You are on page 1of 43

Khi chấp bút các thông cáo báo chí phải hiểu rõ: nếu trên bàn ban

biên tập
lúc nào cũng tràn ngập những thông báo của một xí nghiệp, những thông báo mà
chẳng có ích lợi gì cho trang tạp chí thì chắc chắn nó sẽ tự dộng tìm đến vởi sọt
rác. Những gì trong một thông cáo báo chí nói chung cần chú ý được khái quát
dưới đây:

Ví dụ thực tế: Thông cáo báo chí

• Sắp xếp lại các thông tin


• Hãy viết đơn giản
• Hãy viết cho bạn đọc
• Cần tránh dùng các danh từ khó hiểu
• Hãy viết ngắn gọn
IT
• Hãy viết sao cho có tính thời sự
• Hầy giữ vai trò khách quan và không bình luận
• Hãy viết cho sinh động
PT
• Hãy xây dựng tên tuổi trên trang viết
• Hãy tìm những đề tài mới
• Hãy cung cấp những số liệu mới nhất
• Hãy dùng các số liệu có thể sử dụng được từ các tổ chức mà bạn là
thành viên
• Sử dụng các thành tích (ví dụ: thể thao) của đồng nghiệp của bạn.

CHƯƠNG III – BIÊN TẬP NGÔN NGỮ VĂN BẢN BÁO CHÍ

3.1. Yêu cầu về ngôn ngữ đối với văn bản báo chí

Nhà báo viết để tất cả các độc giả có thể đọc và hiểu được, chứ không phải
viết cho riêng một giứi độc giả am hiểu vấn đề. Ngay cả trong tạp chí chuyên
ngành, không phải các độc giả đều có chung một trình độ. Điều đó càng đúng đôi

42
với các tờ nhật báo đưa những thông tin nói chung, những tạp chí phát hành rộng
rãi, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình. Vì vậy, điều quan trọng là cần phải
tuân thủ một số nguyên tắc.

Nêu rõ ý, viết đúng ván phạm, sử dụng từ ngữ dễ hiểu, đó là nhừng đòi hỏi
của một bài viết. Như vậy, người viết phải quan tâm trước hết đến sự rõ ràng: rõ
ràng về thông tin, rõ ràng về ngôn ngữ.

Bài báo là một thông tin: một tin tức, hoặc một dư luận. Cách tốt nhất để
truyền đạt thông tin này là phải viết cho bản thân mình hiếu được trước khi dựng
nó thành bài báo. Đó là điều mà mỗi người vẫn làm hằng ngày trong cuộc sống, khi
được yêu cầu thuật lại một cuộc họp hay một sự kiện mà ta chứng kiến.

IT
Dù vấn đề phức tạp như thế nào chăng nữa, điều chủ yếu cần nói vẫn có thổ
trình bày trong hai câu. Đó là tin vắn khi ta chỉ được dành 10 dòng trên trang báo
hay 10 giây trên sóng phát thanh, truyền hình. Tự gò mình trong hai câu trước khi
viết bài báo là một phương pháp hay để xác định rõ điều ta muốn thông tin tới độc
PT
giá, thính giả và khán giả truyền hình.

Để viết tin, chủ yếu ta phải chọn lựa, sắp xếp theo mức độ quan trọng của
các chi tiết, sự kiện cần thông tin và loại bỏ nhửng chi tiết, sự kiện không quan
trọng. Đó là một cách tuyệt hay để biết nên bắt đầu thông tin từ đâu khi ta còn do
dự hoặc “tắc tị”. Như vậy cũng là đã đi được một phần lớn con đường dẫn ta tới
chỗ đặt đầu đề và viốt phần mào đầu. Sau hết, đó là một sự dẫn dắt chắc chắn cho
dàn bài của một bài báo.

Một bài báo chứa đựng một thông tin chủ yếu và chỉ một mà thôi. Nếu như
ta không thể diễn đạt nó bằng một số ít từ thì chính là vì ta không biết rõ điều ta
muốn truyền đạt. Hãy loại ra trường hợp ta không có điều gì để nói và im lặng là
điều tốt hơn cả. Trường hợp thường gặp nhất là có quá nhiều điều để nói. Khi dó ta

43
phải chọn từ một góc độ ưu tiên, còn những góc độ khác chỉ cần xom xét sơ qua.
Đó là cách đơn giản nhất đề tránh sự bê tắc, và một bài viết lung tung theo nhiều
hướng. Nếu quả thực vấn đề chứa đựng nhiều thông tin chính thì tôt nhất là xử lý
riêng biệt từng thông tin, bằng nhiều bài báo.

Rõ ràng về ngôn ngữ:Có nhiều nhà báo mới vào nghề bị ám ảnh bởi một vấn
đề giả tạo, đó là văn phong. Báo chí không phải là văn học. Nhà báo trước hết là
một chuyên gia vồ thông tin, viết những điều xảy ra trong nước và tròn thê giới
khiến độc giả, thính giả hay khán giả truyền hình quan tâm.

Hơn nữa, nếu anh ta có năng khiếu diễn đạt thì càng tôi - tài năng đó sẽ
nhanh chóng dược thừa nhận. Nhưng điều người ta đòi hỏi trước hết ở một nhà báo

IT
là, cùng với sự nhạy bén tin tức, anh ta phải có khả năng truyền đạt tin tức đó một
cách ngắn gọn và dễ hiểu đôi với tất cả mọi người. Vì vậy, hãy tìm cách diễn đạt
một cách đơn giản và rõ ràng nhất thông tin chính của bạn. Mỗi bài báo chứa đựng
một thông điệp, mỗi dòng chứa đựng một thông tin.
PT
Viết đúng chính tả. Chính tả là một thứ luật nghiêm ngặt và lôgíc như... Luật
giao thông vậy. Bản thân các từ ngữ vốh có diện mạo riêng và đã được độc giả
thừa nhận từ lâu. Lỗi chính tả làm sai lệch ý nghĩa của câu chuyện. Mắc nhiều lỗi
chính tả sẽ khiên người đọc nghi ngờ học lực của tác giả cũng như chất lượng của
thông tin.

Chú ý về cú pháp. Trong tiếng Pháp, câu trúc thông thường (chủ ngữ - động
từ - bổ ngữ) là cấu trúc dỗ hiểu nhất và đễ “hấp thụ” nhất. Đôi khi thay đổi cấu trúc
cũng gây được sự thích thú cần thiết. Nhưng lạm dụng nhưng cấu trúc bất ngờ so
gây khó khăn cho việc tiévp nhận thông tin.

Hãy viết những câu ngắn. Kinh nghiệm đọc và nhớ cho thấy với một câu
trung bình (từ 20 đến 30 từ), độc gia tiếp nhận phần nửa sau kém hơn phần trước.

44
Quá 40 từ người đọc sẽ quên mất phần lớn câu viết. Như vậy là đủ để phê phán
những câu dài tới 50, 60 từ hoặc hơn thế trong báo viết. Người ta đọc báo không
giống như đọc một tác phẩm của Proust. Nếu mỗi câu, độc giả cứ phải đọc đi đọc
lại mới hiểu thì phan xạ thông thường của người ta là bỏ dở. Nhưng không phải vì
thế mà người đọc chấp nhận lôi viết cụt lủn, mỗi câu chưa đến 10 từ mà một số nhà
báo ưa dùng vì nó cũng khiến họ mệt mỏi. Nén có sự kết hợp giữa những câu rất
ngắn đi với những câu dài hơn. Nhưng 40 từ là một giới hạn.

Dùng từ dễ hiểu:Mỗi từ không thòng dụng là một trở ngại đốì với độc giả,
thính giả cũng như khán giả truyền hình. Nếu những trơ ngại này xuất hiện thường
xuyên ở mỗi câu, họ sẽ bỏ đi hoặc quay lưng lại với bài báo. Tìm cách giải thích
mọi từ ngữ có thổ khiến người đọc hiểu sai; sử dụng những từ thông dụng hằng
IT
ngày thay vì những từ cao siêu; giải thích những từ viết tắt chữ đầu; so sánh một
con sô với một độ lớn đã biết là những phản xạ sơ đẳng và không thể thiếu của nhà
báo.
PT
Sử dụng một từ đơn giản không có nghĩa là mất đi sự chính xác. Một từ kỹ
thuật, một khi đã được giải thích, sẽ tránh cho ta khói phải dùng những từ vòng vo,
na ná. Hãy cảnh giác với những từ ngữ thời thượng. Chắc chắn bạn sẽ được giới trẻ
coi là “sành điệu”, nhưng bạn cũng sẽ có nguy cơ mất đi một bộ phận độc giả.Một
nguyên tắc vàng trong mọi trường hợp đó là không bao giờ sử dụng một từ mà
chính người sử dụng không thật hiểu.

Những nguyên tắc chấm câu

Dấu phảy được dùng ở trong một câu, để dừng lại một chút giữa những
thành phần không gắn liền với nhau bằng các từ nối hoặc các liên từ. Dấu pháy
cũng dùng để tách những từ trong câu có cùng vai trò ngữ pháp và đặc biột trong
những trường hợp liệt kê.

45
Dấu chấm phảy để dừng lâu hơn giữa hai thành phần của câu cùng loại và
tương đôi dài. Dấu này khiên câu bị kéo dài, khó đọc. Do đó các nhà báo thường
có xu hướng thay dấu chấm phảy bằng dấu chấm. Tác dụng chính của dấu chấm
phảy là tách biệt những phần liệt kê khác hẳn nhau.

Dấu hai chấm được sử dụng để: Đưa xen vào những lời nói của một nhân
vật, hoặc một trích dẫn;Trước một sự liệt kê;Đưa vào một giải thích, một ví dụ và
một sự mô tả;Trình bày một cách súc tích những kết luận, suy diễn, hay tổng hợp
vấn đề nêu trước đó.

Dấu chấm hỏi dùng để kết thúc các câu thể hiện một câu hỏi trực tiếp. Người
ta không đặt dấu chấm hỏi sau một câu hỏi gián tiếp.

IT
Dấu chấm than kết thúc các câu biểu thị sự ngạc nhiên, thán phục, sự an ủi
và sự phẫn nộ. Nó thường được dùng với những từ cảm thán.Tránh lạm dụng
những dấu chấm than vì nó sẽ làm giảm đi ý nghĩa mà người ta muốn thể hiện và
thường chứng tỏ một sự kém cỏi khống diễn đạt được ý nghĩ của mình bằng ngôn
PT
từ.

Dấu chấm lửng kết thúc hoặc bỏ lửng một câu còn dở dang vì một lý do nào
đó (ngập ngừng, do dự, đổi ý, xúc động, mỉa mai, ẩn ý, tiếp tục ý nghĩ một cách
kín đáo...). Không bao giờ đánh quá ba dấu chấm (...), và thường người ta viết v.v.,
trong trường hợp này không đánh dấu chấm lửng nữa.

