You are on page 1of 77

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG

PGS.TS.NGUYỄN VĂN THỌ

BÀI GIẢNG

THAM VẤN
CHĂM SÓC SỨC KHỎE

Năm 2023

1
BÀI MỞ ĐẦU

1.Bệnh tật và bệnh nhân:


1.1.Khái niệm về bệnh:
Bệnh là quá trình hoạt động không bình thường của cơ thể sinh vật từ
nguyên nhân khởi thuỷ đến hậu quả cuối cùng. Bệnh có thể gặp ở người, động
vật hay thực vật. Có rất nhiều nguyên nhân sinh ra bệnh, nhưng có thể chia
thành ba loại chính:
Bệnh do bản thân cơ thể sinh vật có khuyết tật như di truyền bẩm sinh hay
rối loạn sinh lý.
Bệnh do hoàn cảnh sống của sinh vật khắc nghiệt như quá lạnh, quá nóng,
bị ngộ độc, không đủ chất dinh dưỡng.
Bệnh do bị các sinh vật khác (nhất là các vi sinh vật) ký sinh.
Triệu chứng, điều kiện phát sinh phát triển của từng loại bệnh thường
khác nhau.
Con người là một thể thống nhất gồm cơ thể và tâm lý/tâm thần. Theo
quan niệm của các nền y học cổ truyền, thể chất và tâm chất không thể tách rời.
Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ 17, với sự tiến bộ về vật lý, hóa học, sinh học,
toán học…dẫn đến những phát minh mới về sinh lý học và y học. Những phát
minh đó đưa đến kết quả là Y học chỉ tập trung vào việc tìm cho ra nguyên nhân
thực thể của bệnh lý, tức là tìm ra những tổn thương thực sự của bất kỳ tổ chức,
cơ quan nào của cơ thể. Với cách thức đó, thực tế Y học đã có sự tiến bộ vượt
bậc. Đó là chủ nghĩa thực thể (organicisme).
Tuy nhiên, quan niệm của chủ nghĩa thực thể đã vấp phải một thực trạng
là có những bệnh chứng mà không thể nào tìm ra vết tích thể chất. Từ đó trong
Y học xuất hiện những bệnh gọi là Loạn thần kinh (Neurosis – Nevrose). Thí dụ,
suy nhược thần kinh, rối loạn lo âu, hysteris…Người ta thấy rằng đây là nhóm
bệnh lý chỉ biểu hiện ở rối loạn chức năng chứ không tìm thấy tổn thương thực
thể. Thí dụ, trong bệnh hysteria có triệu chứng liệt nhưng không tổn thương thần
kinh, cơ; triệu chứng câm mà không có tổn thương thực thể cơ quan phát âm…
Và nhóm bệnh Neurosis này được dịch rõ hơn ra tiếng Việt là Loạn thần kinh
chức năng. Một thời gian dài, Neurosis bị Y học chính thống gạt bỏ ra ngoài.
Nhóm bệnh Loạn thần kinh chức năng được cho là có căn nguyên liên
quan đến chấn thương tâm lý (nên các nhà Tâm thần học nước ta gọi là Bệnh
tâm căn). Ngày nay, người ta còn thấy những căn nguyên tâm lý gây ra những

2
trạng thái bệnh lý rối loạn chức năng như trên, nhưng khi kéo dài có thể dẫn đến
tổn thương thực thể. Đó là nhóm bệnh gọi là bệnh cơ thể tâm sinh
(Psychosomatic).
Y học chính thống, một thời gian dài trước đây, cũng gạt bỏ ra ngoài một
loại bệnh mà dân gian gọi là điên loạn: bệnh tâm thần (Psychosis). Những người
bệnh này không thể nào có cuộc sống bình thường. Khoa tâm thần, một khu vực
cách ly riêng biệt để chăm sóc và chữa bệnh tâm thần, được xem là một lĩnh vực
bí hiểm, không liên quan gì đến Y học thông thường. Các bác sĩ tâm thần cũng
được xem là những con người đặc biệt.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh của Y học và Tâm lý học đã tạo điều
kiện để người ta hiểu rõ mối quan hệ qua lại giữa tâm lý/tâm thần và thực thể
thông qua hoạt động của Hệ thần kinh và đặc biệt là của bộ Não. Y học đã có thể
bao gồm cả những tri thức sinh lý và tâm lý thành một khoa học thống nhất về
con người.
Từ thế kỷ 20, quan niệm về bệnh tật đã được mở rộng thành vấn đề sức
khỏe tâm lý, tâm thần. Trước kia, khi nói đến sức khỏe, người ta chỉ nghĩ rằng đó
là người không có bệnh có tật. Nhưng nay quan niệm đó là chưa đủ, như Tổ chức
Y tế thế giới đã định nghĩa: sức khỏe không chỉ là không bệnh tật mà còn là trạng
thái thoải mái của con người về cả ba mặt cơ thể, tâm thần và xã hội.
1.2.Khái niệm về bệnh nhân:
Hippocrates (460-377 trước CN) đã có những tư tưởng về ý nghĩa của sự
thích ứng của cơ thể và về tầm quan trọng của mối quan hệ liên nhân cách giữa
bác sĩ và bệnh nhân. Ông cho rằng trong xem xét người bệnh thì việc xem xét con
người bệnh quan trọng hơn là căn bệnh mà người ta mắc phải.
Bệnh nhân là người lâm vào tình trạng bệnh tật. Khi một người lâm bệnh sẽ
phải nằm ở giường để chữa bệnh nên theo âm Hán Việt gọi là lâm sàng. Theo
nghĩa rộng, lâm sàng là tất cả những gì quan sát được ở bệnh nhân trên giường
bệnh. Trong việc thăm khám bệnh nhân như vậy, trước đây chỉ có Lâm sàng y
học. Với sự phát triển của Tâm lý học, một chuyên ngành giao thoa giữa Y học và
Tâm lý học ra đời: Tâm lý học y học hoặc Tâm lý học lâm sàng. Từ đó, có thêm
khái niệm về Lâm sàng tâm lý.
Lâm sàng trong y học là sự khám xét người bệnh với những kỹ thuật cơ bản
như nhìn, sờ, gõ nghe để nhận biết các triệu chứng, trên cơ sở đó rút ra chẩn đoán
bệnh và đề ra kế hoạch can thiệp và điều trị bệnh. Với sự phát triển của khoa học,
có những kỹ thuật bổ trợ cho khám xét lâm sàng, gọi là cận lâm sàng như kỹ thuật
xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh…

3
Lâm sàng tâm lý cũng bao gồm những qui trình như Lâm sàng y học,
nhưng điều khác biệt là nó không chỉ dừng ở yếu tố sinh học mà còn bao gồm cả
yếu tố tâm lý và yếu tố xã hội. Ba yếu tố này được phân tích, xem xét trong mối
quan hệ, liên hệ và tác động lẫn nhau.
Như vậy, trong việc chăm sóc, chữa trị cho người bệnh, chúng ta không chỉ
quan tâm đến vấn đề cơ thể (bệnh tật) mà cần phải quan tâm một cách toàn diện
đến các yếu tố tác động tâm lý và xã hội của bệnh nhân. Do đó có quan niệm
chữa bệnh không phải chỉ chữa căn bệnh nào đó mà là chữa cho một con người
đang mắc bệnh.
2.Những biểu hiện tâm lý ở bệnh nhân:
2.1.Mối quan hệ giữa tâm lý và bệnh tật:
Bệnh tật làm biến đổi tâm lý người bệnh, và ngược lại, bệnh tật chịu ảnh
hưởng nhất định của tâm lý người bệnh là những hiện tượng thường gặp trong
lâm sàng.
2.1.1.Bệnh tật tác động tới tâm lý người bệnh:
-Bệnh tật có thể làm cho tâm lý/nhân cách người bệnh thay đổi theo hướng tiêu
cực:
+Thay đổi về khí chất: Từ điềm tĩnh trở thành khó tính, nóng nảy, cáu
kỉnh
+Thay đổi về tính cách:
Từ chu đáo, thích quan tâm đến người khác… thành ích kỉ
Từ người vui tính, hoạt bát…thành người đăm chiêu, uể oải, nghi ngờ
bệnh.
Từ người lạc quan… thành người bi quan, tàn nhẫn.
Từ người lịch sự nhã nhặn…thành người khắt khe, hoạnh họe người
khác.
Từ người có bản lĩnh, độc lập, tự chủ …thành người bị động, mê tín, tin
vào lời bói toán.
-Có khi bệnh tật lại làm thay đổi tâm lý người bệnh theo hướng tích cực: Làm họ
yêu thương, quan tâm đến người khác hơn, có ý chí và quyết tâm cao hơn…
Có những bệnh chỉ làm người bệnh thay đổi nhẹ về cảm xúc, song cũng
có những bệnh làm biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc toàn bộ nhân cách người bệnh.
4
Nhìn chung, bệnh càng nặng, càng kéo dài thì sự biến đổi tâm lý càng trầm
trọng.
2.1.2.Tâm lý người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật:
Tâm lý người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật đến mức nào là tùy thuộc
vào đời sống tâm lý vốn có của người bệnh. Mỗi người bệnh có những thái độ
khác nhau đối với bệnh tật:
Thái độ của người bệnh đối với bệnh tật theo chiều hướng bi quan: cho
bệnh tật là điều bất hạnh, không thể tránh được, đành cam chịu; sợ hãi, lo lắng vì
bệnh tật.
Thái độ theo chiều hướng lạc quan: kiên quyết đấu tranh, khắc phục bệnh
tật; không sợ, không quan tâm nhiều tới bệnh tật.
Thái độ đối với bệnh tật của người bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng huy động sinh lực của bản thân người bệnh vào việc phòng và chữa bệnh,
cũng như khắc phục hậu quả bệnh tật.
2.2.Những biểu hiện tâm lý của người bệnh:
2.2.1.Xúc cảm của người bệnh:
Xúc cảm của người bệnh được hình thành từ những cảm giác về bệnh và từ
sự nhận thức của bệnh nhân về bản chất và những vấn đề liên quan đến bản chất
của bệnh.
Những kích thích từ ổ bệnh lý trong cơ thể sẽ định hướng cho bệnh nhân
giải thích về những điều mà bệnh nhân trải nghiệm. Điều này thường đưa đến
những méo mó trong tiến trình tư duy, biểu hiện bằng những suy nghĩ tự động
tiêu cực. Những suy nghĩ tự động tiêu cực sẽ đưa đến những triệu chứng lo âu,
những đáp ứng hành vi và những xu hướng méo mó trong nhận thức.
Thông thường, đi kèm với bệnh tật là những xúc cảm âm tính làm người
bệnh giảm khí sắc, buồn rầu, ưu tư…
Cũng nhiều trường hợp xuất hiện xung cảm dưới dạng stress khiến người
bệnh lo âu, sợ hãi quá mức, có khi khiếp đảm, hoảng loạn.
Chúng ta cần chú ý: những xúc cảm âm tính vừa và nhẹ không có hại,
ngược lại, nó có tác dụng bảo vệ người bệnh trước bệnh tật, như:
+Trong trạng thái buồn, người bệnh giảm hoạt động để bảo tồn sinh lực.

5
+Xúc cảm sợ hãi, lo lắng thông thường là phản ứng tự nhiên của con người,
có tác dụng kích thích hệ thần kinh - nội tiết, tạo ra hội chứng thích nghi, tác động
dương tính lên những quá trình bệnh lý trung bình.
Nói chung, những xúc cảm thường gặp ở người bệnh như sau:
Sự sợ hãi:
Là phản ứng tự nhiên biểu lộ bản năng tự vệ của con người. Suy nghĩ đến
đầu tiên khi cảm nhận được bản thân bị bệnh là: bệnh có nặng không, có thể chữa
khỏi không, và có thể chết không?
Băn khoăn, lo lắng:
Đó là phản ứng của con người khi cảm thấy tự ti, bất lực, phụ thuộc. Bệnh
tật khiến họ không tự lo liệu được mà phải nhờ vả, phải lệ thuộc vào người khác
như cán bộ y tế hay chính người thân của mình.
Bực tức:
Là phản ứng khi người bệnh bị bó buộc, không làm được việc theo ý muốn
của mình. Bệnh nhân bực tức với chính bản thân mình và lan sang người khác.
Cảm xúc này được thể hiện bằng vẻ cau có, khó tính, hay bắt bẻ người khác, thậm
chí có khi sỉ vả hoặc hăm dọa nhân viên y tế.
Trầm cảm:
Đó là tâm trạng buồn chán, mặc cảm mình vô giá trị, bị bỏ rơi. Người bệnh
không còn tự tin vào bản thân, nhìn đời bằng mắt kính màu xám xịt. Trầm cảm
nặng có thể đưa đến tự sát.
Thoái lui:
Là một loại phản ứng phòng vệ, thoái lui trở lại giai đoạn phát triển tâm lý
trước đó, biểu hiện:
+Thu hẹp không gian và thời gian: lấy mình là trung tâm, không còn quan
tâm đến gì khác xung quanh mình. Thí dụ, không cần biết đến người thân hoặc
cán bộ y tế còn nhiều nhiệm vụ khác chứ không phải chỉ có một nhiệm vụ chăm
sóc cho mình.
+Lệ thuộc và ỉ lại: đây là biểu hiện quan trọng của sự thoái lui.
Chấn thương tâm lý thứ phát:
Những cảm xúc âm tính như lo lắng, sợ hãi, hốt hoảng…xảy ra cùng với
bệnh tật thường dẫn đến chấn thương tâm lý. Đặc biệt khi người bệnh được chẩn
6
đoán những bệnh nguy hiểm đối với sức khỏe hoặc đối với tính mạng đều có thể
gây ra sang chấn tâm lý, có khi đi đến tự sát.
Trong quá trình chữa bệnh thực thể, người thày thuốc phải rất quan tâm đến
việc nâng cao sức khỏe tâm lý nói chung và bồi dưỡng cảm xúc tích cực nói riêng
cho người bệnh. Có như vậy mới giúp cho điều trị có kết quả một cách toàn diện.
2.2.2.Nhân cách của người bệnh:
2.2.2.1.Nhắc lại một số kiểu nhân cách:
Kiểu nhân cách theo Pavlov:
Đây là nhân cách theo kiểu thần kinh mà Pavlov phân loại. Theo ông, con
người có hai quá trình hoạt động thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế. Những
thuộc tính trong quá trình hoạt động này là cường độ, tính cân bằng và tính linh
hoạt của hai quá trình thần kinh. Cường độ thể hiện mức độ hoạt động mạnh hoặc
nhẹ của quá trình hưng phấn và ức chế. Tính cân bằng đòi hỏi quá trình hoạt động
hưng phấn và ức chế cân bằng nhau. Sau hoạt động hưng phấn là sự ức chế. Tính
linh hoạt thể hiện sự chuyển đổi một cách linh hoạt giữa hai quá trình hưng phấn
và ức chế. Sự kết hợp giữa ba thuộc tính này ở con người có khác nhau và tạo nên
kiểu thần kinh và kiểu khí chất khác nhau:
+Kiểu thần kinh mạnh mẽ, cân bằng, linh hoạt: cho kiểu khí chất hăng hái.
+Kiểu TK mạnh mẽ, cân bằng, không linh hoạt: cho kiểu khí chất bình
thản.
+Kiểu TK mạnh mẽ, không cân bằng: cho kiểu khí chất nóng nảy.
+Kiểu thần kinh yếu: cho kiểu khí chất ưu tư.
Kiểu nhân cách theo Kretschmer:
Krestchmer là bác sĩ tâm thần Đức, đã phân chia ra 3 kiểu nhân cách chính
theo 3 kiểu thể tạng:
+Kiểu thể tạng mảnh khảnh: cho kiểu khí chất hướng nội, nhạy cảm, kín
đáo.
+Kiểu thể tạng béo mập: cho kiểu khí chất hướng ngoại, vui vẻ, hào phóng,
thích kết bạn.
+Kiểu thể tạng lực lưỡng: cho kiểu khí chất chậm chạp, tập trung, chung
thủy, dễ nổi giận, cứng nhắc.

7
Kiểu nhân cách theo Jung:
Carl Jung đưa ra hai kiểu nhân cách hướng ngoại và hướng nội. Các kiểu
này đều sử dụng năng lượng tâm lý để thực hiện chức năng của mình.
Người hướng ngoại thích hoạt động, dễ dàng giao tiếp với mọi người, vui
vẻ, dễ thích nghi với hoàn cảnh.
Người hướng nội thích yên tĩnh, ưa cô độc, hay suy tư, thường sống nặng
về phòng vệ.
2.2.2.2.Sự thay đổi nhân cách của người bệnh:
Một trạng thái bệnh mạn tính dần dần cũng có thể trở thành thuộc tính của
nhân cách. Đồng thời, một quá trình bệnh lý cũng có thể tác động lên toàn bộ
nhân cách người bệnh. Như vậy, bệnh tật có thể làm biến đổi nhân cách người
bệnh. Sau đây, chúng ta xem xét sự thay đổi nhân cách người bệnh theo cấu trúc 4
yếu tố của nhân cách:
Thay đổi về xu hướng nhân cách của người bệnh:
Nhắc lại về yếu tố xu hướng trong cấu trúc nhân cách của một người bình
thường: Xu hướng có chức năng định hướng giá trị cho cá nhân và là động cơ cho
mọi hoạt động của cá nhân đó, bao gồm:
Nhu cầu: Đó là cái mà cá thể cần và muốn có.
Hứng thú: Đem lại khoái cảm cho chủ thể khi hoạt động.
Nguyên vọng: Nhu cầu mà cá thể phải cố gắng, phấn đấu mới đạt được.
Ước mơ: Là những mong muốn hạnh phúc nhưng khó đạt được nên nó là
ước mơ của cá thể. Tuy nhiên, ước mơ có thể đạt được nếu nó có cơ sở thực tế
chứ không viển vông, đồng thời cá thể có ý chí mạnh mẽ để hiện thực hóa ước
mơ đó.
Lý tưởng: Là mục tiêu cao đẹp mà con người muốn vươn tới.
Niềm tin: Đó là sự tin tưởng vào điều mà cá thể cho là đúng, là sự thật.
Khi con người mắc bệnh, bệnh tật có thể làm thay đổi các yếu tố thuộc về
xu hướng này:
Nhu cầu của người bệnh lúc này duy nhất là sức khỏe.

8
Những hứng thú, những sở thích gác bỏ lại hết. Người bệnh chuyển trọng
tâm hứng thú, say mê, khát vọng về cuộc sống, về công việc hàng ngày của họ
sang việc theo dõi bệnh tật và tìm mọi cách để phòng và chữa bệnh.
Những quan điểm sống, cách xem xét thế giới xung quanh của người bệnh
bị thay đổi do sự chi phối của những nguyên nhân, diễn biến, tiên lượng của bệnh.
Những điều đó có thể khiến người bệnh nhìn cuộc đời một cách ảm đạm, bế tắc.
Mặt khác, chính sự suy sụp niềm tin, khát vọng sẽ làm cho người bệnh chán
chường. Đó là yếu tố dễ dẫn đến trạng thái trầm cảm. Đồng thời với sự nhìn nhận
nguyên nhân, tiên lượng bệnh một cách không khoa học, đôi khi mang tính thần
bí, bi quan đã làm cho bệnh nặng hơn.
Thực tế, trong một người bệnh luôn luôn có sự đấu tranh gay gắt giữa hy
vọng và thất vọng. Khi người bệnh có niềm hy vọng khỏi bệnh sẽ tạo nên sức
mạnh tinh thần, vật chất giúp người bệnh vượt qua được giai đoạn khó khăn của
bệnh tật. Vì vậy, người thày thuốc phải biết gieo niềm hy vọng thực sự có lợi cho
người bệnh.
Thay đổi về khí chất của người bệnh:
Khí chất của một con người là muốn nói về cường độ, tốc độ, nhịp độ của
hoạt động tâm lý người đó biểu lộ qua hành vi. Đó là kiểu hoạt động tâm lý của
một cá nhân, bao gồm:
+Kiểu hăng hái, sôi nổi: Đây là người tương ứng với kiểu thần kinh mạnh,
cân bằng, linh hoạt.
+Kiểu nóng nảy: Đây là người có kiểu thần kinh mạnh, không cân bằng,
hưng phấn mạnh hơn ức chế.
+Kiểu bình thản: Đây là người có kiểu thần kinh mạnh, cân bằng, không
linh hoạt.
+Kiểu ưu tư: Đây là người có kiểu thần kinh yếu, ức chế mạnh hơn hưng
phấn.
-Bệnh tật làm thay đổi đặc điểm khí chất người bệnh:
Thí dụ, khí chất nóng nảy, thiếu cân bằng hay gặp ở những bệnh nhân mắc
bệnh nhiễm trùng, có sốt cao…; trạng thái ù lì, chậm chạp hay gặp ở người bệnh
thiểu năng tuyến giáp.
-Ngược lại, những biến đổi khí chất sẽ ảnh hưởng đến quá trình bệnh tật của
người bệnh:
9
Thông thường, những người bệnh có nét đặc trưng của kiểu khí chất không
cân bằng, không linh hoạt và yếu sẽ rất dễ bị tổn thương do tác động của bệnh.
Họ dễ bị các bệnh nặng, kéo dài, điều trị khó khăn và bệnh dễ phát triển theo
chiều hướng ngày càng xấu đi.
Những người có khí chất linh hoạt, cân bằng, mạnh mẽ, sẽ ít bị tác động
của bệnh, họ có những đáp ứng hợp lý với bệnh tật, sẵn sàng hợp tác cùng thày
thuốc tìm phương pháp có hiệu quả để điều trị bệnh.
Thay đổi về năng lực hoạt động của người bệnh:
Năng lực là hệ thống khả năng đảm bảo các hoạt động của con người có kết
quả.
Khi bị bệnh, những hoạt động sáng tạo, sự tiếp thu kiến thức mới, sự khéo
léo trong công việc, sự đáp ứng hoạt động bản năng…của người bệnh giảm đi.
Sự thay đổi về năng lực, vốn sống, kinh nghiệm, những kiến thức bị biến
dạng tạo nên những khó khăn trong việc phòng, chữa bệnh và làm cho bệnh nặng
thêm.
Thay đổi về tính cách của người bệnh:
Tính cách là hệ thống thái độ, hành vi đối với xung quanh, với xã hội và
bản thân cá thể.
Bệnh tật có thể làm thay đổi tính cách vốn có của người bệnh. Nó có thể tạo
ra những nét tính cách mới đặc trưng cho nhân cách bệnh tật của họ, phá vỡ sự
hài hòa của các nét tính cách.
Những nét tính cách bị biến đổi, những thái độ, hành vi không bình thường
sẽ tác động xấu lên bệnh tật của người bệnh. Thí dụ, một sự hồ đồ, thiếu chín
chắn khi tiên lượng bệnh rất có thể dẫn đến những kết cục xấu cho người bệnh.
Cũng như vậy, một sự lạc quan tếu, coi thường bệnh tật sẽ làm cho người bệnh
nhanh chóng bị suy sụp.
-Nét tính cách hysteria:
Đặc điểm thứ nhất của tính cách hysteria là tính đa cảm. Người bệnh mang
nét tính cách này thường có cảm xúc mạnh mẽ, ấn tượng sâu sắc, mơ mộng, ích
kỉ, thích được chiều chuộng. Họ cũng dễ bực bội, sầu muộn, ủy mị. Đồng thời họ
có hành vi điệu bộ, kịch tính và cư xử thất thường.
Đặc điểm thứ hai của tính cách hysteria là tính dễ bị ám thị. Họ dễ bị ám thị
bởi các triệu chứng của những người bệnh xung quanh, tự ám thị tiêu cực về bệnh
10
tật của mình. Họ cũng thường khuyếch trương bệnh tật của mình, quá lo lắng
bệnh tật và đòi hỏi mọi người quan tâm đến mình.
Tuy nhiên, tính chịu ám thị lại khiến bệnh nhân dễ dàng nghe theo những
hướng dẫn điều trị của thày thuốc.
-Nét tính cách nghi ngờ, lo sợ:
Người bệnh thường lo âu, nghi ngờ, chú ý theo dõi những lời nói, những
nét mặt, những động tác của thầy thuốc khi khám bệnh, chú ý đến những kết quả
xét nghiệm…và thường có ý nghĩ ám ảnh tiêu cực về bệnh. Người bệnh cũng hay
lý sự, thiếu kiên quyết.
Thày thuốc cần hết sức chú ý trong khám xét, đưa ra chẩn đoán bệnh và
thông báo kết quả xét nghiệm cho bệnh nhân. Một sự thiếu thận trọng có thể
khiến cho bệnh tình của người bệnh nặng thêm, hoặc có thể gây hậu quả khó
lường.
-Nét tính cách suy nhược:
Người có nét tính cách này thường nhút nhát, yếu đuối, bị động, xúc cảm
không ổn định, khó tự chủ, dễ nản chí. Bệnh tật đối với những người này là một
gánh nặng. Họ rất nhạy cảm với đau đớn, lo sợ bệnh tật, đánh giá bi quan về kết
thúc của bệnh.
Tuy nhiên, người bệnh lại có óc quan sát tinh tế, có lòng hào hiệp…
Bệnh nhân cần nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn của thày thuốc
và của những người xung quanh.
Phản ứng nhân cách đối với bệnh tật:
Trong thực tế, chúng ta thường gặp các loại phản ứng nhân cách đối với
bệnh tật như sau:
-Phản ứng hợp tác:
Bệnh nhân hợp tác với cán bộ y tế trong quá trinh điều trị và chăm sóc
bệnh.
-Phản ứng nội tâm, bình tĩnh, chờ đợi:
Bệnh nhân có thái độ đúng đắn, nghiêm túc, không phản ứng bừa bãi mà
luôn lắng nghe, nghiền ngẫm từng lời nói của cán bộ y tế.

