Professional Documents
Culture Documents
Môn học
Lớp: DH20YKH04
Thành viên:
Với quan niệm như vậy thì người xưa chữa bệnh chủ yếu bằng cách dùng lễ
vật để cầu xin: có thể cầu xin trực tiếp, hoặc thông qua những người làm nghề mê
tín dị đoan.
Tuy nhiên, trên thực tế người nguyên thủy đã bắt đầu biết dùng thuốc, không
chỉ phó thác số phận cho thần linh.
Từ đó phương pháp chữa bệnh là điều chỉnh lại: kích thích mặt yếu (bổ), chế
áp mặt mạnh (tả).
- Cổ Ấn Độ
- Các quan điểm tiến bộ bị đàn áp nếu trái với những tín điều trong kinh
thành, khoa học lâm vào tình trạng trì trẻ và thụt lùi. Các nhà khoa học tiến
bộ (Bruno, Gallile…) bị khủng bố.
- Quan niệm chính thống về bệnh tỏ ra rất mê muội (sự trừng phạt của Chủ
đối với tội lỗi của con người), không coi trọng chữa bằng thuốc (thay bằng
cầu xin), y lý phải tuân theo các giáo lý của nhà thờ (mỗi vị thánh trấn giữ
một bộ phận trong cơ thể), một số giáo sĩ cấm đọc sách thuốc… Những nhà
y học có quan điểm tiến bộ bị ngược đãi.
Giải phẫu học (Vesali, 1414 – 1564) và Sinh lý học (Harvey, 1578 – 1657)
ra đời, đặt nền móng vững chắc cho y học cổ truyền tiến tới hiện đại.
Nhiều quan niệm về bệnh ra đời, với đặc điểm nổi bật là dựa trên những kết
quả đã được thực nghiệm kiểm tra và khẳng định.
- Sự tổn thương, lệch lạc, rối loạn trong cấu trúc và chức năng (từ mức phân
tử, tế bào, mô, cơ quan đến mức toàn cơ thể). Một số bệnh trước kia chưa
phát hiện được tổn thương siêu vi thể, nay đã quan sát được. Một số bệnh đã
được mô tả đầy đủ cơ chế phân tử - như bệnh thiếu vitamin B1.
- Do những nguyên nhân cụ thể, có hại; đã tìm ra hay chưa tìm ra.
- Cơ thể có quá trình phản ứng nhằm loại trừ tác nhân gây bệnh, lập lại cân
bằng, sửa chữa tổn thương. Trong cơ thể bị bệnh vẫn có sự duy trì cân bằng
nào đó, mặc dù nó đã lệch ra khỏi giới hạn sinh lý. Hậu quả của bệnh tùy
thuộc vào tương quan giữa quá trình gây rối loạn, tổn thương và quá trình
phục hồi, sửa chữa.
- Bệnh làm giảm khả năng thích nghi với ngoại cảnh.
- Với người, có tác giả đề nghị thêm: bệnh làm giảm khả năng lao động và
khả năng hoà nhập xã hội.
1. Đại cương
Bệnh nguyên học có vai trò quan trọng về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: nâng cao hiểu biết về bản chất, phương thức xâm nhập, cơ
chế tác động, mối quan hệ giữa các yếu tố làm bệnh phát sinh để có
phương hướng nghiên cứu và hành động.
- Về thực tiễn: biết rõ nguyên nhân và các điều kiện gây bệnh thì để ra
được các biện pháp phòng bệnh và trị bệnh có hiệu quả. Nhiều bệnh dù
chưa tác động được vào nguyên nhân, nhưng vẫn phòng được bệnh nhờ
hạn chế các điều kiện thuận lợi. Ví dụ, biết muỗi là vật trung gian truyền
virus gây bệnh sốt xuất huyết, tuy chưa có thuốc trị nguyên nhân nhưng
vẫn có thể phòng bệnh này (bằng cách hạn chế vai trò của điều kiện: diệt
bọ gậy, muỗi, về sinh môi trường, nằm màn...).
Sự cực đoan của thuyết này đã phần nào kìm hãm sự tiến bộ của y học (vi dụ
như biết chữa bệnh Beri-Beri bằng cám gạo nhưng vẫn nghĩ rằng bệnh đó do vi
khuẩn), gây hoang mang khi tìm thấy vi khuẩn nhưng chưa có thuốc đặc trị
Người thầy thuốc điều trị bệnh phiến diện, chỉ tập trung diệt vi khuẩn, không
quan tâm tìm các nguyên nhân khác.