Dấu ngoặc kép được sử dụng trong những trường hợp: Trích những lời dẫn
và những lời nói được sửdụng nguyên văn trong bài báo; Những từ hoặc cụm từ
mà tác giả không muốn chịu trách nhiệm, Những từ mới, những từ hoặc cụm từ mà
người ta muôn chỉ rõ đây là những từ nói lóng, ít người biết đến, từ kỹ thuật hoặc
những nghĩa ít dùng.

46
Dấu ngoặc đơn tách một từ hoặc một cáu không cần thiết lắm trong nghĩa
chung của câu, nhưng nó cung cấp một ý nghĩa chính xác, một sự giải thích hay
nhắc lại làm cho người ta hiểu hơn.

Dấu ngoặc vuông là những dấu ngoặc đơn được tăng cương. Trong báo chí,
người ta thường sử dụng nó để tách biệt những lời bình luận ngắn của tòa soạn sau
một thông tin hoặc thư bạn đọc...

Dấu ngoặc đơn và dấu ngoặc vuông cũng được sử dụng để khoanh lại những
dấu chấm lửng, trong một trích dẫn, thay cho một đoạn mà ta thấy không nên nhắc
lại.

Dấu gạch nối, trái với những dấu ngoặc đơn (thu nhỏ vấn đề) được dùng để

IT
tôn thêm giá trị của từ hoặc của đoạn vân đặt trong các dấu này. Khi dấu gạch nối
thứ hai rơi vào cuối câu, người ta bỏ nó đi và đánh dấu chấm.

Dấu gạch nối đặt ở đầu dòng được sử dụng để lưu ý sự thay đổi người nói
PT
trong một đối thoại, và đế đánh dấu những phần nêu trong một bảng liệt kê.

Xuống dòng đánh dấu một điểm dừng láu hơn dấu chấm, sau khi đã phát
triển một nhóm những ý tương hoặc thông tin. “Xuốhg dòng” là một phương tiện
hiệu quả giúp cho độc giả lấy lại hơi và lưu ý tới những kết nối của sự phát triển
bài báo.

Hoa thị (*) hoặc ghi chú (1) dùng để giải thích làm rõ nghĩa hơn, thường in
với khổ chữ nhỏ hơn ở dưới cột hoặc cuôl bài báo. Nội dung ghi chú nhằm giúp
độc giả hiểu tỉ mỉ hơn về một chi tiết trong câu, nêu rõ nguồn gốc của một trích
dẫn hoặc chuyển tới những nguồn trích dẫn khác... Nên sử dụng hoa thị (*) hoặc
ghi chú (1) một cách hạn chế.

3.2. Những hiện tượng sai về ngôn ngữ phổ biến trên báo chí hiện nay

47
Việc tổ chức thông tin đóng vai trò quan trọng đối với hiệu quả thông tin của
tác phẩm báo chí. Trong đó tính chính xác đóng vai trò quan trọng.

“Sự chính xác đối với một tờ báo cũng giống như tiết hạnh đối với một
người phụ nữ” (Joseph Pulitzer). Trong báo chí hiện đại, việc cạnh tranh và tôn
trọng giờ giấc rất quan trọng. Nhưng nếu chỉ vì vậy mà dẫn đến chỗ cho ra sản
phẩm chưa hoàn chỉnh thì ganh đua, bảo đảm giờ giấc cũng không để làm gì.

Thật ra so với hàng chục nghìn chữ được in ra mỗi ngày, tỷ lệ sai haocwj sót
trên các trang báo của một tờ báo không cao cho lắm. Và quả khó có cây bút nào
đạt tới trình độ viết lạch tuyệt đối không lỗi. Ngay cả đối với các sự kiện lịch sử
lớn, nhiều năm sau đó, thậm chí nhiều thể kỷ sau đó, các sử gia vẫn còn phải đi tìm
các thông bị thiếu.
IT
Để đảm bảo được tính chính xác trong thông tin, người biên tập cần:

Đọc đi đọc lại: về mặt kỹ thuật, để sửa cho bài được chính xác, bạn nên đọc
PT
bài hơn một lần để hiểu ý nghĩa của bài và tìm ra các sai sót lớn, một lần nữa rất
cẩn thận, từng chữ một. Để kiểm tra xem có lỗi về thông tin, bút pháp hoặc ngữ
pháp hay không. Và lần thứ ba, thường sau một thời gian ngừng đọc, để xem mình
có quên gì không. Khoảng thời gian ngừng đọc là cần thiết. Sai sót giống như ổ gà,
thường ít được nhận ra sau khi mình đã quen đường.

Đọc ngược bài báo: Cách thức này trông có vẻ lạ nhưng lại có thể giupas
bạn tách bạch các câu rak hỏi mạch văn và làm cho một số sai sót nổi rõ lên. Đọc
câu cuối bài trước rồi tới câu trước đó và cứ thể cho đến đầu bài.

Bên cạnh đó, trên báo chí thường xuất hiện các sai sót thông tin về tên
người, tên công ty, chức danh, nhiệm vụ của người, sai thông lệ ngôn ngữ, kiến
thức văn hóa, địa lý, lịch sử, kinh tế và các con số, sai khi so sánh, sai khi thông tin
và tin sai.

48
Thường Biên tập viên không thể nhìn ra các sai sót trên. Thạm chí, có lúc
còn gây ra lỗi. Điều này xảy ra bên cạnh do trí nhớ kém còn do lười biếng mà ra.
Biên tập viên đã không hỏi lại người viết hoặc không tra cứu tư liệu. Muốn làm
nghề biên tập, phải siêng siêng hơn phóng viên vài bậc.

Một loại lỗi hay gặp nữa là viết đầu bài khác, giữa bài khác, cuối bài khác.
Có một tờ báo được tiếng kỹ lưỡng trong biên tạp đã để cho phóng viên viết tên
của một người bằng ba cách khác nhau: ở trang bìa viết “Michel P. Dallemague –
Dallemagne và Dallemange”. Trong khi tên đúng của người này là “Michel P.
Dallemagne”.

Mặt khác, việc tổ chức nội dung sẽ đảm bảo cho thông tin trở nên dễ hiểu.

IT
Chất lượng mặt hàng làm nên uy tín cho thương hiệu của một tờ báo là bài viết.
Một trong những yếu tố đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo vệ, nâng cao
chất lượng các bài báo là sự rõ ràng trong thông tin. Về nguyên tắc, văn báo cần dễ
hiểu, tức ai cũng hiểu được, từ người học lớp sau cho đến sinh viên đại học hoặc
PT
cao hơn.

Trước đây, bạn đọc khá vị tha. Họ sẵn sàng bỏ qua những thông tin, từ ngữ
được sử dụng theo kiểu đánh đố và mua báo của mình. Ngày nay tình hình đã khác.
Cuộc cạnh tranh giữa các phương tiện truyền thông để giành gaiatj thời gian, sự
chú ý của bạn đọc đã trở nên khốc liệt. Muốn có người đọc, bài viết phải rõ ràng
(để có thể được hiểu ngay, không cần phải suy nghĩ nhiều). Nếu phóng viên không
làm được điều đó, người Biên tập viên phải làm.

Rõ ràng không đồng nghĩa với đơn giả. Bạn đọc cũng không chờ được nahf
báo nhai lại những điều phức tạp rồi mới mớm cho họ. Họ muốn đọc báo mà
không cần có những kiến thức gì đặc biệt.

49
Thường phóng viên cho rằng người có chuyên môn sẽ hiểu những điều họ
viết. Nếu vậy, họ đã hạn chế số lượng bạn đọc của mình. Có thể các nhà báo cho
rằng bạn đọc đương nhiên thuộc về mình rồi, không cần phải quan tâm tới cảm thụ
của họ nữa. Chuyện này không có gì mới, nhưng đang có xu hướng gia tăng làm
cho những người chuyên biên tập lo lắng. Gia tăng vì đã xuất hiện những lĩnh vực
mới như công nghệ thông tin, mà tiếng Việt không đủ từ để diễn ra, định danh,
trong khi người viết lại không buồn giải thích và nhiều Biên tập viên luôn sẵn sàng
cho qua.

Để hạn chế những điều này cần:

Gạch bỏ từ trừu tượng hoặc biến chúng thành từ cụ thể: từ trừu tượng diễn tả

IT
ý tưởng chứ không diễn tả thực thể chắc chắn. Nếu không có từ trừu tượng, chúng
ta không thể diễn tả được những sự việc phức tạp mà chỉ có thể giao tiếp bằng từ
ngữ về sự vật chúng ta nhìn thấy.

Cẩn thận với những từ khoa học kỹ thuật. Ưu điểm của chúng ta là sự chính
PT
xác, nhưng thường chỉ những chuyên gia trong ngành đó mới hiểu hết. Vậy đừng
quên giải thích khi phải sử dụng loại từ này.

Gạch bỏ hoặc diễn dịch tiếng lóng. Mỗi ngành nghề, tổ chức ngành học, môi
giới và cả mỗi địa phương đều có tiếng lóng mà chỉ người liên quan mới hiểu.
Tổng vốn từ tiếng lóng thường chỉ vài chục từ cho đến trăm từ, ít khi vượt qua hai
trăm từ. Phần lớn bạn đọc không quen thuộc với loại từ này. Ngay cả từ điển cũng
không giải thích hết vì chỉ đưa vào những từ của tiếng lóng đã trở nên phổ thông.

Hạn chế từ viết tắt: chỉ để lại các từ viết tắt khi thấy cần thiết. Một số lãnh
đạo báo chí đã cho phép phóng viên và Biên tập viên tùy tiện viết tắt mà không
biết rằng độc giả rất mệt, rất mông công vì phải xem ngược lại lên đầu bài, nơi có
các từ đầy đủ mới hiểu. Đừng làm cho bạn đọc mất hết hứng thụ và thú vị vì phải

50
đọc quá nhiều từ viết tắt. Nhiều khi viết tắt chỉ tồn tại trong một bài báo. Kiểu này
lợi mình nhưng hại bạn đọc. Tốt hơn hết nên cắt bớt từ thừa, những câu, đoạn lòng
thòng trong bài để có chỗ viết nguyên các từ định viết tắt.

Giảm nhẹ lối viết khoa trương. Một số phóng viên có xu hướng viết thái quá
lên để đánh bóng sự kiện hoặc nhân vật. Họ thổi phồng tầm quan trọng của sự kiện
hoặc nhân vật bằng cách tạo ra những lối nói trông hấp dẫn nhưng rỗng. Cần nhớ
bạn đọc đến với tờ báo chủ yếu vì tin tức, thông tin không vì câu chữ.