11
Đối với bệnh nhân kiểu này, nếu người cán bộ y tế có uy tín, tác động tâm
lý tốt sẽ được bệnh nhân tin tưởng. Ngược lại, nếu cán bộ y tế có sai sót sẽ khó
khôi phục niềm tin của họ.
-Phản ứng bàng quan:
Người bệnh coi thường bệnh tật, thờ ơ với tất cả. Bệnh nhân ít kêu ca mà
thường âm thầm chịu đựng.
Đối với những bệnh nhân này, cần động viên tính tích cực, chủ động trong
hồi phục sức khỏe của chính họ.
-Phản ứng hốt hoảng:
Những bệnh nhân này dễ hoang mang, dao động, dễ phản ứng, khó kiềm
chế. Cần kiên trì tác động tâm lý, trấn an người bệnh.
-Phản ứng tiêu cực:
Bệnh nhân dề rơi vào tình trạng bi quan, có thể tự sát. Cần tác động giúp
bệnh nhân thoát khỏi trạng thái bi quan, động viên niềm tin và hy vọng cho bệnh
nhân.
-Phản ứng nghi ngờ:
Bệnh nhân luôn nghi ngờ mọi chuyện, từ đó dễ hoang mang, dao động.
Thầy thuốc cần củng cố niềm tin cho bệnh nhân.
-Phản ứng phá hoại:
Những bệnh nhân này dễ phản ứng mạnh mẽ, có khi chống đối với nhân
viên, vô tổ chức, không chấp hành qui định.
Nhân viên cần nhẹ nhàng phân tích cho bệnh nhân hiểu về hành vi của
mình. Đồng thời cũng kiên quyết với những biểu hiện sai lầm của bệnh nhân.

12
TÂM LÝ NGƯỜI BỆNH

1.Tâm lý với một số yếu tố chung của người bệnh:


1.1.Tâm lý với các yếu tố dịch tễ học:
Mối quan hệ giữa bệnh tật và tâm lý chịu ảnh hưởng của các yếu tố dịch tễ
như giới tính, tuổi tác, học vấn, dân tộc, tôn giáo…của người bệnh.
Thí dụ, cần chú ý một số trường hợp như sau:
Bệnh nhân nữ hay e thẹn, nhưng họ thường xem xét kỹ lưỡng và dễ có ấn
tượng mạnh mẽ với những cảm nhận được ở sự phục vụ của nhân viên y tế. Họ có
lòng thương người sâu sắc và khả năng hy sinh to lớn, sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ
bệnh nhân khác. Nhưng bản thân họ cũng cần có sự quan tâm chu đáo hơn so với
bệnh nhân nam.
Bệnh nhân trẻ em có đặc điểm hồn nhiên, vô tư, hiếu động, dễ bị ám thị và
nhút nhát, lo sợ.
Những người cao tuổi thường bảo thủ, đa nghi, khó tính, bi quan. Họ hay
rối trí, hay yêu sách và khó thích nghi với hoàn cảnh mới.
Người có học vấn thấp thường dễ lo lắng một cách không tương xứng về
bệnh tật của mình.
Người bệnh là người dân tộc hay tôn giáo, nhiều khi suy nghĩ và hành động
theo lễ nghi, thói quen riêng biệt của mình, gây khó khăn cho phục vụ và điều trị.
1.2. Tâm lý với yếu tố đau:
Đau là yếu tố thường gặp nhất và đôi khi là yếu tố bao trùm nhất trong một
số bệnh. Cảm giác đau mang ý nghĩa thích nghi và bảo vệ người bệnh, nó là sự
chỉ điểm cho khả năng một ổ bệnh đang hình thành. Đau có vị trí khu trú hoặc lan
tỏa, có cường độ khác nhau tùy theo bệnh tật và mức độ biến đổi tâm lý của
người bệnh.
13
Về cơ chế thần kinh của đau: Trung khu đồi thị là nơi chọn lọc những kích
thích đau và chuyển lên trung khu phân tích ở vỏ não. Trường hợp đau mạnh và
kéo dài sẽ làm cho các chức năng liên kết của vỏ não bị rối loạn nghiêm trọng,
quá trình nội ức chế bị suy yếu, xuất hiện hiện tượng paradoxal (trạng thái giai
đoạn - kích thích nhẹ gây đau tăng) khiến người bệnh cảm nhận sự đau đớn tăng
lên rất nhiều.
Biểu hiện bên ngoài của cơn đau tập trung ở nét mặt đau khổ: Cơ trên lông
mày và cơ trán co mạnh làm cho lông mày kéo lệch lên trên và vào phía trong, hạ
xuống ở phía ngoài, tạo nên một nếp gần như thẳng đứng. Trên vùng trán xuất
hiện nhiều nếp nhăn, các cơ trên lông mày rung nhẹ. Sau đó là những biểu hiện
như môi mím chặt, mồm méo xệch, đồng tử giãn, mắt nhắm, chảy nước mắt, rên
la, các cơ căng cứng, vã mồ hôi, run lật bật…
Đau dữ dội và kéo dài buộc người bệnh phải giãy giụa, tìm cách đánh lạc
hướng đau như: hai tay nắm chặt, cắn răng hoặc gây đau chỗ khác…
Đau làm thay đổi trạng thái tâm lý và khả năng lao động của con người.
Đôi khi đau làm trụy tim mạch, gây sốc cho người bệnh.
Con người có thể vật lộn với cơn đau và có thể dùng tâm lý để khắc phục
cơn đau. Vỏ não đóng vai trò điều chỉnh cơ thể trong đấu tranh với cơn đau theo
qui luật cảm ứng hưng phấn ưu thế.
1.3.Tâm lý người bệnh và các giai đoạn phát triển bệnh
1.3.1.Giai đoạn khởi phát của bệnh:
Đây là giai đoạn hình thành ổ hưng phấn bệnh lý, ưu thế và kèm theo những
thay đổi tâm lý. Các nhân tố xúc cảm mang tính stress gây tác động mạnh trên
người bệnh.
Nếu bệnh khởi phát đột ngột, sẽ kéo theo các hoạt động tâm lý biến đổi dữ
dội, có thể làm thay đổi chức năng điều tiết, phá vỡ định hình tâm lý cũ, thiết lập
định hình tâm lý mới.
1.3.2.Giai đoạn toàn phát:
Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hình thành căn nguyên tâm lý của
người bệnh, xuất hiện stress và hội chứng thích nghi. Đặc biệt, ở bệnh nhân diễn
ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa hy vọng và thất vọng. Trong giai đoạn này, tình
trạng ám thị của người bệnh tăng lên.
1.3.3.Giai đoạn cuối:
14
Nếu bệnh tiến triển tốt thì xúc cảm dương tính của người bệnh tăng cao: khí
sắc tăng, vui tươi, phấn chấn, tri giác nhạy bén. Họ nhìn về tương lai với niềm lạc
quan, sức sống dồi dào, mở rộng phạm vi hứng thú, tính tích cực tăng. Tuy nhiên,
cần lưu ý có khi bệnh nhân đánh giá quá mức về khả năng của mình.
Nếu bệnh tiến triển xấu thì sự biến đổi tâm lý trầm trọng sẽ xảy ra đồng
thời với những biến đổi thực thể, cường độ cảm xúc âm tính tăng, thế giới nội tâm
khô cạn, tính tích cực bị suy sụp và xuất hiện trạng thái bất mãn, thất vọng…
Khi bệnh chuyển sang giai đoạn mạn tính, hoặc người bệnh bị tàn phế,
mang khuyết tật về thẩm mĩ, thiếu hụt về chi thể, mất chức năng của cơ quan
phân tích, mất khả năng lao động nghề nghiệp…thì cơ chế thích nghi, vai trò bù
trừ của các hoạt động tâm lý, nhân cách và tác động tâm lý có một ý nghĩa to lớn.
2.Tâm lý người bệnh và bệnh thực thể:
2.1.Đặc điểm tâm lý người bệnh tim mạch:
2.1.1.Người bị bệnh động mạch vành, nhồi máu cơ tim:
Những người bệnh này có thể rơi vào một trong ba hội chứng sau:
-Hội chứng sảng khoái bệnh lý:
Người bệnh tăng khí sắc: tươi tỉnh, cởi mở, nói nhiều, phán đoán nông cạn,
đánh giá không đúng về mức độ nặng, nhẹ của bệnh. Bệnh nhân luôn vận động
tay chân, đứng ngồi không yên.
-Hội chứng nghi bệnh, loạn cảm giác:
Người bệnh có cảm giác tê, buồn, co thắt ở vùng ngực và vùng cổ, kim
châm ở vùng tim. Họ rối loạn giấc ngủ: ngủ đứt quãng; rối loạn cảm xúc: hay hốt
hoảng, lo sợ, dễ bị xúc động và thường có biểu hiện trạng thái suy nhược.
-Hội chứng giống suy nhược thần kinh:
Người bệnh khó chịu với ánh sáng và tiếng động; Khí sắc không ổn định:
hay giận hờn, cáu gắt, dễ bị kích động, có khi khóc sướt mướt; Có biểu hiện suy
kiệt, làm việc kém hiệu quả.
2.1.2.Người bị bệnh cao huyết áp:
Người bệnh thường trong trạng thái u ám, mặc cảm và thờ ơ với xung
quanh, nhưng dễ bị kích thích, khó tiếp xúc.
2.1.3.Bệnh nhân bị vữa xơ mạch não:

15
Người bệnh dễ xúc động, khó kiềm chế những hành động bột phát, có khi
nói nhiều, khoa trương. Bệnh nhân thường có thái độ khoan dung, tuy nhiên, có
khi lại bảo thủ. Khả năng lao động sáng tạo của bệnh nhân giảm.
Lưu ý: Những người có tính cách mạnh, có ý chí vươn lên đạt mục đích,
không thỏa mãn trong công việc, hăng hái đấu tranh…thường dễ mắc bệnh tim
mạch.
2.2.Đặc điểm tâm lý người bệnh gan - mật:
Bệnh lý gan – mật như suy gan, xơ gan, viêm gan, viêm đường dẫn mật, túi
mật…gây ra hiện tượng nhiễm độc gan của cơ thể, sau đó là nhiễm độc hệ thần
kinh. Chất độc trong máu tăng lên khác thường ở người bệnh gan có thể do các cơ
chế sau:
+Chức năng khử độc của gan bị suy giảm, những chất độc của cơ thể không
được thanh lọc, ngày càng tồn đọng trong cơ thể.
+Chức năng chuyển hóa của gan bị rối loạn: quá trình chuyển hóa các chất
protid, lipid, glucid không thành những sản phẩm cuối cùng nên các sản phẩm
chuyển hóa bị dở dang đó được đưa thẳng vào máu, gây độc cho cơ thể.
+Hệ thống mật bị tổn thương do tế bào gan bị vỡ, đường dẫn mật bị tắc…
nên sắc tố mật, muối mật đổ trực tiếp vào máu và trở thành những chất gây độc
cho cơ thể.
Lượng chất độc tăng cao trong máu đã làm nhiễm độc hệ thần kinh và toàn
bộ cơ thể người bệnh. Tùy theo mức độ nhiễm độc mà tâm lý người bệnh biến đổi
nhiều hay ít, mạnh mẽ hay từ từ.
Những biến đổi tâm lý của những người bệnh này biểu hiện: thường rất
nóng nảy, khó tính, hay cáu gắt, bực tức và nặng về xúc cảm âm tính. Đặc biệt,
bệnh nhân có tính cách hay mỉa mai, nhạo báng, đôi khi đa nghi và độc ác.
2.3. Đặc điểm tâm lý người bệnh dày – tá tràng:
Những người bị loét dạ dày – tá tràng thường có biểu hiện của hưng phấn
mạnh hơn ức chế. Họ có tính khí thất thường, thiếu kiên trì, nhẫn nại, khó kiềm
chế, rất nóng tính, dễ kích thích…
Người bệnh khó làm chủ thói quen, không bỏ được thói quen như uống
rượu, ăn ớt cay, hút thuốc lá… và khó chấp hành các chế độ ăn kiêng.
Những người viêm dạ dày mạn tính thường hay thờ ơ, lạnh nhạt, vô cảm,
có khi trầm cảm, nghi bệnh, lo lắng, sợ hãi.
16
2.4. Đặc điểm tâm lý người bệnh truyền nhiễm:
Tâm lý chung người bệnh nhiễm trùng:
Tâm lý người bệnh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố nhiễm trùng. Có khi
chỉ những nhiễm trùng nhẹ cũng gây ra biến đổi tâm lý rõ rệt. Những nhiễm trùng
nặng có thể gây ra rối loạn tâm thần.
Người bệnh nhiễm trùng có sốt cao, tâm lý biến đổi theo hướng sảng khoái,
hưng phấn vận động, ngôn ngữ. Đây chỉ là hiện tượng hưng phấn giả tạo hoặc chỉ
là những phản ứng ban đầu.
Một số thể nhiễm trùng nặng, kéo dài thường gây ra ức chế các hoạt động
tâm lý. Người bệnh suy kiệt, hành động thiếu suy nghĩ, giảm hoạt động trí tuệ và
nỗ lực ý chí giảm.
Những nhiễm khuẩn có tổn thương thần kinh thường gây đau đầu dữ dội,
bệnh nhân bị kích thích, mất ngủ.
Người bệnh thương hàn có tâm trạng buồn rầu, uể oải, bơ phờ, ý thức lơ mơ, có
khi vô cảm…
Tâm lý của bệnh nhân lao:
Có nhiều nghiên cứu về những biến đổi tâm lý ở người bị bệnh lao,
nhất là lao phổi, nhưng kết quả của những nghiên cứu này rất khác nhau:
+Có tác giả nhận thấy ở những bệnh nhân này có biến đổi nhẹ về khí
sắc: hay cáu gắt, nhạy cảm với những sang chấn tâm lý và vật lý. Nhân cách
biến đổi: cả tin một cách kì lạ, rất ích kỉ. Ý chí và trí tuệ giảm sút ở mức độ
nhất định dẫn đến giảm khả năng phê phán, gặp nhiều khó khăn trong giải
quyết những vấn đề bức thiết. Bệnh nhân có khuynh hướng sợ hãi, có thể có
ảo giác mang tính phản ứng. Có khi bệnh nhân biểu hiện tự đề cao thể lực
của bản thân.
+Có tác giả nhận thấy các thuộc tính tâm lý cơ bản của người bệnh lao
bị biến đổi trầm trọng. Người bệnh đa sầu, đa cảm, ích kỉ, khó tính, song lại
có thể có tìm tòi, sáng tạo độc đáo.
+Có tác giả cho rằng, những chất độc đang tràn ngập ở não và hệ thần
kinh đã kích thích làm cho người bệnh có trí tuệ xuất sắc, có đời sống tâm
hồn đẹp đẽ và khả năng rung cảm cao…
+Cũng có ý kiến cho rằng sự tế nhị và tinh vi về tâm lý, đảm đang
trong cuộc sống là những đặc điểm nổi bật ở những bệnh nhân này.
17
Trong trạng thái hấp hối, người bệnh có trạng thái sảng khoái, hưng
phấn mãnh liệt, đánh giá cao khả năng bản thân, kích động, lạc quan tếu …
2.5. Đặc điểm tâm lý người bệnh nội tiết:
Các yếu tố nội tiết có ảnh hưởng to lớn đến trạng thái, thậm chí đến cả
thuộc tính tâm lý của người bệnh. Tùy theo loại nội tiết bị rối loạn mà tâm lý
người bệnh có những biến đổi khác nhau:
2.5.1.Người bệnh cường tuyến giáp:
Những người bệnh này có khí sắc không ổn định, có những cơn buồn rầu,
sợ hãi mang tính chu kì.
Sự nhiễm độc thyroxin có biểu hiện: tri giác nhanh và chính xác, tính tình
cởi mở. Cơ thể trong trạng thái suy nhược, khó ngủ, nhưng trí tuệ thường không
bị rối loạn.
2.5.2.Người bệnh nhược năng tuyến giáp:
Trí nhớ và trí tuệ giảm, lượng từ nghèo, ngôn ngữ đơn điệu, thính giác và
thị giác kém, nhịp điệu hoạt động tâm lý và vận động giảm.
Bệnh nhân có thể trong trạng thái vô cảm, khó tiếp xúc, nét mặt đờ đẫn,
luôn có biểu hiện của người đang thiu thiu ngủ…
2.5.3.Người bệnh thiểu năng tuyến sinh dục:
Người bệnh có biểu hiện nhi tính, ngây thơ, phán đoán nông cạn, tính cách
phụ thuộc, yếu đuối, khả năng hoạt động sinh dục kém.
2.5.4.Người bệnh đái tháo đường:
Có tới 50% số bệnh nhân này bị biến đổi về tâm lý. Sự biến đổi của họ theo
chiều hướng tăng xúc cảm, nhiều lời, hay kể về cái cũ, dễ va chạm với người
xung quanh, cáu gắt, dễ thực hiện những hành động không tính toán.
2.6.Đặc điểm tâm lý người bệnh ung thư:
Những người bệnh này thường không được biết chính xác về kết quả chẩn
đoán bệnh cho họ. Họ tò mò, tìm hiểu nơi thày thuốc và những người xung
quanh. Họ sợ bị ung thư, sợ chết.
Họ có trạng thái suy nhược, tăng ám thị, sẵn sàng nghe theo bất kì ai, miễn
là giúp họ khỏi bệnh hoặc làm dịu cơn đau. Nhiều người tỏ ra thất vọng, tiêu cực,
sợ trở thành gánh nặng đối với người thân. Họ thậm chí đi đến không thiết sống,
muốn tự sát.
18
2.7. Đặc điểm tâm lý người bệnh da liễu:
Những người bệnh da liễu, nhất là những người bị bệnh hoa liễu thường có
tâm lý ngượng ngùng, sợ sự tò mò của người xung quanh nên tự cách li khỏi xã
hội, không cho người khác biết bệnh của mình và thường tự chữa bệnh một cách
lén lút. Họ lo lắng cho viễn cảnh sau này của gia đình, của bản thân, lo ảnh hưởng
đến công việc và uy tín cá nhân. Có người chán chường, thậm chí nảy sinh ý định
làm lây bệnh, hại người khác.
2.8. Đặc điểm tâm lý người bệnh bỏng:
Tâm lý người bệnh trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu:
Người bệnh có phản ứng hoảng sợ, sững sờ, tự dằn vặt mình, nhất là khi bị
bỏng do tự mình vô ý gây ra.
Giai đoạn bệnh phát triển:
Người bệnh có những đánh giá khác nhau về mức độ nặng nhẹ của bỏng.
Những người bị bỏng nông, do kích thích đau tăng nên thường cho là mình bị
bỏng nặng. Ngược lại, những người bị bỏng diện rộng, bỏng sâu (độ III trở lên)
do mất hết cảm giác đau, bị choáng và nhiễm trùng nặng…có khi họ lại không
thấy hết mức độ nặng của bệnh và có những lạc quan giả tạo.
Giai đoạn hồi phục:
Người bệnh lo lắng khi có những di chứng về chức năng như: di chứng ở
các giác quan, ở cơ quan vận động và di chứng thực thể như sẹo ở da, đặc biệt là
da mặt, sẹo lồi, sẹo co kéo.
Di chứng về thẩm mĩ nhiều khi rất nặng nề, nhất là ở bệnh nhân nữ bị bỏng
ở mặt, đôi khi họ muốn tự sát nếu không có ý chí vững vàng.
2.9. Đặc điểm tâm lý người bệnh sản phụ:
Những thời kì thay đổi về sinh lý kinh nguyệt đều kéo theo những thay đổi
về tâm lý như: dễ bị kích thích, hay cáu gắt, lo lắng, dễ mệt mỏi, đau đầu, đau
vùng thắt lưng…
Những người mắc bệnh phụ khoa thường có tâm lý kín đáo, ngượng ngùng,
lo sợ, nhất là ở người ít tuổi. Họ lo lắng đến tương lai của bản thân, của gia đình
và con cái.

19
Khi phụ nữ mang thai, tâm lý phụ thuộc vào số lần mang thai, vào đặc điểm
của thai nhi, đặc điểm tâm lý của bản thân, của chồng, của người thân trong gia
đình và phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế, đạo đức, XH…
Cũng khi mang thai, do nhu cầu phát triển của thai nhi và chuẩn bị cho việc
sinh con, nuôi con bằng sữa khiến cơ thể người mẹ có những thay đổi rõ rệt. Lúc
đầu, họ lo lắng khi thấy cơ thể phát triển khác thường, thiếu hấp dẫn đối với
chồng, ảnh hưởng đến các thói quen vận động, đi lại hàng ngày…Sau đó họ lo
chuyện sinh đẻ, lo về thai nhi khi ra đời.
Nhìn chung, họ phấn khởi, hài lòng khi mọi việc diễn ra thuận lợi, hợp với
mong muốn của bản thân và gia đình.
2.10.Đặc điểm tâm lý người bệnh tiết niệu:
2.10.1. Đặc điểm tâm lý chung:
Phản ứng của người bệnh phụ thuộc vào khả năng bảo tồn chức năng của
các cơ quan tiết niệu, sinh dục.
Nhìn chung, những người bệnh này lúc đầu e thẹn, ngại tiếp xúc với thày
thuốc hoặc ngại đến chỗ đông người.
Khi bệnh chuyển sang mạn tính, phản ứng của họ luôn thay đổi, đôi khi
người bệnh rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, từ chối ăn uống. Cũng có khi họ không
còn biết lo sợ, đỡ xấu hổ.
2.10.2.Tâm lý người bệnh cho và ghép thận:
Tâm lý người bệnh ghép thận rất phức tạp. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
tâm lý của người nhận cũng như người cho thận trong cả hai thời kì trước và sau
ghép thận. Những chức năng tâm lý của họ lại tác động không nhỏ tới quá trình
dung nạp hay đào thải thận ở người nhận, tới sự hẫng hụt của người cho do mất
một thận. Nó còn tác động đến sức khỏe, đến quá trình thích nghi XH của cả
người cho và người nhận.
Tâm lý người nhận thận:
Những người cần được ghép thận thường là người cả hai thận đều mất hoặc
giảm trầm trọng khả năng lọc và bài tiết các chất thải của cơ thể qua đường nước
tiểu. Ure và một số chất độc ứ đọng trong cơ thể sẽ làm cho người bệnh giảm sút
trí tuệ, giảm khả năng tập trung chú ý, hạn chế sự điều phối cảm giác - vận động,
và đôi khi gây ra cuồng sảng.

