You are on page 1of 30

Lý thuyết:

1. Nguyên tắc cơ bản trong làm việc với qhbc


Nguyên tắc đầu tiên khi tiếp xúc với báo chí: Chính danh:
Trước khi tiến hành phỏng vấn, bạn thường được cung cấp những thông tin cơ bản như sau: Chủ đề và tâm điểm
của cuộc phỏng vấn về nội dung gì? Cuộc phỏng vấn sẽ diễn ra trong bao lâu? Cuộc phỏng vấn được ghi lại hay
phát sóng trực tiếp? Cuộc phỏng vấn sẽ được phát sóng khi nào? Phỏng vấn sẽ được phát sóng toàn bộ hay chỉ
để khai thác thông tin, lấy phát ngôn? Địa điểm và thời gian diễn ra phỏng vấn? Đây là cuộc phỏng vấn “một đối
một” hay sẽ có thêm những đối tác phỏng vấn khác ?
Tuy nhiên, nhà báo sẽ không đưa ra những câu hỏi cụ thể, chi tiết cho bạn trước cuộc phỏng vấn. Kể cả khi bạn
là một nhân vật rất có uy tín được cung cấp những câu hỏi cụ thể thì nhà báo vẫn thường có câu hỏi thêm, câu
hỏi phụ trong quá trình phỏng vấn. Bạn hãy chủ động đón nhận những câu hỏi hóc búa của nhà báo nhé.
Theo nguyên tắc xã giao thông thường, nhà báo cần xưng danh khi tiếp xúc với bạn. Bạn đừng ngại ngần đặt
những câu hỏi tế nhị cho nhà báo để nắm chắc thông tin về tờ báo, kênh truyền hình, đài phát thanh, hãng truyền
hình, tạp chí…của quốc gia nào mà anh ta là một thành viên.
Bạn hãy lịch sự và tế nhị “kiểm tra” thẻ nhà báo hoặc chứng chỉ hành nghề cùng danh thiếp của họ. Khi đã nắm
rõ thông tin về nhà báo và cơ quan báo chí của anh ta, bạn sẽ tự tin giao tiếp với họ. Nguyên tắc chính danh ở
đây là chủ và khách đều phải biết rõ những thông tin cơ bản về nhau. Bạn thích đóng vai chủ hay khách? Lời
khuyên của tôi là bạn hãy là một người chủ đích thực của buổi gặp gỡ. Đừng bao giờ đánh mất vị trí của mình.
Nguyên tắc thứ hai: Chân thành và cởi mở.
Thật sai lầm coi báo chí và giới truyền thông là những kẻ luôn moi móc, tìm kiếm những khiếm khuyết của
chúng ta. Hãy vượt qua nỗi ám ảnh, bạn sẽ chinh phục được họ - những người luôn tìm kiếm “những cái bất
thường trong cái bình thường”. Xin được nói thêm, những nhà báo luôn rất giỏi quan sát, đôi khi họ còn có
phẩm chất của một thám tử, một điều tra viên, một thẩm phán…Hãy ban phát cho họ một nụ cười, một cái bắt
tay chân thành khi gặp mặt và lúc chia tay.
Ai đó đã nói rất chính xác rằng: Người thành đạt là người “cho” đi nhiều nhất và theo định luật bảo toàn năng
lượng bạn sẽ “nhận” lại được một sự trả lại tương đương.
Nguyên tắc thứ ba: Tự chủ trong giao tiếp.
Khi báo chí gặp bạn, tức là bạn là nhân vật cần thiết và quan trọng đối với họ. Những thông tin và cảm xúc của
bạn là “nguồn nguyên liệu quý giá” cho tác phẩm của họ. Bạn là ông chủ, là bà chủ độc quyền cung cấp thông
tin và cảm xúc trong cuộc trao đổi, phỏng vấn. Vậy tại sao bạn phải lo lắng khi tiếp xúc với báo chí ? Bạn muốn
cho họ bao nhiêu phút, bao nhiêu thông tin, cảm xúc là quyền của chính bạn.
Tuy nhiên các nhà báo là những kẻ rất “tham lam”, họ cần thông tin của bạn không chỉ phục vụ một mẩu tin,
một bài báo, một phóng sự phát thanh, báo mạng hay truyền hình mà còn để làm “tư liệu riêng tư” cho nhiều tác
phẩm và sở thích khác. Vì thế bạn hãy tự định đoạt thời gian bạn cho phép họ được trò chuyện với bạn. Các
khung giờ theo thông lệ quốc tế là 15 phút, 30 phút, 45 phút, 1 giờ.
Tuy nhiên lời khuyên của tôi dành cho bạn là bạn hãy tế nhị và khéo léo giấu đi vị trí là người chủ của cuộc trao
đổi. Nếu lộ ra vị trí bạn sẽ phiền toái đấy. Tôi không dọa bạn đâu!
Sự thành bại của cuộc phỏng vấn chủ yếu dựa vào việc chọn đối tượng. Nếu bạn được chọn thì bạn là người đáp
ứng được những yêu cầu về chuyên môn, khả năng diễn đạt thẳng thắn, dễ hiểu và vị trí, uy tín của bạn liên
quan đến chủ đề cuộc phỏng vấn. Nhà báo sẽ rất lo lắng bạn có thu xếp được thời gian cho cuộc phỏng vấn và
có sẵn lòng nói chuyện để phát sóng hay không? Nhà báo sẽ kín đáo kiểm tra khả năng của bạn là người hướng
nội hay hướng ngoại, có thích hợp với cuộc phỏng vấn không. Nếu phỏng vấn qua điện thoại, bạn hết sức cẩn
trọng khi trả lời, đặc biệt chú ý sức truyền cảm qua giọng nói. Đừng bao giờ sử dụng giọng nói vô cảm.
Địa điểm phỏng vấn là một yếu tố vô cùng quan trọng, nhưng bạn đừng quá lo ngại. Tôi sẽ cho bạn một nguyên
tắc về chọn địa điểm trong phỏng vấn của giới báo chí. Đó là địa điểm phỏng vấn lý tưởng nhất là vị trí, môi
trường làm việc của nhân vật.
Nếu bạn là thí sinh cuộc thi hoa hậu, bạn sẽ bị những đạo diễn truyền hình đưa đến những địa điểm độc đáo như
bãi biển, bể bơi, phòng nghỉ, phòng thay đồ, trang điểm…
Lời khuyên của tôi cho bạn là hãy đi lại, nói chuyện tự nhiên với mọi người như những thời điểm bạn trò
chuyện với bạn bè, người thân yêu của mình. Hãy thả lỏng cơ thể, hãy nhớ về một kỷ niệm tươi đẹp nhất trong
cuộc sống bạn đã trải qua. Làm như vậy bạn sẽ là một thiên thần trong mắt mọi người.
Nguyên tắc thứ tư: Biết dừng đúng thời điểm
Đừng bao giờ bạn cho nhà báo quá nhiều thời gian tiếp xúc với mình, đây là cách bạn gây áp lực và thể hiện bạn
là người quan trọng, bận rộn và có quá nhiều điều cần quan tâm khác. Dừng ở thời điểm nào là do bạn, nhưng
lời khuyên của tôi với bạn là không dưới 15 phút nhưng không dài quá 1 giờ. Hãy biết dừng khi câu chuyện bắt
đầu có biểu hiện nhàm chán. Hãy cho nhà báo “đói thông tin một chút”, bạn sẽ trở nên quan trọng và hãy tin tôi,
họ sẽ còn kiếm tìm bạn.
Một chú ý nữa của chúng tôi dành cho các bạn, khi cuộc phỏng vấn có nhiều người tham gia bạn đừng bao giờ
theo tâm lý đám đông trả lời khuôn mẫu, cứng nhắc giống như mọi người. Hãy có ít nhất một sự khác biệt như
mở đầu ấn tượng bằng một câu nói đặc biệt hoặc một ý tưởng mới mẻ.
Bí quyết để thành công trong trả lời phỏng vấn là bạn phải biết rõ thông tin cảm xúc của bạn là dành cho công
chúng chứ không phải cho nhà báo.
Bạn luôn luôn phải suy nghĩ và chuẩn bị sự trả lời có yếu tố mới, lạ. Còn ngược lại bạn chẳng thuyết phục được
ai. Nếu gặp những người không “xứng tầm” bạn có thể từ chối tiếp xúc hoặc kết thúc nhanh câu chuyện. Bạn
hãy chú ý trang phục, phong cách, đặc biệt là cách đặt vấn đề, những câu hỏi của nhà báo.
1. Công tác phối hợp, tiếp xúc với báo chí:
Khi nhận được đề nghị làm việc của phóng viên báo chí, các đơn vị, địa phương lưu ý thực hiện các nội dung
sau:
1.1. Người đứng đầu hoặc người được phân công nhiệm vụ thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo
chí quan tâm, tạo điều kiện cung cấp thông tin cho báo chí theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện để
báo chí tiếp cận với những thông tin chính thống từ các cơ quan, đơn vị liên quan, nhằm bảo đảm thông tin khi
đăng phát trên báo chí được chính xác, khách quan, đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị cần phải quan tâm nâng cao trách nhiệm trong việc xem xét,
xử lý các vấn đề báo chí nêu liên quan đến trách nhiệm của mình, thực hiện việc phản hồi thông tin báo chí theo
đúng quy định của Luật Báo chí 2016, đồng thời theo dõi việc đăng tải phản hồi của các cơ quan báo chí.
1.2. Đề nghị phóng viên xuất trình Thẻ nhà báo còn thời hạn sử dụng do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp.
Trường hợp phóng viên không có Thẻ nhà báo, đề nghị xuất trình Giấy giới thiệu (kèm giấy tờ tùy thân có dán
ảnh). Giấy giới thiệu chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định do cơ quan báo chí cấp; ghi rõ tên cơ quan, tổ chức
cần làm việc; nội dung và thời gian làm việc cụ thể với chính cơ quan, đơn vị và phóng viên đến làm việc.
Lưu ý: Cần nhận biết Thẻ nhà báo để tránh nhầm lẫn với các loại thẻ, giấy tờ khác như Thẻ phóng viên, Thẻ
hội viên, Thẻ tác nghiệp, Thẻ báo chí...(kèm theo mẫu Thẻ nhà báo để các cơ quan, đơn vị nhận biết). Trong các
loại thẻ nêu trên, chỉ có Thẻ nhà báo do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp mới được sử dụng trong hoạt động
tác nghiệp báo chí.
Nếu phóng viên không xuất trình được một trong hai loại giấy tờ nêu trên (Thẻ nhà báo hoặc Giấy giới thiệu của
cơ quan báo chí), các đơn vị, địa phương có quyền từ chối đề nghị cung cấp thông tin của phóng viên.
1.3. Khi nhận được đề nghị cung cấp thông tin hoặc đăng ký làm việc, các cơ quan, đơn vị, địa phương tham
khảo và đối chiếu Danh sách tôn chỉ, mục đích của các cơ quan báo chí đã được đăng tải công khai trên Cổng
thông tin điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông tại địa chỉ
https://mic.gov.vn/Pages/Tintuc/142418/Ton-chi-muc-dich-cac-co-quan-bao-chi.html để cung cấp, trao đổi
thông tin chính xác, hiệu quả, phù hợp với tôn chỉ, mục đích của từng cơ quan báo chí.
Các cơ quan, đơn vị, địa phương thường xuyên cập nhật và tham khảo Danh sách các Văn phòng đại diện,
phóng viên thường trú, phóng viên tác nghiệp thường xuyên trên địa bàn tỉnh được Sở Thông tin và Truyền
thông đăng tải công khai trên Trang Thông tin điện tử tại địa chỉ: https://stttt.daklak.gov.vn/-/danh-sach-phong-
vien-cac-co-quan-bao-chi-co-van-phong-ai-dien-hoac-phong-vien-thuong-tru-tren-ia-ban-tinh-ak-lak.
1.4. Trong quá trình trao đổi hoặc trả lời phỏng vấn phóng viên báo chí, người được phân công phát ngôn và
cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan, đơn vị có thể ghi âm lại toàn bộ nội dung buổi làm việc, nội
dung trả lời phỏng vấn của phóng viên, để khi cần thiết làm căn cứ phản hồi cho báo chí hoặc trong giải quyết
khiếu nại liên quan đến nội dung báo chí đăng tải (nếu có).
1.5. Trường hợp chưa có thông tin đầy đủ và chính xác để cung cấp theo đề nghị của phóng viên, người có thẩm
quyền thực hiện việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí sắp xếp lịch hẹn cụ thể để cung cấp thông tin
cho báo chí qua một trong những hình thức sau: văn bản, email, đăng thông tin ...Việc sắp xếp lịch làm việc với
phóng viên cần đảm bảo tính kịp thời.
1.6. Đối với thể loại phỏng vấn, người được phỏng vấn có quyền đề nghị phóng viên cho xem lại bài trước khi
cơ quan báo chí đăng, phát. Cơ quan báo chí và người phỏng vấn phải thực hiện yêu cầu đó (Quy định tại mục
2, điều 40 Luật Báo chí năm 2016).
1.7. Sao chụp lại Thẻ Nhà báo hoặc Giấy giới thiệu; Phiếu yêu cầu nội dung phỏng vấn hoặc cung cấp thông tin
(nếu có); Lưu trữ những nội dung đã cung cấp cho báo chí (file ghi âm, file văn bản....… để lưu hồ sơ công việc,
khi có những sự kiện pháp lý để làm cơ sở xem xét giải quyết).
2. Đề cao cảnh giác đối với các hành vi giả mạo phóng viên báo chí, lợi dụng danh nghĩa phóng viên báo chí để
trục lợi. Trong quá trình làm việc với phóng viên, nếu có nghi vấn cần báo ngay cho Công an có trụ sở đóng trên
địa bàn hoặc Sở Thông tin và Truyền thông Đắk Lắk để phối hợp xử lý theo quy định.
3. Công tác phản hồi báo chí:
3.1. Đối với thông tin thiếu khách quan, không đúng sự thật
Khi các cơ quan, đơn vị, địa phương có căn cứ cho rằng cơ quan báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống hoặc thông tin gây hiểu nhầm làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, đơn vị thì có
quyền gửi ý kiến phản hồi bằng văn bản đến cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí hoặc cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí (Cục Báo chí - Bộ Thông tin và Truyền thông, Sở Thông tin và Truyền thông Đắk Lắk),
hoặc khởi kiện tại Tòa án theo Điều 43 của Luật Báo chí năm 2016.
Trích yếu văn bản gửi cơ quan báo chí ghi rõ “phản hồi thông tin báo nêu” và theo dõi kết quả đăng phản hồi
của các cơ quan báo chí. Nội dung văn bản phản hồi thông tin báo chí không được xúc phạm đến uy tín của cơ
quan báo chí, danh dự, nhân phẩm của tác giả, tác phẩm báo chí.
Khi gửi văn bản phản hồi thông tin cho cơ quan báo chí thì đồng gửi cho Sở Thông tin và Truyền thông để thực
hiện công tác quản lý nhà nước về báo chí.
3.2. Đối với nội dung báo chí phản ánh đúng thực tế:
Khi thông tin báo chí phản ánh khách quan, đúng thực tế, đơn vị, địa phương cần tiếp thu để khắc phục những
sai sót, khuyết điểm. Đồng thời, có văn bản phản hồi tiếp thu nội dung mà cơ quan báo chí đã phản ánh; kịp thời
cung cấp kết quả xử lý các vấn đề báo chí nêu cho cơ quan báo chí đã phản ánh. Đối với những vấn đề phức tạp,
cần thêm thời gian giải quyết thì cung cấp thông tin xử lý ban đầu và dự kiến nội dung các công việc sẽ thực
hiện trong thời gian tới cho cơ quan báo chí. Khi có kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền thì cung cấp
kịp thời cho cơ quan báo chí đã nêu vấn đề trước đó.
4. Đề nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương nghiên cứu một số quy định và chế tài xử phạt trong lĩnh vực
báo chí sau:
4.1 Cần nắm rõ các điều, khoản sau đây của Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản: Điều 6. Vi phạm quy định
về hoạt động báo chí, sử dụng thẻ nhà báo; Điều 7. Hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động báo chí; Điều 8. Vi
phạm quy định về đăng, phát nội dung thông tin trên báo chí, bản tin, đặc san; Điều 9. Vi phạm quy định về
cung cấp thông tin cho báo chí và sử dụng thông tin của cơ quan báo chí; Điều 10. Vi phạm quy định về cải
chính trên báo chí. Trong đó, đặc biệt lưu ý các nội dung quy định tại Điều 7 và Điều 9.
4.2. Cần nắm rõ các điều, khoản sau đây của Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Chính phủ Quy
định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước: Điều 5.
Phát ngôn và cung cấp thông tin định kỳ; Điều 6. Phát ngôn và cung cấp thông tin trong trường hợp đột xuất, bất
thường; Điều 7. Quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong việc phát ngôn
và cung cấp thông tin cho báo chí; Điều 8. Quyền và trách nhiệm của người phát ngôn, người được ủy quyền
phát ngôn; Điều 9. Trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên; Điều 10. Xử lý vi phạm.
5. Đầu mối trao đổi với Sở Thông tin và Truyền thông:
Sở Thông tin và Truyền thông phân công Đ/c Nguyễn Hoàng Dưỡng, Phó Trưởng phòng Phòng Thông tin - Báo
chí - Xuất bản (TT-BC-XB), số điện thoại: 0914179079; Đ/c Huỳnh Sự, chuyên viên Phòng TT-BC-XB, số điện
thoại: 0934808588 làm đầu mối để khi cần các đơn vị liên hệ; (Trong giờ hành chính liên hệ qua số điện thoại
của Phòng TT-BC-XB: 0262.3610123).
Trong quá trình vận dụng vào thực tiễn, nếu phát hiện nội dung nào chưa phù hợp với quy định của pháp luật,
hoặc gặp khó khăn, vướng mắc đề nghị các cơ quan, đơn vị có ý kiến bằng văn bản về Sở Thông tin và Truyền
thông. Khi có các quy định mới của cấp trên Sở Thông tin và Truyền thông sẽ có hướng dẫn bổ sung kịp thời.