Chống sáo rỗng. Viết sáo rỗng chẳng khác nào một loại bệnh người viết lặp
lại các từ ngữ, cách nói năng mà người khác đã dùng đến mòn đi rồi, bất kể chúng
còn hữu ích hay không.

IT
Đừng để cho bài nhiều chữ quá. Biên tập viên phải hà tiện “đất” tức diện
tích các trang báo và sử dụng đất một cách khôn ngoan và đúng đắn. Như vậy, phải
gạch bỏ những từ thừa, lặp đi lặp lại và tất cả những hình thức phung phí diện tích
khác. Người biên tập giỏi phải tìm và sửa những chỗ chữ nhiều nghĩa ít. Chữ thừa
PT
chiếm chỗ, gạt bỏ được chúng đồng nghĩa với việc thêm tin tức, thong tin, bớt chi
phí cho tờ báo. Giảm từ sẽ giảm thời gian đọc, hỗ trợ cho những người hay than
phiền rằng mình không có thời giờ để đọc báo.

Không dùng từ vay mượn của tiếng nước ngoài chưa đi vào vốn từ phổ
thông. Hiện nay một số người hay dùng tiếng Anh một cách không căn cứ. Dường
như họ muốn khoe chữ, làm sang, trong khi vốn liếng tiếng Anh không nhiều. Hay
là lối viết pha tạp tiếng anh, tiếng việt.

Cẩn thận với từ mới. Có một số từ được tạo ra không theo nguyên tắc nào.
Như “đinh tặc”… Nhà báo phải quảng bá và bảo vệ sự trong sách của tiếng mẹ đẻ.
Cần nhớ ngôn ngữ viết luôn có tính bảo thủ. Không giống như văn nói, nó không
chấp nhận những lối diễn đạt luồng tuồng, cẩu thả.

51
Ngoài việc làm cho các bài báo trở nên rõ ràng, dễ hiểu, Biên tập viên còn
phải tìm cách sửa chữa các chỗ phóng viên đã để cho sự thiên lệch xuất hiện.

CHƯƠNG IV – TỔ CHỨC NỘI DUNG THÔNG TIN TRONG TÁC PHẨM


BÁO CHÍ

4.1. Xu hướng tổ chức thông tin của báo chí hiện đại

Không một độc giả nào có thể đọc toàn bộ tờ báo. Ngày nay, để đọc tất cả
các bài trong một tờ nhật báo độc giả phải mất từ ba đến tám tiếng đồng hồ. Những
cuốn tạp chí lớn đòi hỏi một khoảng thời gian từ mười đến hai mươi tiếng mới đọc
hết được.
IT
Người Pháp thường dành 20 phút để đọc nhật báo, một tiếng đồng hồ cho
các tờ tạp chí tin tức. Trong khoảng thời gian ngắn như vậy, độc giả chỉ có thể đọc
được một phần nhỏ những gì tờ báo dành cho họ. Nhưng nếu là một tờ báo được
PT
trình bày tốt thì độc giả có thể biết dược toàn bộ nội dung và lựa chọn nhanh một
vài bài báo để đọc một phần hay cả bài.

Sắp xếp sao cho dễ đọc

Tờ báo phải được trình bày sao cho thời gian đọc đạt được hiệu quả nhất.

Các bài báo được xếp vào những chuyên mục (kinh tế, thể thao, văn hóa)
người ta thường tìm thấy ở cùng một vị trí, với cùng một kiểu trình bày trong mỗi
số. Trong một tờ nhật báo địa phương, người đọc có thể tìm thấy những tin tức
trong vùng chỉ sau vài giây.

Mức độ quan trọng tương đối của các vấn đề được chỉ rõ bằng sự chọn lựa
(trang nhất, tin tóm lược) và, ở bên trong chuyên mục, cỡ chữ, độ đậm nhạt, thưa
dày của tít, vị trí cột báo và vị trí bài báo trên trang báo.

52
Bài báo phải được trình bày để thông tin nhanh, và giúp người đọc lựa chọn
dễ dàng. Tất cả các bài báo phải có tít để thu hút sự chú ý, hướng dẫn về nội dung
của bài báo và kích thích sự tò mò. Những bài báo dài phải có sapô để thu hút độc
giả bằng cách tóm tắt nội dung hoặc đưa ra một cái nhìn bao quát.

Như vậy, chỉ vài phút đọc lướt các tít tin, bài trong tờ báo, cũng như là liếc
qua thực đơn trong một quán ăn, độc giả biết được tất cả những gì dành cho mình.
Sau đó anh ta sẽ đặt món ăn tùy theo sự tò mò và thời gian mà anh ta có.

Giúp độc giả lựa chọn tin, bài để đọc một cách dễ dàng là một trong những
chức năng chính của việc lên trang. Đó là công việc của thư ký tòa soạn. Nhưng
người biên tập phải chuẩn bị sắp xếp bài báo của anh ta một cách kỹ lưỡng nhất.

IT
Một bài báo nêu bật được thông tin chủ yếu, viết bằng một ngôn ngữ giản dị và
sáng sủa, cũng mới chỉ là một “bán thành phẩm”. Nếu được trình bày một cách khô
khan, bài báo ít có cơ may thu hút được sự chú ý của dộc giả.

Độc giả, khi lướt mắt trên trang báo, thường chú ý trước tiên đến nhừng bài
PT
ngấn nhất và được trình bày rõ ràng: các tít chính, tít phụ, phần chú giải, các minh
họa, phần đóng khung (box), tít mỗi đoạn. Nếu bài báo dài, họ sẽ ngại đọc trước
khi nhận thây bài báo thú vị: đó là vai trò của Sapô hoặc Sapô gây chú ý và trong
một chừng mực nào đó, của phần nhập đề và phần kết. Tất cả những yếu tố này
góp phần vào việc trình bày bài báo.

Tít cho các bài báo

Giống như biển hiệu của một thương nhân hay biển báo giao thông, tít của
bài báo có hai chức năng chính đó là thu hút sự chú ý và chuyển tải một thông
điệp. Song nếu như tất cả những người làm bánh có thổ chỉ cần thông báo “cửa
hàng bánh mỳ” và các biển báo giao thông có chung một cách lưu ý về nơi gần

53
trường học thì các tít bài báo phải luôn khác nhau, luôn luôn “mới”, cho dù là tin
thời sự được nhắc lại.

Để thu hút sự chú ý, tít phải ngắn. Để giữ dược ấn tượng thì tít phải độc
đáo.Tóm tắt thông tin một cách vừa cô đọng lại vừa độc đáo trong một số từ ít nhất
có thể, đó là tất cả sự khó khăn của việc đặt tít.

Sapo

Nhằm mục đích tiết kiệm thời gian của độc giả và làm cho họ dễ lựa chọn
hơn. Nói chung, nó được xuất hiện ngay ở dưới tít và đứng riêng.

Sapô thông tin tóm tắt cho độc giả những thông tin (thông điệp chủ yếu) sẽ
được phát triển sau đó trong bài báo.
IT
Sapô gây hứng thú, có thể so sánh với phần quảng cáo cho một bộ phim, nêu
rõ chủ đề của bài báo và giới thiệu một vài ý tứ khiến độc giả tò mò.Hai chức năng
này có thể kết hợp với nhau một cách hoàn hảo: Sapô nêu ra một phần những
PT
thông tin và kết thúc bằng một câu gợi trí tò mò ồ độc giả, khiến độc giả muốn đọc
tiếp.

Nhìn chung, người ta viết Sapô khi bài báo dài từ 2 hoặc 3 trang trỏr lên
(hơn 3000 ký tự). Độ dài của nó tỷ lệ vớí bài báo, khoảng 1/10. Chapô phải khái
quát bài báo song không vì thế mà làm cho bài báo bị lu mờ...

Sapô chẳng qua chỉ là một phần tóm tắt hoặc bao quát nội dung bài báo -
phần nào giống như tủ kính trưng bày hàng so với cả cửa hàng. Tất cả những gì
viết trong chapô, ta sẽ thấy lại một cách chi tiết trong bài viết sau dó. Trong mọi
trường hợp, sapô không thể được coi là đoạn đầu tiên của bài báo: đó là một phần
đứng riêng, được viết sau bài báo.

54
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, sapô không phải là ánh phản
chiếu của bài báo, mà đóng vai trò mở bài.

Sapô cập nhật thông tin. Có những yếu tố mới xuất hiện sau khi bạn đã viết
bài báo: chapô cập nhật thông tin cho phép đề cập đến những thông tin này mà
không động chạm tới bài báo.

Sapô giới thiệu. Được đặt trên bài báo khi bạn muôn giải thích những lý do
khiến bạn viết bài báo đó hoặc giới thiệu tác giả của bài báo hay người được phỏng
vấn.

Sapô nhắc lại. Khi bạn đăng một bài điều tra, phóng sự làm hai hoặc nhiều
phần thì trước mỗi phần mới cần có một chapô tóm tắt nội dung của chương trước

nhiều kỳ.

Sapo gây chú ý


IT
hoặc các chương trước, giông như người ta vẫn làm với những truyện dài đăng
PT
Sapo gây chú ý (accroche) là một biến thể của Sapo, được sử dụng tùy theo
cách của từng tờ báo. Nó phân biệt với Sapo bằng chữ in đậm hơn và có thể khác
về vị trí. Dài hơn một tít phụ, nó có thể thay thế các tít này để vừa giải thích cho tít
vừa làm Sapo cho bài báo.

Nói chung, văn phong của Sapo gây chú ý mạnh mẽ hơn vàn phong của
Sapo thông thường vì mục đích của nó là gây bất ngờ, ngạc nhiên và gợi sự tò mò
của độc giả.

Sapô gây chú ý đôi khi là một câu trong bài báo, hoặc một trích dẫn được
trình bày nổi bật (chẩng hạn bằng cách đóng khung) giữa phần thân bài hoặc ở đầu
phần tiếp theo (trôn trang khác).

55
Ớ một vài tờ báo, người ta gọi Sapô gây chú ý là “Sapô tách rời”, đặt dưới
Sapô nhắc lại, trong phần tóm lược của một số báo.

Tít xen giữa

Được cài đặt theo những khoảng cách đều nhau, tít xen giữa phần nào giống
như những cửa Sổ cho phép dộc giả nhìn lướt qua đó thấy nội dung bài báo. Đó là
một số từ trích từ bài báo và được làm nổi bật bằng kiểu cách in.

Tít xen giữa không phải lời tóm tắt các đoạn tiếp theo vì chức năng của nó
thuần túy có tính chất kích thích. Nó có thể là:

 Một trích dẫn ngắn


 Một hình ảnh

 Một câu ngạn ngữ
IT
Một con số gây ấn tượng

Tất cả những gì cụ thể, có hình ảnh, gây ấn tượng, đều làm nên những tít xen
PT
giữa hay ngược lại, cần tránh những câu trừu tượng và những câu đặt vào chỗ nào
cũng được, chẳng hạn 11 Những vẩn đề khó khăn”, “Tình hình hiện nay”.