20
Chạy thận nhân tạo và một số biện pháp khác có thể thay thế phần nào cho
việc lọc và bài tiết của thận. Tuy nhiên, sự phụ thuộc hoàn toàn vào máy chạy
thận nhân tạo đã phá vỡ nhịp điệu cuộc sống của người bệnh và còn có thể gây ra
những rối loạn stress, tỉ lệ tự sát cao so với người bình thường.
Trong thời kì chờ đợi ghép thận, thường gặp trầm cảm, và nó cũng là dấu
hiệu báo cho sự cần thiết phải tiếp tục chạy thận nhân tạo cho người bệnh. Ở mức
độ nhẹ, trầm cảm như là một phản ứng bình thường của con người trước việc thận
mất chức năng hoạt động. Ở mức độ nặng, trầm cảm là một bệnh lý. Người bệnh
mất khả năng tự phục vụ, khép kín những suy nghĩ, cảm xúc, đôi khi có cơn bùng
phát, có ý định tự sát. Trước khi ghép thận 1-2 ngày, trầm cảm càng tăng cao. Có
thể coi đây một phản ứng của cơ thể trước việc phải chấp nhận quả thận mới.
Sau khi được ghép thận, người bệnh có tâm trạng phấn chấn, sảng khoái
như được hồi sinh. Nếu ca ghép thành công, những biến đổi tâm lý sau ghép xuất
hiện ở mức thấp. Trầm cảm sẽ giảm dần cùng với việc giải quyết ổn thỏa các biến
chứng và sự cải thiện về thể chất của người bệnh. Trầm cảm sau ghép cũng có thể
gặp khi người bệnh chờ đợi, hy vọng quá cao về tiềm năng, thể chất của thận
ghép. Trầm cảm diễn ra cùng với quá trình thải ghép cấp hoặc mạn tính.
Sự sợ hãi, lo âu cũng tăng cao ở người được ghép thận. Sự lo lắng liên quan
mật thiết với quá trình chờ đợi, tuyển chọn người cho thận, với quá trình lọc máu
trước khi được ghép và nhất là với quá trình thải ghép. Người được ghép thận vừa
có biểu hiện sợ chết, sợ thải thận ghép, vừa lo cho quá trình sống tiếp diễn với sự
thiếu hụt và bệnh tật. Chính những điều này đã ngăn cản họ hòa nhập vào cuộc
sống XH.
Sự lệ thuộc suốt đời vào thuốc ức chế miễn dịch để chống lại sự thải ghép
cũng gây ra những biến đổi tâm lý ở người nhận thận. Một trong những tác dụng
phụ của thuốc loại steroid là gây ra hiện tượng giống hội chứng Cushing: Mặt
tròn như mặt trăng, có nhiều mụn trứng cá, lông và râu rậm hơn…Những thay đổi
cơ thể này làm cho bệnh nhân đau khổ và rối loạn cảm xúc.
Người nhận thận cũng thường có mặc cảm tội lỗi về sự đau đớn của người
cho thận, đôi khi cảm thấy mình không xứng đáng với hành động cao thượng của
người cho thận.
Lúc đầu, người bệnh chấp nhận thận mới về mặt tâm lý hơn là sinh lý. Họ
coi thận mới là vật sở hữu của người cho hơn là của chính mình. Họ cho bộ phận
cơ quan mới này thật buồn cười và tin rằng mình đang mang một vật thể mỏng
manh, dễ vỡ, không nên xô đẩy. Sau đó là quá trình sáp nhập cục bộ, người bệnh

21
không để ý đến thận mới và không thấy có sự ngoại lai trong cơ thể mình. Cuối
cùng là sự sáp nhập hoàn toàn.
Sự thích nghi với cuộc sống có thêm thận mới ở người được ghép thận thể
hiện ở chỗ: Về mặt thể chất, họ thấy được cải thiện một bước. Về mặt cảm xúc,
họ làm chủ được số phận của mình, hài lòng với vai trò của mình trong cuộc
sống; về mặt XH, họ thấy mình cần tiếp tục làm việc và học tập, mặc dù kết quả
lao động của họ không cao.
Tâm lý người cho thận:
Đặc điểm tâm lý người cho thận có những nét giống với người bị bệnh lý
ngoại khoa tổng quát. Trong thời kỳ chuẩn bị ghép thận, họ rất căng thẳng. Sự lo
lắng, căng thẳng này có thể do người cho thận phải chịu những khám xét lâm
sàng và cận lâm sàng phức tạp để đánh giá sức khỏe, đánh giá chức năng thận và
đánh giá mức độ phù hợp về miễn dịch - tế bào giữa người cho và người nhận
thận.
Quyết định cho thận được coi là hành động bùng phát, do tích tụ cảm xúc
cao độ. Yếu tố quyết định của hành động tự nguyện này là mối quan hệ tình cảm
giữa người cho và người nhận, cùng với những ràng buộc cá nhân khác.
Trong số những đôi ghép thận vừa qua ở Việt nam, người cho đều là những
người sống bình thường và có quan hệ huyết thống với người nhận. Sau phẫu
thuật ghép tạng, người cho thích ứng nhanh với cuộc sống chỉ còn một thận. Họ
lo lắng về kết quả phẫu thuật, về sức khỏe, và cùng với người nhận thận, họ quan
tâm theo dõi tỉ mỉ hoạt động của thận ghép.
Nếu ca ghép thành công, người cho cảm thấy hài lòng về hành động vì
người khác của mình. Nếu ca ghép có biến chứng, họ lo lắng, buồn rầu. Họ cảm
thấy cô đơn, đau khổ và cho mình là người phải gánh chịu trách nhiệm khi sự thải
thận ghép xảy ra ở người nhận.
Nhìn chung, người cho thận giàu cảm xúc, vị tha, can đảm, thích quan tâm
đến người khác và cũng muốn được mọi người quan tâm đến mình.
Có nhiều vấn đề tâm lý trong ghép thận nói riêng và trong ghép tạng nói
chung còn chưa được tìm hiểu đầy đủ, song vai trò của yếu tố tâm lý đã được
thực tế khẳng định là quan trọng không kém gì những vấn đề về kĩ thuật, về kinh
tế và XH. Nếu cả người cho và người nhận được chuẩn bị tốt về tâm lý trước khi
ghép, và tiến hành nghiêm túc liệu pháp tâm lý, tạo được môi trường tâm lý thuận
lợi sau ghép thì chắc chắn kết quả sẽ được mĩ mãn.

22
2.11. Đặc điểm tâm lý người bệnh phẫu thuật:
Đối với phẫu thuật, thái độ của người bệnh hoặc là quá lo sợ, sợ biến chứng,
sợ chết, hoặc không tin tưởng vào chẩn đoán và kết quả phẫu thuật. Tuy nhiên,
cũng có người lạc quan cho rằng sau mổ là khỏi bệnh hoàn toàn.
Sự biến đổi tâm lý của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào các giai đoạn
phẫu thuật.
Khi chuẩn bị phẫu thuật:
Người bệnh hay lo lắng về nơi phẫu thuật, quan tâm đến những lời bàn tán
về trình độ của bác sĩ phẫu thuật chính, về cách mổ và các điều khác liên quan
đến cuộc mổ.
Giai đoạn tiền phẫu thuật và trong phẫu thuật:
Trong giai đoạn này, những người bệnh được châm tê hoặc gây tê, gây mê
không hoàn toàn (ý thức còn tỉnh) lo lắng vì tiếng va chạm của dụng cụ. Họ chú ý
theo dõi không khí tâm lý trong cuộc mổ, những lời bàn tán của phẫu thuật viên.
Giai đoạn hậu phẫu:
Người bệnh lo lắng vì đau đớn, lo bị tai biến sau mổ, lo cho việc lành sẹo
và hồi phục sức khỏe.
Lúc này thái độ khách quan, lời nói động viên, sự giúp đỡ tận tình…của
thày thuốc, của người thân và của những người xung quanh là rất cần thiết, có tác
dụng hỗ trợ cho người bệnh vượt qua khó khăn của phẫu thuật và bệnh tật.
3.Đặc điểm tâm lý người nhà bệnh nhân:
Người nhà bệnh nhân là người có quan hệ với bệnh nhân mà thày thuốc
đang khám bệnh và điều trị. Số phận của bệnh nhân đối với họ là vô cùng quí giá,
do vậy, đôi khi họ sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng có hành vi dũng cảm, anh hùng cho
người thân họ.
Người nhà bệnh nhân có đặc điểm: Dễ hoang mang, xúc động, dễ khóc lóc.
Họ đòi hỏi nhân viên y tế phải hết sức khẩn trương và phải quan tâm cao nhất với
người thân của họ. Do không hiểu chuyên môn, họ luôn cho vấn đề của người
thân của họ là nghiêm trọng. Đôi khi họ đưa ra những yêu cầu khác nhau, tranh
luận, chỉ trích thày thuốc. Họ có thể nổi nóng đến tột độ và nhắm vào người thày
thuốc. Trong những trường hợp như vậy, người thày thuốc phải chịu đựng sự
căng thẳng hết mức về cảm xúc và ý chí.

23
Thái độ của người thày thuốc trong xử lý tình trạng bệnh lý của bệnh nhân
thường là nguyên nhân khơi gợi các chiều hướng cảm xúc âm tính hay dương tính
của người nhà bệnh nhân. Do vậy người thày thuốc phải luôn luôn thận trọng và
xem lại mình.
Tuy nhiên, người thày thuốc cũng phải biết dựa vào thân nhân của bệnh
nhân khi cần thiết để giúp thuận lợi cho việc điều trị bệnh nhân có kết quả.
Vai trò của gia đình trong chăm sóc SK người bệnh:
+ Cung cấp các thông tin về người bệnh và quá trình bệnh lý của người
bệnh.
+ Cung cấp các thông tin về gia đình người bệnh: bệnh di truyền, bệnh tính
chất gia đình, các dị tật gia đình, các đặc điểm riêng của gia đình…
+ Hỗ trợ CB y tế chăm sóc người bệnh: chế độ dinh dưỡng, dùng thuốc
đúng chỉ định, các hoạt động vật lý luyện tập…
+ Thông tin cho CBYT những diễn biến mới nhất của người bệnh trong quá
trình điều trị.
+Hỗ trợ người bệnh về cảm xúc, tâm lý.
+ Có tâm lý ổn định hơn người bệnh, giữ được bình tĩnh hơn khi nhận tin
xấu.
Một số điểm cần chú ý khi giao tiếp với gia đình người bệnh:
+ Nếu người bệnh 18 tuổi trở lên, có khả năng giao tiếp, thầy thuốc chỉ trao
đổi và cung cấp thông tin cho người nhà khi được sự đồng ý của người bệnh. (Qui
định về y đức).
+ Nếu người bệnh trong tình trạng cấp cứu, hoặc không thể giao tiếp, TT
cần lưu ý: Không cẩn phải giao tiếp với nhiều người trong gia đình. Nên đề nghị
gia đình cử một người đại điện, đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng giao tiếp và có uy
tín trong gia đình.
+ Nếu người bệnh dưới 18 tuổi, Thông tin sẽ trao đổi với người bảo hộ trẻ.
+ Khi người bệnh không có gia đình cùng đi: có thể trao đổi thông tin với
người đưa BN vào viện về tình trạng trước khi vào viện.
+ Với BN chỉ có người chăm sóc do gia đình thuê, TT không cần cung cấp
thông tin cho người này, mà phải mời người nhà thật sự để trao đổi.
+ Không thông tin cho người thân trước mặt người bệnh.
24
Cần chú ý nguyên tắc: mang lại lợi ích tốt nhất cho người bệnh trong chăm sóc
SK.
THAM VẤN CHĂM SÓC SỨC KHỎE
1. Đặc điểm tham vấn chăm sóc sức khỏe:
1.1.Yêu cầu tham vấn:
Tham vấn chăm sóc sức khỏe là một hoạt động xảy ra giữa một bên gồm
một người hoặc một nhóm người (thân chủ hoặc bệnh nhân) tìm kiếm sự hỗ trợ từ
một người khác (nhà tham vấn hoặc trị liệu tâm lý) có chuyên môn và kinh
nghiệm trợ giúp tâm lý cho họ.
Như vậy, hoạt động tham vấn này được bắt nguồn từ sự yêu cầu của thân
chủ. Có ba khả năng có thể xảy ra với sự yêu cầu này:
-Thân chủ là người trực tiếp yêu cầu: Thân chủ chủ động tìm đến nhà tâm lý để
được trợ giúp và anh/chị ta cảm thấy mình không thể tự giải quyết vấn đề của
mình.
-Người đại diện ra yêu cầu giúp thân chủ: Đây là trường hợp thân chủ còn quá
nhỏ, chưa thể tự đưa ra yêu cầu. Cũng có thể là người trưởng thành nhưng bị ốm
đau hoặc chấn thương tâm thần nặng…Khi đó gia đình hoặc người thân thay thế
thân chủ đưa ra yêu cầu.
-Yêu cầu được đưa ra bởi nhà chuyên môn khác: Đó có thể là Bác sĩ, Ban Giám
hiệu nhà trường, Luật sư, Cán sự xã hội…khi các nhà chuyên môn cần một ý kiến
chuyên sâu về tâm lý học, giám định hoặc thân chủ của họ cần sự trợ giúp đặc
biệt về tâm lý.
1.2.Phân biệt giữa Tham vấn tâm lý và Trị liệu tâm lý:
1.2.1.Khái niệm về tư vấn tâm lý:
Tư vấn, tiếng Anh là consultation: sự hỏi ý kiến, sự tham khảo hay sự bàn
bạc trao đổi ý kiến. Theo Từ điển tiếng Việt: để hỏi ý kiến, bàn góp vào.
Tư vấn được xem là mối quan hệ mà ở đó người chuyên gia đưa ra sự trợ
giúp cho cá nhân hay tổ chức có nhu cầu giải quyết các vấn đề khó khăn.
Trên thực tế, có nhiều loại hình tư vấn như tư vấn hướng nghiệp, tư vấn
giáo dục, tư vấn sức khỏe, tư vấn pháp luật, tư vấn kinh tế, kinh doanh…
Tư vấn tâm lý sức khỏe có các đặc trưng như sau:

25
-Mục tiêu: chủ yếu là hướng tới giải quyết vấn đề hiện tại, vấn đề cần được giải
quyết tức thời, nên nó thường diễn ra trong thời gian ngắn.
-Phương thức: Một chiều: thường là nhà tư vấn cung cấp thông tin hay đưa ra lời
khuyên bổ ích với đầy đủ kiến thức chuyên sâu về vấn đề cần tư vấn.
-Mối quan hệ trong tư vấn: là mối quan hệ “trên – dưới”: một người được coi là
“uyên bác” với những thông tin chuyên môn, đối tượng của họ là người được xem
như “thiếu hiểu biết” về vấn đề liên quan đó.
Ở tư vấn tâm lý không có sự tương tác tích cực giữa người tư vấn và người
được tư vấn.
1.2.2.Khái niệm về tham vấn tâm lý:
Tham vấn, tiếng Anh là counseling, theo tác giả Pie, trofesa J.J., Carl
Rogers ,Stefflre, Gustad, Tyler, Trần Quốc Thành, Trần Thị Minh Đức: tham vấn
là một tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn - người có nghề chuyên môn
và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật
thừa nhận – với thân chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lý cần được
giúp đỡ.
Thông qua các kỹ năng trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình, giúp thân chủ
hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết
vấn đề của chính mình.
Tham vấn tâm lý có những đặc trưng (khác với tư vấn) như sau:
-Mục tiêu của tham vấn tâm lý không chỉ hướng tới giải quyết vấn đề hiện tại mà
còn hướng tới mục tiêu lâu dài hơn, đó là giúp thân chủ nâng cao khả năng tự giải
quyết vấn đề sau khi được tham vấn.
Nói một cách cụ thể hơn, mục tiêu là giúp thân chủ giảm bớt cảm xúc tiêu
cực, tăng thêm hiểu biết về bản thân và hoàn cảnh của mình, chấp nhận vấn đề và
giúp thân chủ tự đưa ra quyết định giải quyết vấn đề của mình.
-Phương thức tham vấn là một tiến trình với các hoạt động xây dựng mối quan
hệ, khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề.
-Mối quan hệ trong tham vấn là mối quan hệ giao tiếp đặc biệt, đòi hỏi sự tương
tác tích cực giữa người làm tham vấn, là người trợ giúp, với thân chủ, là người có
vấn đề về tâm lý xã hội bởi nhiều lý do khác nhau.
1.2.3.Khái niệm về trị liệu tâm lý:

26
Theo từ điển Wikipedia, Tâm lý trị liệu là một hệ thống các kỹ thuật được
thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các vấn đề về cảm xúc và
hành vi của các cá nhân – những người được gọi là thân chủ. Những vấn đề này
thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống
và đạt đến các mục đích mong muốn của mình.
Theo Ngô Gia Hy, Tâm lý trị liệu là điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc
bằng các phương pháp tâm lý. Trong liệu pháp tâm lý, bệnh nhân trò chuyện với
nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan
hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu.
-Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái
nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những hành vi đã
định hình của người bệnh.
Như vậy, về cơ bản, khái niệm về Tâm lý trị liệu rất giống với khái niệm về
Tham vấn tâm lý nêu ở mục trên. Vậy mối quan hệ giữa chúng ra sao?
Theo quan điểm của Patterson C.H.: “ Nếu chúng ta đề nghị các nhà
chuyên môn tham vấn tâm lý và trị liệu tâm lý lập danh sách những lý luận được
xem xét thuộc về mỗi loại khái niệm trên, sẽ có sự chồng lấn rất lớn giữa hai loại.
Sự khó khăn trong việc xác định lý luận cái gì thuộc về tham vấn, cái gì thuộc về
trị liệu chứng tỏ không có sự khác biệt giữa hai thể loại đó”.
Có một sự nhất trí rằng tham vấn tâm lý và trị liệu tâm lý đều là tiến trình
liên quan đến một hình thức đặc biệt của mối quan hệ giữa một người yêu cầu
giúp đỡ về vấn đề tâm lý (gọi là thân chủ hoặc bệnh nhân) và một người được đào
tạo để cung cấp sự giúp đỡ đó (gọi là nhà tham vấn hoặc nhà trị liệu/ The
Counselor or the Therapist).
Bản chất của mối quan hệ trong hai loại cơ bản là như nhau, nếu không nói
là đồng nhất với nhau. Cũng không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa kỹ thuật hoặc
nhóm kỹ thuật của tham vấn và trị liệu tâm lý.
Có nhiều người, trong đó có Tyler, Vance và Volsky đưa ra sự phân biệt
rằng: Tham vấn tâm lý áp dụng trong làm việc với cái gọi là những cá nhân bình
thường, những vấn đề của họ liên quan đến sự phát triển tiềm năng của họ; trong
khi đó trị liệu tâm lý là làm việc với những cá nhân bị giảm sút về một số phương
diện.

27
Khi thân chủ không bị rối loạn nặng nề, mà thực ra chỉ có những vấn đề của
người gọi là bình thường, những vấn đề có thể gây trở ngại cho sự phát triển tiềm
năng của họ, khi đó triến trình được gọi là tham vấn tâm lý.
Khi một thân chủ có rối loạn cảm xúc trầm trọng, hoặc bị khuyết tật trong
việc thực hiện các chức năng “bình thường” do rối loạn cảm xúc đó, một tiến
trình được gọi là trị liệu tâm lý và nó được xem là tiến trình chữa bệnh để đưa cá
nhân trở lại “bình thường”.
Những lý lẽ để chống lại quan niệm trên là:
- Không có ranh giới rõ ràng về mức độ nặng nhẹ của rối loạn.
- Không có giới hạn nào để chỉ rõ nhà Tham vấn đã hoàn thành nhiệm vụ của
mình để chuyển cho nhà Trị liệu tiếp tục công việc thêm với Thân chủ, và ngược
lại, khi nào nhà Trị liệu đã giải quyết xong để chuyển lại cho nhà Tham vấn tiếp
tục làm việc thêm.
Nhà Tham vấn cũng như nhà Trị liệu không giới hạn công việc của mình ở
đâu, mà sẽ có quyền đi tới cùng với việc giúp đỡ thân chủ.
Cũng có một sự phân biệt nhân tạo, không chủ yếu khác, đó là dựa vào qui
chế tổ chức cung cấp dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lý.
Nếu công việc can thiệp với thân chủ được tiến hành trong các cơ sở có hệ
thống y học (thí dụ , trong bệnh viện) thì gọi là trị liệu tâm lý; trong khi tại các cơ
sở không y học thì gọi là tham vấn.
Cuối cùng, thêm một sự phân biệt nữa đôi khi được nêu ra:
Khi những vấn đề về cái gọi là thuộc về định hướng thực tại (hoặc “có ý
thức”), như những vấn đề và sự lựa chọn về giáo dục, hướng nghiệp…được xem
là lĩnh vực của Tham vấn.
Trong khi những vấn đề gắn với nhân cách của cá nhân (hoặc “mất ý thức”)
là lĩnh vực của trị liệu tâm lý.
Điều này cũng không hợp lý, vì nếu tham vấn chỉ giới hạn như nêu trên chỉ
là sự giảng dạy hay tư vấn mà thôi, chứ chưa phải là tham vấn.
Tóm lại, theo đa số các tác giả, không có sự khác nhau cơ bản giữa tham
vấn tâm lý và trị liệu tâm lý về bản chất của mối quan hệ, về tiến trình, về các
phương pháp, kỹ thuật, về mục tiêu can thiệp hoặc thậm chí về các loại thân chủ
liên quan.

28
Để cho thuận lợi hoặc với những lý do thực hành :
Tham vấn thường được qui cho là công việc với những thân chủ rối loạn ít
năng nề hơn, chỉ có những vấn đề chuyên biệt ít rối loạn nhân cách chung đi kèm
và thường áp dụng trong những cơ sở không y khoa.
Trong khi đó, trị liệu tâm lý được qui cho là công việc với những bệnh
nhân rối loạn nặng nề hơn và thường trong những cơ sở y khoa.
2. Vai trò của tham vấn chăm sóc sức khỏe trong điều trị bệnh:
Tham vấn tâm lý và trị liệu tâm lý có một sức hấp dẫn đặc biệt không
những trong lĩnh vực tâm thần học mà còn trong tất cả các lĩnh vực khác của lâm
sàng y học. Tuy nhiên, cho đến nay, vai trò của tham vấn và trị liệu tâm lý chưa
được đề cao để xứng với vai trò của nó.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là ảnh hưởng của trường
phái “Cơ thể bệnh học/ chủ nghĩa thực thể”. Họ cho rằng tham vấn và trị liệu tâm
lý không thể chữa bệnh thực thể. Song, thực tế người ta đã thấy rõ tác động to lớn
của trạng thái tinh thần đối với bệnh tật của người bệnh. Lý thuyết đã khẳng định,
những cấu trúc cơ thể có thể bị biến đổi dưới tác động của các hiện tượng tâm lý.
2.1.Mục đích của tham vấn và trị liệu tâm lý:
Trước hết, nó nhằm đạt được một sự thay đổi cụ thể nào đó trên thân
chủ/người bệnh. Thí dụ, lúc đầu, chúng ta muốn người bệnh được trấn tĩnh, sau
đó, chúng ta muốn mang đến một sự thay đổi trong ý nghĩ, tình cảm của họ…
2.2.Nhiệm vụ của tham vấn và trị liệu tâm lý:
Tham vấn và trị liệu tâm lý là dùng các phương tiện tâm lý hỗ trợ cho các
phương pháp chữa trị người bệnh theo một mục đích cụ thể, giải quyết các quá
trình cơ bản của bệnh và đạt tới kết quả cuối cùng của việc điều trị bệnh.
Thí dụ, bằng tham vấn và trị liệu tâm lý, chúng ta có thể làm cân bằng sự
lệch lạc về nhân cách của người bệnh.
Để can thiệp cho một thân chủ/người bệnh, cần sử dụng nhiều trường phái
liệu pháp tâm lý khác nhau; và ngược lại, một liệu pháp tâm lý chuyên biệt có thể
được sử dụng cho nhiều loại bệnh lý. Điều chủ yếu là cần có chẩn đoán hợp lý và
chỉ định đúng đắn cho việc tiến hành liệu pháp tâm lý.
3. Quy trình tham vấn CSSK cho bệnh nhân:
3.1.Lập hồ sơ đánh giá ban đầu:

29
-Những thông tin về thân chủ:
+Thông tin cá nhân:
Họ tên, giới tính, ngày sinh, con thứ mấy trong gia đình, địa chỉ thường trú,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp…
+Tình trạng vấn đề:
Là sự kiện xảy ra ảnh hưởng tới thân chủ, cần tham vấn.
+Lịch sử vấn đề:
Thông tin về thân chủ trong quá khứ, mối quan hệ của thân chủ với gia
đình, tiểu sử bản thân trong quá trình phát triển, tình trạng bệnh tật của thân chủ.
+Hoàn cảnh gia đình:
Hoàn cảnh kinh tế gia đình, thông tin về các thành viên trong gia đình, các
sự kiện gia đình có ảnh hưởng tới thân chủ.
+Sức khỏe:
Tình trạng sức khỏa thể chất và tâm lý hiện tại của thân chủ.
-Đánh giá của nhà tham vấn:
Ấn tượng chung về thân chủ và những lưu ý liên quan đến nan đề của thân
chủ.
Những đánh giá về khám y khoa. Kết quả thăm khám y khoa.
Kết quả đánh giá tâm lý: những chẩn đoán và trắc nghiệm tâm lý.
-Kế hoạch can thiệp tâm lý:
+Chẩn đoán tâm lý: Những khả năng và hạn chế của thân chủ.
+Kế hoạch xử lý: Phương pháp tác động tới thân chủ.
+Theo dõi, đánh giá kết quả những thay đổi.
+Tổng kết đánh giá toàn bộ quá trình tham vấn.
3.2.Thực hiện việc can thiệp:
-Bước 1: Xác định vấn đề:
+Hướng dẫn thân chủ hoàn thành một bản liệt kê những vấn đề cần được
giúp đỡ.
+Sắp xếp thành những nhóm có cùng chủ đề.

30
-Bước 2: Phân tích vấn đề:
Yêu cầu thân chủ viết ra những vấn đề có thể gặp phải. Thảo luận với thân
chủ những vấn đề đó.
-Bước 3: Liệt kê các giải pháp có thể thực hiện. Những thuận lợi, khó khăn khi
thực hiện giải pháp.
-Bước 4: Đánh giá các giải pháp và lựa chọn giải pháp tối ưu.
-Bước 5: Đưa ra những yêu cầu trợ giúp để giải quyết vấn đề.
-Bước 6: Lượng giá kết quả: Kiểm tra thực hiện các giải pháp, Những thay đổi
điều chỉnh để đạt mục tiêu cuối cùng.