2. Tác động của mấy xu hướng truyền thông với người làm qhbh(mấy chủ đề tt)
Xu
Quan hệ báo chí: Quan hệ báo chí là thiết lập và duy trì các mối quan hệ giữa tổ chức và báo chí.
Xu hướng báo chí đó là xu thế thiên về một chiều hướng nào đó của báo chí, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng
trong thời gian dài. Tác động đến hệ thống báo chí của thế giới.

Toàn cầu hoá thông tin Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế,
v.v. trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa thông tin đó là quá trình thông tin ở khắp mọi nơi trên thế
giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới cho công chúng.

Ngày nay, ở bất kì đâu bạn cũng đều có thể nắm bắt được toàn bộ thông tin
của thế giới trong ngày qua. Đó là kết quả của quá trình toàn cầu hóa thông
tin. Thông tin tại mọi ngóc ngách của trái đất được các hãng truyền thông
cung cấp một cách nhanh chóng và chính xác tới cho mỗi công dân. Bạn
đang ngồi ở nhà và có thể theo dõi tình hình đang diễn ra ở Iraq hay ở Mĩ,
hay như tình hình giá xăng dầu trên thế giới hiện nay… điều sẽ ảnh hưởng
tới cuộc sống của bạn
Biểu hiện rõ nhất là việc hình thành rất nhiều hãng thông tấn, hãng tin
chuyên khai thác tin tức trên khắp thế giới rồi bán lại cho các cơ quan
thông tấn trên thế giới. Với sự chuyên biệt này, các cơ quan báo chí chỉ cần
mua lại tin từ các hãng thông tấn đó là có thể có đủ tin tức trên thế giới
cung cấp cho công chúng của mình.

Biểu hiện thứ hai đó là thông tin ở mọi nơi được cập nhật liên tục và nhiều
chiều. Nếu như trước kia, chỉ những thông tin quan trọng và có ảnh hưởng
lớn mới được đề cập, thì ngày nay những thông tin về những con người
bình thường ở mọi nơi đều có thể được nhắc tới. Thông tin về những nhân
vật nổi tiếng không còn chỉ là thông tin riêng của một quốc gia mà đã trở
nên nguồn tin nóng cho những người quan tâm trên thế giới.
Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là liệu các thông tin được toàn cầu hóa đó liệu
có trung thực? Các chuyên gia đã nhận xét, quốc gia nào làm chủ được
thông tin thì quốc gia đó sẽ giành chiến thắng. Không ai dám chắc những
thông tin mà các hãng tin đưa ra không mang màu sắc chính trị, phục vụ
cho một đảng phái, một nền chính trị nào đó. Điều đó là dễ hiểu trong thời
đại thông tin có vai trò quan trọng như ngày nay. Các chính phủ phải điều
tiết các dòng thông tin trong tầm kiểm soát của họ, đưa ra những tin tức có
lợi và theo những mưu đồ chính trị được tính toán kĩ.

Không thể phủ nhận những thành tựu của công cuộc toàn cầu hóa thông tin
đem lại. Truyền hình, phát thanh, internet, báo chí đã và đang tác động về
tình cảm, tư tưởng của công chúng tiếp nhận thông tin, bất kể khoảng cách
từ họ tới nguồn thông tin là bao nhiêu. Sự kết hợp giữa thông tin toàn cầu
và lợi ích khu vực làm cho hoạt động của các phương tiện thông tin đại
chúng trở nên hữu hiệu hơn nếu xét từ góc độc hình thành và thao túng
công luận.

Quốc tế hoá thông tin


Quốc tế hóa báo chí là hình thức mà một tờ báo, ấn phẩm báo chí được
phát hành ở nhiều quốc gia, hoặc phát hành ở quốc gia này nhưng được
bán ở quốc gia khác.

- Đài phát thanh ra nước ngoài của các nước không có lợi cho nước chủ
nhà về mặt kinh tế nhưng quan trọng về mặt chính trị nên được nhà nước
quan tâm

- Về cơ cấu tổ chức có nét đặc biệt (có phòng PR - nghiên cứu nhu cầu
công chúng, ban dạy tiếng nước ngoài)

- Những nội dung cần chú ý trong thông tin của các nước tư bản qua đài
phát thanh:

• Mô tả các nước tư bản giàu có thanh bình, là mô hình của nhiều


nước vươn tới.

• Không đưa ra đầy đủ những mặt trái, mặt tiêu cực của xh TBCN
để công chúng phê phán

• Đồng nhất mục tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa cộng
sản

• Phê phán chủ nghĩa Mác , chống phá các nước XHCN, tăng
cường các chiến lược diễn biến hòa bình

Trong lĩnh vực báo mạng:

• Hình thành những trang web của các cơ quan báo chí.

• Các phiên bản của báo in được cập nhật thông tin nhanh chóng

• Hình thành những dịch vụ thông tin mới như chat, thư điện tử,
điện thoại qua mạng
• Thông tin nhanh chóng, vượt qua mọi trở ngại về không gian và
thời gian,

• Cần có trình độ cao để có thể loại bỏ thông tin nhiễu, thông tin
không có độ tin cậy, thông tin rác rưởi.

Thương mại hóa truyền thông


một quá trình mà các cơ quan báo chí tìm cách tăng thu nhập cho mình
bằng các hoạt động kinh tế khác bên cạnh việc kinh doanh các loại hình
báo chí thông thường. Đó có thể là các hoạt động quảng cáo cho các sản
phẩm, thâu tóm các khâu trong quá trình làm báo: in ấn, phát hành… phát
triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng trên tờ báo hoặc cũng có thể tham gia
và các lĩnh vực kinh tế khác.

Trong bối cảnh thương mại hóa báo chí, Lynette Sheridan Burns cho rằng
các nhà báo ngày nay luôn phải tìm cách dung hòa giữa cạnh tranh nghề
nghiệp, quan tâm thương mại và trách nhiệm đạo đức liên quan đến việc
khai thác thông tin và thể hiện thông tin. Bà cho rằng “báo chí là một công
việc phức tạp – cố gắng làm hài lòng tổng biên tập – ông chủ của bạn, bản
thân bạn và toàn bộ độc giả”

Vì các cơ quan báo chí là các doanh nghiệp, các nhà báo phải làm hài lòng
ông chủ mình và để làm điều đó, họ phải tuân thủ những nguyên tắc riêng
của phòng tin”. Quy tắc này có thể là nhà báo phải hiểu cơ quan mình sẽ
chọn cái gì đưa tin và cái gì không. Những yếu tố này không thể nói là
không làm khó xử cho họ và họ sẽ quen với việc được bảo là làm gì, hơn là
làm điều mình muốn.

Tuy nhiên ở các nước phương Tây họ có một giải pháp, đó là tách biệt các
hoạt động quảng cáo với phần hoạt động báo chí đích thực. Điều đó giúp
cho bản chất của tin tức sẽ không bị ảnh hưởng, thông tin vẫn chính xác và
đảm bảo sự trung thực. Ở đa số các quốc gia, người ta nghiêm cấm hình
thức quảng cáo lén lút, núp dưới các bản tin, tin tức. Một vài nước còn đưa
ra cả luật lệ cho việc đó.

Trong báo chí, cũng như những ngành nghề khác, thời gian là tiền. Các
tổng biên tập luôn muốn có nhiều tin hơn trong thời gian ngắn hơn, áp lực
đặt lên nhà báo. Hậu quả là họ có thể trở thành những cỗ máy được lập
trình để hoạt động. Họ thiếu thời gian để nghiên cứu, điều tra, để tìm hết
các ngóc ngách, phương diện của vấn đề. Nhiều khi các ông tổng biên tập
muốn mọi phương diện của một câu chuyện tội phạm đi quá cả phạm vi giá
trị thông tin câu chuyện bởi họ có thể in nhiều bản hơn để bán. Ngược lại
cũng có những câu chuyện không bao giờ được khám phá bởi chi phí lớn
về việc đi lại hoặc chúng không giúp bán được nhiều báo

Vấn đề khác của báo chí hiện nay liên quan đến tính thương mại là báo chí
trả tiền cho nguồn tin bằng các tấm séc (chequebook journalism). Tuy
nhiên vấn đề này vẫn con tranh cãi, nhưng cho thấy báo chí dùng tiền để
mua tin là chuyện bình thường. Theo Hargreaves, checkbook journalism
nghĩa là báo chí trả tiền cho nguồn tin, thậm chí là tội phạm đang chờ xét
xử, để khai thác các câu chuyện, không quan tâm tới hiệu quả của sự can
thiệp của đồng tiền có thể có đối với tính tin cậy của thông tin. Câu hỏi đặt
ra là: liệu nhà báo sẽ có những thông tin trung thực từ nguồn tin hay
không? Nếu nguồn tin đòi tiền thì động cơ của họ là gì?

Nhưng đối với McClellan, một cựu chuyên gia các vấn đề thời sự của kênh
truyền hình số 9 và số 7 của Úc, các tấm séc là việc việc cần thiết cho việc
thực hành nghề báo. McClellan cũng cho biết tiền được chi ở Úc chỉ bằng
phần nhỏ so với Anh, Mỹ và hầu hết tiền được trả là nhỏ hơn 10.000 đô là
và số tiền lớn nhất được trả cũng không khác mấy so với 20 năm trước.
Hầu hết chi phí séc ở Úc là cho những câu chuyện cá nhân nổi bật như
Delta Goodrem và Belinda Emmett. Ở Anh hay Mỹ, phí séc ngày càng cao
hơn và nhiều hơn. Monica Lewinsky được cho là đã bỏ túi khoảng 400.000
bảng cho một cuộc phỏng vấn năm 1999 sau vụ scandal với cựu tổng thống
Mỹ.

