĩ theo hướng tốt nhất. Tiếp cận từ dưới lên trên là nơi
bác sĩ lâm sàng được khuyến khích để tìm bằng chứng hiệu quả nhất cho qui trình và đánh giá nó liên
quan đến tình huống công việc của chính họ. Kết quả cuối cùng chỉ là 1 bộ hướng dẫn lâm sàng, nhưng
khi được điều chỉnh cho thích hợp với tình trạng cụ thể, bằng chứng cho thấy nó có hiệu quả hơn.

Nhuw 1 bài báo gần đây cho thấy, lấy bằng chứng cho bác sĩ khi quyết định đưa ra những lựa chọn điều
trị là vấn đề cuối cùng. Các tác giả cho thấy kết hợp chứng cứ vào trong hệ thống IT được sử dụng cho
hỗ trợ quyết định. Bằng chứng của họ cho thấy điều này ‘ đưa ra cơ hội để giảm các sai lầm trong y khoa
và cải thiện phân phối chăm sóc bệnh nhân dựa trên bằng chứng’ ( Starmer et a;. , 2006). Tuy nhiên,
những người khác đã chỉ ra rằng bác sĩ có thể lờ đi những thông tin nếu họ muốn ( Glasziou and Haynes,
2005). Những tác giả này đã thu nhập những nhóm nhỏ rất hiệu quả để thực hiện hướng dẫn khi nó tập
trung hoàn toàn vào lĩnh vực vấn đề hoàn toàn rõ ràng và cập nhật kiến thức cho nó 1 cách cơ bản bởi
thường xuyên xem xét quy trình của nó.

Hàm ý của việc lập bản đồ hệ gen người

Dự án hệ gen người bắt đầu năm 1990,

You might also like