CÁC TIẾP CẬN THAM VẤN TÂM LÝ HỖ TRỢ


Cho đến nay đã có hàng trăm loại Liệu pháp tâm lý ra đời, tuy nhiên, các
nhà Tham vấn và Trị liệu tâm lý vẫn cho rằng có bốn loại tiếp cận tâm lý mà
trong nó chứa đựng hầu hết các loại liệu pháp tâm lý khác. Đó là:
+Tiếp cận tâm động học, được đại diện bởi lý thuyết Phân tâm học.
+Tiếp cận Nhân văn – hiện sinh, đại diện bởi tham vấn thân chủ - trọng tâm
+Tiếp cận nhận thức – hành vi
+Tiếp cận hành vi.
Nói chung, mỗi loại tiếp cận có hiệu quả với cá nhân riêng biệt mà tùy nhà
tham vấn lựa chọn trong quá trình làm việc với thân chủ.
1.Tiếp cận Tâm động học (Psychodynamic Therapy) :
Tiếp cận Tâm động học được khởi nguồn từ Phân tâm học của Sigmund
Freud, sau đó được gọi là Phân tâm học cũ khi xuất hiện các trường phái Phân
tâm học mới với các tác giả Alfred Adler, Carl Jung, Harry Stack Sullivan, Otto
Sank, Wikhem Reich, Melanie Klein, Heinz Kohut và Margaret Mahler. Tất cả
tiếp cận Tâm động học mới và cũ đều giải thích động cơ thúc đẩy bên trong của

31
thân chủ, nhấn mạnh vai trò của ý thức và vô thức đến hành vi cá nhân và ảnh
hưởng của quá khứ trong việc hình thành và quyết định nhân cách của cá nhân.
Sigmund Freud (1856-1939) là người khởi xướng và đặt nền móng cho
Phân tâm học. Trong khi tiếp cận của Phân tâm học Freud theo khuynh hướng
sinh học, bản năng và động cơ vô thức thì tiếp cận theo Phân tâm học mới lại
nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa, yếu tố xã hội và sự phát triển của ý thức, của sự
cá nhân hóa cái tôi.
1.1.Lý thuyết của Phân tâm học:
1.1.1.Giải thích về nguyên nhân bệnh và mục đích trị liệu:
Nguyên nhân bệnh:
Những hành vi của một cá nhân là kết quả của những mẫu hành vi thơ ấu
và có nguồn gốc vô thức. Thông qua các mối quan hệ với những người khác trong
thời thơ ấu, con người học được những cách thức để thỏa mãn những nhu cầu bản
năng. Nếu cá nhân không học được cách thỏa mãn những nhu cầu bản năng từ
thời thơ ấu, cá nhân đó sẽ có những rối nhiễu tâm lý ở tuổi trưởng thành.
Mục đích của trị liệu phân tâm:
Giúp con người lùi lại quá khứ, tìm lại những cội nguồn vô thức của các
vấn đề gây ra rối loạn ở hiện tại, nhằm giải phóng những cảm xúc tiêu cực có liên
quan, loại trừ các triệu chứng tâm bệnh. Trị liệu phân tâm làm cho cái không có ý
thức trở thành cái có ý thức, đưa cái trong tầng vô thức lên tầng ý thức để nhận rõ
về nó. Qua trị liệu, thân chủ khám phá những sự kiện quá khứ được liên hệ với
trải nghiệm hiện tại của họ để có cách hiểu mới. Đó là sự thấu hiểu, làm nền tảng
cho sự thay đổi nhân cách. Tiếp cận Phân tâm tập trung nhiều vào việc cấu trúc
lại nhân cách hơn là giải quyết những vấn đề trước mắt.
1.1.2.Các lý luận chính của Phân tâm học và Trị liệu Phân tâm:
Cấu trúc nhân cách:
Theo Frued, cấu trúc nhân cách bao gồm ba khối: Bản năng xung động –
Cái Nó, Cái Tôi và Cái Siêu tôi. Ba khối này được phát triển đầy đủ vào lúc năm
tuổi.
Cái Nó (id):
Cái Nó là những gì bẩm sinh, di truyền, đặc biệt là những bản năng. Cái Nó
là nền tảng cho toàn bộ cấu trúc nhân cách, là nguồn năng lượng cho cho mọi hệ
thống tâm lý, tâm thần.

32
Cái Nó hoạt động theo nguyên tắc khoái lạc/thỏa mãn. Các kích thích từ
bên trong và bên ngoài làm tăng năng lượng tâm thần. Sự gia tăng năng lượng
này tạo ra những căng thẳng tăng dần đến một mức độ cái Nó không chịu đựng
nổi. Cái Nó tìm cách nhanh chóng giải tỏa sự căng thẳng, giải tỏa bản năng mà
không cần biết đến hậu quả.
Xung năng của Cái Nó chủ yếu là những bản năng tính dục (libido) và hung
tính (aggressive), và đó cũng là hai loại bản năng hoặc xung năng chính: bản năng
sống (tính dục) và bản năng chết (hung tính). Đại diện cho những bản năng này là
ham muốn và chúng là bất hợp lý và vô thức.
Thí dụ, đứa trẻ đòi hỏi cha mẹ đáp ứng vô bờ bến những thứ mà hoàn cảnh
gia đình hay điều kiện sống không cho phép. Đó là một sự đòi hỏi bất hợp lý.
Cái Tôi (ego):
Cái Tôi là một bộ phận của Cái Nó, được tách dần ra và có sự phát triển đặc
biệt. Cái Tôi hoạt động theo nguyên tắc hiện thực. Nó phải trì hoãn sự giải tỏa sự
căng thẳng, giải tỏa bản năng bằng cách kiểm tra, tìm kiếm đối tượng phù hợp
trong môi trường để thỏa mãn.
Như vậy hoạt động của Cái Tôi để đảm bảo được an toàn, duy trì được sự
tồn tại của cơ thể. Cái Tôi chống lại những đòi hỏi bản năng của Cái Nó. Trong
cuộc đấu tranh, Cái Tôi phải phân định những biểu tượng thỏa mãn tinh thần và
những đối tượng thực bên ngoài. Trong khi Cái Nó tìm cách giải tỏa ngay lập tức
căng thẳng bằng biểu tượng thỏa mãn và bằng cách thỏa mãn trực tiếp những
xung năng tính dục cũng như hung tính thì Cái Tôi, giống như người điều hành,
trung gian giữa Cái Nó và thế giới, thăm dò thực tiễn và đưa ra quyết định hành
động sao cho hợp lý.
Có thể nói cách khác, Cái Tôi giúp con người tìm kiếm những cách suy
nghĩ, ứng xử thích hợp và an toàn để tạo nên sự cân bằng giữa các nhu cầu của
bản năng và lương tâm của Cái Siêu tôi nhằm đáp ứng các đòi hỏi của xã hội, từ
đó hình thành sự tự chủ của đứa trẻ. Và như vậy, Cái Tôi luôn vừa cố gắng liên hệ
với thế giới một cách hợp lý và có lý trí, lại vừa nỗ lực kiềm chế Cái Nó.
Thí dụ, nó trì hoãn những ham muốn tính dục cho đến khi nào điều kiện
môi trường thuận lợi, phù hợp.
Cái Siêu Tôi (superego):
Khi ở độ từ 3 đến 6 tuổi, trẻ bắt đầu hình thành ý thức và tiếp thu dần
những chuẩn mực đạo đức xã hội do cha mẹ truyền đạt. Trẻ sẽ làm theo các chuẩn
mực đạo đức đó và tạo nên Cái Siêu Tôi của trẻ. Cái Siêu Tôi trở thành lương tâm

33
phán xét mọi hành vi của trẻ, chỉ cho trẻ đúng hay sai. Cái Siêu Tôi chính là sự
hiện thân của xã hội trong nhân cách đứa trẻ.
Nhờ có Cái Siêu Tôi, trẻ biết cái gì là đúng, cái gì là không đúng và biết
xấu hổ, ân hận khi làm một việc sai trái. Cái Siêu tôi còn có vai trò kiểm duyệt và
ngăn cản những hành vi bản năng, đặc biệt là những hành vi tính dục nếu những
hành vi này trái với đạo đức, lương tâm. Cái Siêu tôi luôn cố gắng thuyết phục
Cái Tôi tìm ra lối thoát hợp lý mà không đi ngược lại với các chuẩn mực đạo đức
xã hội. Đối với Cái Nó, Cái Siêu Tôi cứng rắn hơn, quyết liệt hơn, luôn tìm cách
chèn ép và dập tắt những dục vọng của cái nó.
Cái Tôi chứng kiến sự đấu tranh quyết liệt giữa một bên là Cái Nó đòi thỏa
mãn những ham muốn, dục vọng bản năng và một bên là Cái Siêu Tôi luôn đòi
trừng trị những dục vọng bản năng này. Cái Tôi ở giữa phải lựa để làm yên lòng
cả hai bên. Đó là lựa làm sao để có thể thỏa mãn một phần Cái Nó, trì hoãn các
dục vọng đến một thời điểm phù hợp, đồng thời cũng làm sao đáp ứng ước mơ
vươn tới sự cao đẹp, hoàn mỹ của Cái Siêu Tôi để từ đó có hành vi phù hợp với
thực tế.
Sự đòi hỏi của Cái Siêu Tôi tạo ra trạng thái lo sợ ở Cái Tôi. Nếu để trạng
thái lo âu này kéo dài có thể dẫn đến rối loạn lo âu và trầm cảm.
Một số kỹ thuật can thiệp:
Phân tâm học truyền thống là một quá trình tập trung lâu dài, trong đó nhà
trị liệu cố gắng đưa vô thức lên bình diện ý thức, nghĩa là trợ giúp thân chủ hiểu
những sức mạnh nội tâm, kiểm soát và sai khiến hành vi của họ. Việc này được
tiến hành qua sử dụng kỹ thuật Điều trị bằng nói ( The talking cure), nhà trị liệu
dùng một số kĩ thuật để đưa những xung đột bị kìm hãm về mặt bằng ý thức và
giúp bệnh nhân giải quyết chúng. Những kĩ thuật bao gồm:
-Sự liên tưởng tự do (Free association):
Qui trình chủ yếu sử dụng trong phân tâm là để thăm dò tiềm thức và giải
tỏa những kìm nén. Đó là một tiến trình trong đó bệnh nhân diễn tả toàn bộ những
suy nghĩ, mong muốn, cảm giác và những hình ảnh, hình tượng tâm lý khi chúng
xảy ra. Sự liên tưởng tự do cho phép thân chủ nói bất kỳ điều gì xuất hiện trong
tâm trí mà không cần sàng lọc.
Thân chủ ngồi thoải mái trên ghế hoặc nằm thư giãn trên ghế dài, cho phép
thả tâm hồn tự do và nói về những ý nghĩ, những ấn tượng, những kí ức và cảm
nhận với nhà phân tâm đang chú ý nghe. Một câu nói này có thể dẫn đến câu nói
khác, tư duy của bệnh nhân có thể dường như huyên thiên, dông dài, nhưng sự

34
liên tưởng tự do này là những đầu mối quan trọng cho công việc tìm kiếm của nhà
phân tâm.
Theo Freud, những liên tưởng tự do không phải là một sự ngẫu nhiên mà
là sự định trước. Nhà phân tích phải truy tìm nguồn gốc của ý tưởng và phân biệt
những mô hình quan trọng nằm dưới bề mặt của những lời nói. Thân chủ có thể
bày tỏ một cách tự do những ham muốn vô thức và những ký ức đau khổ do bị
kìm nén. Điều này cho phép nhà trị liệu hiểu được những mẫu hình của các mối
quan hệ trong quá khứ và chúng đã định hướng sự phát triển nhân cách của thân
chủ ra sao.
-Phân tích sự chuyển dịch và phản chuyển dịch:
Trong quá trình điều trị tích cực bằng phân tâm, BN thường xuất hiện một
phản ứng cảm xúc hướng về nhà trị liệu. Nhà trị liệu thường bị đồng nhất với một
người mà người này trong quá khứ đã từng là trung tâm của xung đột tâm lý của
BN - thường xuyên nhất là cha mẹ hoặc người thân yêu. Những phản ứng cảm
xúc này trước kia tập trung vào nhân vật quan trọng nêu trên (cha mẹ, người
yêu…) của BN nay được gắn cho nhà trị liệu. Nói cách khác, BN đã chuyển
những đặc điểm cá nhân của những người quan trọng khác trong những mối quan
hệ trong quá khứ lên nhà trị liệu. Bởi vì nhà trị liệu giữ nguyên sự cách biệt trong
mối quan hệ nên thân chủ có thể phóng chiếu những đặc điểm cá nhân của người
khác lên nhà trị liệu. Điều này được gọi là sự chuyển dịch/chuyển di
(transference). Có hai loại chuyển dịch:
+Chuyển dịch dương tính là khi những cảm xúc gán cho nhà trị liệu là
những cảm xúc về tình yêu hoặc sự thán phục, thí dụ cảm thấy nhà trị liệu “giống
như” người yêu dấu, hoặc như người ông bà đã qua đời của mình.
+Chuyển dịch âm tính là khi những cảm xúc của BN bao gồm sự thù hận,
hoặc sự đố kị, thí dụ có thể cảm thấy về người anh em đối thủ hoặc người cha khó
tính luôn chỉ trích mình.
Thông thường thái độ của BN là hai chiều, nó bao gồm một sự hỗn hợp
những cảm xúc dương tính và âm tính.
Sự phóng chiếu lên nhà trị liệu dẫn đến thân chủ không hiểu biết chính xác
về đặc điểm của nhà trị liệu. Trong khi đó nhà trị liệu có thể làm sáng tỏ những
hiểu nhầm cho thân chủ, liên hệ chúng với những mối quan hệ trong quá khứ của
thân chủ, phát hiện ra những yếu tố quan trọng trong các mối quan hệ có ý nghĩa
quyết định đối với sự cấu thành nhân cách của thân chủ. Nói cách khác, nhà trị
liệu giúp BN giải thích những cảm xúc chuyển dịch hiện tại bằng sự hiểu nguồn
35
gốc nguyên thuỷ của những cảm xúc đó trong những trải nghiệm trước đây và
thái độ với những người có ý nghĩa khác của BN. Nhiệm vụ của nhà phân tích
trong giải quyết sự chuyển dịch là khó khăn và tiềm ẩn sự nguy hiểm vì sự dễ tổn
thương của BN. Tuy nhiên, đó chính là phần cốt yếu của việc điều trị.
Những cảm xúc riêng tư cũng xuất hiện trong công việc với chiều hướng
ngược lại, phản ứng cảm xúc của nhà trị liệu đối với BN. Đó là sự phản chuyển
dịch (counter-transference). Phản chuyển dịch là điều xảy ra khi nhà trị liệu yêu
hoặc ghét BN, người mà nhà trị liệu cảm nhận giống như người có ý nghĩa trong
đời sống của mình. Trong khi làm việc thông qua sự phản chuyển dịch, nhà trị
liệu có thể khám phá một số động lực trong vô thức của chính nhà trị liệu. Vì lí
do cảm xúc mạnh mẽ của kiểu quan hệ điều trị này và tính dễ bị tổn thương của
BN, nhà trị liệu phải cảnh giác chống lại sự vượt giới hạn giữa sự chăm sóc BN
theo nghề nghiệp và quan hệ cá nhân với BN của mình. Đạo đức nghề nghiệp
không cho phép nhà trị liệu quan hệ với BN của họ, mặc dù đáng tiếc có một số
nhà trị liệu đã xâm phạm mối quan hệ thầy thuốc – BN. Khi có sự phạm qui, thầy
thuốc có thể mất việc hoặc không được phép hành nghề
-Phân tích giấc mơ:
Những nhà phân tích tin rằng những giấc mơ là nguồn thông tin quan trọng
về động cơ thúc đẩy trong vô thức của BN. Khi người ta đang ngủ, cái Siêu Tôi
(superego) có lẽ ít hơn trong trạng thái canh gác chống lại những xung lực không
thể chấp nhận bắt nguồn từ Cái Nó (id), do đó, động cơ không thể biểu hiện trong
đời sống khi thức có thể thấy biểu hiện trong giấc mơ. Một số động cơ rất không
thể chấp nhận trong mặt bằng ý thức và nó không thể được bộc lộ một cách cởi
mở thậm chí ngay cả trong giấc mơ, nhưng nó có thể biểu hiện dưới dạng trá hình
hoặc tượng trưng.
Trong phân tích các giấc mơ, người ta cho rằng có hai loại nội dung: nội
dung biểu lộ (manifest content) và nội dung tiềm ẩn (latent content ). Nội dung
biểu lộ là những điều chúng ta nhớ từ lúc thức. Nội dung tiềm ẩn bao gồm những
hành động thực tế đang tìm cách diễn tả nhưng nó là quá đau buồn hoặc không
thể chấp nhận đối với chúng ta nên chúng ta không muốn thừa nhận chúng.
Những nhà trị liệu cố gắng khám phá những hoạt động, động cơ tiềm ẩn này bằng
việc phân tích giấc mơ. Kĩ thuật điều trị giải thích giấc mơ nhằm đạt được sự thấu
hiểu những hoạt động vô thức hoặc những xung đột của BN. Nhà phân tích kiểm
tra những giấc mơ của BN để khám phá ra động cơ nền tảng hoặc trá hình và
những ý nghĩa tượng trưng của những trải nghiệm hoặc ao ước quan trọng trong
đời sống.
36
Thí dụ, một giấc mơ của BN, trong một bữa tiệc thịnh soạn với sự có mặt
của những người khách quen, thực sự có thể là tượng trưng cho đám tang của gia
đình mà BN mới tham gia gần đây. Nhà phân tích cho rằng những hình ảnh trong
giấc mơ của BN như thức ăn, những khuôn mặt, và những cảm giác, tất cả tượng
trưng cho những hoạt động vô thức của BN sợ sự kiện này nói chung và về gia
đình BN nói riêng.
Tóm lại, Freud cho rằng giấc mơ là “con đường huy hoàng dẫn đến vô
thức”. Do đó, các nhà phân tích sẽ xem xét nội dung rõ ràng của giấc mơ và cả
những ý nghĩa tiềm tàng, ẩn giấu trong giấc mơ để cố gắng tìm hiểu những ham
muốn vô thức và những ký ức đau khổ do bị kìm nén.
-Phân tích sự đề kháng (resistance):
Đôi khi trong tiến trình liên tưởng tự do, bệnh nhân biểu hiện sự đề kháng.
BN không có khả năng hoặc miễn cưỡng bàn luận về những ý tưởng, điều ao ước,
hoặc những trải nghiệm nhất định. Sự đề kháng sẽ ngăn cản những điều bị kìm
nén quay trở lại ý thức. Những điều này thường liên quan đến dục tính hoặc cảm
giác khoái lạc của cá nhân, hoặc những cảm giác thù hận, bực bội hướng về cha
mẹ.
Bệnh nhân biểu thị sự đề kháng có thể bằng cách đến điều trị chậm trễ hoặc
“quên” buổi điều trị. Khi những điều bị kìm nén bị bộc lộ trong quá trình trị liệu,
bệnh nhân có thể tuyên bố rằng đó là những điều không quan trọng, ngớ ngẩn,
không đáng quan tâm hoặc không thú vị nên không cần bàn luận. Khi bệnh nhân
“phản kháng quá nhiều” sẽ cảnh báo cho nhà trị liệu rằng khả năng thực sự đã có
sự đề kháng. Bất kì khi nào nếu BN có biểu hiện sự đề kháng như vậy, nhà phân
tích phải chú ý đặc biệt tới vấn đề của BN, có thể chính vấn đề đó đã thúc đẩy sự
đề kháng.
Freud giải thích những điều nêu trên rằng thân chủ đã phát triển những cơ
chế phòng vệ và sự chống đối lại việc chữa trị chứng tỏ bệnh nhân đang đến gần
hơn với các vấn đề của mình. Do đó, sự đề kháng là một tín hiệu cho nhà phân
tích biết rằng một vấn đề đang gia tăng và thân chủ đang cố gắng trốn tránh.
Mục tiêu của sự phân tích để bẻ gãy sự đề kháng và khiến BN có thể đối
mặt với những ý nghĩ, những khao khát và những trải nghiệm đau buồn, nhưng
làm điều đó trong sự an toàn của quá trình điều trị. Qua thời gian, có thể lý giải
cho thân chủ sự đề kháng đó và sẽ khám phá tỉ mỉ vấn đề bị che giấu. Bẻ gãy sự
đề kháng là quá trình lâu dài và khó khăn, nhưng là thiết yếu để vấn đề nằm bên
dưới được đưa về mặt bằng ý thức của BN để được giải quyết.

37
-Sự giải thích:
Nhà trị liệu tạo sự kết nối giữa cái đang xảy ra trong quan hệ giữa bệnh
nhân và nhà trị liệu, cái đã xảy ra trong những mối quan hệ quá khứ của bệnh
nhân và cái đang xảy ra trong mối quan hệ hiện hành của bệnh nhân. Nói cách
khác, nhà trị liệu có thể giải thích hành vi của bệnh nhân.
Sự giải thích là một trong những kỹ thuật quan trọng trong tiếp cận tâm
động học. Mục tiêu là khiến bệnh nhân nhận biết tốt hơn về cái họ đang cảm thấy,
để hiểu những cảm giác của họ và để tăng sự thấu hiểu hành vi của họ.
-Hiệp đồng điều trị
Hiệp đồng điều trị là một đòi hỏi thiết yếu cho việc tiến hành liệu pháp tâm
lý tâm động học. Nó có nghĩa là, bệnh nhân mong muốn hợp tác với nhà điều trị
với mong muốn trở nên tốt hơn.
Có thực tế rằng, có bệnh nhân có thể mong ước được thoát khỏi những vấn
đề của mình nhưng lại không liên kết điều trị với nhà trị liệu. Đó là do họ không
đồng tình với cách thức, kỹ thuật của nhà trị liệu.
Trong liệu pháp phân tâm, đòi hỏi bệnh nhân phải chấp nhận mục tiêu là
hiểu biết những triệu chứng của mình bằng việc thăm dò thế giới cảm xúc của
mình và tìm ra những động cơ nền tảng cho vấn đề bệnh lý.
2.Tiếp cận Hành vi (Behavioural therapy):
2.1. Khái niệm về Liệu pháp Hành vi:
Liệu pháp hành vi (LPHV), hay còn gọi là thay đổi hành vi (Behavioural
Modification), là sự tiếp cận tâm lý áp dụng các nguyên lý điều kiện hóa kinh
điển và điều kiện hóa thực thi, hay thao tác (classical and operant conditioning)
làm thay đổi hành vi người bệnh hoặc thân chủ. Đó là việc sử dụng một cách hệ
thống các nguyên lý của sự học tập để làm tăng tần xuất các hành vi mong muốn
và làm giảm tần suất các hành vi có vấn đề.
Liệu pháp hành vi được sử dụng để điều trị các loại hành vi sai lệch và các
vấn đề cá nhân, bao gồm các loại rối loạn lo âu, ám ảnh, trầm cảm, nghiện chất,
hành vi gây hấn, công kích, và những hành vi phạm tội.
Nói chung LPHV giải quyết tốt những vấn đề hành vi chuyên biệt như rối
loạn lo âu hơn là các loại vấn đề cá nhân nói chung. Thí dụ, nó có hiệu quả với rối
loạn lo âu hơn là với rối loạn phân ly.