Y học hiện đại công nhận có “tạng”, kể cả có tạng dễ mắc bệnh này và khó
mắc bệnh khác, nhưng không phải bệnh nào cũng phụ thuộc vào tạng -như một
định mệnh. Thuyết này không coi trọng vai trò của bệnh nguyên, các yếu tố ngoại
cảnh và các yếu tố nội tại đối với bệnh.
2. Khái niệm hiện nay về bệnh nguyên
Quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện gây bệnh, quy luật nhân quả trong
quá trình bệnh sinh là những vấn đề quan trọng của bệnh nguyên học.
Nguyên nhân quyết định tính đặc hiệu của bệnh, vi khuẩn lao gây ra bệnh
lao, Hansen gây ra bệnh phong, HIV gây ra AIDS. Mặt khác, để gây được bệnh,
nguyên nhân phải đạt được một mức độ nhất định về số lượng, độc lực, và phải có
những điều kiện nhất định hỗ trợ nó.
Trong thực tế cần chú ý: nguyên nhân của bệnh này lại đóng vai trò là điều
kiện của bệnh kia và ngược lại dính dưỡng thiếu thốn là nguyên nhân của bệnh suy
dinh dưỡng, nhưng lại là điều kiện gây ra bệnh lao.
Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều hậu quả (nhiều bệnh) khác nhau: Tùy
nơi thâm nhập, tùy điều kiện cụ thể, một nguyên nhân có thể gây ra nhiều bệnh: Tụ
cầu vào ruột gây tiêu chảy, vào da gây áp xe, vào máu gây nhiễm khuẩn huyết. Vi
khuẩn lao gây ra những thể bệnh khác nhau ở phổi, thận, màng bụng, màng não,
cột sống, khớp...
Một bệnh (hậu quả) có thể do nhiều nguyên nhân gần 31/254 nhân khác
nhau có thể gây ra cùng một hậu quả (một t amip hoặc do Shigella đều có các triệu
chứng lâm sàng thiếu máu, viêm họng, đau mắt) là những bệnh do rất nhiều
nguyên nhân gây ra.
- Nhiệt độ quá nóng, quá lạnh: gây bỏng, thoái hóa các protein, enzym.. bức
xạ ion hóa. Gây rối loạn chuyển hóa, tổn thương DNA..
- Điện: tùy thuộc điện áp, nơi tiếp xúc, thời gian tiếp xúc, có thể bị co cơ,
bỏng, chảy, sốt
- Thay đổi áp suất:
Bệnh lên cao: càng lớn cao áp suất khí quyển càng giảm, không khí càng
loãng dẫn đến tình trạng thiếu oxy.
Bệnh thùng lặn: để đuổi nước ra khỏi thùng lặn, công nhân lặn phải làm việc
trong điều kiện áp suất cao. Khi lên mặt nước, nếu không từ từ nổi hạ dần.
Áp lực thùng xuống mà hạ đột ngột sẽ gây tai biến tắc mạch máu do bọt khí
nitơ. Cơ chế: nitơ trong máu luôn ở dạng hoà tan, biến thành bọt khi áp suất
hạ xuống đột ngột.
Một số dị tật bẩm sinh: thừa ngón tay, sứt môi, hở hàm ếch..., có thể truyền
hoặc không di truyền.
Đến nay, cơ chế bệnh sinh của nhiều bệnh di truyền đã được sáng tỏ. Các
yếu tố bên ngoài: tia xạ, hóa chất, vi khuẩn và độc tố vi khuẩn, virus tác động lên
nhân tế bào gây ra các biến đổi trong cấu trúc dẫn đến các biểu hiện bệnh lý. Nếu
bị tác động ở thời kỳ phôi thai (giai đoạn phát triển, phân bào mạnh) thường gây ra
một số dị tật bẩm sinh, nhiều trường hợp dị tật có khả năng di truyền.
Sự phát triển mạnh mẽ các kỹ thuật sinh học phân tử như công nghệ thảo lấp
gen, cài ken gen... để thay gen bệnh đang là một hướng điều trị gen học đối với
một số bệnh do đột biến gen.
Thể tạng khả ổn định ở mỗi cá thể, có thể di truyền ở mức độ nào đó. Để
đơn giản, nhiều tác giả đã cố phân ra các loại thể tạng, tuy nhiên sự phân loại. Thể
tạng vẫn chưa thống nhất. Đã có nhiều bảng phân loại được đưa ra, người ta hay
nói tới tạng dễ dị ứng, tạng dễ tiết dịch nhầy, tạng dễ béo phì hay tạng dễ hưng
phấn thần kinh...