Bối cảnh của các nước tư bản là trong nền kinh tế thị trường, khi mỗi cơ
quan báo chí là một doanh nghiệp, nó phải nghĩ trước tiên đến việc làm sao
để sống còn, rồi mới nghĩ đến việc truyền tải thông tin đến cho độc giả của
mình. Nghịch lý là nhu cầu cao về thắng lợi kinh tế khó có thể đảm bảo
một nền báo chí công bằng và trách nhiệm. Điều đáng lo ngại là quan tâm
đến lợi ích kinh tế đã không chỉ là do sức ép bên ngoài, mà nó có thể phát
sinh từ bên trong, ngay ở “tim” của mỗi cơ quan báo chí. Vậy cái hứa hẹn
nền báo chí tốt, vì lợi ích xã hội thực sự lại đặt lên vai các nhà báo, với hệ
thống chính trị nhân bản và nhận thức riêng, nằm trong phạm vi đạo đức
nghề nghiệp. Điều 6, quy định đạo đức nghề nghiệp của Hiệp hội báo chí
Úc nói: “Đừng để quảng cáo hay quan tâm thương mại làm tổn hại đến tính
chính xác, công bằng hay độc lập của báo chí”. Quy định này còn có thể
coi là lời kêu gọi rất có ý nghĩa với người làm báo hiện nay.

Tập trung và độc quyền


● Tập trung hóa: là quá trình mà các hoạt động của một tổ chức
lập kế hoạch và ra quyết định, chiến lược, chính sách đóng khung
trở thành tập trung trong một nhóm vị trí địa lý cụ thể.
● Tập trung hoá báo chí: là quá trình sáp nhập giữa các cơ quan
báo chí, hoặc thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các
cơ quan báo chí để hình thành nên các tập đoàn báo chí.
● Độc quyền: trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường
chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm, không có
sản phẩm thay thế gần gũi. Đây là một trong những dạng của thất
bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính
cạnh tranh.
● Độc quyền hóa báo chí: đó là tình trạng mà các tập đoàn báo chí
đã thâu tóm toàn bộ các cơ quan báo chí, biến mình trở thành duy
nhất trên thị trường nhằm phục vụ mục đích riêng của mình.

Tích cực:
Tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động
khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực báo chí.

Góp phần nâng cao năng lực và chuyên môn của các nhà báo, biên tập
viên và nhân viên báo chí.

Giúp các tổ chức báo chí mở rộng thị trường, tăng cường quyền ảnh
hưởng và uy tín trên quy mô quốc tế.
Tiêu cực:
Thiếu sự minh bạch: Công chúng cảm thấy họ không nhận được thông tin
chính xác và trung thực từ doanh nghiệp cung cấp đưa tin. Vì các nguyên
nhân như độc quyền kênh, thâu tóm tâm lý công chúng. Chỉ đưa thông tin 1
chiều và thay đổi thông tin thật

=> Mất niềm tin và làm giảm sự tương tác của công chúng với doanh
nghiệp.

● Thiếu sáng tạo và đổi mới: dẫn đến sự hạn chế khả năng đưa
thông tin hay khả năng thích ứng và phát triển của doanh
nghiệp.

>> Việc thiếu sáng tạo và đổi mới trong nội dung, hoạt động của doanh
nghiệp dẫn đến công chúng sẽ không thu hút về các sản phẩm truyền
thông của doanh nghiệp. Bởi vì công chúng luôn muốn tiếp cận đến
những điều mới.

● Rủi ro tiếp cận thông tin: kiểm soát quá nhiều thông tin 1 lúc,
đưa tin sai sự thật.

=> Ảnh hưởng đến hình ảnh và danh tiếng của doanh nghiệp làm mất
đi lòng tin của công chúng đối với doanh nghiệp.

Ảnh hưởng:
Đối với công chúng:

● Sự thiếu đa dạng trong nguồn thông tin được tiếp cận → giảm
khả năng hiểu biết và nhận thức về các vấn đề hiện có.
● Những thông tin sai lệch về chính trị → lan rộng → hậu quả
lớn về chính trị - nhà nước → gây mất trật tự xã hội, đe doạ
đến đời sống nhân dân và ảnh hưởng đến hành vi của công
dân.
● Khi quyền lực tập trung vào một số ít tổ chức báo chí → tạo
ra môi trường bị chi phối và kiểm soát bởi các lợi ích chính trị
và kinh tế cụ thể (Chi phối và ảnh hưởng đến sự quyết định
của công chúng).
● → Tạo ra một môi trường thông tin không đa dạng, chủ quan
và có thể chi phối bởi các lợi ích cụ thể.

b. Đối với DN trong ngành báo chí

Giảm đa dạng trong nguồn tin và góc nhìn, làm mất đi sự độc lập và sự
sáng tạo trong lĩnh vực báo chí.

Về doanh thu sẽ bị ảnh hưởng như sau:

- Doanh thu từ quảng cáo → doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn trong việc
thu hút quảng cáo và tạo doanh thu.

- Các tổ chức báo chí lớn chiếm lĩnh thị trường → có quyền lực đàm
phán cao hơn trong việc xác định giá quảng cáo và điều kiện hợp đồng.

- Các doanh nghiệp báo chí thường tìm kiếm tài trợ và đối tác để duy
trì hoạt động (nếu thị trường báo chí bị tập trung) → khó khăn hơn trong
việc tìm kiếm và duy trì các mối quan hệ tài trợ và đối tác.

→ Giảm sự đổi mới trong ngành báo chí và ảnh hưởng đến doanh thu
của các DN nhỏ

Phân hoá và chuyên biệt hoá Đó là một phương thức trong đó một ấn phẩm báo chí chỉ tập trung vào
một lĩnh vực cụ thể của đời sống, nhằm vào một lượng đối tượng công
chúng xác định. cụ thể. Trong điều kiện toàn cầu hóa thông tin, các phương
tiện thông tin đại chúng ngày càng thực hiện mạnh hơn quá trình phân hóa
và chuyên môn hóa, tạo cơ hội cho những tổ chức ấy tìm được vị trí xã hội
của mình, hướng đến một tầng lớp dân cư hoàn toàn xác định, tác động có
hiệu quả đến người đọc, người nghe và người xem.

Lợi ích của quá trình phân hóa và chuyên môn hóa: Đó là nó cho phép
nâng cao hiệu quả của các bài vở của báo chí, đài phát thanh và truyền
hình, sử dụng phương tiện sẵn có với hiệu quả cao nhất. Quá trình phân
hóa giúp thiết lập ra được các ấn phẩm chuyên sâu vào một lĩnh vực, giúp
cho công chúng có thể lựa chọn dễ dàng ấn phẩm phù hợp. Trong tương
lai, việc khu biệt đối tượng và lựa chọn cho mình một lĩnh vực để kinh
doanh truyền thông là một xu hướng tất yếu.

Sự gắn bó của truyền thông với


công nghệ Kỹ thuật có một ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển chung của xã hội,
truyền thông cũng là một lĩnh vực chịu sự tác động lớn của khoa học kỹ
thuật. Trong quá trình phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng,
kỹ thuật đã và đang sẽ luôn giữ vai trò hàng đầu. Từ các hình thức truyền
thống là thông tin truyền miệng từ một người này sang người khác cho đến
những chữ viết cổ đầu tiên đã góp phần trao đổi thông tin giữa người với
người. Thời kì đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển báo chí đó là sự ra
đời của máy in. Với sự ra đời của máy in vào vào năm 1455 do Johan
Gutenberg phát minh. Đó được xem là châm ngòi cho nền công nghiệp
giấy bùng nổ. Sự ra đời của máy in đã đơn giản hóa đi rất nhiều trong công
đoạn làm báo, góp phần tăng lượng xuất bản, tăng chất lượng và hình thành
một nền công nghiệp báo chí. Phát thanh – truyền hình ra đời cũng phải
phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố kĩ thuật và để phát triển chất lượng tin bài
phát thanh truyền hình thì cũng đồng nghĩa với việc nâng cao cơ sở vật
chất kĩ thuật. Máy tính cùng với mạng internet ra đời đã đánh dấu sự đột
phá với lĩnh vực truyền thông. Một loại hình phương tiện mới ra đời có thể
truyền tải thông tin nhanh chóng kéo theo sự bùng nổ thông tin, điều này
đã dẫn đến sự thay đổi hết sức triệt để trong các phương tiện thông tin đại
chúng.

Việc áp dụng khoa học kĩ thuật, các công nghệ mới vào các phương tiện
thông tin đại chúng đã dẫn đến những hệ quả xã hội quan trọng. Một trong
những hệ quả ấy được giáo sư G.V.Giêccốp nêu ra trong báo cáo khoa học
của mình đó là hình thành nên “Kỷ nguyên thông tin” (Information Era).
Các quá trình thông tin hiện đại của xã hội có một trình độ trang bị kỹ thuật
cho phép con người ngoài cái thế giới bao quanh mình – còn kiến tạo cho
cái cá nhân mình một phạm vi thế giới ảo đặc biệt, sống trong thế giới ấy
theo cách mà con người ưa thích và có được một sự tự do lựa chọn gần như
tuyệt đối, điều mà con người chưa thực hiện được.

Để đáp ứng kịp nhu cầu thông tin của công chúng, cũng như thay đổi chính
bản thân mình, báo chí cần phải biết phát huy những thành quả của khoa
học công nghệ, đồng thời cũng phải tự nghiên cứu các kĩ thuật mới phục vụ
cho quá trình cung cấp thông tin.

Ta có thể nhận thấy điều đó qua các loại hình báo chí đòi hỏi công nghệ
cao: như truyền hình, các thiết bị để sản xuất ra một chương trình truyền
hình phải đồng bộ, hiện đại… nếu như muốn có một chương trình chất
lượng. Công nghệ sản xuất máy quay phim cho phép ghi lại những hình
ảnh chân thực và rõ nét nhất. Công nghệ phát sóng giúp truyền tải hình ảnh
đi nhanh và giữ được chất lượng.

Báo chí và kỹ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phát triển của
báo chí đòi hỏi kỹ thuật phải không ngừng phát triển để đáp ứng, còn sự
phát triển của kỹ thuật sẽ giúp cho truyền thông phục vụ công chúng tốt
hơn.

Truyền thông hội tụ: Truyền thông hội tụ là chuyển tải nội dung trên các nền tảng truyền thông
Tt hội tụ: 1 ng làm báo phải khác nhau trong một hệ sinh thái thống nhất, không thay thế hay triệt tiêu
làm hết tất cả cv luôn lẫn nhau, mà ngược lại có tác dụng bổ trợ và tối ưu hoá các nền tảng khác
trong hệ sinh thái. Định nghĩa này đề cao tính cạnh tranh cộng sinh và
quảng bá chéo giữa các nền tảng truyền thông khác nhau trong một hệ
thống hội tụ của các cơ quan báo chí. Như thế, hội tụ không phải đơn thuần
là sự thay đổi vật lý trong một toà soạn, mà là sự đổi mới trong cơ chế quan
hệ giữa các hình thái truyền thông, càng không phải là sự chuyển tiếp từ
truyền thông truyền thống sang truyền thông mới.

Trong tương lai gần, mỗi cơ quan báo chí sẽ là một hệ sinh thái đa nền tảng
truyền thông, ở đó các kênh truyền thông truyền thống như báo chí in,
truyền hình, radio, sẽ tương tác với báo chí điện tử, di động, mạng xã hội,
v.v… và gắn kết chặt chẽ với trải nghiệm của bạn đọc. Doanh nghiệp, từ
đó, sẽ hưởng lợi từ sự phong phú, đa dạng và khả năng tương tác với đối
tượng khách hàng từ dòng chảy nội dung qua các hệ thống đa nền tảng mà
báo chí xây dựng và phát triển.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Hàm ý của hội tụ truyền thông

Năm 1978, giáo sư công nghệ truyền thông nổi tiếng người Mỹ Nicholas
Negroponte đã đưa ra khái niệm hội tụ (covergence). Năm 1983, trong
cuốnTự do công nghệ(Technologies of Freedom), giáo sư Học viện Công
nghệ Hoa Kỳ (MIT) Ithiel de Sola Pool đã mô tả một loại mạng mang hình
thái vật lý sẽ “phục vụ” tốt cho tất cả các loại hình báo chí. Và, khái niệm
hội tụ truyền thông (media covergence) chính thức ra đời từ đó. Nói một
cách đơn giản, một xu hướng mới không có ngăn cách giữa các loại hình
báo chí (như báo in với truyền hình) chính là một trong những hình thức
biểu hiện của hội tụ truyền thông ngày nay.

Tư tưởng hạt nhân của hội tụ truyền thông là với sự phát triển của công
nghệ truyền thông và sự phá bỏ “hàng rào” kiểm soát thông tin, các loại
hình báo chí như báo in, phát thanh, truyền hình, mạng điện tử và các thiết
bị di động hội tụ với nhau về mặt công nghệ.

Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số đã thúc đẩy tiến
trình hội tụ truyền thông diễn ra gấp rút hơn bao giờ hết. Xét trên giác độ
nội hàm, khái niệm hội tụ truyền thông bao hàm hai ý nghĩa: “hội tụ” và
“kết hợp”. Xét từ nghĩa hẹp, hội tụ truyền thông là sự tích hợp các loại hình
báo chí, tạo ra sự biến đổi về chất, hình thành một loạt phương tiện truyền
thông mới như sách điện tử, blog, mạng xã hội,...