38
Liệu pháp hành vi dựa trên nguyên lý điều kiện để làm thay đổi những mô
hình hành vi không mong muốn liên quan đến những rối loạn tâm lý.
Hành vi kém thích ứng hoặc không mong muốn là kết quả của thiếu sót học
tập. Do đó những rối loạn hành vi và kinh nghiệm được hiểu không phải là bệnh
mà là kết quả của học tập sai sót.
Nếu hành vi bị rối loạn cố định, đó là vì nó đang được duy trì bởi một hình
thức nào đó củng cố thêm vào.
Những hành vi đã được hình thành qua học tập thì cũng có thể bị xóa đi
theo cơ chế học tập.
Liệu pháp hành vi bao gồm nhiều kỹ thuật rất khác nhau nhằm thay đổi
hành vi bằng cách quên đi những hành vi không thích ứng và học tập thêm các
hành vi thích ứng. Hay nói cách khác, kỹ thuật LPHV là làm sao có một đáp ứng
mới thay thế cho đáp ứng không mong muốn hoặc không thích hợp.
2.2. Lý thuyết về mô hình liệu pháp hành vi:
Nền tảng cho liệu pháp hành vi là mô hình điều kiện hóa (Conditioning
model). Có 2 kiểu điều kiện hóa: điều kiện hóa kinh điển và điều kiện hóa thực
thi.
2.2.1. Điều kiện hóa kinh điển (Classical Conditioning):
Ivan Pavlov, một nhà sinh lý học người Nga đã nghiên cứu về điều kiện
kinh điển (hay còn gọi là phản xạ có điều kiện) vào năm 1927. Trong một thực
nghiệm trên chó, ông gắn một cái ống vào tuyến nước bọt của con chó để đo
chính xác lượng nước bọt tiết ra. Ông khua, gõ cái nỉa và chỉ vài giây sau đó, cho
chó ăn bột thịt. Sự ghép đôi này được hoạch định cẩn thận sao cho cùng lượng
thời gian trôi qua như nhau giữa lần tạo ra tiếng khua nỉa và cho ăn bột thịt, lặp đi
lặp lại. Lúc đầu, chó chỉ tiết nước bọt khi ăn bột thịt, nhưng sau đó nó lại tiết
nước bọt khi nghe tiếng nỉa khua. Thậm chí, khi không có bột thịt mà chỉ có tiếng
nỉa khua, chó cũng tiết nước bọt. Sau này, thí nghiệm tiếng nỉa khua có thể được
thay bằng tiếng chuông hoặc kích thích ánh sáng.
Trước khi được cặp đôi với thức ăn, tiếng khua nỉa hay tiếng chuông là một
kích thích trung gian, không gây tiết nước bọt một cách bình thường như thức ăn.
Chỉ có kết quả của sự cặp đôi một cách chặt chẽ, lặp đi lặp lại với kích
thích không điều kiện (thức ăn), kích thích trung gian trước đây trở thành một

39
kích thích có điều kiện. Sự đáp ứng tiết nước bọt đối với tiếng chuông khác với
đáp ứng với thức ăn: nó đã được học tập hoặc là có điều kiện.
Từ mô hình điều kiện kinh điển, rút ra một nguyên lý của lý thuyết học tập:
Học tập là kết quả của sự cặp đôi chặt chẽ của kích thích trung lập với một
kích thích không điều kiện bẩm sinh (kích thích gây ra đáp ứng tự động), kích
thích trung gian trước đây sẽ làm bộc lộ sự đáp ứng giống như kích thích không
điều kiện.
2.2.2. Điều kiện hóa thực thi (Operant Conditioning):
Lý thuyết về học tập theo mô hình điều kiện hóa thực thi (hay còn gọi là
điều kiện hóa hoạt động) mô tả về mối quan hệ giữa hành vi và những sự kiện
khác nhau xung quanh và con đường mà những sự kiện xung quanh tác động tới
hành vi.
Thí nghiệm:
Một con chim trong lồng, có 1 cái đĩa màu đỏ. Hãy xem số lần con chim
mổ lên đĩa đỏ và hãy làm sao để con chim mổ nhiều lần trên đĩa đỏ.
Một nửa chuồng chim ta có rải gạo. Một, hai giờ sau con chim sẽ hiểu
vùng nửa chuồng có rải gạo là vùng có lợi cho nó. Và sau đó dù có gạo hay
không, nó vẫn thích ở vùng đó.
Thu hẹp vùng có lợi lại bằng cách rải gạo hẹp lại ở phía có gắn đĩa đỏ,
chim sẽ quay về vùng này và chỉ ở vùng này. Đến khi tình cờ chim mổ vào đĩa
đỏ, ta cho gạo vào. Sau đó, cứ khi nào chim mổ vào đĩa đỏ ta mới cho gạo. Chim
sẽ hiểu nếu mổ vào đĩa đỏ là có ăn.
Gắn máy ghi số lần mổ vào đĩa. Càng ngày nó càng mổ vào đĩa càng nhiều.
Như vậy, con chim đã được dạy hành vi: mổ vào đĩa đỏ. Nó học hành vi
này vì có lợi cho nó: có gạo để ăn. Chúng ta đã dạy nó trên kết quả hành vi của
nó. Cunhx có thể hiểu, chim học được hành vi đó do môi trường sống thay đổi.
Thay đổi môi trường có thể là nhân tạo, có thể là tự nhiên: sự sống luôn
thay đổi. Điều này có ý nghĩa lớn: con người, con vật luôn phải thích nghi với
môi trường luôn thay đổi, giống như sự lựa chọn tự nhiên của học thuyết Đac-
uyn.
Skinner đã nghiên cứu trên súc vật một thí nghiệm tương tự: con chuột
trong lồng dẫm vào một cái nút được thiết kế trong lồng sẽ có thức ăn.

40
Lý luận:
Những sự kiện đi trước hành vi được hiểu là những tiền đề (antecedent).
Những sự kiện đến sau hành vi, được hiểu là những hậu quả (consequence).
Cả hai đều tác động tới hành vi, nhưng trong điều kiện hóa thực thi, nhấn
mạnh chủ yếu lên hậu quả đi sau hành vi.
Vậy nguyên lý của điều kiện hóa thực thi là hành vi ban đầu được điều
khiển bởi hậu quả đi theo hành vi đó.
Có nhiều cách thức để hậu quả của hành vi điều khiển lại hành vi:
Gia tăng hành vi dương tính (Positive Reinforcement):
Nguyên tắc của gia tăng hành vi dựa trên kết quả hành vi của nó: Con chim
mổ nhiều vào đĩa đỏ thì được ăn nhiều.
Nếu một sự kiện đi theo sau hành vi, có tác dụng làm tăng tần suất xuất
hiện hành vi đó thì sự kiện đó là nguồn làm gia tăng dương tính của hành vi. Ta
gọi là “dương tính” khi kết quả đó làm tăng điều có lợi cho chủ thể.
Gia tăng âm tính hành vi (Negative Reinforcement):
Cũng như gia tăng hành vi dương tính, nguyên tắc của gia tăng hành vi
cũng dựa trên kết quả hành vi của nó.
Ta gọi là gia tăng hành vi âm tính vì đó là sự gia tăng hành vi để làm thay
đổi một kích thích không ưa thích (averse) hoặc làm giảm đi điều có hại cho chủ
thể.
Gia tăng hành vi âm tính đưa tới một sự gia tăng tần số của một đáp ứng
theo sau sự thay đổi của một nguồn gia tăng âm tính.
Thí dụ:
- Ám ảnh sợ đám đông (chợ). Né tránh đám đông gây kết quả hết sợ chính
là gia tăng âm tính hành vi.
Sự trừng phạt (Punishment):
Đây là cách thức thứ ba mà hành vi có thể bị tác động bởi hậu quả của nó.
Cả hai loại gia tăng dương tính và âm tính đều làm tăng hành động. Còn trừng
phạt lại làm giảm đi sự đáp ứng nhất định.
Có hai cách thức chính của sự trừng phạt:
Áp dụng một kích thích không ưa, gớm ghét (aversive stimulus)

41
Dập tắt quyền lợi.
Cách thức thường được dùng hơn là dập tắt đặc quyền: Bệnh nhân tâm thần
không được ở buồng riêng, không được đi chơi, …
Tóm lại:
Hành vi của con người rất phức tạp, khó đánh giá. Tất nhiên chỉ dùng
những cơ chế trên không thể giải thích hết hành vi của con người, tuy nhiên
chúng ta phải dựa trên cơ chế dù đơn giản này theo mô hình như sau:

SA(A1,A2,… R1,2,…n SC(C1,C2,…Cn)


An)
+
-

SA: kích thích xảy ra trước hành vi (antecedents)


R: hành vi đáp ứng (có kích thích mới có hành vi – Pavlov)
SC: kích thích sau khi có hành vi (có thể làm tăng hoặc giảm hành vi – Skinner)
(consequence)
2.2.3.Một số kỹ thuật trị liệu:
Phương pháp giải nhạy cảm có hệ thống (Systematic Desensitisation):
Phát triển đầu tiên bởi Wolpe (1950) dựa trên nguyên lý phản xạ có điều
kiện kinh điển. Đây được coi là một thể của sự dập tắt: Dập tắt đáp ứng sợ hãi
bằng sự tái thực nghiệm kích thích sợ hãi nhưng lúc này cặp đôi với những kích
thích sinh ra dễ chịu. Wolpe dùng trạng thái thư giãn để gây kích thích dễ chịu.
Nguyên lý của sự giải nhạy cảm có hệ thống rất đơn giản: không thể có khả
năng cả hai trạng thái thư giãn và lo âu xảy ra ở cùng một thời gian. Ở đây chúng
ta làm giảm dần sự nhạy cảm của cảm xúc lo âu một cách có hệ thống từng thang
bậc cho đến khi dập tắt hoàn toàn lo âu.
Kỹ thuật được tiến hành qua 4 bước:
Bước 1: Tập thư giãn (theo bài, đã giới thiệu trong liệu pháp tự ám thị)
Bước 2: Xây dựng hệ thống thang bậc những tình huống khêu gợi lo âu. Sắp xếp
theo chủ đề lo sợ và thứ tự thang bậc những sự vật, sự kiện gây lo âu.

42
Bước 3: Lập thang đánh giá chủ quan lo âu. Thí dụ:

Thứ bậc Tình huống sợ Đơn vị chủ quan lo âu (điểm)

4 Kim tiêm 100


3 Kim nhọn khác 90
2 Cái gai 80
1 Cái tăm 70

Bước 4: Quá trình giải nhạy cảm.


- Hướng dẫn bệnh nhân bài tập thư giãn.
- Trong khi thư giãn, gợi cho bệnh nhân hình dung cảnh khêu gợi lo âu từ bậc
thấp nhất (bậc 1). Tưởng tượng trong 5 giây. Ngừng tưởng tượng.
- Lặp lại tưởng tượng 3 – 4 lần. Khi đó đáp ứng lo âu sẽ giảm tới mức 0.
- Quá trình giải lo âu cứ lần lượt tới bậc lo âu cao hơn cho đến hết bậc cao nhất.
Kỹ thuật trình bày trên coi như hình thức thực nghiệm (in vitro). Ta có thể
luyện tập giải lo âu (giải nhạy cảm) trong cuộc sống thực (in vivo). Đưa bệnh
nhân vào hoàn cảnh sống gây lo âu thực tế.
Thầy thuốc đồng thời hướng dẫn thư giãn ức chế lo âu:
Mất cảm giác khó thở sẽ ức chế lo âu.
Tập tiếp xúc dần với hoàn cảnh gây sợ sẽ dần mất cảm giác sợ.
Phương pháp ngập lụt (Immersion, Flooding)
Giống như giải cảm ứng có hệ thống, sự ngập lụt dựa trên nguyên lý của sự
dập tắt của phản xạ có điều kiện kinh điển. Phương pháp làm dập tắt, làm quên đi
đáp ứng có điều kiện với những kích thích có điều kiện.
Kỹ thuật sử dụng ở đây ngược lại với sự giải nhạy cảm từng nấc thang
trong giải cảm ứng có hệ thống. Trong kỹ thuật này, bệnh nhân phải đối phó trực
tiếp với tình huống gây lo sợ nhất, kích thích căng thẳng nhất, kết cục là tốt, sự
việc xảy ra khác với suy nghĩ của bệnh nhân và dập tắt được lo âu:

43
+Hình dung tình huống căng thẳng nhất cho tới khi sự lo âu biến mất.
+Trực tiếp đối mặt với tình huống gây sợ hãi trong cuộc sống.
Thí dụ:
Bệnh nhân với chứng “xu hướng ám ảnh”, thí dụ có ý nghĩ sợ mình cầm
dao đâm vào con mình. Từ đó, khi bệnh nhân có dao trên tay thì không thể chịu
được khi có con đến gần, hoặc khi ở gần con thì bệnh nhân không thể có dao gần
mình.
Để chữa chứng này, thầy thuốc có thể có mặt, cho bệnh nhân cầm dao, đối
diện với con mình. Bệnh nhân sẽ không có hành vi đâm con và cũng hết ám ảnh
sợ. Chú ý rằng tình huống này cũng khá mạo hiểm. Thầy thuốc phải có phương
án can thiệp kịp thời.
Liệu pháp ác cảm (Aversion Therapy):
Liệu pháp ác cảm sử dụng tiến trình phản điều kiện bằng cách học tập điều
gớm ghét, không ưa thích: cặp đôi các kích thích hấp dẫn với những kích thích độc
hại, mạnh mẽ.
Những kích thích độc hại hoặc gớm ghét có thể là sốc điện, thuốc gây nôn,
ói… Tác dụng của chúng gây ra sự không thú vị, nhưng bản thân chúng không gây
huỷ hoại hoặc nguy hiểm cho thân chủ.
Theo cơ chế phản xạ có điều kiện, những kích thích gớm ghét sẽ thay thế
kích thích trước đây như lạm dụng rượu hoặc ma tuý.
Kỹ thuật theo nguyên tắc Premact:
“Hành vi nào có xác suất xuất hiện cao sẽ có tác động mạnh hơn hành vi có
xác suất xuất hiện thấp”.
Vậy trong việc thay đổi hành vi không phù hợp, phải tìm ra hành vi nào của
bệnh nhân có xác suất xuất hiện cao nhất để lấn át hành vi bệnh lý không phù hợp
hoặc tăng cường hành vi có ích.
Ở đây, hành vi có xác suất xuất hiện cao đã trở thành phần thưởng làm gia
tăng hành vi mong muốn. Đó là sự điều chỉnh hành vi.
Thí dụ:
Nói với đứa trẻ: “Làm bài xong sẽ được đi chơi đá bóng”.
Hành vi đá bóng: có xác suất xuất hiện cao ở đứa trẻ. Đá bóng trở thành
phần thưởng để gia tăng hành vi học bài.

44
Đứa trẻ có tật loạn thị nhưng không chịu đeo kính.
Trước hết cho nó đeo gọng kính không có mắt kính. Đứa trẻ sẽ chấp nhận
như một đồ chơi (có xác suất xuất hiện cao). Sau đó mới đưa mắt kính vào gọng.
Liệu pháp học tập xã hội (Social Learning Therapy):
Việc học tập một đáp ứng mới có thể xảy ra do kết quả của việc quan sát
một mô hình tiến hành, tức là quan sát hành vi của người khác.
Liệu pháp học tâp XH được thiết kế để thay đổi những mô hình hành vi có
vấn đề bằng cách thiết lập phản xạ có điều kiện trong đó thân chủ sẽ quan sát
những mô hình đang củng cố cho những đáp ứng mong đợi.
Liệu pháp học tập XH được dựa trên lý thuyết là hành vi bị ảnh hưởng bởi
sự quan sát và bắt chước người khác.Tiến trình học tập trải nghiệm gián tiếp này
có giá trị đặc biệt trong giải quyết ám ảnh sợ và trong xây dựng những kỹ năng
XH.
Các kỹ thuật có thể bao gồm: Mô hình tham gia (Participant modeling
therapy) và Mô hình tượng trưng (Symbolic modeling therapy).
Trong mô hình tham gia, nhà trị liệu chứng minh, giải thích, chỉ ra những
hành vi mong đợi và khuyến khích thân chủ bắt chước những hành động của mô
hình.
Thí dụ:
Trẻ sợ chó.
Cho trẻ quan sát đứa trẻ khác chơi đùa với chó.
Trẻ dần hết sợ chó.
Trong mô hình tượng trưng, thân chủ được tập luyện bài tập thư giãn,sau
đó xem phim chiếu cảnh một số mô hình mong đợi, thí dụ làm hết nỗi sợ hãi. Nếu
có cảnh nào khiến thân chủ sợ hãi, thân chủ có thể tắt phim và tập thư giãn.
3. Tiếp cận Nhận thức – Hành vi (Cognitive - behavioural therapy):
3.1.Khái niệm về Liệu pháp nhận thức – hành vi:
Các Liệu pháp nhận thức – hành vi chứa đựng ba điều cốt lõi sau:
(1) “Hoạt động nhận thức ảnh hưởng đến hành vi”.
Lý luận này là cơ sở cho một mô hình mang tính “dàn xếp, hóa giải” cơ
bản. Sự đánh giá của một người về các sự kiện có thể ảnh hưởng tới sự đáp ứng

45
của người đó với những sự kiện đó. Vì vậy, sự thay đổi nội dung đánh giá này có
ý nghĩa lớn trong lâm sàng. Muốn thay đổi đáp ứng hành vi (bất thường, không
mong muốn) của người bệnh, ta có thể tác động bằng cách thay đổi sự đánh giá
của người bệnh về sự kiện đang tác động đến họ.
(2)“Hoạt động nhận thức có thể được giám sát và có thể thay đổi”.
Ý nghĩa của điều này là như sau:
Thứ nhất, “ chúng ta có thể tiếp cận hoạt động nhận thức”: chúng ta có thể
tự biết và định giá được sự nhận thức của chúng ta.
Thứ hai, “sự đánh giá hoạt động nhận thức là việc mở đầu cho sự thay đổi
hoạt động nhận thức”.
(3) “Thông qua thay đổi nhận thức có thể tác động đến sự thay đổi hành
vi theo mong muốn”.
Điều cốt lõi thứ ba này là kết quả trực tiếp của sự chấp nhận mô hình “dàn
xếp”. Có nghĩa là, các nhà lý luận liệu pháp nhận thức – hành vi chấp nhận rằng
những sự kiện xảy ra ngẫu nhiên được củng cố công khai có thể làm thay đổi
hành vi, đồng thời họ nhấn mạnh một cách chắc chắn rằng sự thay đổi nhận thức
sẽ làm thay đổi hành vi.
Những Liệu pháp nhận thức – hành vi hiện hành:
Các liệu pháp nhận thức – hành vi là một sự lai ghép về các chiến lược
hành vi và tiến trình nhận thức với mục tiêu là thành công trong sự thay đổi nhận
thức và hành vi. Do vậy, Liệu pháp nhận thức – hành vi thể hiện một sự đa dạng
của những nguyên lý và những qui trình trị liệu.
Sự đa dạng hóa trong phát triển và thực hành các tiếp cận nhận thức – hành
vi, một phần có thể được giải thích là do những định hướng lý thuyết khác nhau
của những người sáng lập ra các chiến lược can thiệp dựa trên phối cảnh nhận
thức – hành vi này. Thí dụ:
Ellis và Beck là những người sáng lập ra Liệu pháp hành vi cảm xúc thuần
lý và Liệu pháp nhận thức nhưng thực ra các vị đã đến từ nền tảng của Phân tích
tâm lý của Freud.
Goldfried, Meichenbaum và Mahoney được đào tạo nguyên gốc từ những
nguyên lý của Biến đổi hành vi.
Những Liệu pháp nhận thức – hành vi hiện hành phát triển theo thời gian
bao gồm:
46
-Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Thuần lý (Rational Emotive Behavior
Therapy).
-Liệu pháp Nhận thức (Cognitive Therapy).
-Rèn luyện Tự hướng dẫn (Self-Instructional Training).
-Tái cấu trúc Thuần lý có Hệ thống (Systematic Rational Restructuring).
-Rèn luyện Quản lý Lo âu (Anxiety Management Training).
-Rèn luyện Phòng Stress (Stress Inoculation Training).
-Liệu pháp Giải quyết Vấn đề (Problem – Solving Therapy).
-Liệu pháp Tự kiểm soát (Self-Control Therapy).
-Liệu pháp tâm lý Cấu trúc và theo xu hướng Tạo dựng (Structural and
Constructivist Psychotherapy).
3.2. Liệu pháp hành vi cảm xúc thuần lý:
Liệu pháp hành vi cảm xúc thuần lý ( Rational emotive behavioural
therapy -REBT) do Ellis thành lập năm 1955. Liệu pháp này có vị trí trong lịch sử
các liệu pháp nhận thức hành vi (Cognitive – behavioural therapy - CBT) và đến
nay vẫn được ủng hộ.
Mô hình ABC :
REBT có mô hình ABC nổi tiếng:
A : Đại diện cho một sự kiện hoạt hoá (Activating event);
B : Cách thức mà sự kiện được suy luận này được đánh giá, nghĩa là những
niềm tin của con người ( Beliefs);
C : Những hậu quả (Consequences) về mặt cảm xúc, hành vi và nhận thức
mà nó có nguồn gốc từ B.
Niềm tin của con người ảnh hưởng đến cảm xúc và hành vi, ngược lại, cách
thức chúng ta cảm nhận và hành động có tác động sâu sắc tới những niềm tin của
chúng ta.
Triết lý cốt lõi của rối nhiễu tâm lý:
Theo lý thuyết REBT, thực chất của rối nhiễu tâm lý nằm ở khuynh hướng
con người đánh giá các sự kiện tri giác trong cuộc sống của họ được che đậy dưới
hình thức mang tính võ đoán, giáo điều với những từ “Phải”, “Nên”, “Phải
làm”, “Bắt buộc phải”…
47
Những méo mó nhận thức bắt nguồn từ chữ “phải”, thường gặp nhất là:
(1)Suy nghĩ tất cả hoặc không (All –or – none thinking) : “Nếu tôi thất bại ở
bất cứ công việc quan trọng nào mà đáng ra phải không được thất bại, tôi là người
hoàn toàn thất bại và là người hoàn toàn không có được cảm tình của người
khác”.
Ở đây, chúng ta thấy, trong nhận thức kiểu này, người bệnh thấy trên đời
chỉ có hoặc là thắng lợi hoặc là thất bại. Mình đã thất bại nên mình mất hết.
(2)Vội đi tới những kết luận (Jumping to conclusions) : Thường là những
kết luận tiêu cực quá đáng: “Vì họ đã thấy tôi thất bại một cách sầu tủi mà đáng
ra tôi hoàn toàn không nên thất bại, cho nên họ sẽ nhìn nhận tôi như loài sâu bọ,
bất tài”.
(3)Đoán vận mệnh (Fortune) : “Họ biết rằng tôi hoàn toàn phải thành công.
Bởi vì tôi thất bại nên họ đang cười trên thất bại của tôi, vậy họ sẽ khinh thường
tôi mãi mãi”.
(4)Tập trung vào sự tiêu cực (Focusing on the negative) : “Với tôi, mọi thứ
phải không được sai, hỏng, bởi vì tôi không thể chịu đựng được các thứ sai hỏng
đó. Những điều sai hỏng đã xảy ra nên tôi không còn thấy bất kì điều tốt lành nào
xảy ra trong đời tôi”.
(5)Không đủ phẩm chất tích cực (Disqualifying the positive) : “Khi họ ca
ngợi tôi về những điều tốt đẹp tôi đã làm, thực ra chỉ là họ đang ân cần, tử tế với
tôi và họ quên đi những điều ngớ ngẩn tôi đã làm mà lẽ ra tôi hoàn toàn không
nên làm”.
Điều này như một vế bổ sung cho vế trên: chỉ thấy điều tiêu cực trong mình
chứ hoàn toàn không thấy điều tích cực.
(6)Tất cả và không bao giờ(Allness and neverness): “Bởi vì những điều
kiện sống là phải tốt nhưng thực tế lại quá tồi và không thể chịu đựng nổi, chúng
sẽ luôn luôn là như vậy, và tôi sẽ không bao giờ có một chút hạnh phúc nào”.
Đây là cách nhìn về thế giới và bản thân quá bi quan, tiêu cực.
(7)Tối thiểu hoá (Minimization) : “Sự hoàn thành nhiệm vụ của tôi là kết
quả của sự may mắn và không quan trọng. Còn những lỗi của tôi, những điều mà
lẽ ra tôi tuyệt đối không được phạm phải, là tồi nhất và tất cả là không thể tha
thứ”.

48
Người bệnh nhìn mình quá tự ti, rất xem nhẹ thành công của mình, ngược
lại, thổi phồng sai sót của mình.
(8)Hợp lý cảm xúc (Emotional reasoning) : “Bởi vì tôi đã thao tác quá tồi,
lẽ ra tôi hoàn toàn không nên thao tác như vậy nên tôi cảm thấy mình hoàn toàn
ngớ ngẩn, và cảm xúc mạnh mẽ đó của tôi chứng minh rằng tôi không tốt lắm”.
Cái nhìn tiêu cực về năng lực của mình mang đậm màu sắc cảm xúc và
dùng cảm xúc tiêu cực của mình để chứng minh cho sự kém cỏi của mình.
(9)Dán nhãn và tổng quát hoá quá mức (Labeling and overgeneralization) :
“Bởi vì tôi phải không được thất bại ở những việc quan trọng và tôi đã thất bại,
tôi là người thất bại hoàn toàn”.
Dãn nhãn và khái quát hóa tiêu cực về mình một cách quá mức.
(10)Cá nhân hoá (Personalizing) : “Bởi vì tôi đã làm quá tồi cái mà lẽ ra
tôi phải làm tốt hơn nên họ đang cười, tôi chắc chắn rằng họ chỉ cười tôi mà thôi,
và đó là điều khủng khiếp”.
(11)Chủ nghĩa giả tạo (Phonyism) : “ Khi tôi không làm tốt như lẽ ra tôi
phải làm, nhưng họ vẫn còn khen ngợi và chấp nhận tôi, tôi thực sự là giả tạo và
sẽ sớm hiện lên trên mặt và chỉ ra cho họ thấy tôi ti tiện làm sao”.
(12)Chủ nghĩa cầu toàn (Perfectionism) : “Tôi nhận thấy rằng tôi đã làm
hơi tốt, nhưng lẽ ra tôi tuyệt đối phải làm thật hoàn thiện nhiệm vụ như vậy, và do
đó tôi thực sự là người bất tài”.
Lý thuyết về sự thay đổi trong điều trị:
Như phần trên đã nêu, con người có khuynh hướng sinh học về suy nghĩ
một cách không hợp lý; đồng thời cũng có khả năng lựa chọn việc làm hướng đến
thay đổi ý nghĩ không hợp lý. Những thay đổi tinh tế và kéo dài có thể tác động
được ở con người là sự tái cấu trúc để thay đổi triết lý của những niềm tin không
hợp lý.
Những niềm tin phi lý là nguồn gốc phát sinh , phát triển và duy trì các suy
luận méo mó. Khi tiến hành trị liệu, nhà trị liệu có một tác động thay đổi nhận
thức của người bệnh. Sự thay đổi nhận thức của con người có thể ở hai mức độ:
-Những thay đổi cơ sở lý luận, nhưng chưa thay đổi triết lý sâu sắc.
-Những thay đổi triết lý sâu sắc.