Tốt nhất là đặt tít xen giữa sau khi đă trình bày và đọc lại toàn bộ bài
báo.Cần tránh lặp lại cùng một câu giữa tít xen giữa và tít, giữa tít xen giữa và chú
thích.

Mở đầu và kết thúc

Đoạn đầu và cuối của bài báo được coi như là một phần trình bày. Người ta
thường có thói quen bắt đầu bài báo bằng một hoặc hai đoạn mở đầu chung chung
nhưng khi đọc lại nó tỏ ra vô nghĩa. Nó chỉ có tác dụng “hâm nóng ngòi bút”,
nhưng làm chậm việc đi ngay vào đề. Vì vậy bỏ nó đi thì tốt hơn.

56
Cũng như vậy, cuối bài báo thường là một câu kết luận “kéo thêm dòng
thêm chữ” (để thêm tiền nhuận bút) và hoàn toàn thừa mà ta nên bỏ.

Câu đầu tiên là câu quan trọng nhất trong bài báo cùa bạn. Nếu nó không
làm cho người đọc ham muốn đọc sang câu thứ hai thì bài báo cùa bạn bị phá sản.

Câu kết hay nhất

Biết dừng lại cũng quan trọng gần như là biết khởi dộng. Bạn hãy biết rằng
thời điểm dó dã dến khi ngòi bút hoặc máy chữ của bạn chuẩn bị viết câu: “Nói
tóm lại, người ta có thể kết luận rằng” hoặc “Người ta có thể rút ra điều gì từ...".
Độc giả sẽ không nhầm dâu: họ biết rằng bạn sắp sửa lặp lại câu cũ và họ sẽ bỏ rơi
bạn.

IT
Một câu kết hay phải tỏ ra hoàn toàn thích hợp và phải bất ngờ một chút.

Nhưng câu kết đơn giản nhất chính là dấu chấm hết, khi bạn đã nói điều bạn
muốn nóí rồi!
PT
Trong một bài báo ngắn có tính chất thông tin (không có Sapô), câu mở đầu
đơn giản nhất là thông tin chủ yếu - nó hầu như là tin vắn mà ta có thể viết nếu ta
chĩ được dành cho vài dòng. Còn trong một bài dài thì thông tin chủ yếu này được
nêu ngay ở phần vào đề. Để tránh một hiệu ứng lặp lại gây khó chịu, ta nên mở đầu
bài báo dưới một góc hẹp, một “cận cảnh” về một điểm chi tiết gây ấn tượng để thu
hút sự chú ý của độc giả và đưa ngay họ vào vấn đề. Câu này có thể là:

 Một trích dẫn


 Một hình ảnh độc đáo
 Một sự so sánh
 Một sự “minh họa”
 Một sự khẳng định

57
 Một giai thoại ngắn gọn và có ý nghĩa...

Cũng những “công thức” nêu trên hoàn toàn có thể sử dụng cho câu kết, và
câu kết này phải là câu kết thúc bài báo của bạn để độc giả dừng lại chứ không
phải là một kết luận mà họ có thể tự rút ra được.

Câu kết cũng tạo cơ hội mở rộng hơn các góc hẹp mà ta đã sử dụng trong bài
báo, bằng cách phác họa - chỉ bằng một hoặc hai câu và không quá ham đi xa hơn
nữa vào vấn đề - một khía cạnh khác của vấn đề, những câu hỏi, những giả thuyết
và những triển vọng đã không được đề cập trong bài báo. Đôi khi, đó cũng là cơ
hội để ta giảm nhẹ đi phần nào một thông điệp quá gay gắt.

Chú thích

IT
Thông thường. việc chú thích ảnh được để cho một mình thư ký tòa soạn
quyết định, và đôi khi một cách ngẫu hứng. Khi nhà báo tự cung cấp những ảnh
minh họa cho bài báo của mình, anh ta phải gửi kèm theo bài báo tất cả những yếu
PT
tố" cần thiết cho tòa soạn để biên tập một chú thích cụ thể và hấp dẫn, hoặc một
chú thích do chính anh ta đề nghị.

Nên nhớ rằng ảnh minh họa và chú thích nằm ở tầm nhìn đầu tiên của bài
báo. Thường là độc giả hay xem ảnh và đọc chú thích trước khi đọc bài báo. Vì
vậy, chú thích phải mang những sự kiện thông tin cần thiết để độc giả hiểu dược
bức ảnh nói về ai, về cái gì, ở dâu, những nhân vật này là ai? Chúng ta cũng sử
dụng chú thích để kích thích độc giả dọc ngay bài báo, bàng cách sử dụng cùng
một kỹ thuật như đối với tít xen giữa.

Tuy nhiên, có thể không cần chú thích ảnh khi nó được kết hợp chặt chẽ với
tít vì tít sẽ thay thế chú thích.

Bài bổ sung hoặc bài trong box

58
Thường được gọi là bài trong box vì được trình bày với đường kẻ khung
viền quanh, bài bổ sung là một bài ngắn (thường không đến một trang), gắn với bài
chính, để làm cho bài chính thêm phong phú mà không bị nặng nề. Nó được trinh
bày riêng hoặc vì nó nằm ngoài góc nhìn của bài báo chính, hoặc vì nó là một phần
cận cảnh có thể kéo dài bài báo hoặc làm đứt mạch bài báo.

Ví dụ nó giới thiệu:

 Chân dung của một nhân vật trong bài báo;


 Một tư liệu;
 Những thống kê;
 Một tài liệu;
 Một cuộc phỏng vấn ngắn;
 Một phóng sự nhanh...
IT
Đừng quên rằng với tư cách là một bài báo phụ, có thể đo khung (box) bao
PT
quanh nó làm tăng thêm giá trị, bài báo phụ thường được đọc trước bài báo mà nó
đi kèm, vì vậy bài báo phải độc lập và có thể hiểu được mà không cần thiếtphải đọc
cả bài báo chính.

4.2. Các yếu tố được sử dụng để tổ chức thông tin

Mọi bài viết được in trong một tờ báo, được một hãng thông tấn báo chí phát
đi hoặc được đọc trên đài phát thanh, truyền hình đều gọi là bài báo. Tuy nhiên, từ
tin vắn thuật lại sự việc bằng một vài dòng, đến xã luận bày tỏ lập trường về một
vấn đề thời sự, là rất nhiều thể loại. Mỗi loại đều có những đặc điểm phân biệt rõ
rệt.

Trước hết, người ta phân biệt các bài mang tính thông tin - thuật lại những
sự việc - với các bài bình luận — thiên về trình bày suy nghĩ.

59
Bình luận có thể được gài vào trong những bài báo mang tính thông tin và
ngược lại các sự việc có thể được thuật lại trong những bài bình luận, dù chỉ là để
minh họa chophân tích hay biện hộ cho ý kiến được nêu ra.

Có một sự phân biệt khác giữa các bài báo mang tính thông tin với nhau:

 Tin vắn, tin ngắn có tít là những thể loại cơ bản mà nhà báo ngồi viết tại
toà soạn dựa trên những thông tin chuyển về,
 Tường thuật, phóng sự, phỏng vấn, chân dung, điều tra là những thể loại
chủ yếu mà nhà báo viết tại thực địa đo chính anh ta thu thập thông tin.

Tin nhanh thông tấn

Các tin nhanh thông tấn được biên tập và phát theo một trình tự phát triển
IT
dần, từ thông báo tin thô đến trình bày đầy dủ những tình huống của sự việc. Trình
tự này phụ thuộc vào hoạt động của người đưa tin tại thực địa: người này phải
thông báo ngay lập tức sự kiện xảy ra khi vừa được biết, rồi bổ sung tiếp những
PT
thông tin mà anh ta nắm được.

Tại tòa soạn, các Biên tập viên xử lý lại các thông tin và nếu có thể, xâu
chuỗi các tin tức phát về thành những bài báo hoàn chỉnh.

Dưới đây là thí dụ về trình tự thông báo một tin tức đặc biệt quan trọng, theo
những ưu tiên do Hãng Thông tấn Pháp AFP áp dụng.

• Tin cấp báo (ưu tiên 1): thông báo đầu tiên bằng ít từ, có nguồn tin kèm
theo, về một sự kiện đặc biệt quan trọng.
• Tin khẩn (ưu tiên 2, đôi khi là ưu tiên 1): đưa một thông tin rất quan
trọng, dưới 30 từ, nhưng không phải để giải thích mà là để phát triển tin
cấp báo.

60
• Tin nhanh (ưu tiên 3): một tin phát nhanh, dưới 80 từ, nhưng không phải
để giải thích mà là để phát triển một tin khẩn.
• Tin kết (ưu tiên 4): một bài hoàn chỉnh cho biết tình huống cuối cùng của
một sự kiện bằng cách đúc kết lại tất cả những thông tin đã phát trước đó.
Có thể viết nhiều tin kết liên tiếp về một sự kiện lớn.

Tin vắn

Tin vắn là một thông tin ngắn về một sự việc. Nó trả lời bằng một số từ tối
thiểu các câu hỏí: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu?. Và có thể trả lời các câu hỏi: Như
thế nào? Tại sao?

• Tin Vắn không có tít.


và có ý nghĩa.
IT
• Những từ đầu tiên - làm chức năng của tít - phải được lựa chọn cân nhắc

Những từ đầu tiên được lưu ý bằng cách in chữ đậm, chữ nghiêng hoặc
PT
chữ in hoa
• Tin vắn được đánh dấu ở đầu tin bằng một ký hiệu: một gạch đầu dòng
đơn giản hoặc (người ta có xu hướng thích dùng hơn) một “con rệp”
(•□■o...);
• Tin vắn không dài quá năm hoặc sáu dòng, chỉ giới hạn trong một đoạn.

Các tin vắn lâu nay bị dùng để lấp chỗ trống, giờ đây được dự kiến trong các
makét và tập hợp lại dưới một đề mục (“tin vắn”, “tin vắn kinh tế”...). Khi đó
người ta nói đến một chùm tin vắn. Đôi khi tin vắn cũng được sắp xếp tiếp sau một
bài báo mà nó có mối liên hệ nào đó.

Tin ngắn

61
Tin ngắn, giống như tin vắn ồ chỗ là một thông tin ngắn gọn không có bình
luận, nhưng nó có một tầm quan trọng và do đó được đặt tít riêng. Tin thường dài
khoảng một cột báo và có thể được phát triển dài hơn một chút.