Khi đề cập đến bệnh sinh người ta thường mô tả những thay đổi về chức
năng của một cơ quan, một hệ thống cơ quan hoặc toàn bộ cơ thể khi bị bệnh cũng
như đáp ứng của cơ thể đối với các thay đổi đó. Hiểu được quy luật diễn biến của
bệnh, người thầy thuốc chủ động ngăn chặn được những diễn biến xấu của bệnh
(biến chứng), hạn chế các tác hại do bệnh gây ra (di chứng).
Bệnh sinh liên quan chặt chẽ với bệnh nguyên. Diễn biến của bệnh phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đáng chú ý nhất là: tác nhân gây bệnh (bệnh
nguyên, ngoại cảnh) và phản ứng tính của cơ thể người bệnh (bên trong).
IV. Vai trò và ảnh hưởng của bệnh nguyên trong quá trình
bệnh sinh
1.1. Bệnh nguyên chỉ là tác nhân mở màn cho bệnh sinh
Có nhiều bệnh, bệnh nguyên chỉ có vai trò mở màn, khi bệnh đã phát sinh
thì bệnh nguyên hết vai trò, còn bệnh sinh tự diễn biến và kết thúc.
Bỏng sẽ diễn biến nhiều ngày, nhiều tuần, mặc dù yếu tố gây bỏng (lửa,
điện) chỉ có mặt rất ngắn. Tác nhân cơ học như chấn thương, tai nạn giao thông,
sức ép… chỉ tác động vào cơ thể trong chốc lát rồi hết nhưng nạn nhân có thể bị
sốc và bệnh diễn ra trong nhiều giờ nhiều ngày.
Điều trị các bệnh này không phải tìm cách loại trừ các nguyên nhân gây
bệnh, mà phải điều trị theo cơ chế bệnh sinh (điều trị các diễn biến và biến chứng
của bệnh).
1.2. Bệnh nguyên tồn tại trong suốt quá trình bệnh sinh
Sau khi gây được bệnh, bệnh nguyên vẫn tiếp túc quá tình dẫn dắt bệnh sinh
cho đến khi bệnh kết thúc. Nếu điều trị loại trừ được bênh nguyên, bệnh sinh cũng
ngừng diễn biến (khỏi bệnh).
Bệnh nhiễm các chất độc và đa số các bệnh nhiễm khuẩn thuộc loại này.
Người thầy thuốc vừa phải tìm cách trung hòa các loại độc, loại trừ chất độc này,
loại trừ vi khuẩn (loại trừ bệnh nguyên), vừa phải điều trị các diễn biến xấu và các
biến chứng của bệnh ( điều trị bệnh sinh).
Trong thực tế, có một số trường hợp, bệnh nguyên vẫn tồn tại nhưng vô hiệu
trước hệ thống phòng vệ của cơ thể (không gây bệnh cho người đó). Không biểu
hiện thành bệnh nhưng yếu tố gây bệnh vẫn tồn lưu, đó là “người lành mang mầm
bệnh” là nguồn lây bệnh cho cộng đồng.
2. Một số yếu tố của bệnh nguyên ảnh hưởng đến quá tình bệnh
sinh
Cùng một yếu tố bệnh nguyên nhưng tính chất, liều lượng, cường độ, nơi
xâm nhập,…khác nhau có thể gây ra quá trình diễn biến cũng tình trạng bệnh (hay
bệnh sinh) khác nhau.
Ví dụ 1 : như dòng điện có cường độ mạnh gây bệnh toàn thân và cấp diễn (ngừng
tim, ngừng thở), còn dòng điện có cường độ yếu có thể gây ra bỏng tại chỗ.
Ví dụ 2 : Cũng là nicotin, nếu đưa vào cơ thể một lượng lớn
qua đường hô hấp của bệnh nhân thì sẽ gãy ra ngộ độc cấp , lượng đó chia ra thành
nhiều lượng nhỏ, kéo dài thì sẽ gây ra bệnh viêm phế quản mạn tính, giảm khả
năng đề kháng của cơ thể và có thể gây ra bệnh ung thư phổi.