49
Thay đổi nhận thức ở mức độ thay đổi cơ sở lý luận là thay đổi sự kiện
(thay đổi A theo mô hình ABC); còn ở mức độ thay đổi triết lý sâu sắc là thay đổi
niềm tin (thay đổi B trong mô hình ABC), niềm tin phi lý nền tảng của họ.
REBT ủng hộ việc sử dụng các kỹ thuật hành vi, vì nhận thấy rằng, thay
đổi hành vi sẽ tạo thuận lợi lớn cho thay đổi nhận thức.
4.Tiếp cận Nhân văn – Hiện sinh:
Trường phái Nhân văn – Hiện sinh quan niệm rằng: Những người tìm
kiếm sự trợ giúp do họ cảm thấy bất an, không hài lòng, hay cáu gắt vô cớ và luôn
thất bại trong những cái mà họ cảm thấy cần làm và khả năng họ có thể làm được.
Nguyên nhân của những điều này là do họ thiếu mối quan hệ tình cảm thân thiết
giữa con người với nhau, hoặc họ thiếu những mục tiêu quan trọng để phấn đấu.
Sự tiếp cận Nhân văn – Hiện sinh nhấn mạnh đến sự lựa chọn, sự tư do, tính trách
nghiệm, tính tự quyết của thân chủ với cuộc sống của mình.
4.1.Tiếp cận thân chủ - trọng tâm (Client-centered therapy):
Carl Rogers là người sáng lập ra phương pháp tham vấn thân chủ - trọng
tâm. Lúc đầu phương pháp này được gọi là Liệu pháp thân chủ - trọng tâm, sau
đó được gọi là Phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân. Rogers cho rằng
mỗi người đều có tiềm năng cho sự lớn lên, có tiềm năng cho những hành vi có
hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện thực hóa những tiềm năng của mình.
Những thân chủ có những hành vi kém thích nghi là do họ tập nhiễm những
mẫu hành vi, ứng xử sai lệch trong cuộc sống. Lý giải sự sai lệch này là do con
người có nhu cầu mạnh mẽ được người khác chấp nhận, coi trọng nên họ có thể
hành động một cách không tự nhiên, không thực tế và phát triển những nhận cảm
sai lệch về bản thân, về những điều mình mong muốn.
4.1.1.Quan niệm trong tham vấn thân chủ - trọng tâm:
Theo quan niệm của Rogers, thân chủ được xem là một chủ thể có hiểu biết
nên họ phải được hiểu, được chấp nhận để nhà tham vấn có thể cung cấp những
loại hình giúp đỡ tốt hơn. Khái niệm chủ đạo trong tiếp cận thân chủ - trọng tâm
là: mỗi người đều có thể định hướng được cuộc sống của mình. Các thân chủ đều
có khả năng giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống một cách hiệu quả
mà không cần đến sự diễn dịch và định hướng từ các nhà trị liệu.
Cũng theo Rogers, cá nhân có khuynh hướng một mặt làm cho phần lớn
trường hợp những trải nghiệm mà mình sống ở thế giới bên ngoài phù hợp với
khái niệm về cái tôi, cái tôi thực tế. Mặt khác, nó nhằm làm cho khái niệm về cái

50
tôi sát với những tình cảm sâu xa tạo nên cho cái tôi lý tưởng, tương ứng với
những gì tiềm tàng. Như vậy, cái tôi hiện thực có nguy cơ không ăn khớp hoặc xa
với cái tôi lý tưởng. Đó là khi con người dưới áp lực của hoàn cảnh bắt buộc phải
từ chối một số trải nghiệm hoặc con người tự thấy mình phải áp đặt những tình
cảm và những giá trị hoặc những thái độ cho mình.
4.1.2.Mục đích của tham vấn thân chủ - trọng tâm:
Mục đích của tiếp cận thân chủ - trọng tâm là giúp thân chủ trải nghiệm vấn
đề của mình, biết chấp nhận bản thân, tự tin, cởi mở, sẵn sàng đương đầu với
những cố hữu, bảo thủ, sống thực với các phẩm chất bên trong của mình, tự quyết
định cách thức giải quyết vấn đề của mình.
4.1.3.Phương pháp và kỹ thuật:
Phương pháp của Rogers không coi là một sự chữa trị cho thân chủ hoặc
tìm kiếm những nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính là khuyến khích thân chủ
tự hiện thực hóa những tiềm năng của bản thân, để phát triển tâm lý lành mạnh ở
thân chủ.
Phương pháp thân chủ - trọng tâm đánh giá cao quá trình tập trung vào mối
quan hệ trị liệu hơn là tập trung vào kỹ thuật trị liệu. Do vậy, thái độ cần có của
nhà trị liệu đóng vai trò chủ yếu, còn phương pháp chỉ có một số ít kỹ năng và
đóng vai trò thứ yếu. Thái độ và nhân cách của nhà trị liệu và chất lượng cùa mối
quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ là những điều kiện tiên quyết dẫn đến kết
quả trị liệu.
Những kỹ năng chủ yếu và phẩm chất cần có của nhà trị liệu trong tham
vấn thân chủ - trọng tâm là:
Lắng nghe tích cực: đây là kỹ năng nền tảng. Nhà tham vấn phải lắng nghe
bằng tất cả giác quan, nghe bằng sự cảm nhận xúc cảm, lắng nghe là sự dừng nói ,
dừng suy nghĩ. Lắng nghe tích cực thể hiện ở nghe và nhận hết được cảm xúc của
thân chủ mà không có sự suy luận, đánh giá, cũng không liên hệ với cái này cái
nọ. Trong khi lắng nghe, có kỹ thuật phản hồi là nhà tham vấn nói lại bằng ngôn
ngữ của mình hoặc nhắc lại lời của thân chủ một cách cô đọng để làm rõ hơn cảm
xúc, ý nghĩ của thân chủ và phải đạt được sự tán thành của thân chủ.
Nhà trị liệu thân chủ - trọng tâm cần có những phẩm chất sau đây:
Sự thấu cảm:

51
Là phẩm chất mà một người có thể hiểu biết người khác theo điều kiện
riêng của họ. Đó là khả năng nhìn nhận mọi vấn đề theo quan điểm của người
khác chứ không áp đặt họ theo quan điểm của mình. Nhà trị liệu trải nghiệm vấn
đề như thân chủ đang trải nghiệm và nhìn vấn đề như chính họ nhìn.
Sự tôn trọng, chấp nhận vô điều kiện:
Sự tôn trọng giá trị con người, những giá trị tự tại, riêng biệt của thân chủ,
bất kể địa vị, hành vi hoặc thái độ tích cực hay tiêu cực của họ. Nhà trị liệu không
phê phán, xét nét thân chủ, không bác bỏ hoàn toàn con người họ.
Với người bệnh là người do bệnh tật gây biến đổi về tâm lý: Không phê
phán, xét nét khi người bệnh có sai sót.
Ngược lại, nhà trị liệu cũng không nên động viên một cách hời hợt, như: “
Anh /chị không có bệnh gì đâu. Không sao đâu, không có gì đâu…” đó là biểu
hiện sự thiếu tin tưởng, coi thường bệnh nhân và chính là thiếu tôn trong bệnh
nhân.
Sự chân thành:
Là phẩm chất mà một người có khả năng thể hiện một cách tự nhiên về
chính bản thân mình. Đó là sự thoải mái trong quan hệ giao tiếp, bản thân không
phải thay đổi để chỉ đơn thuần làm đẹp lòng người khác.
4.2.Tiếp cận Hiện sinh:
Những người theo thuyết Hiện sinh bao gồm: Dugal Arbuckle, Victor
Frankl, Rollo May và Irvin Yalom. Tiếp cận này không xem xét đến việc định
hướng lý thuyết mà chủ yếu tập trung vào những vấn đề trọng tâm dựa trên những
gì mà con người đang tồn tại.
Quan niệm của thuyết Hiện sinh cho rằng cá nhân là người chịu trách
nhiệm của cuộc đời mình. Do vậy tham vấn hiện sinh coi trọng sự tự do, trách
nhiệm và sự tự quyết dựa trên những đặc điểm riêng biệt của từng cá nhân.
Mục đích cơ bản của tham vấn hiện sinh là giúp cá nhân nhận ra rằng mình
là những người tự do và có khả năng nhận biết năng lực của mình và thách thức
thân chủ trong việc nhận biết những yếu tố cản trở sự tự do của họ.
Một kỹ thuật mà Corey thường ứng dụng tiếp cận hiện sinh trong tham vấn
nhóm là yêu cầu mỗi người hãy tưởng tượng về cuộc sống của mình, về những
điều mình mong muốn. thí dụ những câu hỏi:
Bạn muốn tương lai của mình như thế nào?
52
Bạn muốn nói gì về bản thân mình khi liên hệ với những người có ảnh
hưởng đến cuộc sống của bạn?
Điều mà bạn muốn khắc sâu trên bia mộ của mình là gì?
Điều mà bạn đang làm hoặc điều bạn có thể làm trong thời điểm hiện nay
để biến những ước mơ của mình thành sự thực là gì?...
Dựa trên những trả lời này của thân chủ, nhà tham vấn có thể chia sẻ thông
tin, cung cấp thông tin, giúp thân chủ hóa giải những mặc cảm, sự thất bại của
bản thân, giúp thân chủ nhìn nhận những điều mà họ còn thiếu trong công việc,
trong cuộc sống. Nhà tham vấn giúp thân chủ loại bỏ niềm tin tiêu cực và cùng họ
bàn phương hướng giải quyết cho nan đề mang tính hiện sinh của họ.
Cách tiếp cận Hiện sinh thiếu một hệ thống nguyên tắc và thực hành trị liệu
nên không được xem là cách tiếp cận khoa học. Nó có hạn chế khi làm việc với
thân chủ không có khả năng bộc lộ bằng lời và có trình độ học vấn thấp.
Tiếp cận Gestalt:
Gestalt được sáng lập bởi nhà tâm lý học Đức Fritz Perls, ông cho rằng loài
người tìm kiếm sự trọn vẹn và ý nghĩa trong những trải nghiệm cảm giác của họ.
Với cách thức tương tự, có những tiếp cận điều trị khác là làm tăng cường sự
quan trọng của ý nghĩa và sự hoàn thiện trong nhân cách con người.
Liệu pháp Gestalt là một hệ thống điều trị nhấn mạnh vào sự kết hợp giữa
tâm thần và cơ thể để trở nên một con người hoàn thiện. Mục tiêu đầu tiên của
liệu pháp là nhà trị liệu giúp cho thân chủ tự nhận thức theo một số cách thức
sau :
 Diễn tả những cảm giác bị dồn nén trong những sinh hoạt nhóm;
 Nhận biết những công việc chưa hoàn thành từ xung đột trong quá
khứ được tiến hành như thế nào trong những mối quan hệ mới;
 Chấp nhận rằng những nhiệm vụ cuộc sống chưa hoàn thành phải
được hoàn thành để tiếp tục đi lên.
Fritz Perls (1969), nhà tổ chức liệu pháp Gestalt đã đề nghị những người
tham gia liệu pháp hoạt động tưởng tượng liên quan đến những xung đột và
những cảm giác mạnh mẽ, và cũng tái tạo những giấc mơ được xem là bộ phận
đau khổ bị kìm nén của bệnh nhân.
Theo một số tác giả phương tây, liệu pháp Gestalt sử dụng trạng thái
paradox để chỉ dẫn “Sự thay đổi chỉ có thể xảy ra khi chúng ta chấp nhận thời

53
điểm hiện tại chúng ta là ai, và sự nhận biết, chính nó là điều trị”. “Thay vì giải
thích sự không hài lòng hiện tại là ‘xung đột’ khiến bạn không hạnh phúc, có lẽ
bạn nên xem nó là một hình thức căng thẳng cần thiết để nắm giữ bước đầu tiên
để thay đổi”.

MỘT SỐ TIẾP CẬN KHÁC


1. Liệu pháp thư giãn:
Thực ra liệu pháp này đã hình thành từ rất xa xưa. Theo H. Schultz, luyện
tập khí công là một dạng tự ám thị, thư giãn, tạo ra các diễn biến trên người bệnh
để tập trung điều trị những triệu chứng thực thể.
Thông thường người bệnh nào cũng tự ám thị một cách tự phát về tiến triển
bệnh và kết quả chữa bệnh của mình. Có người lạc quan, có người bi quan.
Nhiệm vụ của người thầy thuốc là giúp cho người bệnh tự ám thị theo hướng có
lợi cho sức khỏe sau khi đã giải thích hợp lý.
Hiện nay người ta sử dụng rộng rãi phương pháp thư giãn, gọi là rèn luyện
tự sinh (Autogenic Training) hoặc thư giãn cơ bắp (Relaxation Musculaire). Cơ
sở của phương pháp này là: có mối liên hệ giữa cảm xúc và trương lực cơ. Khi
cảm xúc căng thẳng thì trương lực cơ tăng. Vì vậy đây là phương pháp huấn
luyện tâm lý trương lực. Muốn tác động lên tâm lý cần luyện tập cơ bắp.
Kỹ thuật:
Nghiên cứu từ Yoga, tác giả Schultz, người Đức, đã rút ra kết luận rằng:
bản chất của Yoga chỉ là hiện tượng tự ám thị. Từ đó Schultz đã xây dựng
phương pháp thư giãn gọi là thư giãn tập trung (Concentrative Relaxation).
Phương pháp có 2 giai đoạn: cấp thấp và cấp cao.
- Giai đoạn cấp thấp:

54
Gồm có 6 bài tập. Thông dụng nhất là trong tư thế nằm. Trước khi vào các
bài tập cũng như khi kết thúc bài, người tập nhẩm một câu: “toàn thân yên tĩnh”.
Bài tập 1: “Cảm giác nặng”.
Khi có cảm giác yên tĩnh, người tập nhẩm câu: “tay phải nặng dần” và
tưởng tượng tay phải mỗi lúc một nặng hơn. Sau đó tập sang tay trái với cách
thức tương tự. Sau đó đến hai chân rồi toàn thân. Người tập phải tìm được cảm
giác nặng. Theo quy luật tâm sinh lý, khi cơ doãi thì có cảm giác nặng.
Bài này yêu cầu tập trong 15 ngày, sau đó chuyển sang bài thứ 2.
Bài tập 2: “Cảm giác ấm”
Cũng tương tự như bài 1, khi đã có cảm giác yên tĩnh sau câu nhẩm thầm
“toàn thân yên tĩnh”, người tập nhẩm thầm câu “tay phải ấm dần”. Hãy tưởng
tượng có một làn hơi ấm tỏa ra từ tay phải. Theo quy luật, khi giãn cơ, giãn mạch
ngoại biên, máu chuyển đến tăng sẽ gây cảm giác ấm. Khi đã tìm được cảm giác
ấm ở tay phải, chuyển sang tìm cảm giác ấm ở tay trái, rồi lần lượt hai chân.
Bài tập 3: “Điều hòa nhịp tim”
Hướng dẫn người bệnh biết cảm nhận về hoạt động của tim. Nhẩm thầm
câu “tim đập bình tĩnh và đều đặn”. Tưởng tượng nhịp tim đập đều đặn, nhịp
nhàng. Theo quy luật, trong trạng thái yên tĩnh, tĩnh lặng, người ta có thể đếm
được nhịp tim và nhịp thở.
Bài này cũng tập trong vòng 15 ngày.
Bài tập 4: “Điều hòa hô hấp”
Bệnh nhân nhẩm thầm câu “nhịp thở hoàn toàn bình tĩnh”. Cũng tưởng
tượng nhịp thở bình tĩnh và hoàn toàn đều đặn.
Tập bài này cũng trong 15 ngày.
Bài tập 5: “Điều hòa nội tạng trong ổ bụng”
Bệnh nhân nhẩm thầm câu “thượng vị ấm dần”. Hãy tưởng tượng vùng
thượng vị mỗi lúc một ấm hơn.
Cũng tập bài này trong 15 ngày.
Bài tập 6: “Điều hòa vùng trán”
Bệnh nhân nhẩm thầm câu “trán tôi hoàn toàn mát và dễ chịu”. Đồng thời
tưởng tượng vùng trán mát dần và cảm giác hoàn toàn dễ chịu.

55
Cũng tập trong 15 ngày. Khi đạt được trạng thái giai đoạn, giống thôi miên,
sẽ chuyển sang giai đoạn cấp cao.
- Giai đoạn cấp cao:
Sau khi tập 6 bài cấp thấp từ 6 tháng đến 2 năm, mới chuyển sang 3 bài giai
đoạn cấp cao. Với tính không khả thi về thời gian điều trị này nên ít khi sử dụng
đến các bài giai đoạn này.
Bài 1: Màu sắc cá nhân:
Chủ thể hình dung một màu sắc nhất định và màu sắc đó tương ứng với nội
dung tâm lý hoặc đời sống bên trong của mình.
Bài 2:Đối tượng cụ thể:
Chủ thể hình dung một đối tượng cụ thể. Thí dụ hình dung một người cụ
thể.
Bài 3: Đối tượng trừu tượng:
Hình dung một đối tượng trừu tượng như tình yêu, bình đẳng, vẻ đẹp, …
Với tính thực tế và khả thi hơn, có thể tiến thành 3 giai đoạn cấp thấp:
- Cảm giác nặng.
- Cảm giác ấm.
- Điều hòa nhịp tim và nhịp thở.
2. Liệu pháp Giải quyết vấn đề:
Liệu pháp giải quyết vấn đề (Problem-solving therapy), hay ứng dụng lâm
sàng của rèn luyện giải quyết vấn đề, bắt đầu vào cuối những năm 1960 và đầu
những năm 1970 như một phần của phong trào nhận thức-hành vi trong lĩnh vực
sửa đổi hành vi.
Kể từ đầu những năm 1970, số lượng chương trình PST ngày càng tăng
nhanh đã được báo cáo trong tài liệu tâm lý học lâm sàng, tham vấn và tâm lý sức
khỏe. Tập trung vào trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn, PST đã được sử dụng
như một phương pháp điều trị (riêng lẻ hoặc một phần của gói điều trị), chiến
lược duy trì và chương trình phòng ngừa.
2.1.Các khái niệm:
-Giải quyết vấn đề có thể được định nghĩa là quá trình nhận thức - hành vi
tự định hướng mà qua đó một người cố gắng xác định hoặc khám phá các giải

56
pháp hiệu quả hoặc thích ứng cho các vấn đề cụ thể gặp phải trong cuộc sống
hàng ngày.
Về giải quyết vấn đề xã hội, PST giải quyết tất cả các loại vấn đề trong
cuộc sống, bao gồm các vấn đề cá nhân (ví dụ, tài chính, tài sản), các vấn đề cá
nhân/nội tâm (nhận thức, cảm xúc, hành vi, sức khỏe), các vấn đề giữa các cá
nhân (ví dụ, xung đột hôn nhân/vợ chồng và gia đình), và các vấn đề cộng đồng
và xã hội (ví dụ, tội phạm, dịch vụ công cộng).
-“Vấn đề” (hoặc “tình huống có vấn đề”) được định nghĩa là bất kỳ tình
huống hoặc nhiệm vụ nào trong cuộc sống (hiện tại hoặc dự đoán) đòi hỏi một
phản ứng để điều chỉnh chức năng thích ứng nhưng không có phản hồi hiệu quả
nào ngay lập tức rõ ràng hoặc sẵn có đối với con người, do sự hiện diện của một
số trở ngại hoặc nhiều trở ngại.
Những trở ngại có thể bao gồm tính mới, mơ hồ, không thể đoán trước, nhu
cầu kích thích mâu thuẫn nhau, thiếu hụt kỹ năng thực hiện hoặc thiếu nguồn lực.
Một vấn đề cụ thể có thể là một sự kiện có giới hạn về thời gian (ví dụ, lỡ chuyến
tàu để đi làm, một căn bệnh cấp tính), một loạt các sự kiện tương tự hoặc có liên
quan (ví dụ, đau đớn liên tục, buồn chán hoặc cảm giác cô đơn).
-“Giải quyết” là một phản ứng đối phó cụ thể theo tình huống hoặc kiểu
phản ứng (nhận thức và/hoặc hành vi), là sản phẩm hoặc kết quả của quá trình
giải quyết vấn đề khi nó được áp dụng cho một tình huống có vấn đề cụ thể.
Một giải pháp hiệu quả là giải pháp đạt được mục tiêu giải quyết vấn đề
(tức là thay đổi tình huống và/hoặc phản ứng cảm xúc của một người đối với nó
để nó không còn được coi là một vấn đề nữa), đồng thời tối đa hóa những hậu quả
tích cực khác và giảm thiểu những hậu quả tiêu cực.
2.2.Mô hình giải quyết vấn đề:
Mô hình này giả định rằng kết quả giải quyết vấn đề trong thế giới thực,
phần lớn được xác định bởi hai quá trình chính, độc lập một phần với nhau:
2.2.1.Định hướng vấn đề:
Định hướng vấn đề bao gồm một tập hợp chú ý để nhận biết các vấn đề khi
chúng xảy ra trong quá trình sống hàng ngày, cùng với một tập hợp các sơ đồ
nhận thức-cảm xúc tương đối ổn định, mô tả cách một người thường suy nghĩ và
cảm nhận về các vấn đề trong cuộc sống và khả năng giải quyết vấn đề chung của
chính họ.

57
Định hướng vấn đề tích cực hoặc mang tính xây dựng sẽ tạo ra những cảm
xúc và xu hướng tiếp cận tích cực; tạo cơ hội cho hành vi giải quyết vấn đề; tập
trung sự chú ý vào các hoạt động giải quyết vấn đề mang tính xây dựng; và tối đa
hóa nỗ lực, sự kiên trì và khả năng chịu đựng sự thất vọng và sự không chắc chắn.
Ngược lại, định hướng vấn đề tiêu cực hoặc rối loạn chức năng sẽ tạo ra
những cảm xúc tiêu cực và xu hướng né tránh; làm tăng thêm sự lo lắng mang
tính hủy diệt; và làm giảm nỗ lực, sự kiên trì và khả năng chịu đựng sự thất vọng
và sự không chắc chắn.
Trong mô hình hiện tại, các loại định hướng vấn đề chính là:
- Nhận thức vấn đề: đề cập đến xu hướng chung hoặc sự sẵn sàng nhận ra vấn đề
khi chúng xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, thay vì bỏ qua hoặc phủ nhận
chúng. Nhận thức vấn đề rất quan trọng vì nó kích hoạt các sơ đồ định hướng vấn
đề khác và tạo cơ hội để giải quyết vấn đề một cách thích hợp.
-Quy kết vấn đề: đề cập đến niềm tin nhân quả của một người liên quan đến các
vấn đề trong cuộc sống. Việc quy kết vấn đề một cách tích cực hoặc mang tính hỗ
trợ liên quan đến sự sẵn sàng hoặc xu hướng chung coi các vấn đề là những sự
kiện bình thường và không thể tránh khỏi trong cuộc sống của mọi người, thay vì
quy chúng cho một số khiếm khuyết ổn định hoặc thiếu hụt cá nhân.
-Đánh giá vấn đề: Đề cập đến sự đánh giá của một người về tầm quan trọng hoặc
mức độ liên quan của một vấn đề đối với lợi ích cá nhân và/hoặc xã hội. Đánh giá
vấn đề tích cực là xu hướng chung coi vấn đề là một thách thức hoặc lợi ích tiềm
năng, thay vì chỉ xem nó như một tình huống có hại hoặc đe dọa.
-Kiểm soát nhận thức: có hai thành phần: (1) năng lực tự giải quyết vấn đề tổng
quát, hoặc niềm tin chung rằng một người có khả năng giải quyết vấn đề và thực
hiện các giải pháp một cách hiệu quả; và (2) kỳ vọng chung về kết quả giải quyết
vấn đề tích cực, hoặc niềm tin chung rằng các vấn đề trong cuộc sống là “có thể
giải quyết được”.
-Cam kết về thời gian/công sức: cũng có hai thành phần: (1) khả năng một cá
nhân sẽ ước tính chính xác thời gian cần thiết để giải quyết thành công một vấn
đề cụ thể và (2) khả năng cá nhân đó sẽ sẵn sàng dành thời gian cần thiết và nỗ
lực giải quyết vấn đề.
2.2.2. Giải quyết vấn đề hợp lý:
Trong mô hình hiện tại, giải quyết vấn đề đúng cách bao gồm việc áp dụng
bốn kỹ năng giải quyết vấn đề chính được thiết kế để tối đa hóa khả năng tìm ra