Về nghĩa rộng, hội tụ truyền thông có phạm vi rộng hơn, bao gồm sự kết
hợp tất cả các phương tiện truyền thông, không chỉ về loại hình truyền
thông, mà còn là sự hội tụ cả về chức năng, phương thức đưa tin, quyền sở
hữu, hình thái tổ chức của các cơ quan báo chí, truyền thông… Nói cách
khác, xét từ giác độ truyền thông, hội tụ truyền thông là quá trình phát triển
tiệm tiến từ thấp đến cao.

Cùng với sự tiến bộ của công nghệ, hội tụ truyền thông chắc chắn sẽ xuất
hiện nhiều hình thức mới hơn, chúng ta khó có thể dự báo được các xu
hướng phát triển của nó, giống như hơn 10 năm trước, con người rất khó
dự đoán xu thế phát triển của blog (trang nhật ký cá nhân) sẽ diễn ra như
thế nào, vậy mà, ngày nay, nó đã trở thành một phương tiện truyền thông
mới, đang từng bước xóa nhòa “biên giới cứng” trong hoạt động truyền
thông của nhân loại.

Qua đó có thể thấy, thực tiễn chỉ đường cho lý luận và phát triển ngày càng
phong phú, khiến nội hàm của lý luận cũng phát triển theo, và hội tụ truyền
thông không nằm ngoài quy luật phát triển đó. Với hội tụ truyền thông,
chúng ta có thể có nhiều kênh truyền hình, nhưng vẫn có thêm các trang
web, blog và phóng viên của báo in xuất hiện trên truyền hình và tạo các
trang nhật ký cá nhân trên mạng xã hội.

Mô hình lý thuyết của hội tụ truyền thông

Những thảo luận sôi nổi về hội tụ truyền thông của các học giả trên thế giới
diễn ra trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chủ yếu ở các nước phương Tây.
Giáo sư Ithiel De Sola Pool -người đưa ra khái niệm hội tụ truyền thông
cho rằng, sự phát triển của kỹ thuật điện tử số chính là nguyên nhân khiến
các loại hình truyền thông vốn được phân chia rạch ròi, nay hội tụ với
nhau. Sau đó, trong sự biến hóa của hàng loạt sản nghiệp truyền thông, kỹ
thuật số đã cung cấp nền tảng kỹ thuật cho sự hội tụ của các ngành điện tử
viễn thông, xuất bản và phát thanh, truyền hình, “hội tụ” trở thành thuật
ngữ thường dùng trong lĩnh vực truyền thông, thông tin điện tử.

Tuy nhiên, khái niệm “hội tụ” được sử dụng trong báo chí, truyền thông lại
rất mơ hồ. Các học giả phương Tây đã có những góc nhìn rất đa dạng trong
công tác nghiên cứu loại hình truyền thông mới này. Nhiều nghiên cứu
được triển khai từ giác độ hội tụ kỹ thuật, hội tụ quyền sở hữu truyền
thông, và cũng có những công trình lại xuất phát từ hội tụ về cơ cấu tổ
chức truyền thông hay hội tụ trong kỹ năng biên tập, sản xuất tin, bài. Có
thể nói, những công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây trải rộng
trên mọi phương diện liên quan đến các phương tiện truyền thông, như môi
trường bên ngoài, cơ chế nội bộ và hoạt động kinh doanh của các phương
tiện truyền thông. Cũng chính vì thế, cho đến nay, khái niệm “hội tụ truyền
thông” vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn xác được công nhận. Chính vì
các học giả xuất phát từ các giác độ và ngữ cảnh khác nhau để lý giải về
“hội tụ truyền thông”, mới gây ra sự khác biệt trong nhận thức xung quanh
khái niệm này.

Kết hợp với những công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước, chúng tôi cho rằng, nhìn tổng thể, sự nhận thức về hội tụ truyền
thông được triển khai trên hai giác độ chính là: hội tụ kỹ thuật và hội tụ
kinh tế… Từ thực tiễn đời sống truyền thông hiện nay, có thể lý giải không
gian hai chiều của “hội tụ truyền thông” như sau:

Hội tụ kỹ thuật

Hội tụ kỹ thuật chủ yếu được thể hiện ở sự hội tụ về loại hình truyền thông,
bao gồm sự hội tụ của các phương tiện truyền thông mới và truyền thống
cùng sự hội tụ của ba mạng: điện thoại viễn thông, phát thanh truyền hình
và mạng Internet.

Thứ nhất,hội tụ trong phương thức truyền thông.Giám đốc Trung tâm
nghiên cứu truyền thông, thuộc Hiệp hội Báo chí Mỹ Andrew Nachison
đưa ra định nghĩa “hội tụ truyền thông” là “sự liên kết mang tính chiến
lược, tính thao tác và tính văn hóa giữa các doanh nghiệp (đơn vị) truyền
thông như báo in, truyền hình, phát thanh, báo mạng v.v..”[1]. Sự liên kết
mang tính chiến lược, tính thao tác và tính văn hóa này chủ yếu liên quan
đến cách thức hội tụ giữa các phương tiện truyền thông truyền thống và
phương tiện truyền thông mới.

Từ môi trường truyền thông hiện nay, tác giả cho rằng, nếu xét trong phạm
vi hẹp, hội tụ trong phương thức truyền thông là việc ứng dụng kỹ thuật
mới để “cải tạo” các phương tiện truyền thông truyền thống; còn nếu xét từ
phạm vi rộng hơn, hội tụ trong phương thức truyền thông là sự kết hợp các
phương thức truyền thông của các loại hình truyền thông trong một cơ
quan báo chí đa loại hình, nhằm thực hiện việc cùng sử dụng, chia sẻ
“nguồn tài nguyên” có sẵn như nội dung thông tin và các hình thức kinh
doanh giữa báo in, phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử. Thực tế
cho thấy, cơ quan báo chí đa loại hình thông qua việc ứng dụng kỹ thuật số
để hội tụ tất cả quy trình từ sản xuất nội dung đến tiêu thụ, phân phối nội
dung trong tòa soạn, nói một cách đơn giản, cơ quan báo chí đa phương
tiện có thể sử dụng chung nội dung cho các loại hình khác nhau trong cùng
tòa soạn, tạo nên một hệ thống truyền thông thống nhất có đầy đủ các loại
hình báo chí: phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử, trong đó truyền
hình và báo in có thể phối hợp làm chương trình cùng nhau, hình thành một
hệ thống tương tác với nhau.

Thứ hai,hội tụ thiết bị đầu cuối. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ
thuật số, mạng Internet không chỉ giúp phát thanh, truyền hình ứng dụng
được phương thức truyền thông tương tác, mà còn khiến một thiết bị điện
tử trở thành thiết bị đa chức năng, vừa có thể xem truyền hình, nghe radio,
đọc sách, báo trực tuyến, lướt web v.v.. Ví dụ, tháng 1/2007, hãng Apple
cho ra đời chiếc iphone, không chỉ có thể cung cấp các chức năng lướt
web, gửi, nhận thư điện tử, đọc sách điện tử, nghe, xem phim…, mà chiếc
điện thoại thông minh này đã nâng cao tính tiện dụng của thiết bị đầu cuối,
đánh dấu sự ra đời của kỷ nguyên kỹ thuật số thông minh.

Mặt khác, chức năng hiện đại của điện thoại di động như: quay, chụp, nghe
nhạc, nghe radio, xem tivi, nhận, gửi thư điện tử… không ngừng được
nâng cao, đặc biệt là tốc độ và chất lượng hình ảnh mà máy điện thoại di
động chụp ngày càng cao và sắc nét. Điều này đồng nghĩa với việc kỹ thuật
xử lý và sản xuất thông tin trên máy điện thoại di động ngày càng tinh vi,
khiến những người sử dụng đều có thể trở thành “người truyền thông”. Ví
dụ, mô thức phát triển chủ yếu của mạng xã hội Twitter là sự tương tác
giữa mạng Internet với điện thoại di động, tạo ra mạng lưới liên kết chặt
chẽ giữa những người sử dụng điện thoại di động với nhau, bởi điện thoại
di động có nhiều chức năng giống máy tính cá nhân, giúp người sử dụng có
thể tự sản xuất ra nội dung thông tin và chia sẻ với cộng đồng những thông
tin mà họ cùng sở thích.

Thứ ba,hội tụ giữa 3 “mạng”: viễn thông, phát thanh truyền hình và xuất
bản. Những khảo sát về môi trường truyền thông của một số nước chứng
minh được rằng, khái niệm hội tụ truyền thông không chỉ là sự hội tụ giữa
các phương tiện truyền thông, giữa nội bộ các sản nghiệp truyền thông, mà
còn sự hội tụ trong các lĩnh vực truyền thông khác nhau. Ví dụ, sự hội tụ
giữa các phương tiện báo chí truyền thông với ngành công nghiệp thông tin
và khoa học kỹ thuật tiên tiến… Thực tế cho thấy, những nghiên cứu đầu
tiên về hội tụ truyền thông không phải chỉ bắt nguồn từ sự hội tụ trong
ngành truyền thông, mà từ cuối thế kỷ XX, các nước phương Tây đã bắt
đầu đề cập hiện tượng hội tụ của ngành truyền thông và viễn thông, trong
đó phải kể đến bộ Luật viễn thông mà Chính phủ Mỹ thông qua năm 1996.
Bộ luật này đã tạo hành lang pháp lý mới cho ngành viễn thông của Mỹ,
cho phép các công ty viễn thông kinh doanh lĩnh vực truyền hình hữu
tuyến. Đặc biệt, với sự phát triển của Internet và sự phổ cập mạng cáp
quang, dịch vụ truyền hình mà các công ty viễn thông Mỹ cung cấp ngày
càng được nâng cấp, và phạm vi kinh doanh của các công ty này chuyển từ
truyền hình hữu tuyến sang các lĩnh vực khác như truyền hình vô tuyến,
phát thanh, điện ảnh, xuất bản và các lĩnh vực truyền thông khác. Do đó, sự
hội tụ giữa 3 mạng: viễn thông, phát thanh truyền hình và xuất bản, đương
nhiên cũng được liệt vào nội hàm của hội tụ truyền thông.

Ở một khía cạnh khác, có quan điểm cho rằng, xu hướng hội tụ hiện nay là
sự hội tụ của 3 màn hình: màn hình máy tính, màn hình tivi và màn hình
điện thoại di động. Sự kết hợp hay đồng nhất một cách tương đối 3 màn
hình này tạo cơ hội thụ hưởng và tiếp cận thông tin đa dạng, phong phú của
công chúng trong môi trường hội tụ truyền thông.

Hội tụ kinh tế

Thực tế cho thấy, trong không gian hai chiều của hội tụ truyền thông được
thể hiện qua sự hội tụ về kinh tế, thể hiện trên các cấp độ: hội tụ thị trường,
hội tụ tư bản và hội tụ sản nghiệp.

Thứ nhất, hội tụ thị trường. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hội
tụ trong ngành truyền thông là bắt nguồn từ những thay đổi mới mới trong
việc công chúng tiếp nhận các sản phẩm truyền thông. Khi nhu cầu của
công chúng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, chắc chắn sẽ làm thay
đổi phương thức sản xuất thông tin của các loại hình truyền thông truyền
thống. Thực tế cho thấy, thị trường công chúng vốn được phân chia theo
loại hình truyền thông, do đó, trước sự thay đổi về nhu cầu của công chúng,
sẽ dẫn đến sự hội tụ thị trường truyền thông.
Thứ hai,hội tụ tư bản. Trong kinh tế học, hàm nghĩa của hội tụ tư bản là
ngoài việc sáp nhập hoặc mua lại cổ phần của doanh nghiệp, còn bao gồm
phương thức, các tập đoàn báo chí hoặc công ty truyền thông chung vốn để
cùng kinh doanh một lĩnh vực nào đó. Vụ sáp nhập giữa Công ty cung cấp
dịch vụ Internet toàn cầu American Online (AOL) và Time Warner - hãng
truyền thông quản lý cả một đế chế xuất bản tạp chí, âm nhạc, phim ảnh và
sản xuất chương trình truyền hình năm 2001 là một ví dụ điển hình. Mặc
dù sự hội tụ về tư bản không đồng nghĩa với sự hội tụ các lĩnh vực giữa các
hãng truyền thông, nhưng hội tụ tư bản là phương thức và tiền đề tất yếu để
tiến hành hội tụ truyền thông.

Thứ ba,hội tụ sản nghiệp. Hội tụ sản nghiệp dùng để chỉ hiện tượng hai
hoặc nhiều sản nghiệp truyền thông vốn hoạt động riêng biệt, nhờ có sự
phát triển của kỹ thuật, thị trường, dịch vụ và phương thức quản lý đã
khiến ranh giới sản nghiệp giữa chúng ngày càng mơ hồ và dần dần biến
mất, do đó, thị trường và dịch vụ của chúng ngày càng có khuynh hướng
hội tụ. Đây là hình thức hội tụ cao nhất, đa tầng nhất nhìn từ góc độ kinh tế
của hội tụ truyền thông.

Báo chí công dân Không có một định nghĩa rõ ràng nào về báo chí công dân. Ta có thể hiểu
báo chí công dân là loại hình báo chí mà thông tin được thu thập, phân tích
và phổ biến bởi những người dân bình thường.

8.2 Sức mạnh của báo chí công dân

Có khả năng thông tin nhanh chóng những sự việc vừa xảy ra. Đưa ra cái
nhìn khách quan và không bị chi phối bởi bất kì cơ quan nào. Bắt nguồn từ
sự phát triển của khoa học kĩ thuật và nhu cầu được nói lên chính kiến cũng
hay bày tỏ quan điểm của mình.