Trong khi tin vắn nói chung chỉ trả lời các câu hỏi: Ai? Cái gì? Ớ đâu? thì tin
ngắn trả lời chi tiết hơn các câu hỏi: Như thế nào? và Tại sao? Do đó tin có thể dài
trung bình vài ba đoạn, tuy nhiên hiếm khi dài quá hai mươi dòng. Thường thì tin
ngắn là một tin thông tấn được các báo đăng lại mà không thay đổi cấu trúc của nó.
Nhưng phần lớn các báo đều viết lại tít và rất nhiều báo viết lại theo giọng văn của
“bản báo”, nhưng giữ nguyên tính chất thông tin chặt chẽ.

Cũng như đối với các tin vắn, hiện nay người ta có xu hướng tập hợp các tin

hòa.

Phóng sự
IT
ngắn vào riêng một cột báo và còn gọi đó là chùm tin, được trình bày một cách hài
PT
Mục đích của bài phóng sự là làm cho độc giả nhìn thấy, nghe thấy và cảm
nhận được điều mà bản thân nhà báo dã nhìn thấy nghe thấy và cảm nhận thấy.
Người ta sẽ chọn thể loại này khi thông tin có tính chất một "bức tranh” sống động,
muôn hình muôn dạng.

Người viết phóng sự là một nhà báo truyền những cảm xúc của mình cho
người khác. Anh ta là người đại diện của những độc giả vắng mặt, và họ sẽ cảm
nhận được sự kiện qua những dòng chữ của anh ta. Do vậy, anh ta phải là một máy
thu đặc biệt nhạy, đặc biệt tích cực và tinh tế.

Viết phóng sự đòi hỏi phải có “tài năng” như người ta vẫn nói. Những tài
năng đó phải dựa vào một kỹ xảo và kỹ xảo này dựa trên sự thu thập phong phú tất
cả những gì tạo nên cuộc sống. Nhưng một bài phóng sự hay không thể là sự tập
hợp và sắp xếp lại một cách thô thiển tất cả những yếu tố" nêu trên.

62
Trước khi viết, nhà báo phải tự hỏi mình muôn truyền đạt cho độc giả cảm
xúc (thông điệp chủ yếu) nào? Trong các thông tin mà mình nhận được thì những
thông tin nào thích hợp với việc truyền đạt cảm xúc này?

Một bài phóng sự sẽ hay hoặc rất hay tùy theo ngòi bút của tác giả, nhưng nó
sẽ không bao giờ là tồi nếu ta tập hợp được những vật liệu cần thiết.

Viết một bài phóng sự ít nhiều đều có một phần chủ quan của tác giả trong
đó. Hai nhà báo được cử đến cùng một địa điểm để viết cùng một sự kiện sẽ không
có những ghi chép và cảm xúc giông nhau. Sẽ càng là như vậy khi họ không đứng
cùng một chỗ, sự kiện lại phức tạp, cảnh tượng rộng lớn và nhân vật lạ thì nhiều...

Một nguyên tắc vàng đối với nhà báo vẫn phải là sự nghiêm túc trong thông

IT
tin. Khi viết phóng sự, nhà báo chỉ được phép truyền cảm xúc của mình qua các sự
việc được lựa chọn, và chỉ qua các sự việc mà thôi, không bình luận lộ liễu - những
sự việc mà anh ta là nhân chứng hoặc được biết qua các nguồn tin.
PT
Ngụy tạo thông tin đó là một lỗi nghề nghiệp. Còn như một bài phóng sự
“định hướng thông tin”, trong đó nhà báo cố ý bỏ qua những sự việc quan trọng thì
lại không thuộc về nghề báo.

Phỏng vấn

Sẽ là lạm dụng nếu gọi bất cứ câu trả lời nào nhận được là “phỏng vấn”. Một
tuyên bốdù là dành riêng cho người hỏi - ghi vội trên bậc thềm một công sở hoặc ở
đích một cuộc đua, không phải là một bài phỏng vấn.

Phỏng vấn là một phương pháp điều tra nhằm nhận được những thông tin
(hoặc những ý kiến) mới lạ của một người đồng ý cho công bố những ý kiến của
mình.

63
Giống như bài điều tra, bài phỏng vấn được thực hiện dựa trên những câu
hỏi do nhà báo (hoặc công chúng) đặt ra về một vấn đề nào đó. Những câu hỏi này
được dành cho một người nắm được những lời giải đáp và ý kiến của ông ta được
công chúng quan tâm.

Một cuộc phỏng vấn nên được thực hiện tay đôi. Nếu người phỏng vấn phải
đối mặt với ba người được phỏng vấn, hoặc nếu người được phỏng vấn bị ba nhà
báo quấy rầy thì mối tương quan không cân xứng. Như vậy sẽ không tạo được bầu
không khí tự nhiên và tin cậy.

Phỏng vấn đòi hỏi về thời gian. Trước khi bắt đầu một cuộc phỏng vấn, diều
không thể thiếu là phải thỏa thuận được với người đối thoại một khoảng thời gian

IT
tối thiểu, và không thể dưới 45 phút.

Phỏng vấn đòi hỏi phải có sự chuẩn bị. Nhà báo càng ít hiểu về vấn đề bao
nhiêu thì càng ít nhận dược thông tin mới lạ bấy nhiêu. Trong trường hợp dở nhát,
anh ta sẽ chỉ còn đóng vai trò là chiếc máy ghi âm và người được phỏng vấn sẽ nói
PT
điều gì họ muốn nói chứ không phải diều gì nhà báo muốn biết.

Phỏng vấn khống phải là một cuộc tranh luận, bàn cãi. Nhà báo ở đó dể đặt
câu hỏi chứ không phải để đưa ra ý kiến cá nhân. Những câu hỏi này sẽ được anh
ta chuẩn bị trước bằng cách viết ra giấy, điều đó sẽ giúp anh ta luôn làm chủ được
cuộc phỏng vấn.

Tuy nhiên không vì thế mà anh ta bị gò bó: nếu người được hỏi bất ngờ dành
cho bạn một sự “cởi mở” ngoài mong đợi thì bạn đìíng bỏ lỡ cơ hội mỏ rộng vấn
đề ngay tức thì với những câu hỏi ứng khẩu.

Chân dung

64
Thể loại chân dung rất ít được sử dụng trong báo chí. Người ta chỉ dành nó
cho những nhân vật nổi tiếng, vào những dịp trọng đại. Nên sử dụng thể loại này
một cách thường xuyên hơn và mở rộng tới những nhân vật ít được biết đến hơn.

Giống như một bài phỏng vấn, một bài chân dung hay luôn có đôi chút tiết
lộvà đây là nguyên tắc ta phải tránh can thiệp vào đời sống rất riêng tư của nhân
vật.

Bài báo phải mô tả được toàn bộ chân dung của nhân vật bằng cách tập hợp
lại những yếu tố thông tin thường là tản mạn. Một bài chân dung hay phải nêu bật
được những nét đặc trưng của nhân vật: hình dáng, thái độ, ngôn ngữ, thói quen,
môi trường sống, điều họ làm, điều họ nghĩ, những dự định và những tham vọng
của họ...
IT
Một bài chân dung khác xa với một bản tiểu sử khô khan và phải là một cái
gì đó sinh động, độc đáo. Điều này đòi hỏi nhà báo phải gặp gờ nhân vật, nắm
được trước những thông tin về nhân vật bằng cách tham khảo những bài viết về
PT
nhân vật đã được đăng và hỏi những người quen biết nhân vật.

Nhân vật phải hiện diện ngay từ câu vào đề và trong mỗi đoạn của bài báo.
Câu chuyện phải được điểm xuyết bằng những câu dẫn, những tình tiết mới, những
nét tiêu biểu. Trong cuộc sống của mỗi người luôn có điều gì đó thú vị, thậm chí
khác thường... và nhà báo có bổn phận phải phát hiện ra điều đó.

Điều tra

Đối tượng của điều tra là một vấn đề.

Trong hoạt động của một nhà báo viết bài điều tra, các câu hỏi được đặt đi
đặt lại có tới chục lần mỗi ngày, mỗi khi xảy ra một sự việc có tính thời sự dù lớn
hay nhỏ.

65
Bắt đầu một bài điều tra, nhà báo phải biết mình cần tìm kiếm điều gì chứ
không phải minh muốn chứng minh điều gì. Giả thuyết hoặc các giả thuyết, cần
thiết để bắt đầu việc tìm kiếm, của anh ta phải luôn luôn được đốì chiếu với các sự
việc.

Một cuộc điều tra được tiến hành nghiêm túc rất có thể đi tới một kết luận
không ngờ. Trong mọi trường hợp, cho dù suy nghĩ ban dầu là đúng, quá trình xác
minh trên thực địa sẽ giúp ta nắm được những thông tin để trình bày rõ ràng, chính
xác hơn những suy nghĩ đó.

Cũng như các bài báo khác, bài điều tra phải bám lấy thông tin chủ yếu và ở
đây là kết luận điều tra. Chính thông diệp này sẽ quyết định bố cục của bài báo.

IT
- Về thực chất, bố cục này giông bố cục của một chứng minh khoa học: vấn
đề -> giả thuyết -> xác minh -> kết luận.

Người ta cũng gặp lại cấu trúc này dưới những dạng khác nhau:
PT
Tình hình -> nguyên nhân -> những giải pháp khả dĩ -> những giải pháp dự
kiến.

Xung đột -> những lý lẽ của người này -> những lý lẽ của người khác -> các
sự việc -> ý kiến của các nhà chuyên môn -> ai có lý.

Tuy nhiên, trong điều tra báo chí, cấu trúc này, nếu như nó tồn tại, cũng
không dễ nhận ra vì nó được ẩn giấu dưới mọi kiểu viết.

Một bài điều tra không phải là một bản tường trình khô khan và trừu tượng,
mà dày đặc những trích dẫn, những bằng chứng, những điều nhìn thấy để chứng
minh. Bài điều tra không chỉ cần tới tất cả những năng lực nghiệp vụ của nhà báo
mà còn

66
Cần tới sự hỗ trợ của tất cả các thể loại báo chí, như phóng sự, phỏng vấn,
chân dung... thậm chí tòa soạn có thể đăng xã luận đi kèm một bài điều tra quan
trọng.

CHƯƠNG V – BIÊN TẬP VĂN BẢN BÁO TRỰC TUYẾN

5.1. Sự chi phối của đặc trưng loại hình đối với quy trình biên tập văn bản báo
trực tuyến

Từ vài năm nay nhiều báo, tạp chí, đài phát thanh và truyền hình cung cấp
hàng ngày thông tin và chương trình giải trí trên mạng Internet. Một số trang Web
dược thiết kế hôm nay thì tuần sau đã trở nên lạc hậu. Cho dù hầu như chưa có
dịch vụ trên mạng nào có thu nhập về tài chính, song cũng chỉ có ít dịch vụ chịu

và họ kỳ vọng vào điều gì?