58
giải pháp “tốt nhất” hoặc hiệu quả nhất cho một vấn đề cụ thể: (1) xác định và
hình thành vấn đề, (2) tạo ra các giải pháp thay thế, (3) ra quyết định và (4) thực
hiện và xác minh giải pháp.
Bốn kỹ năng này có thể được xem như một tập hợp các nhiệm vụ hướng tới
mục tiêu cụ thể cho phép một người giải quyết thành công một vấn đề cụ thể. Mỗi
nhiệm vụ có mục đích hoặc chức năng riêng trong quá trình giải quyết vấn đề.
Trong bối cảnh thực tế, việc giải quyết vấn đề thường bắt đầu bằng một vấn
đề “lộn xộn” hoặc không được xác định rõ ràng (tức là những tín hiệu mơ hồ hoặc
không liên quan, thông tin không chính xác hoặc bị bóp méo, mục tiêu không rõ
ràng).
(1) Xác định và hình thành vấn đề:
Mục đích của “xác định và hình thành vấn đề” là:
+ Thu thập càng nhiều thông tin thực tế, liên quan về vấn đề càng tốt;
+ Làm rõ bản chất của vấn đề;
+ Đặt ra các mục tiêu giải quyết vấn đề thực tế; và
+ Đánh giá lại tầm quan trọng của vấn đề đối với hạnh phúc cá nhân
và/hoặc xã hội.
Kỹ năng giải quyết vấn đề quan trọng này cũng bao gồm khả năng nhận
biết và sửa chữa những niềm tin phi lý cũng như những nhận thức sai lệch khác
thường góp phần tạo ra các vấn đề và vấn đề giả không rõ ràng.
(2) Tạo ra các giải pháp thay thế:
Chức năng của “tạo ra các giải pháp thay thế” là tạo ra càng nhiều giải pháp
thay thế càng tốt, theo cách tối đa hóa khả năng giải pháp “tốt nhất” (ưu tiên nhất)
sẽ nằm trong số đó.
Kỹ năng này nhấn mạnh ba nguyên tắc cơ bản:
+ Số lượng: càng nhiều giải pháp thay thế được tạo ra thì càng có nhiều ý
tưởng chất lượng tốt,
+ Trì hoãn phán xét: nhiều ý tưởng giải pháp chất lượng tốt hơn sẽ được tạo
ra khi người ta tạm dừng việc đánh giá các ý tưởng cho đến giai đoạn sau của quá
trình giải quyết vấn đề, và
+ Sự đa dạng: phạm vi hoặc sự đa dạng của các ý tưởng giải pháp càng lớn
thì càng có nhiều ý tưởng có chất lượng tốt được phát hiện.
59
(3) Ra quyết định:
Mục đích của việc ra quyết định là đánh giá (so sánh và đánh giá) các giải
pháp thay thế có sẵn và chọn các giải pháp “tốt nhất” để thực hiện trong tình
huống có vấn đề.
(4) Thực hiện và xác minh giải pháp:
Các chức năng này là đánh giá kết quả của giải pháp và xác minh “tính hiệu
quả” của chiến lược giải pháp đã chọn trong tình huống có vấn đề trong đời thực.
Nhiệm vụ này bao gồm bốn bước:
+ Thực hiện hành vi giải pháp;
+ Tự giám sát hậu quả hoặc ảnh hưởng của giải pháp đối với con người và
môi trường;
+ Tự đánh giá (so sánh kết quả thực tế với kết quả dự đoán); và, tùy thuộc
vào sự hài lòng với kết quả của giải pháp, sẽ:
Tự củng cố nếu vấn đề được giải quyết hoặc
Khắc phục sự cố và tái chế nếu vấn đề vẫn còn (tức là quay lại quy trình
giải quyết vấn đề trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp tốt hơn).
2.3.Mô hình quan hệ/giải quyết vấn đề của stress:
(the relational/problem-solving model)
Lazarus định nghĩa stress là một loại mối quan hệ hoặc giao dịch cụ thể
giữa con người và môi trường, trong đó nhu cầu được con người đánh giá là vượt
quá nguồn lực đối phó và gây nguy hiểm cho hạnh phúc cá nhân. Trước đó,
chúng ta đã định nghĩa một vấn đề là một tình huống cuộc sống đòi hỏi một phản
ứng để thực hiện chức năng thích ứng, nhưng con người không có sẵn phản ứng
hiệu quả ngay lập tức.
Từ việc so sánh hai định nghĩa quan hệ này, có thể kết luận rằng một tình
huống có vấn đề là một tình huống stress nếu nó khó khăn và có ý nghĩa quan
trọng đối với sức khỏe. Theo mô hình của Lazarus, một người trong tình huống
stress ảnh hưởng đáng kể đến cả chất lượng và cường độ của phản ứng stress
thông qua hai quá trình chính: (1) đánh giá nhận thức và (2) đối phó.
(1)- Đánh giá nhận thức là quá trình qua đó một người xác định “ý nghĩa” hoặc
tầm quan trọng của yếu tố stress đối với cá nhân. Hai loại đánh giá nhận thức
quan trọng là đánh giá ban đầu và đánh giá lần thứ hai.

60
+Đánh giá ban đầu đề cập đến đánh giá của một người về mức độ liên
quan của cuộc sự kiện đối với sức khỏe thể chất, xã hội hoặc tâm lý.
+Đánh giá thứ phát bao gồm việc đánh giá của một người về các nguồn lực
và lựa chọn đối phó của họ đối với một tình huống khó khăn cụ thể.
(2)- Đối phó đề cập đến các hoạt động nhận thức và hành vi khác nhau mà một
người cố gắng sử dụng để quản lý các tình huống Stress cũng như những cảm xúc
mà chúng tạo ra. Hai kiểu đối phó chính là tập trung vào vấn đề và tập trung vào
cảm xúc.
+Đối phó tập trung vào vấn đề: nhằm mục đích thay đổi tình huống stress
theo chiều hướng tốt hơn (tức là đáp ứng, thay đổi hoặc kiểm soát các đòi hỏi của
tình huống).
+Đối phó tập trung vào cảm xúc: nhằm mục đích quản lý những cảm xúc
được tạo ra bởi tình huống stress. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhìn chung, cách đối
phó tập trung vào vấn đề chiếm ưu thế khi các sự kiện stress được đánh giá là có
thể thay đổi hoặc kiểm soát được, trong khi cách đối phó tập trung vào cảm xúc
chiếm ưu thế khi các sự kiện này được đánh giá là không thể thay đổi hoặc không
thể kiểm soát được.
Trong mô hình này, stress được xem như một hàm số của mối quan hệ qua
lại giữa ba biến số chính: (1) các sự kiện stress trong cuộc sống, (2) phản ứng
stress về mặt cảm xúc và (3) khả năng đối phó khi giải quyết vấn đề.
- Các sự kiện stress trong cuộc sống là những trải nghiệm cuộc sống đặt ra cho
một người những nhu cầu mạnh mẽ về việc điều chỉnh lại cá nhân, xã hội hoặc
sinh học. Hai loại sự kiện stress quan trọng trong cuộc sống ảnh hưởng đến hầu
hết mọi người là những sự kiện tiêu cực lớn trong cuộc sống và các vấn đề hàng
ngày.
+Một sự kiện tiêu cực lớn trong cuộc đời là một sự kiện hoặc sự việc lớn
xảy ra, chẳng hạn như một sự thay đổi tiêu cực lớn trong cuộc sống, đòi hỏi phải
có những điều chỉnh sâu rộng trong cuộc sống của một người (ví dụ: ly hôn,
người thân qua đời, mất việc làm, bệnh tật hoặc chấn thương nặng).
+Vấn đề hàng ngày (hoặc tình huống có vấn đề hàng ngày) là một sự kiện
cuộc sống cụ thể và hẹp hơn, được đặc trưng bởi sự khác biệt được nhận thức
giữa nhu cầu thích ứng và phản ứng đối phó sẵn có.
- Phản ứng stress về mặt cảm xúc đề cập đến những phản ứng cảm xúc tức thời
của một người đối với một sự kiện stress trong cuộc sống, được sửa đổi hoặc biến

61
đổi bằng các quá trình đánh giá và đối phó. Mặc dù các phản ứng stress về mặt
cảm xúc thường tiêu cực, bao gồm những cảm giác như lo lắng, tức giận, thất
vọng và trầm cảm, chúng cũng có thể có bản chất tích cực (ví dụ: hy vọng, nhẹ
nhõm, phấn khởi).
Cảm xúc tiêu cực có thể chiếm ưu thế khi một người:
(1) đánh giá một vấn đề là có hại hoặc đe dọa đến hạnh phúc,
(2) nghi ngờ khả năng đối phó với tình huống một cách hiệu quả và/hoặc
(3) thực hiện việc đối phó không hiệu quả hoặc không thích hợp.
Mặt khác, những cảm xúc tích cực có thể được trải nghiệm khi một người:
(1) đánh giá tình huống stress như một thách thức hoặc cơ hội mang lại lợi
ích,
(2) tin rằng mình có khả năng đối phó với tình huống một cách hiệu quả và
(3) thực hiện đối phó có hiệu quả trong việc giảm bớt các điều kiện có hại
hoặc đe dọa và/hoặc những cảm xúc tiêu cực do chúng tạo ra.
Khái niệm quan trọng nhất trong mô hình quan hệ/giải quyết vấn đề là cách
đối phó khi giải quyết vấn đề. Đây là khái niệm thống nhất tích hợp tất cả các
hoạt động đánh giá và ứng phó nhận thức trong khuôn khổ giải quyết vấn đề xã
hội chung.
- Khả năng đối phó để giải quyết vấn đề được hình thành như một quá trình đối
phó chung mà qua đó một người hình thành và lựa chọn các phản ứng đối phó cụ
thể cho các tình huống căng thẳng có vấn đề cụ thể. Người sử dụng chiến lược đối
phó giải quyết vấn đề sẽ xác định được tình huống căng thẳng; coi đó là một vấn
đề cần giải quyết; nỗ lực cẩn thận để xác định, khám phá hoặc phát minh ra giải
pháp (các phản ứng đối phó hiệu quả hoặc thích ứng); thực hiện giải pháp đã
chọn; rồi cẩn thận quan sát và đánh giá kết quả.
Chúng ta nhắc lại về hai kiểu đối phó: tập trung vào vấn đề và tập trung vào
cảm xúc. Các mục tiêu có thể bao gồm mục tiêu tập trung vào vấn đề, mục tiêu
tập trung vào cảm xúc hoặc cả hai, tùy thuộc vào bản chất của tình huống có vấn
đề cụ thể cũng như cách xác định và đánh giá nó.
Khi tình huống hoặc các khía cạnh chính của nó được đánh giá là có thể
thay đổi hoặc kiểm soát được thì các mục tiêu tập trung vào vấn đề sẽ được nhấn
mạnh, mặc dù người đó cũng có thể đặt mục tiêu tập trung vào cảm xúc nếu mức
độ đau khổ về mặt cảm xúc ở mức cực cao.
62
Mặt khác, nếu tình huống phần lớn không thể thay đổi hoặc không thể kiểm
soát được thì các mục tiêu tập trung vào cảm xúc sẽ được nhấn mạnh.
3.Liệu pháp gia đình (Family therapy):
3.1. Quan niệm gia đình như một hệ thống:
Trong lý thuyết tổng quát của những hệ thống thì hệ thống gồm một cấu
trúc với yếu tố tạo thành một hệ thống. Những yếu tố được vận hành theo một
quy tắc nhất định. Hệ thống này lại được mở ra, trao đổi với môi trường là hệ
thống rộng lớn hơn theo một quy tắc nhất định.
Ở liệu pháp gia đình: gia đình là một hệ thống với mỗi thành viên trong gia
đình là các yếu tố cấu thành hệ thống và tác động lẫn nhau.
Khi một yếu tố của hệ thống thay đổi thì tất cả thay đổi. Đó là do tất cả
những yếu tố của hệ thống gia đình đều liên hệ mật thiết với nhau. Trong một gia
đình, khi một biến cố bề ngoài chỉ ảnh hưởng đến một phần tử, nhưng chính nó
lại rung động trên những phần tử khác của gia đình đó.
Một hệ thống không phải đơn giản là tổng số yếu tố kết thành hệ thống đó.
Thêm vào mỗi đặc tính cá biệt của mỗi người là quy củ của một gia đình, là
những mối quan hệ giữa các phần tử khác nhau trong gia đình và với những
người xung quanh.
Trong một hệ thống cởi mở, những quan hệ được giao tiếp theo vòng tròn,
không phải theo đường thẳng.

Mỗi phần tử của gia đình vừa bị tác động, vừa chủ động trong mối quan hệ
hợp nhất họ với những người khác.

63
Hoàn cảnh hiện tại của một hệ thống (gia đình) có thể xuất phát từ vô số
những phản ứng qua lại.
Thí dụ:
Sự việc một phần tử gia đình có những rối loạn mang hình thái phân liệt,
không thể chỉ liên quan đến một nguyên nhân duy nhất. Điều này phụ thuộc vào
gia đình, vào tổ chức của gia đình, vào lịch sử của gia đình và cùng một bệnh lý
có thể do nhiều nguyên nhân.
Khi người ta thử biến đổi một hệ thống (gia đình) thì hệ thống ấy nảy sinh
những tác động phản hồi để chống lại sự thay đổi. Đây là khuynh hướng đạt đến
cân bằng nội tại của gia đình.
Một hệ thống cởi mở bị phụ thuộc vào những ảnh hưởng của môi trường
trong đó hệ thống đang tồn tại. Hệ thống có thể duy trì bằng cách thích nghi với
những thay đổi bên ngoài. Một gia đình không đủ khả năng thích nghi với những
thay đổi của xã hội, sẽ không còn lối thoát, bế tắc.
Vậy có thể nói: khả năng sinh tồn của một gia đình phụ thuộc vào khả năng
đạt đến cân bằng trong nội bộ và năng lực thích nghi với môi trường.
3.2. Khái niệm bệnh nhân được chỉ định:
Trong liệu pháp gia đình hệ thống, người ta coi như không có cá nhân
thành viên bệnh hoạn, mà đúng ra là một phần tử của gia đình được chỉ định để
phơi bày ra những triệu chứng được coi là một tổng hợp của một sự trục trặc
trong gia đình.
3.3. Tìm kiếm cơ sở nội tại gia đình của triệu chứng :
Trong trị liệu gia đình, nhà trị liệu cần tìm hiểu:
Cái gì đã cho phép triệu chứng xuất hiện ở thân chủ?
Cái gì đã cho phép một ứng xử mà cả một gia đình phàn nàn vẫn tồn tại?
Đó là triệu chứng có cơ sở của một nội tại của gia đình. Làm sáng tỏ điều
đó là điều cần thiết giúp nhà điều trị hiểu được sự vận hành của gia đình, trước
khi can thiệp.
Do vậy phương pháp điều trị là điều trị toàn bộ gia đình thay vì chỉ điều trị
người bệnh được chỉ định. Mục đích của liệu pháp gia đình hướng tới việc làm
thay đổi các mối quan hệ giữa các nhân cách trong gia đình để giúp loại trừ các
triệu chứng bệnh lý, cũng như để đạt tới sự thích nghi xã hội hơn.

64
Kỹ thuật tiến hành là thông qua tiếp xúc tâm lý với các thành viên trong gia
đình. Thông qua tọa đàm tâm lý chung, thầy thuốc phát hiện ra các stress, các rối
loạn mối tương quan cảm xúc giữa các thành viên trong gia đình. Từ đó thiết lập
lại sự cân bằng bên trong gia đình

Gia đình mất hài hoà Gia đình mất cân bằng
4. Liệu pháp tâm lý trợ giúp (Supportive psychotherapy)
4.1.Khái niệm:
Liệu pháp tâm lý trợ giúp luôn khó khăn trong định nghĩa một cách thỏa
đáng. Trước hết, chúng ta phải nhấn mạnh rằng chúng ta đang tiến hành ở đây với
một hình thức đặc biệt của liệu pháp tâm lý trong đó sự trợ giúp của nhà trị liệu là
thành phần chính của sự điều trị. Tất cả các liệu pháp tâm lý rõ ràng đòi hỏi một
số yếu tố trợ giúp và mối quan hệ nhà trị liệu – bệnh nhân có thể được xem như
một sự giúp đỡ, nhưng sự giúp đỡ này chỉ là một trong những yếu tố trị liệu được
sử dụng và không phải là cơ chế chính nền tảng của sự điều trị.
Liệu pháp tâm lý trợ giúp có thể được định nghĩa là hình thức điều trị tâm
lý cung cấp cho bệnh nhân trên một thời gian kéo dài, thường là nhiều năm để
nâng đỡ họ, vì họ không có khả năng quản lý cuộc sống của mình một cách thỏa
đáng mà không có sự giúp đỡ dài hạn như vậy.
4.2.Mục tiêu điều trị:
Mục tiêu điều trị của liệu pháp tâm lý trợ giúp chịu ảnh hưởng của các đặc
điểm của bệnh nhân như: tuổi, chẩn đoán bệnh, tiên lượng bệnh…nhưng nói
chung nó bao gồm:
(a) Nhằm phát triển chức năng tâm lý và xã hội tốt nhất cho bệnh nhân bằng việc
khôi phục và duy trì khả năng của bệnh nhân để quản lý cuộc sống của mình.

65
(b) Nhằm củng cố sự tự trọng và tự tin của bệnh nhân càng nhiều càng tốt.
(c) Nhằm giúp bệnh nhân nhận biết về thực tế, nghĩa là nhận biết về những hạn
chế của mình và những hạn chế của điều trị, những gì có thể và không thể
thành công.
(d) Nhằm ngăn chặn sự tái phát bệnh của bệnh nhân và do đó cố gắng đề phòng
sự xấu đi hoặc tái nhập viện.
(e) Nhằm giúp bệnh nhân có khả năng chỉ đòi hỏi cái mà mức độ trợ giúp chuyên
nghiệp sẽ có kết quả trong sự điều chỉnh tốt nhất có thể của bệnh nhân, và do
đó phòng chống sự phụ thuộc quá mức.
(f) Nhằm chuyển nguồn trợ giúp từ chuyên nghiệp về gia đình hoặc bạn bè của
bệnh nhân (không nhất thiết chuyển tất cả), cung cấp tiến trình mà sau đó gia
đình có thể có sẵn và có thể nắm giữ vai trò người trợ giúp.
4.3.Chỉ định điều trị:
Liệu pháp tâm lý trợ giúp được chỉ định cho những bệnh nhân bị khuyết tật
nặng cả về cảm xúc và những mối liên hệ liên cá nhân của họ và những người
không có triển vọng cải thiện một cách cơ bản. Do những khuyết tật, họ đơn giản
không thể sống mà không có sự giúp đõ từ bên ngoài. Họ không thể chịu đựng
được những stress trong cuộc sống và đôi khi thậm chí không chịu đựng được sự
đòi hỏi tầm thường nhất. Do mức độ nặng nề của bệnh tật cùng với tính dễ bị tổn
thương liên quan đến nhân cách của bệnh nhân đã ngăn cản việc sử dụng những
hình thức liệu pháp tâm lý khác mà yếu tố thành công là sự thấu hiểu bên trong
người bệnh.
4.4.Mối quan hệ Nhà trị liệu – Bệnh nhân:
Bệnh nhân có chỉ định điều trị bằng liệu pháp tâm lý trợ giúp thường là
người trải qua sự khó khăn trong việc duy trì những mối quan hệ thân thiết với
những người khác. Một mối quan hệ giữa các cá nhân một cách mạnh mẽ mà nó
có thể đòi hỏi phải thể hiện các vấn đề như sự thân mật, sự tin cậy, và có thể là cả
sự chia rẽ sẽ trở thành một nguy cơ lớn đe dọa bệnh nhân. Điều này sinh ra trong
tâm trí, xét cho cùng, nó là bản chất tự nhiên của mối quan hệ giữa bệnh nhân và
nhà trị liệu trong liệu pháp tâm lý trợ giúp.
Mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu trong liệu pháp trợ giúp là một
loại đặc biệt: nhà trị liệu chấp nhận vai trò giúp đỡ, chú ý đến những nhu cầu của
bệnh nhân thông qua việc sử dụng các chiến lược khác nhau, và chỉ duy trì một
mức độ thân mật khiêm tốn nhất.

66
Lý do khác cho mối quan hệ kiểu này là một sự thực tế hay thực dụng hơn.
Đó là, bệnh nhân nhận trị liệu trợ giúp là người có bệnh lý mạn tính và cần sự trợ
giúp kéo dài nhiều giai đoạn và thậm chí suốt đời. Chỉ một nhà trị liệu, nói chung
sẽ không có cho sự chăm sóc kéo dài như vậy khi bệnh nhân được chuyển từ bộ
phận này sang bộ phận khác. Vậy việc nuôi dưỡng một mối quan hệ thân thiết chỉ
là lát đường cho một ý thức lớn về sự mất mát trong bệnh nhân và nguy cơ xấu đi
khi nhà trị liệu rời chuyển xa bệnh nhân.
Ngoài vấn đề sự thân mật của mối quan hệ như nêu trên, trong liệu pháp
tâm lý trợ giúp còn có đặc điểm lớn khác. Đó là trong mối quan hệ này, nhà trị
liệu đóng vai trò chỉ thị, chỉ dẫn nhiều hơn. Điều này không có trong bất kỳ liệu
pháp tâm lý nào. Nhà trị liệu thừa nhận một thước đo về trách nhiệm trên cơ sở
bệnh nhân của mình bị khuyết tật nặng, không có khả năng tự chăm sóc một cách
độc lập.
4.5.Cấu trúc của liệu pháp:
4.5.1.Sự trấn an (Reassurance):
Nhà trị liệu có thể làm yên lòng bệnh nhân ít nhất bằng hai cách: xóa bỏ sự
nghi ngờ và quan niệm sai, và chỉ ra rằng bệnh nhân có giá trị nhất định. Bệnh
nhân thường có những suy nghĩ mang tính an toàn về bản thân họ, điều này được
thiết lập một cách bệnh lý và dẫn đến lo âu và đau buồn rất lớn.
Bệnh nhân mạn tính cũng luôn mất sự tự tin và khi đánh giá về cuộc sống
của mình có thể không thấy gì hết ngoài sự thất bại và mất cơ hội. Mặc dù điều
này có thể là một phần sự thật, nhưng bệnh nhân có khuynh hướng bỏ quên giá trị
của mình rằng họ cũng có những giá trị và khả năng. Nhà trị liệu cần củng cố sự
tự tin của bệnh nhân bằng cách chỉ ra những điểm này cho bệnh nhân. Cần chú ý
đến một điều cần thiết: để có hiệu quả, sự trấn an phải là có thực tế.
4.5.2.Sự giải thích (Explanation):
Chiến lược này được sử dụng hoàn toàn khác với liệu pháp tâm lý tâm động
học. Sự giải thích, hoặc chính xác hơn, sự cắt nghĩa những hiện tượng như
chuyển di, đề kháng, những phòng vệ và yếu tố quyết định vô thức của hành vi là
hoàn toàn không thích hợp và dứt khoát phải tránh. Thay vào đó, sự giải thích tập
trung vào những vấn đề thực hành ngày này qua ngày khác, trên thực tế đang xảy
ra từ bên ngoài mà bệnh nhân phải đấu tranh với chúng. Mục tiêu giải thích
không phải để bệnh nhân hiểu sâu về bản thân mình mà để tăng cường khả năng
chống đỡ của bệnh nhân bằng cách làm rõ bản chất tự nhiên của các vấn đề bệnh

67
nhân đối mặt và làm sao bệnh nhân có thể cố gắng giải quyết chúng một cách tốt
nhất.
Thử nghiệm thực tại của loại này là điều quan trọng trung tâm cho bệnh
nhân mạn tính. Bệnh nhân phải trở nên nhận biết được về bản chất tự nhiên của
bệnh của mình và của bất kỳ sự mộng tưởng không thực tế nào mà bệnh nhân có
thể đang nuôi dưỡng chúng. Bệnh nhân cũng phải chấp nhận giới hạn của nhà trị
liệu và những kỹ thuật trị liệu, tức là “Tôi không thể mong đợi bất kỳ sự chữa
bệnh ảo thuật nào của nhà trị liệu của tôi”. Sau những giải thích hợp lý, bệnh
nhân sẽ được trang bị tốt hơn để chấp nhận rằng bệnh nhân phải sống bất chấp sự
tàn phế mạn tính trong cách thức tốt nhất có thể. Bệnh nhân sẽ chấp nhận rằng
“Tôi sẽ sống với điều này trong quãng đời còn lại của mình; tôi sẽ làm cái gì để
kiểm soát những vấn đề của tôi và làm chủ chúng?”
Nhà trị liệu có thể làm sáng tỏ các loại vấn đề, thí dụ, khi giải thích cho bản
chất của các triệu chứng của bệnh nhân: “Anh /chị đau đầu là vì những cơ ở da
đầu co bóp chặt khi anh/chị căng thẳng chứ không phải u não”; hoặc khi giải
thích nguyên nhân phải dùng thuốc: “Những viên thuốc an dịu thần kinh này sẽ
giúp anh/chị thư giãn hơn và điều này sẽ giúp anh/chị phòng chống sự suy sụp
lại”…
4.5.3.Sự hướng dẫn (Guidance):
Liệu pháp tâm lý trợ giúp không có gì khác thường là đòi hỏi sự hướng dẫn
của nhà trị liệu về bệnh nhân trong hàng loạt các tình huống, chủ yếu bằng
phương tiện lời khuyên trực tiếp. Cũng như với sự giải thích, sự hướng dẫn tập
trung vào các vấn đề thực hành, bao gồm hầu hết những vấn đề nền tảng như kinh
phí, vệ sinh cá nhân, dinh dưỡng và giấc ngủ. Lời khuyên có thể cần thiết về
phương diện công việc, như làm sao để áp dụng cho vị trí đặc biệt, liệu có thay
đổi công việc không, làm sao để tiếp cận sếp để đòi hỏi một cách hợp lý; hoặc về
gia đình như làm sao quan hệ tốt nhất với cha mẹ cao tuổi, làm cái gì với đứa con
vị thành niên nổi loạn; hoặc về thời gian nhàn rỗi như làm sao để nhập một câu
lạc bộ xã hội, làm sao để theo đuổi thú tiêu khiển đặc biệt.
Mục tiêu của nhà trị liệu không chỉ là giúp đỡ bệnh nhân giải quyết vấn đề
đặc biệt mà còn dạy họ những kỹ năng cần thiết cho việc chống đỡ với vấn đề và
các vấn đề tương tự khác. Một cách lý tưởng, bệnh nhân được chỉ ra làm sao để
nhận biết và đánh giá những áp lực cuộc sống phổ biến và làm sao để phân biệt
những biện pháp có thể dùng để giải quyết những áp lực này. Nghĩa là, với biện
pháp này, bệnh nhân có thể quản lý stress và có những quyết định của riêng mình.

