You are on page 1of 18

Giới thiệu nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Thiên truyện mở đầu là hoàn cảnh bất hạnh của người phụ nữ tên Mị nơi núi rừng Tây Bắc. Trước đây Mị vốn
là cô gái xinh đẹp, cô là người có nhan sắc, có năng khiếu âm nhạc, được nhiều chàng trai theo đuổi. Ở người
con gái ấy luôn ngập trần khao khát yêu đương, khát khao cuộc sống… Cũng vì thế, trái tim Mị đã bao lần bồi
hồi theo những âm thanh hò hẹn của người yêu.
Thế nhưng, phải chăng hồng nhan thì thường bạc mệnh? Ước mơ được tự do, được yêu thương và hạnh phúc
tưởng chừng rất giản đơn ấy mà Mị cũng không có được. Mị xinh đẹp tài hoa ấy phải sống một cuộc đời bạc
mệnh. Người con gái vùng sơn cước đó để giải cứu người cha của mình đã lấy thân báo đáp để trở thành người
con dâu gạt nợ, sống trong cảnh bán mình tủi nhục.
Hình ảnh người con gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Cuộc sống của Mị như
nào khiến con người ấy phải cam chịu đến vậy? Dường như đấy là sự thể hiện của việc buông xuôi số phận bị
kịch và đầy u tối. Một cuộc hôn nhân cưỡng bức với người đàn ông tên là A Sử đã giết chết sự tươi vui và lạc
quan của cô gái ấy.
Đồng tiền của nhà thống lý và cái chữ hiếu lớn lao kia đã biến Mị thành cô con dâu gạt nợ đầy nước mắt. Ấy
vậy mà nàng đâu có được sống cuộc đời thực sự của một nàng dâu trong phủ thống lý. Thay vào đó, Mị sống
lầm lũi như một nô lệ không hơn không kém. Phải đến khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông,
người đọc mới cảm nhận được hết nỗi đau đớn trong tâm hồn cũng như khát vọng thoát khỏi cuộc sống này của
Mị.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông và hình ảnh minh họa
Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa đông
Để hiểu rõ hơn về nhân vật này, chúng ta hãy cùng phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông. Các tình
tiết diễn biến trong tác phẩm đã khắc họa chân thực và rõ nét nhất về người con gái nơi núi rừng Tây Bắc này.
Mị trước đêm tình mùa đông
Trước đêm tình mùa đông ấy, Mị đã phải chịu biết bao tủi nhục, bao đầy đọa áp chế. Bởi đã từng có lúc nàng
muốn ăn lá ngón để kết thúc cuộc sống tù tùng này. Những nỗi khổ đau mà nàng đã trải qua khiến người phụ nữ
này trở thành người “vô hồn” không còn cảm quan về thời gian cũng như không gian. Kiếp sống này, với Mị, có
khác chị với con trâu, con ngựa?
Tuy nhiên, sức sống bất diệt của niềm tin và khao khát hạnh phúc trong Mị vẫn chưa hoàn toàn bị dập tắt. Khi
phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông, chúng ta không thể quên hình ảnh trước đó Mị vẫn thường
ngồi xuống giường và trông ra cửa sổ. Hành động nhỏ ấy chứng tỏ tâm hồn Mị vẫn luôn hướng về những điều
tốt đẹp, vẫn luôn ẩn chứa khát khao sống thực sự dù nó là mong manh vô định.

Mị với cuộc trỗi dậy lần thứ nhất


Sức sống và hi vọng nhỏ nhoi ấy có thể bị dập tắt vĩnh viễn, nhưng cũng có thể bùng lên mạnh mẽ bất diệt.
Dưới những tác động bên ngoài trong đêm xuân cùng với tiếng sao đã thôi thức con người Mị của ngày xưa…
Mùa xuân năm ấy đẹp lắm. Dưới ngòi bút tài hoa của Tô Hoài, không gian ấy thật gợi cảm biết bao. Khi phân
tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, chúng ta không thể quên tâm hồn tưởng chừng cằn cỗi ấy đã thức
tỉnh như nào.
Một đêm tình mùa xuân với không gian rộn rã sắc màu, tiếng sao réo rắt tha thiết những âm thanh du dương xưa
đã đánh thức cô Mị của ngày xưa. Từng cung bậc tâm trạng của nhân vật cứ tiến triển mỗi lúc một lên cao. Ban
đầu Mị nhâm nhẩm bài hát cũ khi nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, rồi Mị lại uống rượu rồi hoài niệm về những
kí ức xa xưa, thời con gái tươi đẹp của tự do và yêu đương ấy…
Mị lại ý thức được cuộc sống hiện tại, rồi bỗng dưng cô gái ấy lại muốn được đi chơi. Ấy vậy mà sợi dây trói vô
tình của A Sử đã khiến thân xác Mị đau đớn không thể đi xa. Tuy nhiên, A Sử, nhà thống lý Pá Tra hay sợi dây
trói có thể bó buộc thân xác của Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn phơi phới trong đêm tình mùa xuân ấy.
Chất men rượu đã đánh thức phần kí ức đã từng có của Mị. Lúc ấy Mị đã vui sướng biết bao khi được sống với
về những ngày trước, quãng thời gian của tuổi thanh xuân, của tự do, của yêu thương với những tiếng sáo tình
duyên. Mị uống rượu và thổi sáo. Bỗng chợt cô gái của năm ấy đã trỗi dậy và nhận ra mình vẫn còn rất trẻ.
Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, chúng ta thấy được sự tương phản và đối lập giữa vẻ đẹp
nên thơ của khung cảnh đêm xuân với hiện thực tàn khốc, với kiếp sống đọa đầy của người con dâu hờ đã khiến
Mị đau khổ ứa nước mắt. Người phụ nữ ấy muốn đi chơi, muốn được tự do, muốn thoát ra khỏi cái ô cửa tủi
nhục này!.
Ban đầu ý định giải thoát của nàng không thành do chính tay người chồng hờ kết thúc. A Sử trói nàng lại một
cách đầy đau đớn với một thúng sợi đay và bằng chính mái tóc của nàng khiến nàng không cựa quậy được.
Nhưng A Sử chỉ có thể trói buộc thể xác chứ không làm gì được tinh thần và sức sống của nàng. Cuộc trỗi dậy
lần thứ nhất của Mị không thành.
Dù lần này chưa thoát ra khỏi địa ngục trần gian ấy, nhưng Mị đã không còn là con trâu con ngựa lùi lũi trong
xó cửa nữa. Những khoảnh khắc tươi đẹp của thanh xuân đã trở về trỗi dậy mãi trong tâm hồn Mị. Và bất chợt,
Mị nhớ lại hình ảnh người đàn bà từng bị trói cho đến chết trong căn nhà này. Hơn bao giờ hết, Mị cảm thấy
muốn sống và tiếp tục sống với hạnh phúc từng có của mình.
Ở đoạn văn này, hành động của nhân vật rất ít, chủ yếu là những diễn biến tâm trạng của Mị. Tuy nhiên người
đọc vẫn bị cuốn hút bởi một người con gái với tâm hồn cằn cồi già nua đang từ từ trỗi dậy mạnh mẽ. Khi người
đọc phân tích nhân vật mị trong đêm tình mùa đông sẽ thấy được diễn biến phức tạp trong tâm trạng của người
con gái Tây Bắc này.