IT
đình chỉ. Những thông tín nào các doanh nghiệp truyền thông cung cấp trên mạng

Khi xem xét các trang web truyền thông người ta hầu như không thể rút ra
PT
kết luận gì về phương tiện mới mẻ này. về nguyên tắc sản phẩm này khác hẳn các
sản phẩm khác đã khá ổn định trên thị trường truyền thông với những đặc điểm
riêng của mình: báo vỉa hè, báo trung ương, cơ sở phát thanh truyền hình nhà nước,
các đài tư nhân, v.v...

Một tờ báo nhỏ hàng ngày có thể mở một trang web đầy đủ, trong khi các
báo lớn lại không nhất thiết phải có trang web lớn. Các tờ báo lớn có thể xuất hiện
trên mạng thiên về đề tài “vỉa hè” nhiều hơn và ngược lại, các báo vỉa hè có thể
cung cấp những thông tin tầm cỡ hơn và được biên tập công phu hơn.

Phạm vi, hình thức, kế hoạch và nội dung trang web phụ thuộc vào những
điều kiện khách quan của các nhà xuất bản và các đài phát thanh truyền hình: Việc
thể chế hoá các ban biên tập trực tuyến trong các ban biên tập và nhà xuất bản, quy

67
mô và cơ cấu cùng các phương tiện làm việc có ảnh hưởng rất lớn tới việc tổ chức
trang Web trên mạng.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau để thiết lập một dịch vụ trên mạng. Trước
hết, hầu như tất cả các nhà tổ chức dịch vụ muốn sở hữu một lĩnh vực có tính đổi
mới, và thu thập các kinh nghiệm bước đầu. Sự có mặt trên mạng đem lại một hình
tượng hiện đạì trong tâm trí người tiêu dùng và chứng tỏ triển vọng của nhà xuất
bản hoặc nhà đài.

Hãy còn chưa rõ liệu Internet có trở thành phương tiện cạnh tranh đáng gờm
đối với các phương tiện truyền thông đại chúng khác. Tuy nhiên đã có dấu hiệu là
sẽ có nhiều lĩnh vực khác nhau trên Internet sẽ tranh chấp công chúng và thu nhập

IT
quảng cáo với các phương tiện thông tin truyền thông. Để sớm có mặt trên thị
trường mới này, một sô" nhà xuất bản và đài phát thanh truyền hình chấp nhận
bước đầu tổ chức và giới thiệu những dịch vụ hạn chế hoặc “không chuyên” ra thị
trường.
PT
Một chiến lược khác là trông chờ vào kỉnh nghiệm của các đôi thủ và đi vào
thị trường với một xuất phát điểm hoàn thiện hơn. Nhà báo trực tuyến cần lợi dụng
khả năng, những gì không thể thực hiện trên sản phẩm báo chí và chương trình
phát thanh truyền hình, sẽ được giới thiệu trên Internet.

Đối với báo chí, Internet có thể là nguồn thông tin dịch vụ, hộp thư địa chỉ
và ngân hàng dữ liệu. Những lượng dữ liệu cần nhiều giấy mực để ghi lại và luôn
được bổ sung mới. Các trang web đòi hỏi nhà báo lao động tích cực hơn, nhưng lại
rất có giá trị đôi với người đọc, bằng các trang web nhiều thông tin trên các bình
diện khác nhau có thể được thể hiện hoặc việc bổ sung tin rất tiện lợi. Các trang
web đòi hỏi nhà báo sâu sát hơn, kỹ lưỡng hơn trong nghiên cứu điều tra và luôn
theo dõi, tổng hợp những gì xảy ra trên mạng.

68
Sự quan ngại làm cho độc giả “lạc đường” là có cơ sở. Bởi vì độc giả chỉ
biết đánh giá trang web nào mang lại cho họ nhiều thông tin và vì vậy, luôn quay
trở lại với những trang web mà họ cảm thấy mình được thông tin tốt nhất.

Các doanh nghiệp phát thanh, truyền hình đưa lên mạng các thông tin liên
quan đến các hoạt động của đài, các chương trình và dịch vụ kèm theo. Các thông
tin liên quan đến hoạt động của đài như các thể loại chương trình, các công việc
đang triển khai hoặc các ký hiệu tìm chương trình. Các trang web liên quan chương
trình thường là các dịch vụ như giới thiệu chương trình và người dẫn chương trình.
Các thông tin liên quan đến chương trình phát sóng như các chương trình đang dàn
dựng hoặc cơ cấu nội dung của các chương trình, cả khả năng đặt hàng trực tuyến
toàn bộ hay từng phần một chương trình. Khi cung cấp một chương trình tin tức
IT
theo yêu cầu khách hàng có thể thay đổi cấu trúc của chương trình của các nhà báo
và gọi những phần mình yêu thích trong chương trình đó.

Các đề tài và thông tin phải biên tập. sao cho người sử dụng cảm nhận được
PT
và có thể gọi ra những gì họ quan tâm. Sự thông tin “cá thể hóa” mặt khác lại đặt
ra điều kiện: các chương trình có thể truy cập phải đủ lớn, để có thể thoả mãn các
nguyện vọng thông tin khác nhau. Liệu điều này có khả thi không đến bây giờ vẫn
chưa ai có thể giải đáp

Nhiều nhà báo và đài phát thanh truyền hình chỉ sử dụng các trang web của
mình để làm quảng cáo và quan hệ khách hàng mà không dùng để giới thiệu các
chương trình thông tin và giải trí.

Trong những năm qua đã xuất hiện những khả năng cân đôi tài chính. Hình
thức thu nhập bao gồm từ thu quảng cáo, chuyển giao công nghệ tới các dịch vụ
cung cấp thông tin.

69
Tất nhiên “làng Internet” chờ mong sự phát triển của sô' lượng người sử
dụng và sự tiến bộ kỹ thuật của mạng, bởi vì sự nghiệp trong tương lai của các nhà
xuất bản phụ thuộc vào đấy. Hầu hết những người có trách nhiệm trong các ban
biên tập trực tuyến hy vọng vào sự thăng hoa của Internet và nghĩ rằng trong tương
lai không xa nó sẽ đương nhiên trở nên thông dụng như điện thoại ngày nay.

Một điều quan ngại thường được nói đến là những kiến thức về kỹ thuật sẽ
quan trọng hơn tay nghề của nhà báo và công việc của nhà báo sẽ được quyết định
bởi các yếu tố kỹ thuật. Những người được phỏng vấn đều phản bác ý kiến đó. Ý
kiến thông nhất là ý kiến cho rằng việc đào tạo chính quy mô một nhà báo lằ cơ sở
không thể thiếu được cho hoạt động trong môi trường trực tuyến. Ý kiến này xuất
phát từ việc khối lượng dữ liệu và thông tin ngày càng lớn, nhà báo phải nghiên
IT
cứu và chọn lựa những thông tin quan trọng và thật cơ bản. Tuy nhiên điều đó
không có nghĩa là nhà báo không cần xử lý những vấn đề kỹ thuật đặt ra. Nói
chung một sự quan tâm nhất định về những vấn đề kỹ thuật vẫn dược xem là một
PT
lợi thế.

Phạm vi của các kiến thức kỹ thuật cần thiết phụ thuộc vào quy mô và cách
tổ chức của ban biên tập trực tuyến. Trong một vàì ban biên tập đã có sẵn các trang
web chủ cho nhà báo, ở một số ban biên tập khác các Biên tập viên phải tự đảm
nhiệm công việc này. Ớ công đoạn này, các kiến thức kỷ thuật sâu hơn là chưa cần
thiết. Hiện nay điều quan trọng là nâng cao tay nghề kỹ thuật cho nhà báo ở giai
đoạn thứ hai. Giai đoạn này trong tương lai có thể thay đổi, khi các dịch vụ trực
tuyến của các phương tiện truyền thông thực sự đa chức năng, hiện nay nó còn ở
trong một phạm vi rất hạn chế.

Báo và tạp chí chủ yếu giới hạn vào bài vở và hình ảnh tĩnh. Còn các file
nghe nhìn thì còn ở giai đoạn thể nghiệm, các chương trình này do khả năng
chuyển tải bị hạn chế chưa thể cung cấp cho nhiều người yêu cầu. Nếu các dịch vụ

70
đa phương tiện này cần được thực hiện thì các yêu cầu đối với nhà báo sẽ biến đổi.
Ngoài việc có nội dung biên tập hay nhà báo phải làm cho tác phẩm có kịch tính,
một thứ kịch tính hấp dẫn người xem tạo điều kiện cho họ gọi được lời thoại lên
mạng, làm chuyển động hình ảnh và gọi được lời bình khớp với hình ảnh. Nhà báo
phải được đào tạo sâu hơn về thiết bị đa phương tiện. Tuy nhiên đây cũng chưa
phải là lúc mà những khả năng kỹ thuật chiếm vị trí trung tâm.

Vào thời kỳ đầu của Internet các sản phẩm trực tuyến đa sô là những tái hiện
thống nhất với các sản phẩm in ấn, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn người ta đã
nhận thức được rằng: mạng Internet đòi hỏi một sản phẩm thông tin đặc biệt, một
sản phẩm định hướng theo những đặc thù của phương tiện và hình thức sử dụng
(hoặc theo nhu cầu của người tiêu dùng). Nghề báo trực tuyến không giông với
nghề báo truyền thống. IT
Những đặc điểm của phương tiện mới trước tiên là tính thời sự, tính cá nhân
cũng như tác động qua lại của thông tin gắn liền với khả năng thể hiện đa phương
PT
tiện và về nguyên tắc có phạm vi không hạn chế.

Thể hiện các tài liệu trực tuyến

Từ góc độ người sử dụng, chất lượng của một tài liệu trực tuyến phụ thuộc
vào việc người sử dụng có tìm được nhanh thông tin cần tìm, có hiểu được nội
dung nhanh, dễ và chính xác và việc đọc tài liệu có thú vị và có hiệu quả tích cực
hay không, không quá tầm thường hoặc đơn giản, nhưng cũng không quá khó. Tất
nhiên dối với quyền lợi người tiêu dùng thì tầm quan trọng của nội dung được công
bố trên một tài liệu trực tuyến là một vấn đề.

Tuy vậy, tầm quan trọng của thông tin là một vấn đề cơ bản đối với tất cả
những người làm thông tin truyền thông và không phải là một đặc điểm của
phương tiện trực tuyến. Một sự khác biệt căn bản giữa các nội dung in ấn và các tài

71
liệu trực tuyến là các nội dung in ấn được xây dựng theo một trật tự “tuyến tính”
cho trước. Ngược lại, các sản phẩm trực tuyến người ta có khả năng biên tập “phi
tuyến tính” các nội dung thông tin. Nhiều thông tin cùng một dối tượng, một chủ
đề hoặc một sự kiện được liên kết với nhau. Như vậy, người sử dụng có thể nhảy
cóc từ mục thông tin này sang mục thông tin khác, mà không cần phải tuân theo
một thứ tự cho trước.