2.2. Nơi xâm nhập, thời gian tác dụng của bệnh nguyên:
- Cùng một chất độc, cùng một loại vi khuẩn sẽ gây nên các bệnh cảnh
khác nhau và mức độ trầm trọng cũng khác nhau khi chúng xâm nhập
vào các cơ quan bộ phận khác nhau trong cơ thể.
Ví dụ 1: Tụ cầu vào trong da gây ra các áp xe, vào ruột thì sẽ gây ra bệnh tiêu
chảy cho bệnh nhân, nghĩa là có các bệnh sinh khác hẳn nhau.
Ví dụ 2: Cùng một cường độ va đập như nhau nhưng khi va đập vào sọ não thì
sẽ có các bệnh sinh khác so với khi va đập vào tay chân.
Ví dụ 3 : Lậu cầu nhiễm vào giác mạc gây viêm cấp, nhiễm vào đường sinh dục
gây viêm mãn.
- Cùng một nồng độ bệnh nguyên (hơi độc, các hóa chất, các chất phóng
xạ, bụi bẩn…), cùng nơi tiếp xúc, nếu như thời gian càng dài thì nói
chung là tình trạng bệnh càng nặng.
Ví dụ 4 : Tiêm vi khuẩn liều nhỏ, lập lại nhiều lần gây chết súc vật thí nghiệm.
Ví dụ 5 : Tiếng ồn thường xuyên gây tâm lý căng thẳng, cao huyết áp, suy
nhược thần kinh.
V. Ảnh hưởng của cơ thể tới quá trình bệnh sinh
Phản ứng tính là một tập hợp các đặc điểm của cơ thể có khả năng đáp ứng
giống nhau hay khác nhau đối với một kích thích. Có nhiều yếu tố bên trong và
bên ngoài chi phối tính phản ứng của cơ thể.
- ACTH và Corticoid: Có tác dụng chống viêm, chống dị ứng, đặc biệt
đối với viêm có cường độ mạnh. Cần chú ý hạn chế dùng ACTH và
Corticoid đối với người bệnh suy kiệt, đối với bệnh nhân nhiễm các vi
khuẩn chưa có kháng sinh đặc trị.
- STH và Aldosteron: Đối lập với ACTH và Corticoid, tăng cường độ
viêm, tăng sinh mô liên kết, tăng tạp kháng thể, điều hòa nước và điện
giải, chống hoại tử. Do đó rất có lợi khi cần tăng cường phản ứng
viêm, tăng cường miễn dịch, tăng tạo sẹo, chống hoại tử.
- Thyroxin: Tác dụng tăng chuyển hóa cơ bản, tăng tạo nhiệt, do vậy có
vai trò trong phản ứng tạo cơn sốt, huy động năng lượng (chống giảm
thân nhiệt, chống nhiễm khuẩn).
Ví dụ 2: Cùng là bệnh lupus ban đỏ, nhưng nói chung ở nữ diễn biến nặng hơn.
Ví
dụ 3:
Một số bệnh hay gặp ở nam như loét dạ dày tá tràng, nhồi máu cơ tim, u phổi.
- Cùng là một bệnh, nhưng có thể nặng hơn về mùa lạnh, ví dụ sốc, mất
máu, viêm phổi. Nhiều bệnh dễ xuất hiện ở mùa lạnh, một số bệnh
xuất hiên ở mùa nóng hoặc khi thời tiết thay đổi đột ngột (liên quan
tính cảm nhiễm và đề kháng của cơ thể).
- Đất, nước, không khí ô nhiễm, điều kiện sống chật chội, ẩm tháp…
ngoài việc sẽ gây thêm bệnh tật còn có thể ảnh hưởng tới bệnh sinh
một số bệnh.
2.2. Yếu tố xã hội
Chế độ xã hội, tình độ văn hóa, dân trí… cũng ảnh hướng đến cơ cấu và tình
hình bệnh tật của quần thể dân cư (như các yếu tố bệnh nguyên và điều kiên gây
bệnh); ngoài ra còn có thể có vai trò trong bệnh sinh.
2.3. Chế độ dinh dưỡng: Đói và dịch thường đi đôi với nhau
Chế độ ăn thiếu chất, nhất là thiếu protein, năng lượng và các chất vi lượng
(vitamin) hoặc mất cân đối trong khẩu phần ăn sẽ làm giảm khả năng đề kháng của
cơ thể và sẽ dễ bị bệnh. Suy dinh dưỡng – khả năng đề kháng – nhiễm khuẩn liên
quan chặt chẽ với nhau. Ví dụ, cùng là nhiễm khuẩn trong những hoàn cảnh như
nhau, thì ở trẻ suy dinh dưỡng có thể không sốt cao nhưng diễn biến xấu.