Báo chí công dân (Citizen Journalism) - loại hình báo chí mới sinh ra
trong kỷ nguyên Internet, đang trở thành trào lưu mạnh mẽ trên toàn thế
giới. Đại diện chính cho báo chí công dân chính là những tờ báo mạng,
trang tin tức và cộng đồng web-blog khổng lồ. Một số trang "báo chí công
dân" khá nổi tiếng là NowPublic.com, với 99.214 "phóng viên" ở 3651
thành phố, OhmyNews.com, một trong những trang tin điện tử có ảnh
hưởng nhất Hàn Quốc hiện nay thu hút hơn 1 triệu độc giả mỗi ngày với
50.000 "nhà báo công dân", YouWitnessNews của Yahoo! chuyên đăng tải
nội dung do người dùng gửi về, sau khi đã qua màn chỉnh trang của các
biên tập viên chuyên nghiệp, YouTube chuyên đăng tải các đoạn video cá
nhân "hút" hàng triệu lượt truy cập mỗi ngày..., trang tin bách khoa trực
tuyến WikiPedia (wikipedia.org) hiện có tới hơn chục ngàn cộng tác viên
tích cực, với hàng triệu bài viết dưới nhiều ngôn ngữ khác nhau (cả tiếng
Việt). Nói đến báo chí công dân là phải nhắc tới cộng đồng web - blog.
Theo thống kê của hãng nghiên cứu Technorati (Mỹ), hiện tại trên toàn thế
giới có khoảng 55 triệu blog (2006) đến nay đã lên tới 72 triệu blog. Cứ 0.5
giây 1 blog ra đời, mỗi ngày trên Internet lại có thêm khoảng 100 nghìn
blog mới và khoảng 1,3 triệu đề mục được đăng tải.

Vụ khủng bố 11/9 ở Mỹ năm 2001, vụ đánh bom tàu điện ngầm ở London
năm 2005 và hàng loạt các thiên tai ở Đông Nam Á đều được những
thường dân chụp ảnh, quay phim bằng máy điện thoại di động và nhanh
chóng truyền tin đi khắp thế giới. Vai trò của “nhà báo công dân” đã được
thiết lập.

Với sự phổ biến của các phương tiện kỹ thuật số, việc truyền dữ liệu - hình
ảnh, âm thanh và video - từ ĐTDĐ đến ĐTDĐ hay đưa lên các website
ngày càng đơn giản, các nhà báo công dân hoàn toàn có thể phát huy năng
lực của mình.

Sự phát triển như vũ bão của mô hình này khiến giới truyền thông toàn cầu
phải tự đặt câu hỏi, liệu đây có phải là tương lai của báo chí? Báo chí công
dân biến mọi điểm yếu của báo in truyền thống là tốc độ, "đất" đăng tin,
nguồn tin và phản hồi của độc giả trở thành những thế mạnh của mình dựa
vào sức mạnh của công nghệ. Nó khiến tin tức đã đăng trên báo không có
nghĩa là kết thúc, mà thực sự bắt đầu khi công chúng thảo luận về câu
chuyện, bổ sung và sửa chữa nó.

8.3 Những hạn chế của báo chí công dân

Mặc dù báo chí công dân có khả năng đem đến những thông tin độc, hấp
dẫn và khách quan ở một góc độ nào đó, nhưng bên cạnh đó báo chí công
dân cũng có những hạn chế và điểm yếu. Điều đáng nói đầu tiên đó là độ
tin cậy báo chí của các “nhà báo công dân” rất khó kiểm chứng, đặc biệt là
yếu tố chủ quan của người thông tin rất cao. Vì thế, việc xã hội hoá báo chí
theo kiểu này đôi khi là “con dao 2 lưỡi” đối với các tờ báo thiếu biên tập
viên và tỉnh táo có tay nghề cao và nhạy cảm với “thời tiết thông tin”. Cuối
năm 2006 vừa qua có một tờ báo ở bị “rút phép Thông Công” vì đã quá
lạm dụng ý kiến người dân như vậy. Không phải công dân nào cũng đưa ra
được những thông tin chính xác, có thể đó chỉ là những nhận định chủ quan
vô căn cứ của họ, hay như vì một mục đích cá nhân họ sẵn sàng gửi đến
các tòa soạn những thông tin sai lệch… điều đó sẽ gây ra hậu quả nghiêm
trọng khi thông tin được đăng và thông tin tới cho toàn bộ công chúng.

Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan báo chí cần thiết phải có một bộ
phận biên tập viên có đủ năng lực để xác nhận và kiểm chứng các thông tin
do độc giả mang tới.

Ở Việt Nam, blog phát triển muộn nhưng tốc độ phát triển cực nhanh đặc
biệt trong năm 2006 và lôi kéo được 80% thanh niên sử dụng mạng
Internet tham gia và nó cũng đã đặt ra những vấn đề đáng lưu tâm ở khía
cạnh quản lý, dư luận xã hội, văn hóa mạng…

Ngày nay, công chúng không chỉ đóng vai trò là người tiếp nhận sản phẩm
báo chí mà còn có thể tham gia vào quá trình sản xuất thông tin. Trào lưu
“báo chí công dân” đã thể hiện rằng báo chí và nền dân chủ phải kết hợp
với nhau để cùng tồn tại. Trong tương lai, các cơ quan báo chí và các nhà
báo công dân sẽ sự liên kết với nhau để tạo nên một xã hội thông tin đa
chiều

Văn hoá báo chí ở VN Xu hướng văn hoá báo chí ở Việt Nam là một chủ đề rộng lớn và phức tạp,
có thể được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, dựa trên
những kết quả tìm kiếm của tôi, tôi có thể đưa ra một số xu hướng chung
như sau:

● Xu hướng thích ứng và phát triển theo công nghệ số. Báo chí Việt
Nam đang đối mặt với những thách thức và cơ hội từ sự phát triển
của công nghệ số, đặc biệt là Internet, mạng xã hội, truyền hình
trực tuyến, v.v. Để tồn tại và phát triển, báo chí Việt Nam phải
thích ứng và đổi mới về nội dung, hình thức, phương thức và kênh
truyền thông, tạo ra những sản phẩm báo chí đa dạng, phong phú,
hấp dẫn và có tính tương tác cao123.
● Xu hướng phản ánh và định hướng văn hóa xã hội. Báo chí Việt
Nam đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh và định hướng
văn hóa xã hội, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Báo chí
Việt Nam phải vừa phát huy giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc,
vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, vừa đấu tranh với
những tiêu cực, sai trái, xuyên tạc trong văn hóa24.
● Xu hướng nâng cao chất lượng và trách nhiệm xã hội. Báo chí
Việt Nam đang nỗ lực nâng cao chất lượng và trách nhiệm xã hội
của mình, đáp ứng nhu cầu thông tin và giải trí của độc giả, đồng
thời thực hiện sứ mệnh giáo dục, bồi dưỡng, hướng dẫn dư luận.
Báo chí Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc chính xác, khách
quan, trung thực, minh bạch, kịp thời, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc và nhân dân245.

3. Văn hóa Báo chí trong thời điểm bây h ảnh hưởng ntn đến mối qh báo chí

Văn hóa báo chí là bộ phận cấu thành văn hóa nói chung, là tổng thể giá trị do con người sáng tạo ra trong lĩnh
vực báo chí, được xã hội thừa nhận, phù hợp với các chuẩn mực về văn hóa, đạo đức và pháp luật hiện nay.

Quan hệ báo chí là thiết lập và duy trì các mối quan hệ giữa tổ chức và báo chí.
1. Báo chí - bộ phận cấu thành văn hoá

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1) - theo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên, văn hoá hiện diện trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, thậm chí là cả văn hoá
chính trị - theo cách lý giải của một số nhà nghiên cứu.

Văn hoá vật chất bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất của con người tạo ra: đồ ăn,
đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại… Văn hoá tinh thần bao
gồm toàn bộ sản phẩm do hoạt động tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng - tôn giáo, kiến trúc,
điện ảnh, văn học, hội họa, âm nhạc, điêu khắc, sân khấu, văn chương, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, báo
chí…

Như vậy, báo chí là một bộ phận cấu thành văn hoá tinh thần, bởi báo chí là sản phẩm của sự sáng tạo, có giá trị,
ích dụng. Báo chí thực hiện các chức năng thông tin, tư tưởng, quản lý, giám sát, định hướng dư luận xã hội, là
phương tiện nâng cao tri thức, văn hoá đại chúng, là kênh giải trí tiện lợi. Nó còn có khả năng tác động, chi phối
đến hoạt động kinh tế, dịch vụ… Để thực hiện tốt các chức năng của mình, đảm bảo hàm lượng văn hoá, báo chí
luôn hoạt động trên nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực, đảm bảo tính khuynh hướng, tính nhân dân,
tính nhân văn, nhân đạo và tính dân tộc, quốc tế sâu sắc.

Từ sự ra đời của những tờ báo in hiện đại ở châu Âu đầu tiên vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ thứ XVII, sự xuất
hiện của phát thanh cuối thể kỷ XIX, truyền hình vào đầu thế kỷ XX, đến sự bùng nổ của báo mạng bắt đầu từ
năm 1992, đều gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ truyền thông và nhu cầu thông tin
ngày một đa dạng, phong phú của xã hội loài người.

Khác với nhiều thành tố văn hoá khác, báo chí được xem là hiện tượng văn hoá đặc thù. Ở chỗ, nó vừa là kết
quả của văn hoá, vừa có tác động qua lại, kìm hãm hoặc thúc đẩy các hiện tượng văn hoá khác nói riêng và văn
hoá nói chung.

2. Văn hoá đối với báo chí

Trong mối quan hệ như là kết quả của văn hoá, có thể khẳng định, báo chí chịu tác động của văn hoá, điển hình
ở những khía cạnh sau:
- Văn hoá là chất liệu cho tác phẩm báo chí

Văn hoá hiện diện sinh động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi, báo chí thực hiện sứ mệnh
phản ánh trung thực hiện thực cuộc sống, vì vậy, văn hoá là mạch nguồn chất liệu cho các tác phẩm báo chí. Ở
Việt Nam hiện nay, có thể tìm thấy một số đầu báo có đặt tên bằng chữ văn hoá(2), như: Tạp chí Tư tưởng - Văn
hoá (Ban Tuyên giáo TƯ), Văn hoá thể thao (Liên hiệp KH-CN phát triển nông thôn); Tạp chí Văn hoá dân gian
(Viện Khoa học xã hội Việt Nam); Báo Thể thao & Văn hóa (TTXVN), Tạp chí Văn hoá các dân tộc (Hội Văn
hoá các dân tộc VN); Tạp chí Văn hoá doanh nhân (Phòng Thương mại và Công nghiệp VN); Báo Văn hoá, Số
cuối tuần Thế giới văn hoá của Báo Văn hoá; Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Tạp chí Di sản văn hoá, Tạp chí
Xây dựng đời sống văn hoá (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch); Tạp chí Văn hoá các dân tộc (Hội Văn hoá các
dân tộc VN), Tạp chí Văn hoá nghệ thuật ăn uống (Hội Văn nghệ dân gian VN)…

Ngoài ra, hầu hết các tờ báo đều có chuyên trang, chuyên mục, chương trình văn hoá. Nội dung về văn học, văn
hiến, kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, điện ảnh, ca nhạc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội... được
phản ánh rất đa dạng, sinh động trên báo chí, đáp ứng yêu cầu tiếp nhận thông tin của đông đảo công chúng.
Nếu không có mảnh đất hiện thực với đa dạng các hình thái văn hoá, làm sao có được hàng chục tờ báo chuyên
biệt văn hoá ra đời, làm sao có hàng ngàn chuyên trang, chuyên mục, chương trình văn hoá trên các đài phát
thanh, truyền hình, các tờ báo mạng để phục vụ đại chúng?

Thực tế, không ít công chúng tìm đọc một tờ báo, nghe, xem một chương trình phát thanh, truyền hình, đơn giản
vì muốn theo dõi một câu chuyện, đọc một bài thơ, hay nghe vở kịch sân khấu truyền thanh, xem bộ phim, một
chương trình ca nhạc… Hiện nay, hầu hết các báo, các đài phát thanh truyền hình từ trung ương đến địa phương,
đều có các chuyên trang, chuyên mục, chương trình văn hoá. Càng ở những số báo đặc biệt như báo Tết, báo
Xuân hoặc những báo cuối tháng, cuối tuần - những ấn phẩm, chương trình mà công chúng mong ngóng, đợi
chờ, có số lượng phát hành lớn, đông đảo người theo dõi - càng chuyển tải nhiều tác phẩm văn hoá. Âu cũng là
để thoả mãn nhu cầu của công chúng.

Sự đa dạng các ấn phẩm, sản phẩm, chương trình về văn hoá, đã góp thêm sắc hương vào vườn hoa báo chí Việt
Nam, làm nên những món ăn tinh thần hấp dẫn, bổ ích cho công chúng.

- Văn hoá là môi trường diễn ra hoạt động báo chí

Bởi triền văn hoá trải dài theo bề rộng và chiều sâu, thấm đẫm trong nguồn mạch mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, nên không có bất kỳ hoạt động báo chí, của bất kỳ nhà báo hay cơ quan nào mà không thuộc một môi
trường văn hoá nhất định.
Môi trường văn hoá Việt Nam hiện nay là sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, đậm tính phương Đông
nhưng cũng có ảnh hưởng của phương Tây. Lối sống, hành vi giao tiếp, ứng xử của người dân dưới tác động của
phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4... đang chi phối
mạnh mẽ đến diện mạo báo chí.

Chẳng hạn, hệ sinh thái số với big data, trí tuệ nhân tạo và vạn vật kết nối, sự phát triển của Internet và mạng xã
hội… giúp nhà báo có điều kiện khai thác nguồn thông tin đa dạng một cách nhanh chóng, tiện lợi, đồng thời,
kết nối, lan toả thông tin không giới hạn. Trí tuệ nhân tạo cũng được tận dụng để phát minh ra nhà báo robot viết
tin, bài, dẫn chương trình; Internet vạn vật kết nối giúp dữ liệu báo chí được hiện diện sinh động trên môi trường
mạng, trên đa dạng nền tảng thiết bị đầu cuối; cùng với đó là sự hiện diện đầy bản sắc của báo chí di động, báo
chí mạng xã hội, báo chí on-demand...