Khả năng điều hành tự do đem lại cho người truy cập một số lợi thế so với
các phương tiện in ấn và nghe nhìn thông thường. Như vậy, người sử dụng có thể
tiếp nhận thông tin theo yêu cầu những gì mình quan tâm. Người sử dụng có thể tự
quyết định truy cập thông tin mức độ nào, ví dụ về quá trình một sự kiện, một nhân
vật hay vềhướng dẫn, giải thích các khái niệm,... Đối với người thiết kế tài liệu trực
IT
tuyến, tính chất phi tuyến tính đem lại cho họ khả năng, thông qua việc vào mạng
truy cập nhiều thông tin một cách hợp lý về nhưng sự kiện, vấn đề phức tạp, trong
khi các nội dung in ẩn thường chỉ thông tin lại các sự thật, sự kiện không đầy đủ
PT
hoặc quá đơn giản. Người sử dụng muôn tìm nhanh và dễ dàng các thông tin cần
thiết thì phải biết file thông tin mình đang có trên màn hình hên hệ như thế nào với
các file thông tin khác, các file thông tin được bỂJ trí như thế nào. Bởi vậy, một
nhiệm vụ cơ bản của các nhà báo trực tuyến là việc cấu trúc các tài liệu thông tin,
xây dựng các thiết chế điều hành, quy định sô' lượng các lĩnh vực thông tin, thiết
lập môi liên hệ giữa các file thông tin,... để đảm bảo cho người sử dụng dễ dàng
truy cập các thông tin hiện có và xây dựng một cơ cấu tin có hệ thống dễ khái quát.

Điều khác biệt cơ bản với báo chí, phát thanh, truyền hình là với nghề báo
trên mạng, những thông tin về một vấn đề hoặc một sự kiện không bắt buộc liên
kết gói gọn trong một bài báo hoặc một chương trình, mà được chia thành nhiều
file thông tin độc lập trên mạng,

72
Thông tin trên mạng không còn ranh giới giữa các bài báo hoặc các tiết mục
phát thanh, truyền hình. Chính vì vậy, nhà báo trực tuyến không được phép chạy
theo những mục tiêu gói gọn thông tin trong những bài báo, mà phải suy nghĩ làm
thế nào mình có thể liên kết thông tin này vdi các thông tin khác, ở chỗ nào có thể
thiết lập mối liên hệ. Các sự kiện riêng lê phải được tổng hợp trong một cấu trúc
chung của một vấn đề. Điều này cũng phải áp dụng cho cả phạm trù thời gian. Các
thông tin mới phải liên kết với các thông tin của ngày hôm trước.

Cấu trúc trong báo chí trực tuyến

Cấu trúc nào là quan trọng trong báo chí trên mạng? Trong các bài báo in ấn
có một loạt các yếu tố giúp bạn đọc định hướng và nắm được cấu trúc nội dung, ví

IT
dụ việc sắp xếp vị trí bài báo, độ ngắn dài của bài, là những yếu tố phản ánh giá trị
thông tin khác nhau, hoặc trong một bài báo thứ tự bô" trí các phần nội dung, trong
đó phần vào đầu (đề dẫn) của bài báo bao giờ cũng đưa ra những thông tin cơ bản
nhất, và sau đấy mới đưa tới những thông tin chi tiết. Trong báo chí trực tuyến các
PT
bài báo không khép kín, người sử dụng không gặp ngay trên trang nhất của website
những thông tin quan trọng nhất. Các thông tin được phân bố trên các phạm vi
khác nhau dưới dạng các “file” thông tin.

Vì vậy nhà báo, phải giúp cho người truy cập trên ba phương diện trong cấu
trúc và định hướng thông tin: thứ nhất, nhà báo phải làm rõ các phạm vi thông tin:
Những thông tin nào là thông tin chung về một vấn đề, sự kiện? Nó liên quan đến
những vụ việc nào? Những thông tin nào là thông tin chi tiết? Các thông tin được
sắp xếp trong mối liên hệ như thế nào? Thứ hai, nhà báo phải làm rõ tầm quan
trọng của nội dung: Những thông tin nào là quan trọng, những thông tin nào không
quan trọng và chỉ nhằm thông tin phụ trợ? Thứ ba, nhà báo phải làm rõ chức năng
của từng phần nội dung: Cái gì là nguyên nhân hoặc hậu quả của một sự kiện? Cái

73
gì chỉ đơn thuần là tin tức về sự kiện? Những phẫn nào mang tính chất bình luận
của nhà báo?

Trong việc xây dựng cấu trúc có 3 vấn đề đặt ra:

• Một tài liệu thông tin trên mạng nên sấp xếp và thiết kế như thế nào?

• Phần thông tin nên được thiết kế và bố cục tới mức nào?

• Với phương tiện và yếu tố nào người ta có thể thiết kế các thông tin
trên mạng?

Việc thiết kế cấu trúc của một sản phẩm trong mạng cũng được gọi là “thiết
kế giao diện”. Có bốn cách bố trí cãn bản, tôi ưu nhất có thể thực hiện, Sự lựa chọn

IT
mẫu cấu trúc nào phụ thuộc vào tính chất của dịch vụ thông tin và vào chủ đề.

Cấu trúc tuyến tính theo thứ tự trang

Ớ đây, người sử dụng thao tác trên một trục tới và lùi. Ưu điểm của nguyên
PT
lý đơn giản này là người sử dụng tiếp thu nhanh cấu trúc. Lợi ích của sự bố trí này
chỉ dành cho những nội dung được thiết kế theo thời gian hoặc theo vần bảng chữ
cái Latinh. Nhược điểm là không tận dụng được khả năng liên kết của Internet.

Cấu trúc toạ độ

Cấu trúc toạ độ -có thể thông qua tính chất hai chiều để thiết lập ngay hai
môi quan hệ cấu trúc đồng thời. Qua cách dọc theo chiều thẳng đứng có thể trình
bày từng sự kiện theo thứ tự thời gian, trong khi theo trật tự chiều ngang có thể
giới thiệu các sự việc chính trị, kinh tế và xã hội thuộc một trong những sự kiện đã
trình bày ở trục đứng. Mẫu cấu trúc này thích hợp để thiết kế nội dung có tính hệ
thông. Tuy nhiên, người tiêu dùng phải được giải thích rõ về cấu trúc, dể họ có thể
truy cập các thông tin có hiệu quả.

74
Cấu trúc dạng mạng

Cấu trúc dạng mạng với sự hoà mạng theo tất cả các chiều đem lại cho người
sử dụng sự tự do tối đa trong truy cập các trang Web. Yếu tô' “siêu liên kết" tiêu
biểu cho Internet được khai thác tôi đa ở cấu trúc này. Tuy nhiên, sự hoà mạng
rộng rãi và chung cho nhiều lĩnh vực cũng chính là nhược điểm của cấu trúc này.
Sự thiếu sắp xếp các thông tin đã hạn chế việc tìm tin nhanh và vì vậy hạn chế việc
hiểu đúng các thông tin.

Cấu trúc theo trật tự nội dung

Cấu trúc theo trật tự nội dung di theo hướng ưu tiên về nội dung thông tin,
người sử dụng khái quát được nhanh về nội dung thông tin. Cấu trúc này có nhiều

IT
ưu điểm: người sử dụng đã quen với cấu trúc này từ báo chí in ấn. Trong một bài
đăng trên báo người ta nhận thức nội dung từ đề mục bài qua phần dề dẫn tóm tắt
cho tới các thông tin chi tiết, những thông tin quan trọng được lên đầu, các thông
tin không quan trọng ở đoạn cuối. Dưới các tiêu đề lớn người ta có thể bô" trí các
PT
chương mục báo hoặc từng phần giới thiệu các đề tài. Cấu trúc theo trật tự nội
dung, do thông dụng nên rất được người sử dụng ưa chuộng.

Trong thực tiễn người ta ít khi sử dụng chỉ một trong các cấu trúc đã nêu. Đa
sô" sử dụng hình thức hỗn hợp từ hai hay ba cấu trúc. Việc nên phân loại và hoà
mạng các thông tin tới mức nào không có một đáp án chung được. Điều quyết định
ở đây là người ta phân chia thông tin thành bao nhiêu lĩnh vực và có bao nhiêu khả
năng chọn lựa trong một sản phẩm lên mạng. Theo kinh nghiệm nên tiến hành như
sau: người sử dụng chỉ nên nhấc chuột tôi đa ba đến năm lần đã có thể tìm thấy
thông tin mong muôn và người truy cập tốt nhất là có năm đến bảy khả năng chọn
lựa trong tay cho một sản phẩm lên mạng. Người truy cập có càng ít kinh nghiệm

75
với Internet hoặc với một chủ đề thông tin thì người ta càng phải có trách nhiệm
nhiều hơn đôi với họ và nên giảm khả năng chọn lựa xuống.

Việc trình bày các thông tin trực tuyến cần phân biệt giữa nội dung thông tin
và cấu trúc thông tin. Các yếu tố thông tin trong các tài liệu trực tuyến, về nguyên
tắc nên ngấn hơn trên báo chí, vì việc đọc trang web trên màn hình căng thẳng hơn
và kém tiện lợi hơn các trang báo in.

Về thông tin cấu trúc cần quan niệm là những thông tin đem lại cho người sử
dụng những tin tức lúc này họ đang ở đâu và làm thế nào để đến với các thông tin
khác. Các yếu tô" điều hành cũng thuộc vào thông tin cấu trúc. Thông tin cấu trúc
có tầm quan trọng quyết định đối với chất lượng của một tài liệu thông tin trực

IT
tuyến, sự rõ ràng trong cấu trúc là một trong những mục tiêu cơ bản. Nếu một
người sử dụng lần đầu tiên “lạc đường” trong một sản phẩm trên mạng, anh ta sẽ
tốt nhất là bất lực đầu hàng còn hơn là khăng khăng truy cập chừng nào tìm được
thông tin mong muốn.
PT
Về nguyên tắc, các thông tin phân loại càng mạnh thành các “file” thông tin
và càng hoà mạng rộng rãi, thì đốì với người sử dụng việc cần có hiểu biết toàn
diện về những thông tin cấu trúc càng quan trọng hơn.

Điều quan trọng là người sử dụng lúc nào cũng biết cái gì là thông tin cấu
trúc và yếu tô" điều hành, và cái gì là nội dung thông tin đích thực. Vì vậy, những
loại thông tin này cần tách bạch rõ ràng với nhau. Điều đó có thể thực hiện bằng
cách định vị trên màn hình, nhưng cũng có thể bằng ký tự, bằng thiết kế đồ hoạ
hoặc các gam màu. Ví dụ, có thể sử dụng cho thông tin cấu trúc các yếu tố ảnh
hoặc các ký hiệu làm mã thông tin ngược với các nội dung được viết thành chữ.