- Vitamin B: tham gia quá trình oxy hóa tế bào, khi thiếu sẽ ảnh hưởng
đến nhiều chức năng của hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tạo máu, tiết
dịch.. Beri-Beri là bệnh điển hình của thiếu vitamin B1.
- Khỏi hoàn toàn: khi sự thăng bằng của cơ thể với ngoại môi được khôi phục
lại, toàn bộ triệu chứng bệnh lý sẽ biến mất, cấu tạo và chức phận của các cơ
quan, tổ chức hồi phục hoàn toàn. Sau khi khỏi, phản ứng tính của cơ thể sẽ
trở lại như giai đoạn trước khi bị bệnh nghĩa là lại vẫn có thể mắc bệnh như
vậy một lần khác nữa. Nhưng đối với các bệnh nhiễm trùng thì thường phản
ứng tính có thể thay đổi như được miễn dịch với một số bệnh thương hàn,
đậu mùa, sởi,...
- Khỏi không hoàn toàn: khi các triệu chứng chủ yếu đã hết nhưng cấu tạo và
chức phận của cơ quan tổ chức vẫn còn in sâu dấu tích bệnh lý, không hoàn
toàn hồi phục lại như xưa. Một bộ phận nào đó có thể bị loại khỏi hoạt động
chung của cơ thể như cứng khớp sau khi khỏi lao khớp, hẹp van tim sau khi
khỏi viêm nội tâm mạch,...
- Để lại di chứng: Bệnh đã hết nhưng hậu quả về giải phẩu và chức năng thì
vẫn còn lâu dài. Nhiều di chứng có thể khắc phục một phần hay hoàn toàn
nhờ sự tiến bộ của y học.
- Để lại trạng thái bệnh lý: Diễn biến rất chậm, và đôi khi có thể xấu đi. Khó
khắc phục. Ví dụ, do chấn thương, bị cắt cụt một ngón tay; vết thương còn
để lại sẹo lớn…
2.3. Chết
Là một cách kết thúc của bệnh, chết là một quá trình, có khi chỉ kéo dài vài
chục giây hay vài phút, cũng có khi kéo dài vài ngày.
Quá trình tử vong trong trường hợp điển hình gồm 2 - 4 giai đoạn:
- Giai đoạn tiền hấp hối: kéo dài nhiều giờ tới vài ngày, biểu hiện khó thở, hạ
huyết áp, tim nhanh và rất yếu, tri giác cảm.
- Giai đoạn hấp hối: các chức năng dần suy giảm toàn bộ, kể cả có rối loạn.
Kéo dài 2-4 phút.
- Giai đoạn chết lâm sàng: các dấu hiệu bên ngoài cảu sự sống không còn nữa
do các trung tâm sinh tồn ở não ngừng hoạt động. Tuy nhiên nhiều tế bào
của cơ thể còn sống – kể cả não thậm chí vẫn còn hoạt động chức năng.
- Giai đoạn chết sinh học: não chết hẵn, điện não không còn, do vậy hết khả
năng hồi phục. Tuy nhiên những tế bào quen chịu đựng thiếu oxy vẫn còn
sống và hoạt động khá lâu. Cơ quan lấy ra còn có thể ghép cho cơ thể khác
- Cấp cứu – hồi sinh:
Trường hợp chết đột ngột ở một cơ thể không suy kiệt, ví dụ do tai
nạn (thường không có giai đoạn tiền hấp hối, còn giai đoạn hấp hối
rất ngắn – thường không có) thì còn có thể hồi sinh khi đã chết lâm
sàng, chủ yếu bằng hồi phục hô hấp (dùng máy, hoặc thổi ngạt), và
nếu tim đã ngừng cũng cần khẩn trương hồi phục (kích thích bằng
máy, hay bóp ngoài lồng ngực). Trái lại, chết sau một quá trình suy
kiệt (thường hấp hối kéo dài) thì không thể áp dụng các biện pháp hồi
sinh nói trên.
Não chịu được thiếu oxy 6 phút, do vậy, nếu tỉnh lại sau 6 phút chết
lâm sàng sẽ để lại di chứng não (nhẹ hay nặng, tạm thời hay vĩnh
viễn). Trường hợp đặc biệt (lạnh, mất máu cấp) não có thể chịu đựng
trên 6 phút.