Văn hoá đại chúng với sự thay đổi nhu cầu, sở thích, thói quen tiếp nhận truyền thông cũng buộc báo chí phải tự
điều chỉnh nội dung, hình thức, phương thức hoạt động, nỗ lực nâng cao chất lượng, hiệu quả. Không chỉ là sự
xuất hiện các sản phẩm báo chí mạng xã hội, báo chí di động, báo chí theo yêu cầu như đã nói ở trên, hay các
hình thức truyền thông sáng tạo, mà các cơ quan báo chí hiện đại còn đang không ngừng tìm cách mở rộng các
tính năng giao tiếp, tương tác với công chúng, trao cho công chúng quyền chủ động và khuyến khích người dân
thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Hội nhập văn hoá toàn cầu nói chung, hội nhập truyền thông nói riêng, cũng có tác động đến báo chí, ở chỗ, báo
chí Việt Nam có cơ hội tăng cường giao lưu, tiếp cận kỹ năng làm báo hiện đại, nỗ lực thoả mãn nhu cầu đa
dạng của công chúng trong nước bằng việc gia tăng hàm lượng tin tức quốc tế. Đồng thời, báo chí Việt Nam
cũng thấy rõ trách nhiệm phải quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới, tiếp cận công
chúng nước ngoài nhiều hơn. Nhiều chuyên trang tiếng nước ngoài trên báo điện tử, trên phát thanh, truyền
hình... vì thế đã ra đời.
- Văn hoá “là nhân tố kiến tạo bản sắc của cơ quan báo chí”(3), giúp nhà báo tuân thủ đạo đức và pháp luật

Nói đến văn hoá là nói đến giá trị, là nói đến cái đẹp, chuẩn mực, thương hiệu, uy tín. Một cơ quan báo chí văn
hoá, thì nhà báo phải tuân thủ đạo đức công dân, đạo đức nghề nghiệp, thượng tôn pháp luật, thuần thục kỹ năng
tác nghiệp. Thêm nữa, đó còn là sự tuân thủ các nguyên tắc hành nghề, tôn trọng tính Đảng, tính chính xác,
khách quan, tính nhân dân, dân tộc, tính nhân văn, nhân đạo.

Đối với cơ quan báo chí, văn hoá thiết lập một hành lang văn hoá để cơ quan báo chí vận hành, với mục đích tối
thượng là tạo nên những sản phẩm giá trị, chất lượng. Từ hành lang văn hoá đó, ban biên tập của mỗi cơ quan
báo chí sẽ có căn cứ để xây dựng cơ cấu bộ máy tổ chức với nhân sự và các phòng ban chức năng phù hợp, xác
lập được các chuẩn mực, quy tắc giao tiếp, ứng xử, phương thức làm việc, tác nghiệp trong cơ quan, bắt đầu từ
Ban biên tập cho tới các phòng, ban chức năng, và cuối cùng là cán bộ nhân viên, phóng viên cấp dưới, đảm bảo
để guồng máy cơ quan hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Nhiều cơ quan báo chí đã xác lập các tiêu chí, kỹ năng
tác nghiệp, vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính giáo dục, thuyết phục đối với cán bộ, phóng viên, biên tập
viên trong cơ quan.

Văn hoá báo chí cũng tạo hành lang đạo đức, pháp luật, kinh tế... giúp các cơ quan báo chí xác lập các chuẩn
mực, quy tắc giao tiếp, ứng xử phù hợp trong mối quan hệ với các cơ quan báo chí khác, với cơ quan chủ quản,
với đối tác, với công chúng của mình.

Như vậy, tuy là yếu tố hữu hình, nhưng văn hoá tự nó đã định hình nguyên tắc làm việc, thống nhất nhận thức,
thái độ, hành vi cho toàn bộ nhà báo, cơ quan báo chí, giúp tạo nên khối đoàn kết, thống nhất trong hoạt động,
đảm bảo những sản phẩm chất lượng.

3. Tác động trở lại của báo chí đối với văn hoá

- Báo chí sáng tạo văn hoá

“Báo chí truyền thông có ý nghĩa cả trong việc sáng tạo, sản xuất, tiêu dùng và truyền bá văn hoá”(4), bởi, “Báo
chí đóng vai trò là cơ quan đưa ra sáng kiến, tổ chức, hỗ trợ các hoạt động, các sân chơi văn hóa, văn hóa nghệ
thuật như các sự kiện ca nhạc, thi sắc đẹp, thi thời trang, thi đấu thể thao, hoạt động du lịch..., từ đó, làm nảy
sinh các sự kiện văn hóa mới, kích thích văn hóa phát triển”(5).

Đúng vậy, thực tế, báo chí khởi xướng nhiều phong tục văn hóa, nhiều hành vi văn hoá, góp phần hình thành
nhiều lối sống mới, thói quen và thị hiếu mới cho công chúng. Ví dụ, trong lĩnh vực báo chí, có: văn hóa báo
Tết, Hội báo Xuân; văn hóa cà phê báo (uống cà phê, đọc báo). Thói quen, sở thích tiếp nhận mới cho công
chúng ngày nay là bật truyền hình, mở radio, đọc báo như cách thức thư giãn, nạp năng lượng, bởi phát thanh
đưa cả nhà hát vào phòng ngủ, truyền hình là sân khấu và là màn ảnh miễn phí cho người thưởng thức. Báo chí
số với năng lực tương tác và siêu liên kết, đã và đang tạo nên thế hệ công chúng thông minh, công chúng chủ
động, công chúng diễn ngôn. Họ chính là người có quyền lực tối cao trong thẩm định chất lượng sản phẩm.

Trong lĩnh vực âm nhạc, báo chí khởi xướng những sự kiện âm nhạc lớn được công chúng đón nhận, tạo thành
thị hiếu, “trendy”, như: Chương trình “Giọng hát Việt nhí”, “Giọng hát Việt”, “Người ấy là ai”, “Đường lên
đỉnh olympia”, “Hãy chọn giá đúng”..., mà sau này, cả những người tham gia chương trình lẫn người dẫn
chương trình đều dễ dàng thành “người nổi tiếng”.

Trong đời sống, báo chí đã biến những sự kiện vốn là sở thích của một nhóm người, thành “lễ hội”: “Lễ hội thể
thao” qua các đợt đội tuyển bóng đá Việt Nam tham dự Seagames hay Thế vận hội Olympic, khơi dậy văn hoá
tập luyện thể thao, chuộng thể thao; biến một sự kiện của địa phương thành sự kiện mang tầm văn hoá quốc gia
bằng cách tăng cường quảng bá, thu hút sự tham gia của đông đảo công chúng, như: Lễ hội đền Trần (Nam
Định), Lễ hội chọi Trâu (Hải Phòng), Lễ hội Pháo hoa Đà Nẵng, Lễ hội Lồng tồng (Bắc Kạn)...

Báo chí không chỉ đơn thuần phản ánh, tường thuật các chương trình âm nhạc, vũ đạo, điện ảnh… mà còn tự
sáng tạo, dàn dựng nhiều tác phẩm nghệ thuật theo phong cách đặc thù của loại hình, đem sắc màu văn hoá nghệ
thuật mới vào đời sống xã hội. Ngày một nhiều hơn những bộ phim truyền hình, chương trình ca nhạc do Đài
truyền hình sản xuất được công chúng yêu thích, đón nhận…

Báo chí quảng cáo sản phẩm để dẫn dắt xu hướng thời trang, làm đẹp, định hướng hành vi tiêu dùng, mua sắm,
hình thành ở công chúng thói quen mua sản phẩm tiêu dùng của những người nổi tiếng hoặc những sản phẩm,
thương hiệu được báo chí quảng bá, lăng xê. Những sản phẩm phim ảnh, ca nhạc, những trò chơi, gameshows
trên môi trường báo chí có kết nối Internet đang được công chúng tiếp nhận hàng ngày là khuôn định cho một
loạt biến đổi, ở cả chiều cạnh tích cực lẫn tiêu cực, về phong cách sống, thói quen, thị hiếu...

- Báo chí tiêu dùng văn hoá

Văn hoá được thể hiện trong đời sống hàng ngày thông qua hoạt động con người. Và báo chí truyền thông là
phương tiện tiêu dùng văn hoá, giúp đưa văn hoá thẩm thấu vào đời sống một cách tự nhiên. “Thời đại hậu công
nghiệp, vai trò và tác động của báo chí với tư cách phương tiện thực thi văn hóa càng to lớn, càng hữu hiệu nhờ
ở thế mạnh ít lĩnh vực nào sánh được với nó, thể hiện ở sự tăng tiến đột biến về tốc độ, số lượng, chất lượng và
khả năng tương tác đa chiều”(6).

Đúng vậy, với 779 cơ quan báo chí, trong đó có 72 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình, 142
báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập (số liệu trong Báo cáo tại Hội nghị báo chí toàn quốc tổng
kết công tác năm 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021, do Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Lê Mạnh
Hùng trình bày) đang hoạt động hiện nay, báo chí thực sự đã trở thành nhân tố đi đầu, là hình mẫu trong việc
thực thi, tiêu dùng văn hoá và quảng bá hệ giá trị chuẩn mực của con người và dân tộc Việt.

Trước hết, báo chí có sứ mệnh góp phần gìn giữ tiếng Việt. “Một minh chứng về mối quan hệ qua lại giữa báo
chí và văn hóa ở nước ta là vai trò của báo chí trong sự khẳng định, lan tỏa và hoàn thiện chữ quốc ngữ”(7). Từ
tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo (1864, chủ bút Trương Vĩnh Ký), cho đến tờ báo cách mạng đầu
tiên năm 1925 (tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập), và tới thời hiện đại, báo chí vẫn không ngừng sử
dụng, bồi đắp chữ quốc ngữ. Các nhà báo được đặt ra sứ mệnh phải viết hay, viết đẹp để công chúng học theo.
Song song, báo chí làm giàu quốc ngữ theo hướng du nhập nhiều thuật ngữ chính trị, kinh tế, triết học, xã hội
học, mỹ thuật, hội họa, thể thao… chưa có trong tiếng ta. Báo chí đã trở thành cầu nối đưa ngôn ngữ thế giới hội
nhập văn hóa Việt.

Thứ hai, báo chí lấy văn hoá như là đối tượng phản ánh, là chất liệu để xây dựng tác phẩm.
Báo chí khai thác các sự kiện, vấn đề thuộc lĩnh vực văn học, âm nhạc, thể thao, điện ảnh, hội hoạ, lễ hội, tôn
giáo, tín ngưỡng… làm chất liệu nội dung. Nhưng không phải là tiêu dùng văn hoá một cách vô thức, mà báo
chí tiêu dùng văn hoá một cách hữu thức. Nhà báo và cơ quan báo chí luôn chắt lọc những sự kiện, sự việc,
những vấn đề văn hoá tiêu biểu, nổi bật, có ý nghĩa xã hội, được công chúng quan tâm để làm đối tượng phản
ánh. Báo chí cũng chú trọng lựa chọn và phản ánh các chuẩn mực văn hoá hiện hành, các tập quán hành động
của cá nhân trong đời sống xã hội.

- Báo chí góp phần quảng bá văn hóa

“Vắng báo chí tức là cuộc sống của chúng ta sẽ tức khắc thiếu vắng thông tin, âm nhạc, thể thao, các nghệ thuật
thị giác, các phương tiện truyền bá kiến thức từ xa”(8). Lật giở các trang báo in, lướt qua các tờ báo mạng, mở
radio hay tivi, công chúng sẽ được tiếp nhận các sự kiện, sự việc, vấn đề văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần với
nhiều chiều cạnh đa dạng.

Qua báo chí truyền thông, nhân dân được tiếp cận, chiêm ngưỡng nhiều tác phẩm nghệ thuật, khoa học, âm
nhạc, văn học, sân khấu, điện ảnh; được tiếp cận nhiều tấm gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến
trong hoạt động từ thiện, những hành động nhân ái trong xã hội... Những thông điệp hay, hấp dẫn, tích cực, chứa
đựng điều thiện lành sẽ giúp người dân tự nguyện hướng tâm hồn mình đến đời sống tinh thần thanh cao, hình
thành nếp sống nhân văn, theo giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Năm 2020, 2021, trong bối cảnh đặc biệt khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, báo chí đã tập trung
phản ánh những tấm gương người tốt, việc tốt trong cộng đồng, từ Bắc tới Nam, hình thành phong trào lá lành
đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều. Hơn lúc nào hết, đạo lý uống nước nhớ nguồn, thương người như thể
thương thân được thắp sáng, nhân rộng.

Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hoá vật thể, phi vật thể tiếp tục được báo chí quan tâm. Thậm chí, báo chí
không lãng quên trách nhiệm đối với giữ gìn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số. Đài phát thanh - truyền hình
Trung ương, địa phương đã có chương trình dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số; tuyên truyền kịp thời
những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đồng bào góp phần nâng cao nhận thức của
đồng bào, xóa dần khoảng cách và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc, đồng thời, bảo tồn, phát
huy được ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc thiểu số(9).
Nhiều tờ báo đã tổ chức tốt công tác thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hoá Việt
Nam ra thế giới bằng tiếng Anh. Hàng loạt di sản văn hóa Việt Nam đã được xếp hạng là di sản văn hóa nhân
loại như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Quan họ (Bắc Ninh), Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế và gần đây nhất là
“thực hành tín ngưỡng Tam phủ”… cũng được báo chí quảng bá rộng rãi ra nước ngoài.