Có những khả năng nào để thể hiện thông tin cấu trúc? Tốt nhất là trên từng
trang của sản phẩm trực tuyến có thể hiện cấu trúc đầy đủ và có thông tin người

76
truy cập đang ở vị trí nào trong cấu trúc. Trong cấu trúc theo thứ tự nội dung có thể
là dùng sơ đồ nội dung để hướng dẫn. Nhược điểm ỗ đây là phải dùng phần lớn
màn hình cho việc thông tin cấu trúc, nên phần diện tích màn hình để cho nội dung
thông tin giảm đi. Giải pháp dung hoà là chỉ thề hiện những phần nội dung có kết
nối trực tiếp với nhau. Điều quan trọng là trong bất cứ trường hợp nào trên trang
đầu của sản phẩm trực tuyến đều phải có một sơ đồ tổng quan về toàn bộ sản phẩm
với mọi hình thức kết nôi của nó, chứ không chỉ liệt kê các chương mục.

Như trên báo in các thông tin trong tài liệu đưa lên mạng cũng cần được
phân loại, dù nó là thông tin cơ bản hay thông tin chi tiết phụ hoạ. Những thông tin
cơ bản chung, tương đương phần đề dẫn (lead) của một bài báo in, được sắp xếp
trong từng phần chính của sản phẩm. Những thông tin này có thể là sự tóm tắt nội
IT
dung giúp cho người truy cập có cái nhìn khái quát về các sự kiện thông tin. Người
truy cập có thể tuỳ theo nguyện vọng kích chuột để đọc tiếp một thông tin. Các
thông tin chi tiết có thể được phân chia vào các phần nội dung chính khác tuỳ theo
PT
mục đích, theo trật tự sau: phần bình luận các sự kiện, phần mô tả nguồn gốc, xuất
xứ, quá trình của sự kiện, v.v... Điều quan trọng là đặt tên cho phù hợp các yếu tố
cấu thành sản phẩm hoặc các thông tin khác nhau.

5.2. Các bước trong quy trình biên tập văn bản báo trực tuyến

Công việc trong một ban biên tập trực tuyến rõ ràng có tính chất toàn diện
hơn trong lĩnh vực báo ngày hoặc tạp chí. Mỗi thành viên đều hoạt động và có
trách nhiệm đôi với toàn bộ sản phẩm.

Với việc thực hiện dịch vụ trực tuyến trong các nhà xuất bản và trong người
tiêu dùng, các ban biên tập sẽ lớn hơn và công tác chuyên môn hoá sẽ rất cần thiết.

Vì công việc biên tập trực tuyến cần được thực hiện quạ khả năng thông tin
thời sự liên tục nên nó chịu nhiều sức ép về thời gian. Nó đòi hỏi ngoài những kiến

77
thức sâu rộng và vững vàng của nhà báo là tinh thần trách nhiệm tập thể, sự linh
hoạt và khả năng đồng đội.

Một yêu cầu mới đốì với các nhà báo là việc ứng xử đúng đắn với người sử
dụng. Bằng những khả năng phản hồi tiện lợi, ví dụ qua thư diện tử người sử dụng
dễ dàng chuyển tới các Biên tập viên những cảm xúc của mình, những nguyện
vọng hoặc những lời than phiền. Như tất cả các khách hàng xác nhận, phần lứn đều
sử dụng khả năng này. Các nhà báo nhận được những phản hồi trực tiếp đối với
công việc của họ nhiều hơn là đôi với các phương tiện thông dụng, trong đó ban
biên tập thư bạn đọc thường chịu trách nhiệm trả lời bạn dọc, còn các Biên tập viên
liên quan chỉ phải dôi thoại trong những trường hợp thật đặc biệt. Thông thường họ
chỉ nhận dược những sự khích lệ về nội dung hoặc sự chỉ dẫn thêm về các đề tài đã
biên tập. IT
Quy trình biên tập báo trực tuyến cũng vẫn tuân thủ theo các bước cơ bản
của các loại hình báo chí khác. Tuy nhiên, nó có những đặc thù riêng như:
PT
Ví dụ Tuổi Trẻ Online:

Tại báo Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Online là một bộ phận của cơ quan và người
chịu trách nhiệm chung là ông Tảng Hữu Phong, phó tổng biên tập. Trong vai trò
này, ông Phong chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động của Tuổi Trẻ
Online. Dưới ông Phong là một Phó tổng thư ký tòa soạn (TKTS) chịu trách nhiệm
tổ chức nội dung cho báo trực tuyến. Trước đây, vị trí này do ông Hàng Phước
Long, phó tổng TKTS phụ trách, nay ông Long đã chuyển sang xây dựng Tuổi Trẻ
Mobile.

Ngoài ra, nhân sự của Tuổi Trẻ Online gồm có:

78
2 Thư ký tòa soạn: Phụ trách các nội dung đưa lên web “4 nhân viên nhập
liệu”.

Tuổi Trẻ Online, không có phóng viên độc lập trực thuộc tòa báo trực tuyến,
lai cả tin tức được thực hiện bởi các phóng viên thuộc tòa sọan báo in. Hầu hết tin
bài trên báo in của ngày hôm sau đều được đưa lên Tuổi Trẻ Online trong tối hôm
truớc, ngoại trừ một số bài mà họ cho là thuộc nguồn tin riêng của báo Tuổi Trẻ
không có báo nào khác có được.

Toàn bộ tin bài số in vào ngày hôm sau của báo Tuổi Trẻ được lưu trữ vào
một folder quy ước. Những Biên tập viên sẽ vào đó sau 21h00 để upload tất cả
thông tin lên Tuổi Trẻ Online.

IT
Tin bài trong ngày ngoài tin đưa lại trên báo in, trên Tuổi Trẻ Online còn có
dung lượng tuơng đương báo in được làm dành riêng với phần ghi (TTO) trước
mỗi tin. Những tin bài độc đáo do nguồn tin riêng của Tuổi Trẻ sẽ được “đề dành"
cho báo in đăng trước. Còn lại đều được xuất bản ngay trên Tuổi Trẻ Online để
PT
cạnh tranh với các báo trực tuyến khác. Các phóng viên phát hiện thông tin cần
triển khai, sẽ trao đổi với Thư ký tòa soạn cả ở bộ phận báo in và báo trực tuyến.
Những thông tin ban đầu sẽ được đưa ngay lên Tuổi Trẻ Online để thu hút sự chú ý
của độc giả. Các phân tích, trả lời phỏng vấn, các thông tin liên quan... sẽ được
Thư ký tòa soạn phân công tiếp cho phóng viên, Biên tập viên thực hiện để cập
nhật liên tục lên tin đã đưa trên Tuổi Trẻ Online. Ngoài trang Tuổi Trẻ Online phổ
biến. Tuổi Trẻ còn có Tuổi Trẻ Mobile và Truyền hình Tuổi Trẻ do tòa sọan báo
Tuổi Trẻ quản lý, không trực thuộc Tuổi Trẻ Online.

79
IT
Tại VnExpress, Tổng biên tập là người nắm quyền cao nhất là ông Thang
Đức Thắng. Phía dưới là 3 Phó tổng biên tập: Phạm Hiếu, Thu Hương, Bích Liên.
Dưới nữa là 6 thư ký tòa soạn: đây là những biên tập viên cao cấp điều hành và
PT
phân phối nội dung của cả tòa soạn.

Hiện nay, VnExpress có 120 phóng viên chính thức. Với khoảng 2/3 phóng
viên tốt nghiệp bằng báo chí. Đội ngũ phóng viên VnExpress được phân bố khắp
cả nước.

80
IT
Mô hình hội tụ của VnExpress

Lượng tin bài do phóng viên của VnExpress sản xuất chiếm 90% số lượng
tin bài của báo trực tuyến này. Cùng với đó là đội ngũ cộng tác viên đông đảo ở
PT
khắp các vùng miền trên cả nước tham gia gửi tin bài về tòa soạn bằng email.
Chiếm khoảng 5% tin bài. Tuy nhiên, lượng tin bài này có chất lượng chưa cao và
cần phải biên tập rất nhiều mới có thể đẩy lên được.

Tin bài trong tuần được phóng viên trực tiếp đề xuất trong các buổi họp ban
đầu tuần hoặc do ban thứ ký hoặc trưởng ban đề xuất và giao xuống. Hay các tin
tức thời sự mới hoặc phản ánh của độc giả cũng là nguồn đề tài cho phóng viên.

Trong quá trình sản xuất tin bài, phóng viên tiếp cận thông tin, thực hiện tác
nghiệp sau đó viết bài hoàn chỉnh trên hệ thống của tòa soạn. Bài được đẩy lên
nằm ở chế độ chờ. Cho đến khi lên trang cần phải trải qua ba cấp: ban biên tập –
ban thư ký – tổng biên tập. Tuy nhiên, đối với những tin bài không mang tính chất
nhạy cảm và quan trọng như tin văn hóa, giải trí thì chỉ cần ban biên tập hoặc ban
thư ký duyệt là có thể lên trang. Tít bài hoàn toàn do phóng viên đặt.

81
82
PT
IT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tập bài giảng môn “Biên tập văn bản báo chí” của giảng viên (Phòng Tư

liệu Khoa Báo chí).

2. Hoàng Anh, Một số vấn đề sử dụng ngôn ngữ trên báo chí, Nxb Lao động,

Hà Nội, 2003. (Phòng đọc tự chọn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, số 6 Tràng

Thi, HN).

3. Claudia Mast, Truyền thông đại chúng - Công tác biên tập, Nxb Thông tấn,

Hà Nội, 2003. (Phòng đọc tự chọn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, số 6 Tràng

Thi, HN).
IT
4. Michel Voirol, Hướng dẫn cách biên tập, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2002.

(Phòng đọc tự chọn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, số 6 Tràng Thi, HN).
PT
5. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004. (Phòng Tư

liệu Khoa Báo chí).

6. Ngọc Trân, Khám phá nghề biên tập, Nxb Trẻ, 2013.

7. Dương Xuân Sơn, Trịnh Đình Thắng, Phương pháp biên tập sách báo, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995. (Phòng Tư liệu Khoa Báo chí).

8. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang, Câu sai và câu mơ hồ, Nxb Giáo

dục, Hà Nội, 1992. (Do giảng viên cung cấp).

9. Lô – íc – éc – vu – ê, Viết cho độc giả, Hội Nhà báo Việt Nam, Hà Nội,

1999. (Phòng Tư liệu Khoa Báo chí).

83
10. www.nghebao.com (truy cập mạng Internet).

11. www.hocbao.com (truy cập mạng Internet).

IT
PT

84

You might also like