68
Cái đặc biệt quan trọng liên quan đến điều này là việc dạy cho bệnh nhân làm sao
và khi nào thích hợp cho yêu cầu sự trợ giúp. Nhiều bệnh nhân không có khả
năng làm điều này trong suốt cuộc đời họ. Thay vào đó, họ đã biểu hiện cảm xúc
của họ và những khó khăn xã hội riêng biệt của họ trong khía cạnh những triệu
chứng cơ thể, hoặc những mưu toan tự sát bột phát, hoặc trì hoãn tham vấn cho
đến khi họ hoặc là đau buồn quá mức hoặc chức năng hoạt động rất kém. Nói tóm
lại, nhà trị liệu cố gắng cả về tăng cường kỹ năng chống đỡ của bệnh nhân, cả về
dạy cho bệnh nhân làm sao để tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết.
4.5.4.Sự gợi ý (Suggestion):
Chiến lược này tương tự sự hướng dẫn nhưng bệnh nhân được cung cấp ít
lựa chọn hơn trong việc quyết định liệu có hợp tác hay không hợp tác. Nhà trị liệu
cố gắng tạo ra một số thay đổi ở bệnh nhân bằng cách tác động ngầm hoặc lộ rõ.
Một thí dụ về tác động ngầm là, với nhà trị liệu để tỏ ra một sự chấp thuận về
hành vi mong muốn: “Cách anh/chị tự hành động tuần qua là tuyệt vời”, với sự
ám chỉ rõ ràng là bệnh nhân nên lặp lại kiểu hành vi này.
Tuy nhiên, sự gợi ý không tốt bằng sự hướng dẫn và giải thích nêu trên. Vì
trong hướng dẫn và giải thích, bệnh nhân đóng vai trò hợp tác hơn trong gợi ý.
4.5.5.Sự khuyến khích (Encouragement):
Sự sử dụng hiệu quả nhất của sự khuyến khích được làm bất kỳ khi nào nhà
trị liệu nhận biết về cái mình đang cố gắng làm để thành công với nó. Hầu hết
bệnh nhân mạn tính cần được cung cấp cho một “sự can đảm” hoặc sự tự tin một
cách đều đặn, nhưng điều này được làm tốt nhất trong quan hệ với tình huống đặc
biệt trong cuộc sống của họ hoặc liệu pháp của họ. Do đó, hơn là khuyến khích về
giá trị nói chung, nhà trị liệu nên dùng chiến lược này trong một ngữ cảnh chuyên
biệt. Những ngữ cảnh rất khác nhau giữa bệnh nhân này với bệnh nhân khác. Cái
duy trì ổn định là những mục đích cơ bản nằm sau sự sử dụng khuyến khích: để
đấu tranh với những cảm nhận về sự thấp kém, để phát triển sự tự tin, và để thúc
giục bệnh nhân nuôi dưỡng tiến trình hành động hoặc hành vi mà bệnh nhân đang
lưỡng lự và lo sợ.
Nhà trị liệu khuyến khích bệnh nhân theo những cách thức khác nhau tùy
thuộc nhu cầu và hoàn cảnh. Thí dụ, nhà trị liệu có thể sử dụng đầy đủ sức mạnh
của vai trò nhân đức có thẩm quyền của mình bằng câu bình luận: “Từ kinh
nghiệm lâu dài của tôi trong việc giải quyết loại vấn đề của anh/chị đang nói, tôi
tin rằng anh/ch ị sẽ có thể làm chủ được nó”. Nhà trị liệu cũng có thể chứng minh
ý thức của mình về niềm tin không bằng ngôn ngữ miệng thông qua sử phô diễn

69
sự hăm hở và sự lạc quan trên nét mặt. Cũng như trường hợp trấn an, nhà trị liệu
có thể khai thác bất kỳ sự tiến bộ trong quá khứ hay hiện tại của bệnh nhân bằng
một sự củng cố tích cực, hoặc là lộ rõ hoặc là kín đáo. Nhà trị liệu có thể bình
luận: “Năm ngoái anh/chị đã chứng minh anh/chị đã thảo luận về kế hoạch làm
việc của anh/chị với sếp hiệu qua làm sao. Tôi tin chắc anh/chị sẽ có can đảm để
cũng làm được điều đó lần này”.
4.5.6.Những thay đổi hiệu quả môi trường của bệnh nhân:
Trong liệu pháp tâm lý trợ giúp, người ta xem xét bệnh nhân trong ngữ
cảnh môi trường xã hội của bệnh nhân với mục tiêu xóa bỏ hoặc thay đổi các yếu
tố có hại, và trái lại, tối đa hóa các yếu tố có lợi cho bệnh nhân. Do vậy, nhà trị
liệu tự đặt câu hỏi cho mình: “Làm sao tôi có thể giúp thay đổi môi trường xã hội
của bệnh nhân để có lợi nhất cho họ?”
Các yếu tố môi trường đầy stress cần được đánh giá cẩn thận để họ có thể
thay đổi một cách thích hợp. Các yếu tố môi trường là vô hạn, nhưng những điều
sau đây là phổ biến cho số lớn bệnh nhân: công việc của bệnh nhân, không khí gia
đình căng thẳng và thù địch, tình trạng gia đình nghèo nàn, bệnh nhân bị cô lập xã
hội, bị sức ép về tài chính…
4.5.7.Cho phép sự thanh tâm (Permission for catharsis):
Sự an toàn tương đối của mối quan hệ nhà trị liệu – bệnh nhân cho phép
bệnh nhân chia sẻ, với ý thức giải phóng, những cảm xúc dồn nén như sợ hãi,
buồn phiền, nản lòng, và đố kị. Nơi làm việc của nhà trị liệu thường là nơi bệnh
nhân có thể cảm thấy đủ tin cậy để làm điều đó. Nhà trị liệu phải tỏ ra là người
lắng nghe một cách thấu cảm và tích cực, người chấp nhận bệnh nhân vô điều
kiện, cung cấp cho bệnh nhân sau đó được phép chia sẻ bí mật của mình bất kể
cái gì bệnh nhân có, bất kể sự đau đớn hay bối rối lúng túng của bệnh nhân.

70
LIỆU PHÁP TÂM LÝ
VỚI BỆNH NHÂN UNG THƯ
1.Những vấn đề chung:
1.1.Đặt vấn đề:
Liệu pháp tâm lý bao gồm hàng loạt các tiếp cận được thiết kế để giúp con
người thay đổi cách thức của họ về suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử. Những nghiên
cứu đã chỉ ra rằng Liệu pháp tâm lý có thể cải thiện chất lượng sống của bệnh
nhân. Nó có thể giúp người bệnh ung thư giảm lo âu, trầm cảm, là cảm xúc
thường xảy ra ở người bệnh này. Nó giúp người bệnh đương đầu với ung thư và
những thay đổi trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên, Liệu pháp tâm lý không
chứng tỏ có thể làm tăng sự sống sót ở người bệnh ung thư.
1.2.Tác dụng của Liệu pháp tâm lý với người bệnh nhân ung thư:
Liệu pháp tâm lý có thể giúp mọi người, bao gồm những người bệnh ung
thư tìm thấy sức mạnh bên trong của họ để cải thiện những kỹ năng chống đỡ
của họ, cho phép họ được hưởng niềm vui đầy đủ hơn trong cuộc sống của họ.
Khi người bệnh nhận biết mình được chẩn đoán bệnh ung thư, đó là một
stress lớn. Lúc đó người bệnh cần sự giúp đõ để xử lý với chẩn đoán và việc
điều trị bệnh.
Ảnh hưởng của các đặc điểm nhân cách trên sức khỏe đã được nghiên cứu
nhiều năm. Những nghiên cứu từ năm 1950 bởi Lawrence Leshan đã phát hiện
ra rằng nhiều bệnh nhân ung thư đã trải nghiệm một sự mất mát niềm hy vọng
trong việc tìm ra ý nghĩa thực sự trong cuộc sống của họ. Leshan đã phát triển
một tiếp cận với Liệu pháp tâm lý chuyên biệt, thiết kế để hỗ trợ cho bệnh nhân
đang sống với căn bệnh ung thư. Tiếp cận này tập trung vào việc giúp đỡ bệnh
nhân dùng những khả năng tự chữa bệnh bên trong, riêng biệt của họ để sống
đầy đủ hơn, vui vẻ hơn, ý nghĩa hơn.

71
Liệu pháp tâm lý cho người bệnh ung thư tập trung vào việc phát triển các
chiến lược chống đỡ hiệu quả để quản lý những cảm xúc tuyệt vọng, thụ động và
trầm cảm có thể đe dọa cuộc sống của bệnh nhân. Các phương pháp Tâm lý học
và hành vi đang trở thành một phần qui tắc trong điều trị bệnh nhân ung thư.
1.3.Những hệ thống Liệu pháp tâm lý được sử dụng cho người bệnh ung thư:
Hầu hết các Liệu pháp tâm lý cá nhân được tiến hành tại các tổ chức của
các nhà trị liệu. Một số trường hợp có thể được làm tại bệnh viện hoặc tại nhà
bệnh nhân. Một phiên liệu trình điển hình từ 45 đến 50 phút. Số lượng buổi gặp
mặt được quyết định bởi thân chủ và nhà trị liệu trên cơ sở vấn đề của thân chủ
và sự đáp ứng của thân chủ với liệu pháp.
Một số tiếp cận tâm lý:
Liệu pháp Hành vi:
Tập trung vào việc thay thế những mô hình hành vi có vấn đề ( như hành
vi ám ảnh và cưỡng bức) bằng những đáp ứng khỏe mạnh hơn. Nhà trị liệu hành
vi có thể dùng các kỹ thuật như phản hồi sinh học và thư giãn cơ bắp. Kiểu liệu
pháp này chỉ giải quyết với các triệu chứng của vấn đề.
Liệu pháp thân chủ - trọng tâm:
Liệu pháp này tập trung vào những cảm nhận và những trải nghiệm hiện
hành của cá nhân. Nhà trị liệu khuyến khích bệnh nhân hướng vào các buổi trị
liệu trong đó thể hiện sự thấu cảm và trợ giúp họ.Mục tiêu trị liệu là để giúp
bệnh nhân tự giúp mình.
Liệu pháp định hướng vào cơ thể:
Liệu pháp này dựa trên niềm tin rằng những cảm xúc được tích lũy trong
cơ thể và có thể được biểu lộ dưới hình thức căng thẳng cơ thể và sự hạn chế của
người bệnh. Những kỹ thuật thở, vận động, áp lực chân tay và thăm dò được sử
dụng để giúp bệnh nhân giải thoát những cảm xúc đã được tích góp trong cơ thể.
Liệu pháp nhận thức và nhận thức – hành vi:
Liệu pháp hướng tới việc thay đổi những suy nghĩ và hành vi bằng cách
chỉ ra cho người bệnh những suy nghĩ sai lầm, tiêu cực, giáo điều đã tác động tới
hành vi người bệnh. Liệu pháp bao gồm những lý luận thách thức lại những suy
nghĩ, niềm tin sai lầm của bệnh nhân. Nó cũng bao gồm một số hình thức của
Liệu pháp hành vi.
Liệu pháp gia đình:
72
Liệu pháp gia đình tập trung vào các kiểu quan hệ. Các thành viên gia
đình tham gia vào buổi trị liệu. Nhà trị liệu tạo điều kiện thuận lợi giúp gia đình
trao đổi những cảm nhận của họ hiệu quả hơn.
Liệu pháp nhóm:
Trong hoạt động nhóm, bệnh nhân được đưa ra những thông tin, hướng
dẫn những kỹ năng chống đỡ, giúp giảm lo âu và cung cấp nơi chia sẻ những
quan tâm chung và trợ giúp nhau về cảm xúc.
Liệu pháp Tâm động học:
Mục tiêu của liệu pháp này là để thay đổi những mô hình nhân cách trong
đời sống bệnh nhân bằng việc giúp bệnh nhân thấu hiểu sự liên quan giữa các
phản ứng hiện hành với những trải nghiệm thời niên thiếu của họ.
Nói chung, tất cả các phương pháp trị liệu tâm lý đều tập trung vào những
stress do bệnh gây ra. Nó cũng tập trung vào những cảm xúc lo âu, trầm cảm và
những ảnh hưởng khác tới sự điều chỉnh của cá nhân tới bệnh tật.
1.4.Những nghiên cứu về kết quả của liệu pháp tâm lý cho người bệnh ung
thư:
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, liệu pháp tâm lý có lợi cho bệnh nhân
ung thư trong nhiều cách thức khác nhau.
Nhà trị liệu ở Đại học Tổng hợp California School of Medicine ở Los
Angeles, 1999, báo cáo rằng Liệu pháp Hành vi là hữu ích nhất trong quản lý lo
âu liên quan đến các cách thức điều trị chuyên biệt như: những phản ứng ám ảnh
sợ đối với những mũi kim tiêm, những nỗi sợ liên quan đến phẫu thuật hoặc hóa
trị liệu và những cảm nhận nỗi sợ khi làm MRIs.
Một nghiên cứu năm 1996 báo cáo Liệu pháp Nhận thức cá nhân hàng
tuần và tham vấn gia đình mỗi tháng hai lần đã cải thiện cả về trầm cảm và chất
lượng sống của những bệnh nhân nữ bị ung thư vú không di căn. Nói chung
nghiên cứu đã chỉ ra rằng Liệu pháp tâm lý có thể giúp làm giảm lo âu và trầm
cảm ở bệnh nhân ung thư, giúp họ sử dụng tốt hơn thời gian của họ và giúp họ
quay trở lại công việc. Liệu pháp tâm lý cũng giúp bệnh nhân học tập để giao
tiếp tốt hơn với các bác sĩ và tham gia chặt chẽ với việc điều trị y học.
Một nghiên cứu năm 2006 trên gần 200 bệnh nhân nữ ung thư vú giai
đoạn sớm đã chỉ ra rằng liệu trình trị liệu Nhận thức – Hành vi nhóm trong 10
tuần lễ đã giúp cho bệnh nhân nữ giảm tình trạng đổ vỡ, chia tách xã hội và cải

73
thiện quan niệm của họ, cảm thấy khỏe mạnh, có thể thư giãn. Một kết quả
tương tự cũng xảy ra ở nghiên cứu về những nam giới điều trị ung thư tuyến tiền
liệt giai đoạn sớm với phẫu thuật hoặc xạ trị. Nhóm nam giới qua liệu trình quản
lý stress bằng liệu pháp Nhận thức – Hành vi 10 tuần có chất lượng sống tốt hơn
sau này, so với nhóm không điều trị tâm lý.
2.Liệu pháp tâm lý Tâm động học cho bệnh nhân ung thư:
Liệu pháp tâm lý Tâm động học đặc biệt có ích cho việc hiểu những phản
ứng cảm xúc của bệnh nhân ung thư. Nó làm sáng tỏ việc phát sinh những triệu
chứng tâm thần trên bệnh nhân khi có stress do nhận được chẩn đoán là ung thư.
Liệu pháp cũng đưa ra mối quan hệ Bác sĩ – Bệnh nhân có ích trong giải quyết
các xung đột tâm lý trên bệnh nhân.
Những can thiệp trị liệu tâm lý có thể giúp bệnh nhân cải thiện chất lượng
cuộc sống, giảm mức độ stress và cải thiện thời gian sống sót của bệnh nhân ung
thư.
Khi thực hiện Liệu pháp Tâm động học với bệnh nhân ung thư, nhà trị liệu
cần hiểu các giai đoạn của bệnh ung thư và những thách thức cho bệnh nhân và
bác sĩ. Trong bất kì giai đoạn nào của bệnh, đều đòi hỏi một sự tiếp cận rất linh
hoạt. Bệnh nhân cần được đánh giá về các triệu chứng đang có mặt, về sức khỏe
cơ thể và giai đoạn của bệnh ung thư.
Những biểu hiện của những phòng vệ, đề kháng, chuyển di trong Liệu
pháp tâm động học cũng cần được đánh giá thích hợp. Thí dụ, sự “từ chối/phủ
định” là tốt hay xấu, là thích hợp hay không thích hợp? Nó là tốt nếu nó hướng
bệnh nhân về giảm lo âu, trầm cảm mà không ảnh hưởng đến sự tuân thủ điều trị
và mục tiêu sống của bệnh nhân. Những tác động liên quan với những tiên
lượng bệnh nhân thường bị từ chối/phủ định. Nhưng nếu sự phủ định khiến bệnh
nhân né tránh những cuộc gặp y học cần thiết thì cần giúp bệnh nhân đối đầu,
xóa bỏ. Tương tự như vậy, “sự thoái lui” của bệnh nhân trong giai đoạn cuối là
tốt.
2.1.Các giai đoạn của bệnh ung thư:
2.1.1.Giai đoạn đầu - Chẩn đoán:
Giai đoạn đầu là giai đoạn chẩn đoán bệnh và bắt đầu điều trị. Ở giai đoạn
này, hầu hết bệnh nhân được giải quyết tốt về tâm lý một cách ngạc nhiên. Trạng
thái shock, mất niềm tin, lo âu, đôi khi trầm cảm, tội lỗi và sự đau đớn được
chống lại bằng niềm hy vọng rằng việc điều trị sẽ có hiệu quả. Một sự chuyển di

74
tích cực tới thầy thuốc đang điều trị cho bệnh nhân là rất quan trọng và rất phổ
biến.
Tuy nhiên, giai đoạn này có một số bệnh nhân cần được điều trị bằng Liệu
pháp tâm lý:
Những bệnh nhân trước khi phát hiện bệnh đã hết lòng cố gắng phòng
bệnh bằng cách ăn kiêng hợp vệ sinh, luyện tập thể dục, thực hiện nếp sống lành
mạnh… Khi bị chẩn đoán ung thư, họ có thể coi đó là một sự xúc phạm.
Nhiều bệnh nhân cảm thấy họ bị ung thư do nguyên nhân họ đã không
đương đầu, xử lý tốt những stress trong cuộc sống nên gây ra thất bại của hệ
thống miễn dịch trong cơ thể họ.
Những bệnh nhân tràn ngập nỗi sợ cái chết, sợ phụ thuộc, sợ mất quyền
lực, mất thu nhập, thiếu hấp dẫn và thiếu ý nghĩa cuộc sống.
Một số bệnh nhân không thể tuân theo sự điều trị ung thư vì sự phòng vệ
từ chối/phủ định, ám ảnh hoặc trầm cảm nên bác sĩ điều trị chuyên khoa ung thư
phải gửi bệnh nhân tới can thiệp bằng Liệu pháp tâm lý.
Nói chung những nỗ lực trị liệu tâm lý trong giai đoạn này là hướng tới
việc giúp bệnh nhân thích nghi với sự khủng hoảng và lựa chọn trị liệu bệnh ung
thư thích hợp. Trong can thiệp khủng hoảng, cần trợ giúp cái tôi cho bệnh nhân.
Sự xóa bỏ triệu chúng thường được đồng hành bởi cả hai phương pháp trị liệu
bệnh cơ thể và tâm lý. Ở những bệnh nhân rối loạn stress kéo dài, cần liệu pháp
thấu hiểu để giúp bệnh nhân tuân thủ trị liệu và chấp nhận thực tế mới.
2.1.2.Giai đoạn hai – theo dõi tiếp theo:
Sau giai đoạn điều trị ban đầu bằng phẫu thuật, hóa trị liệu hoặc xạ trị…
bệnh nhân có những cảm xúc pha trộn. Bệnh nhân dù đã vui lòng trải qua những
sự khắt khe của điều trị cùng những tác dụng phụ, nhưng lúc này phải đối mặt
với tương lai ít chắc chắn về sức khỏe tốt. Sự dễ bị tổn thương có thể tràn ngập ở
một số bệnh nhân. Sự đe dọa của tái phát bệnh hoặc cái chết sớm có thể dẫn đến
sự thoái lui hoặc mất chức năng ở những bệnh nhân đã có sự thành công trong
điều trị một cách khá mỏng manh. Cần phải làm việc ngay với những bệnh nhân
chưa từng đối mặt với cái chết và cảm thấy mục tiêu cuộc sống không hoàn
thành.
Đa số những bệnh nhân được gửi đến tham vấn tâm lý trong giai đoạn hai
là những người có sự thuyên giảm bệnh và trạng thái tốt về cơ thể. Bệnh nhân
thường là không thỏa mãn với những mối quan hệ hoặc sự nghiệp của họ. Nhà

75
trị liệu cần đánh giá bệnh nhân trên cơ sở nhu cầu tâm lý học và triệu chứng
bệnh lý về tâm thần. Những bệnh nhân này cần liệu pháp phân tâm, đó là những
bệnh nhân có động cơ mạnh mẽ, hứng thú tâm lý học, có sức chịu đựng với lo
âu, có đủ ý chí để tham gia trong tiến trình liệu pháp để thay đổi quan trọng về
mặt tâm lý.
2.1.3.Giai đoạn ba – Sự tái diễn:
Giai đoạn tái diễn bệnh và tái điều trị có khuynh hướng nhắc lại giai đoạn
chẩn đoán và điều trị ban đầu với nhưng sự khác nhau chủ yếu tiếp theo. Ý
nghĩa của sự tái diễn khiến bệnh nhân ít hy vọng hơn về sự cứu chữa. Bác sĩ
thường đổ lỗi cho bệnh nhân hoặc chính bác sĩ về sự thất bại điều trị. Bệnh nhân
trở nên ưu thế về sự tức giận, trầm cảm, lo âu và đau buồn. Bệnh nhân được áp
dụng những điều trị thay thế, nhưng sự tuân thủ điều trị và chỉ dẫn y học thấp
hơn trước đây. Sẽ xuất hiện những vấn đề trong mối quan hệ Bác sĩ – Bệnh
nhân, đặc biệt là sự chống đối, thù địch hướng về bác sĩ.
Những vấn đề điều trị tâm lý rất giống với giai đoạn ban đầu. Sự can thiệp
khủng hoảng, hỗ trợ cái tôi sẽ luôn có hiệu quả để thiết lập lại sự tuân thủ điều
trị của bệnh nhân. Sự không tuân thủ thể hiện trong sự đề kháng cần liệu pháp
phân tâm sâu hơn. Bệnh nhân tái diễn ung thư thường có biểu sự phòng vệ từ
chối/phủ định khá nặng nề. Nhà trị liệu tâm lý cần giúp bệnh nhân có cơ hội
nuối tiếc hy vọng về sự thuyên giảm và chấp nhận nhu cầu lựa chọn cách thức
điều trị mới.
2.1.4.Giai đoạn bốn – Trạng thái cuối cùng:
Giai đoạn làm dịu đau cuối cùng là một sự khó khăn nhất, đặc biệt cho
babs sĩ. Việc giải quyết giai đoạn cuối cùng chỉ gần đây mới được quan tâm và
giảng dạy trong Y khoa. Những kỹ thuật trang bị cho bác sĩ để có thể làm giảm
đau, lo âu, mất ngủ, trầm cảm và sự không thoải mái khác của bệnh nhân tới
mức độ có thể chịu đựng được. Bác sĩ cần đối mặt với cái chết của bệnh nhân.
Nhà tham vấn tâm lý và tâm thần thường cần trong giai đoạn này. Ngoài việc
điều trị mê sảng, rối loạn lo âu, trầm cảm, đôi khi cần can thiệp về bệnh lý tâm
thần và xác định khi nào cần điều trị tận cùng một cách tích cực và thời gian nào
là giới hạn cuộc sống của bệnh nhân. Nhà tham vấn tâm thần cũng cần chú ý đến
vấn đề tự sát của người bệnh.
Đôi khi có những bệnh nhân có đầu óc thực tế hơn cả bác sĩ trong vấn đề
liên quan đến tiên lượng của họ và họ cần trợ giúp trong việc khẳng định những
mong muốn của họ tới việc kết thúc các điều trị một cách dũng cảm. Một số

76
người khác cần sự thoải mái và mối quan hệ hỗ trợ thấu cảm vì họ sợ bị ruồng
bỏ.
Sự lý tưởng hóa, sự thoái lui trong giai đoạn cuối đôi khi là thoải mái lớn
cho bệnh nhân. Nhà tham vấn tâm thần cần chia sẻ niềm tin của bệnh nhân về sự
bất tử, sự không bị phá hủy, cũng như chia sẻ sự phòng vệ của bệnh nhân và cần
ca ngợi sự mạnh mẽ bên trong của bệnh nhân.

77

You might also like