Trong bối cảnh Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ ở cả 5 châu
lục, việc tiếp biến văn hoá thế giới là tất yếu, và trong việc thực hiện nhiệm vụ đó, có trách nhiệm của báo chí.
Thời gian qua, báo chí đã mở rộng thông tin về các trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Pháp, Nhật Bản, Hàn
Quốc… tại Việt Nam, lựa chọn giới thiệu phim ảnh, âm nhạc, danh thắng, phong tục tập quán, thành tựu khoa
học công nghệ của các quốc gia để người Việt được mở mang và học hỏi.

- Báo chí thẩm định giá trị văn hoá

Một trong những chức năng quan trọng của báo chí là giám sát, quản lý xã hội. Phát hiện những mặt tích cực
trong lĩnh vực văn hoá để gìn giữ, phát huy, nhân rộng; nhận diện những biểu hiện lệch chuẩn, tiêu cực để lên
án, phê phán, tiến tới xoá bỏ, loại trừ khỏi đời sống văn hoá nói riêng và đời sống xã hội nói chung là việc làm
thường xuyên, liên tục của báo chí. “Báo chí, truyền thông không đơn thuần làm công việc chuyển tải văn hóa
một cách thụ động mà phải chủ động sàng lọc khi quảng bá văn hóa đại chúng, không tiếp tay cho những hành
vi phản cảm trong hoạt động văn hóa nghệ thuật”(10).

Báo chí thực hiện nhiệm vụ này bằng sức mạnh của các tuyến bài phân tích, bình luận, phỏng vấn ý kiến chuyên
gia và cơ quan chức năng... Thời gian qua, báo chí lên án thói hư tật xấu của một bộ phận người Việt; phê phán
tình trạng xuống cấp văn hoá gia đình, văn hoá học đường, văn hoá công sở; biến tướng của các lễ hội, địa danh
du lịch; ô nhiễm không gian đô thị và môi trường sống; hiện tượng tham ô, lãng phí; dự án xây dựng tượng đài
nghìn tỷ, dựng tượng phản cảm ở các địa phương nghèo; những hủ bại, lạc hậu kìm hãm sự phát triển xã hội…
Báo chí tham gia thẩm định các danh hiệu văn hoá, tổng kết phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị”…; tìm giải pháp phục hồi, bảo tồn, phát huy giá
trị văn hoá...

Năng lực giám sát, phản biện của báo chí chứng minh cống hiến của báo chí trong nỗ lực làm trong sạch và giàu
đẹp đời sống văn hoá dân tộc.

- Báo chí góp phần nâng cao tri thức văn hoá cho đại chúng dễ dàng

Một trong những chức năng, và đồng thời là mục đích của báo chí là nâng cao tri thức về mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội, trong đó có tri thức về văn hoá. Mạng lưới báo chí dày đặc từ trung ương đến địa phương, với đa
dạng loại hình và đa dạng phương thức chuyển tải, đã biến báo chí trở thành phương tiện có thế mạnh đặc biệt
trong việc cung cấp tri thức văn hoá cho con người, giúp báo chí trở thành trường học rộng lớn nhất.

Khác với cách tuyên truyền văn hoá qua cổ động trực quan, qua các thiết chế văn hoá như viện bảo tàng, đền
thờ, nhà rông, hay qua sách, qua sân khấu…, truyền thông văn hoá qua báo chí rất thuận tiện, rẻ tiền và sinh
động. Công chúng có thể tiếp cận thông tin văn hoá qua các thiết bị di động, có quyền lựa chọn sản phẩm mà họ
quan tâm trong số hàng nghìn sản phẩm báo chí miễn phí; thậm chí có thể tương tác, phản hồi nhanh chóng, tức
thì; các ý kiến đóng góp phát triển sản phẩm văn hoá được cơ quan báo chí coi trọng… Báo chí còn có thế mạnh
phát triển các chương trình dạy văn hóa qua truyền hình, phát thanh; có thể đưa các giải pháp từ chuyên gia, nhà
văn hoá, cơ quan chức năng để xử lý các vấn đề mà dư luận quan tâm...

Báo chí và văn hoá có mối quan hệ đặc biệt. Văn hoá vừa là đối tượng, là nguồn đề tài vô tận của báo chí, vừa là
môi trường diễn ra hoạt động truyền thông, góp phần định hình sự phát triển báo chí. Ngược lại, báo chí vừa sản
xuất, tiêu dùng văn hoá, vừa có trách nhiệm giữ gìn, phát triển, quảng bá các giá trị văn hoá của dân tộc. Tất
nhiên, trong quá trình tương tác và thực hiện sứ mệnh của mình đối với văn hoá, báo chí cũng có những va vấp,
khúc quanh, chủ yếu gây nên bởi hiện tượng “lá cải hoá báo chí”, “thương mại hoá báo chí”. Do đó, trách nhiệm
quản lý báo chí, một lần nữa lại được đặt ra./.

4. Xu hướng báo chí trong thời gian này có gì nổi bật


một số xu hướng và dự báo cho truyền thông và báo chí năm 2023, như sau:

● Covid-19 làm tăng tốc chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Một trong những xu hướng
lớn nhất bắt đầu vào năm 2020 còn tiếp tục trong năm 2023 là việc áp dụng làm việc từ xa với nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là báo chí, truyền thông1.
● Các nhà báo y tế và chuyên gia y tế là những bộ phận quan trọng của tòa soạn. Một xu hướng khác
được nhấn mạnh bởi đại dịch là nhu cầu về các chuyên gia y tế và sức khỏe nhiều hơn. Họ có thể giải
thích về nguồn gốc của căn bệnh, cách nó lây lan và mọi thứ liên quan đến tiêm chủng1.
● Báo chí dữ liệu đi đầu. Hầu như không ngày nào trôi qua mà không có hình ảnh dữ liệu thu hút bạn.
Các tòa soạn đã xây dựng chuyên môn về "dữ liệu và hình ảnh hóa để cung cấp cho bạn đọc trong khi
các tòa soạn đã sử dụng chức năng cá nhân hóa để giúp khán giả nhanh chóng hiểu các thay đổi quy
tắc”1.
● Làn sóng tin giả tiếp theo: Các chiến dịch chống anti-vacxin. Nếu năm 2020 là năm để lo sợ các chiến
dịch thông tin bầu cử, thì vào năm 2023, chủ đề “nóng hổi, mới mẻ” sẽ giải quyết các nỗ lực tiêm
chủng. Nhiều quốc gia đang đẩy mạnh các chiến dịch tiêm chủng để chống lại cộng đồng anti-vacxin1.
● Sự cần thiết của các phương tiện truyền thông đại chúng mạnh. Khi đại dịch xảy ra vào năm ngoái, bạn
đọc đã tìm đến các phương tiện truyền thông ở mức độ chưa từng có để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra
và cách tự bảo vệ mình. Nhưng sự gia tăng lưu lượng truy cập này không lan rộng như nhau. The Fix
thực hiện cuộc khảo sát với 40 hãng truyền thông từ 10 quốc gia châu Âu, các đài truyền hình công
cộng có lượt truy cập tăng mạnh nhất2.
● Trí tuệ nhân tạo đang tạo ra thách thức lớn chưa từng thấy với báo chí, nhất là sau sự xuất hiện của
ChatGPT. Suốt một thời gian dài, truyền thông xã hội được coi là một phần không thể tách rời trong
hoạt động của một cơ quan báo chí, song những diễn biến mới nhất cho thấy mối quan hệ tưởng chừng
cộng sinh để phát triển này lại đang lung lay hơn bao giờ hết2.
● Cách làm kinh tế báo chí bây giờ cũng khác, các báo đài không thể chỉ dựa vào quảng cáo được nữa mà
cần phải đa dạng nguồn thu để bảo đảm cho một tương lai bền vững

5. Lưu ý khi xử lí khủng hoảng trong qhbc là gì


Key: Thiết lập mối qh winwin

Chuẩn bị sẵn sàng cho khủng hoảng. Đây là bước quan trọng nhất để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro của khủng
hoảng. Một tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân cần phải xác định các loại khủng hoảng có thể xảy ra, đánh giá
mức độ nguy hiểm, xây dựng kịch bản và kế hoạch ứng phó, thành lập đội xử lý khủng hoảng, đào tạo và kiểm
tra khả năng ứng xử của nhân viên, v.v.

● Phản ứng nhanh chóng và minh bạch. Khi khủng hoảng xảy ra, một tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân
cần phải nhanh chóng xác nhận sự việc, thông báo cho công chúng, báo chí, khách hàng, đối tác, cổ
đông, v.v. về tình hình, nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp xử lý. Đồng thời, họ cần phải minh
bạch, trung thực, chính xác và nhất quán trong việc cung cấp thông tin, tránh che giấu, bao biện, xuyên
tạc, v.v.
● Thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm. Một tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân cần phải thể hiện sự
quan tâm và trách nhiệm đối với những người bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng, như khách hàng, nhân
viên, cộng đồng, v.v. Họ cần phải xin lỗi, thừa nhận sai lầm, đền bù thiệt hại, hỗ trợ giải quyết vấn đề,
v.v. Họ cũng cần phải đặt lợi ích của khách hàng, cộng đồng lên hàng đầu, tránh đổ lỗi, đùn đẩy, v.v.
● Sử dụng các kênh truyền thông hiệu quả. Một tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân cần phải sử dụng các
kênh truyền thông hiệu quả để truyền đạt thông tin, giải thích, thuyết phục, vận động, v.v. Họ cần phải
chọn kênh truyền thông phù hợp với đối tượng, mục tiêu, nội dung và thời điểm. Họ cũng cần phải tận
dụng các kênh truyền thông số, mạng xã hội, v.v. để tăng tương tác, lắng nghe, tiếp nhận phản hồi, v.v.
● Học hỏi và cải tiến. Sau khi khủng hoảng kết thúc, một tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân cần phải học
hỏi và cải tiến từ kinh nghiệm. Họ cần phải đánh giá quá trình xử lý khủng hoảng, nhận diện điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức, v.v. Họ cũng cần phải rút ra bài học, đề xuất giải pháp, thực hiện
các biện pháp cải tiến, v.v.
II. XỬ LÍ TÌNH HUỐNG:

PV không mời mà đến:


Sếp dắt thêm phóng viên k liên quan đến lĩnh vực họp báo:
Đây là một tình huống khó xử lý cho chuyên viên PR, vì nó có thể ảnh hưởng đến quan hệ với sếp, các phóng
viên và mục tiêu của buổi họp báo. Tuy nhiên, có một số cách để giải quyết tình huống này một cách khéo léo
và hiệu quả, như sau:

Nếu có thời gian, nên hỏi sếp về lý do tại sao ông ta đưa thêm các phóng viên này vào buổi họp báo, và giải
thích với ông ta rằng những phóng viên này không phù hợp với tiêu chí của buổi họp báo, có thể gây ra những
rắc rối hoặc không đảm bảo tin được đăng. Nếu sếp có lý do chính đáng, nên tôn trọng quyết định của ông ta và
chuẩn bị thêm press kit, phong bì, ghế ngồi, v.v. cho các phóng viên này. Nếu sếp không có lý do chính đáng,
nên thuyết phục ông ta rằng việc đưa thêm các phóng viên này vào buổi họp báo là không cần thiết và có thể
gây ra những hậu quả tiêu cực.
Nếu không có thời gian, nên xử lý tình huống một cách linh hoạt và nhanh chóng. Nếu các phóng viên này đến
từ các tòa soạn uy tín và có nhu cầu thông tin thực sự, nên gửi cho họ press kit và có phong bì dự trù kèm theo,
mời họ vào tham gia buổi họp báo. Nếu các phóng viên này đến từ các tòa soạn lá cải hoặc không liên quan đến
chủ đề của buổi họp báo, nên gửi cho họ thông cáo báo chí và xin lỗi vì buổi họp báo này chỉ dành cho các
phóng viên được mời hoặc có tiêu chí phù hợp. Nếu các phóng viên này cố tình gây rối buổi họp báo, nên yêu
cầu bảo vệ mời họ ra ngoài hoặc báo cho sếp để xử lý.
Sau khi xử lý tình huống, nên báo cáo cho sếp về quá trình xử lý và kết quả, cũng như nhận xét và đánh giá về
các phóng viên này. Nếu có thể, nên đề xuất cho sếp một số biện pháp để tránh những tình huống tương tự xảy
ra trong tương lai, như xác nhận danh sách phóng viên trước buổi họp báo, gửi lời mời chính thức cho các
phóng viên phù hợp, v.v.
- Em đánh giá ntn về việc 1 ng sau buổi họp báo liên tục gọi điện cho pv (đăng bài giúp em đi”): việc này k
đúng hay không, sau đó đưa ra phương hướng giải quyết ntn
Phương hướng thứ nhất: Lịch sự từ chối và giải thích. Nếu phóng viên đã nhận được thông tin đầy đủ và chính
xác từ buổi họp báo, và đã có kế hoạch đăng bài theo thời gian hợp lý, thì có thể lịch sự từ chối những cuộc gọi
thúc giục và giải thích rằng họ đang làm việc và sẽ đăng bài sớm nhất có thể. Phóng viên cũng có thể đề nghị
người gọi gửi email hoặc tin nhắn để trao đổi thêm nếu có thắc mắc hoặc yêu cầu gì. Phương hướng này giúp
phóng viên bảo vệ quyền tự do báo chí và tránh bị áp lực hoặc can thiệp.
Phương hướng thứ hai: Thỏa hiệp và hợp tác. Nếu phóng viên cảm thấy rằng thông tin từ buổi họp báo có giá trị
và quan trọng, và muốn duy trì mối quan hệ tốt với người tổ chức, thì có thể thỏa hiệp và hợp tác với họ. Phóng
viên có thể hỏi người gọi về mục đích, mong muốn và kỳ vọng của họ khi đăng bài, và đưa ra những đề xuất
hoặc thỏa thuận về nội dung, thời gian và phương thức đăng bài. Phóng viên cũng có thể yêu cầu người gọi cung
cấp thêm những thông tin bổ sung, hình ảnh, video, hoặc nguồn tham khảo nếu cần. Phương hướng này giúp
phóng viên tạo ra một bài báo chất lượng và đáp ứng nhu cầu của người tổ chức.
Phương hướng thứ ba: Từ chối và phản bác. Nếu phóng viên cho rằng thông tin từ buổi họp báo không đáng tin
cậy, sai lệch, hoặc có ý định xấu, và không muốn đăng bài về nó, thì có thể từ chối và phản bác những cuộc gọi
thúc giục. Phóng viên có thể nói rõ lý do tại sao họ không đăng bài, và đưa ra những bằng chứng hoặc lập luận
để bác bỏ những thông tin sai trái hoặc độc hại. Phóng viên cũng có thể cảnh báo người gọi rằng nếu họ tiếp tục
gọi điện, họ sẽ bị tố cáo hoặc kiện tụng. Phương hướng này giúp phóng viên bảo vệ danh dự và trách nhiệm báo
chí.

- PV đến trễ, có thư mời


Cách thứ nhất: Đón tiếp và hướng dẫn. Nếu phóng viên đến trễ nhưng vẫn trong thời gian cho phép, người tổ
chức họp báo nên đón tiếp họ một cách ân cần và lịch sự, gửi cho họ press kit và phong bì (nếu có), và hướng
dẫn họ vào khu vực dành cho báo chí. Nếu buổi họp báo đã bắt đầu, người tổ chức họp báo nên nhắc nhở họ giữ
im lặng và không làm phiền người đang nói. Nếu buổi họp báo đã kết thúc, người tổ chức họp báo nên cung cấp
cho họ thông tin tóm tắt và trả lời các câu hỏi của họ nếu cần.
Cách thứ hai: Từ chối và xin lỗi. Nếu phóng viên đến trễ quá mức cho phép, người tổ chức họp báo có thể từ
chối cho họ tham gia buổi họp báo vì lý do an ninh, trật tự, hoặc sự công bằng. Người tổ chức họp báo nên xin
lỗi vì sự bất tiện và giải thích rằng buổi họp báo chỉ dành cho những phóng viên đến đúng giờ hoặc có xin phép
trước. Người tổ chức họp báo cũng nên gửi cho họ thông cáo báo chí và các tài liệu liên quan, và hứa hẹn sẽ liên
lạc với họ sau nếu có thể.
Cách thứ ba: Thỏa hiệp và đề xuất. Nếu phóng viên đến trễ nhưng có lý do chính đáng, người tổ chức họp báo
có thể thỏa hiệp và đề xuất cho họ một số cách khác để cập nhật thông tin. Ví dụ, người tổ chức họp báo có thể
mời họ xem lại video của buổi họp báo trên mạng, hoặc gặp riêng với người phát ngôn của tổ chức, hoặc tham
gia một buổi họp báo khác với nội dung tương tự. Người tổ chức họp báo cũng nên nhắc nhở họ rằng họ nên đến
đúng giờ hoặc báo trước nếu có trễ trong những lần sau.

- PV đến trễ press kit sẽ k còn nhưng ng ta có thư mời:


Cách thứ nhất: Xin lỗi và gửi press kit sau. Nếu phóng viên đến trễ nhưng vẫn trong thời gian cho phép, người
tổ chức họp báo nên xin lỗi vì đã hết press kit và hứa hẹn sẽ gửi cho họ sau qua email hoặc đường bưu điện.
Người tổ chức họp báo cũng nên hướng dẫn họ vào khu vực dành cho báo chí và cung cấp cho họ những thông
tin cơ bản về buổi họp báo. Cách này giúp người tổ chức họp báo bày tỏ sự quan tâm và trách nhiệm đối với
phóng viên.
Cách thứ hai: Chia sẻ và sao chép press kit. Nếu phóng viên đến trễ nhưng có thể liên lạc với những phóng viên
khác đã nhận được press kit, người tổ chức họp báo có thể nhờ họ chia sẻ hoặc sao chép press kit cho phóng
viên trễ. Người tổ chức họp báo cũng nên xin lỗi vì sự bất tiện và cảm ơn sự hợp tác của các phóng viên. Cách
này giúp người tổ chức họp báo tận dụng nguồn lực có sẵn và tạo ra sự đoàn kết giữa các phóng viên.
Cách thứ ba: Thay thế và bổ sung press kit. Nếu phóng viên đến trễ nhưng người tổ chức họp báo có thể tìm
được những tài liệu thay thế cho press kit, như thông cáo báo chí, bài viết, hình ảnh, video, v.v. người tổ chức
họp báo có thể gửi cho họ những tài liệu này qua email, USB, hoặc mạng xã hội. Người tổ chức họp báo cũng
nên xin lỗi vì không có press kit và giải thích rằng những tài liệu này có thể cung cấp cho họ những thông tin
cần thiết về buổi họp báo. Cách này giúp người tổ chức họp báo sử dụng các kênh truyền thông hiện đại và đa
dạng.

- PV đến nhưng k đặt câu hỏi


Cách thứ nhất: Khuyến khích và kích thích. Nếu phóng viên đến nhưng không đặt câu hỏi, người tổ chức họp
báo nên khuyến khích và kích thích họ bằng cách đưa ra những câu hỏi mở, liên quan đến chủ đề của buổi họp
báo, và mời họ trả lời hoặc bình luận. Ví dụ, người tổ chức họp báo có thể hỏi: “Bạn nghĩ gì về sản phẩm mới
của chúng tôi?” hoặc “Bạn có thắc mắc gì về chiến lược kinh doanh của chúng tôi?” Cách này giúp người tổ
chức họp báo tạo ra sự tương tác và thúc đẩy sự quan tâm của phóng viên.
Cách thứ hai: Thông tin và giải thích. Nếu phóng viên đến nhưng không đặt câu hỏi, người tổ chức họp báo nên
thông tin và giải thích thêm về những điểm quan trọng, hấp dẫn, hoặc mới lạ của buổi họp báo, và cung cấp cho
họ những tài liệu, hình ảnh, video, hoặc nguồn tham khảo liên quan. Ví dụ, người tổ chức họp báo có thể nói:
“Sản phẩm mới của chúng tôi có những tính năng độc đáo và ưu việt, bạn có thể xem chi tiết tại đây” hoặc
“Chiến lược kinh doanh của chúng tôi dựa trên những nghiên cứu khoa học và thị trường, bạn có thể tham khảo
tại đây” Cách này giúp người tổ chức họp báo cung cấp cho phóng viên những thông tin bổ ích và hữu ích.
Cách thứ ba: Đánh giá và phản hồi. Nếu phóng viên đến nhưng không đặt câu hỏi, người tổ chức họp báo nên
đánh giá và phản hồi về buổi họp báo, và yêu cầu phóng viên góp ý hoặc đóng góp cho những buổi họp báo tiếp
theo. Ví dụ, người tổ chức họp báo có thể nói: “Cảm ơn các bạn đã tham gia buổi họp báo của chúng tôi. Chúng
tôi rất mong nhận được những ý kiến, đánh giá, và phản hồi của các bạn về buổi họp báo này, cũng như những
gợi ý cho những buổi họp báo sau. Bạn có thể gửi cho chúng tôi qua email, điện thoại, hoặc mạng xã hội.” Cách
này giúp người tổ chức họp báo bày tỏ sự quan tâm và tôn trọng đối với phóng viên, cũng như cải thiện chất
lượng của những buổi họp báo sau.

- PV đến nhưng PV hỏi câu hỏi nhạy cảm (k vì mục đích của buổi họp báo)
Cách thứ nhất: Trả lời ngắn gọn và chuyển hướng. Nếu phóng viên hỏi câu hỏi nhạy cảm nhưng không quá xấu
ý hoặc gây hại, người tổ chức họp báo có thể trả lời ngắn gọn và chuyển hướng sang chủ đề khác. Ví dụ, người
tổ chức họp báo có thể nói: “Câu hỏi của bạn không liên quan đến mục đích của buổi họp báo này. Chúng tôi chỉ
trả lời những câu hỏi liên quan đến sản phẩm/sự kiện/dự án của chúng tôi. Bạn có câu hỏi nào khác không?”
Cách này giúp người tổ chức họp báo bảo vệ quyền riêng tư và tránh những câu hỏi không mong muốn.
Cách thứ hai: Từ chối và xin lỗi. Nếu phóng viên hỏi câu hỏi nhạy cảm mà có ý xấu ý hoặc gây hại, người tổ
chức họp báo có thể từ chối và xin lỗi vì không thể trả lời. Ví dụ, người tổ chức họp báo có thể nói: “Xin lỗi,
nhưng chúng tôi không thể trả lời câu hỏi của bạn vì nó vi phạm quyền riêng tư hoặc an ninh của chúng tôi.
Chúng tôi mong bạn tôn trọng và hiểu cho. Bạn có câu hỏi nào khác không?” Cách này giúp người tổ chức họp
báo bảo vệ lợi ích và uy tín của mình và tránh những câu hỏi độc hại.
Cách thứ ba: Trả lời một cách khéo léo và lịch sự. Nếu phóng viên hỏi câu hỏi nhạy cảm mà có thể trả lời một
cách khéo léo và lịch sự, người tổ chức họp báo có thể trả lời một cách vừa đủ và không tiết lộ quá nhiều thông
tin. Ví dụ, người tổ chức họp báo có thể nói: “Câu hỏi của bạn khá nhạy cảm, nhưng chúng tôi sẽ cố gắng trả lời
một cách trung thực và minh bạch. Tuy nhiên, chúng tôi xin được giữ bí mật một số chi tiết vì lý do an ninh
hoặc kinh doanh. Bạn có thể hiểu cho chúng tôi được không?” Cách này giúp người tổ chức họp báo tạo ra sự
tin tưởng và thân thiện với phóng viên và tránh những câu hỏi quá đà.

- Qhbc với giới truyền thông phải định nghĩa dc giới truyền thông là gì
Giới truyền thông là một thuật ngữ để chỉ nhóm các cá nhân hoặc tổ chức có nhiệm vụ truyền tải, phổ biến, hoặc
bình luận về các sự kiện, thông tin, ý kiến, hoặc giải trí cho công chúng. Giới truyền thông bao gồm các nhà
báo, biên tập viên, nhà sản xuất, nhà phát thanh, nhà quảng cáo, nhà phê bình, v.v. Giới truyền thông có thể sử
dụng các phương tiện truyền thông khác nhau, như báo chí, tivi, đài phát thanh, Internet, mạng xã hội, v.v. để
thực hiện nhiệm vụ của mình.

Lưu ý: Giả định mình là chuyên viên quan hệ báo chí trong các tình huống trên
Khi đưa quyết định phải thông qua sếp
Press kit: phải có chi phí cho PV

Thông cáo báo chí:


Phần mở đầu: Bao gồm tiêu đề, ngày tháng, địa điểm, và đơn vị/cá nhân/tổ chức viết thông cáo. Phần này giới
thiệu sự kiện, sản phẩm, dịch vụ, hoặc tin tức quan trọng mà thông cáo muốn thông báo cho báo chí và công
chúng12.

● Phần thân bài: Bao gồm các thông tin chi tiết, bổ sung, hoặc giải thích về nội dung chính của thông
cáo. Phần này có thể có những trích dẫn từ người quan trọng, những số liệu thống kê, những hình ảnh,
video, hoặc nguồn tham khảo liên quan123.
● Phần kết thúc: Bao gồm lời cảm ơn, chữ ký, và thông tin liên lạc của người viết thông cáo. Phần này
giúp báo chí và công chúng có thể liên hệ với người viết thông cáo nếu có thắc mắc hoặc yêu cầu gì1 2.
1. Soạn Thông Cáo Báo Chí
1. Nguồn tin: Tên, địa chỉ, thông tin liên lạc của tổ chức, cá nhân ra TCBC:
thường là logo và tên của tổ chức công ty phóng viên có thể xác định được
ngay đơn vị nào.
2. Tên văn bản THÔNG CÁO BÁO CHÍ: Cần ghi rõ thể loại là THÔNG
CÁO BÁO CHÍ, không ghi chung chung là thông tin hoặc nội dung chương
trình.
3. Tiêu đề: Khái quát nội dung chính của TCBC. Tiêu đề nên được viết chữ in
hoa, bôi đậm, cỡ chữ lớn hơn phần nội dung.
4. Thời gian, địa điểm ra thông báo. Có 2 cách: Dòng thời gian, địa điểm bắt
đầu đoạn một của TCBC. Thời gian, địa điểm đơn giản là thành phố nơi
TCBC được viết và thời gian viết TCBC.
5. Nội dung chính: Thường gồm 4 đoạn:
Đoạn 1: Tóm tắt tất cả thông tin chính, cung cấp các thông tin trả lời cho
câu hỏi: Who, When, Where, What
Đoạn 2: Nêu các chi tiết, hoạt động quan trọng của sự kiện. Trả lời cho câu
hỏi Which, How.
Đoạn 3: Phần này mình thường hỏi bạn Trưởng BTC về lý do thực hiện
chương trình hoặc ý nghĩa, tác động mà chương trình mang lại.
Đoạn 4: Kết thúc bằng cách nhắc lại tiêu đề hoặc thông tin thêm về sự kiện
6. Thông tin về chương trình: Bao gồm tên, lĩnh vực hoạt động, tóm tắt số
lượng dự án đã thực hiện và thành công nổi bật.
7. Thông tin liên hệ: Phần này là thông tin của người đại diện truyền thông,
người mà báo chí sẽ liên hệ khi cần trao đổi thông tin. Bao gồm: Tên, chức
vụ, SĐT, email, địa chỉ fanpage/website của tổ chức, CLB.

Bố Cục:

You might also like