Mị với cuộc trỗi dậy lần hai khi cởi trói cho A Phủ
Càng phẫn uất trước tình cảnh thực tại, khát vọng sống của người con gái sơn cước ấy lại càng mạnh mẽ hơn
bao giờ hết. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, chúng ta không thể quên diễn biến tâm trạng
của Mị theo từng tình tiết của thiên truyện.
Mị và A Sử không có lòng với nhau, không có tình yêu trai gái mà vẫn phải ở với nhau để nàng thành người con
dâu hờ. Để rồi trong đêm xuân với những âm thanh tươi đẹp ấy, quá khứ và hiện tại cứ đan xen trong tâm hồn
Mị. Nhà văn dường như đã nhập thân vào nhân vật của mình để mà để mà khắc họa nên những chi tiết cực kì
đắt giá. Phân tích nhân vật mị trong đêm tình mùa đông đã cho người đọc thấy được sự hóa thân của nhà văn
trong từng dòng tâm trạng nhân vật…
A Phủ vốn là chàng trai nghèo mồ côi cả cha mẹ, chỉ vì đánh A Sử mà bị bắt về làm nộ lệ nhà thống lý Pá Tra
để rồi phải chịu cuộc sống tủi nhục của kiếp trâu ngựa. Chỉ vì một lần để hổ vồ mất bò mà bị bắt trói bỏ đối mấy
ngày liền trong đêm lạnh lẽo. Khi thổi lửa hơ tay, đã mấy lần Mị thấy tình cảnh của A Phủ nhưng vẫn thản
nhiên dửng dưng.
Có lẽ tâm hồn của Mị sẽ mãi là tảng băng lạnh lùng vô cảm nếu như không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ.
Nước mắt có lẽ đã gọi nước mắt, đã kết nối hai tâm hồn đồng điệu giữa họ. Mị nhớ lại đêm tình bị A Sử trói. Để
rồi thương thân phận mình bao nhiêu, Mị lại thương A Phủ. Sự đồng cảm giữa họ là chính sự tương thân giữa
những con người có cùng số phận. Niềm căm phẫn cha con thống lý Pá Trá lại sục sôi hơn bao giờ hết.
“A Phủ” tiếng gọi cất lên chính là tiếng nấc nghẹn ngào. Tâm lý của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa thật
tài tình bởi từng cung bậc cảm xúc đều vô cùng chân thực làm sao. Mị từng nghĩ có thể mình sẽ lại bị trói lại và
phải chết thay trên cái cọc này nếu như nàng cởi trói cho A Phủ và bị cha con A Sử bắt. Nghĩ đến đó nàng sợ,
một nỗi sợ miên man. Ấy vậy mà tình thương người, khát khao giải phóng cuộc sống tủi nhục này lớn hơn bất
cứ điều gì khác. Để rồi, Mị hành động quyết liệt và đầy táo bạo : cởi trói cho A Phủ.
Mị bỗng chợt hốt hoảng khi cắt dây trói cho A Phủ và chỉ kịp thều thào “đi ngay”. Lặng đi trong bóng tối một
lúc, nàng cũng bất chợt chạy đuổi theo A Phủ. Hành động đột ngột này thực ra là rất hợp lý bởi đó là lựa chọn
duy nhất của nàng lúc này. Nếu không, chính nàng sẽ phải thay thế A Phủ chết ở cái cọc khô ấy. Khi phân tích
nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng lo sợ này của Mị khi giải cứu cho A
Phủ.
Là cô gái khát khao sống mãnh liệt, mong ước tự do và mơ ước hạnh phúc nên nàng không thể chấp nhận cúi
đầu chờ chết ở nơi địa ngục trần gian này. Mị đã cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài ngay trong đêm tình mùa
xuân ấy. Cái đêm “định mệnh” ấy chính là nguồn động lực vô song giúp nàng chiến thắng tất cả mọi nỗi lo sợ,
mọi cường quyền và thần quyền tàn bạo áp bức. Sức mạnh mãnh liệt ấy đã giải cứu cho Mị và A Phủ, thay đổi
cuộc sống của họ những ngày về sau.
Từ một cô gái bị chà đạp không thương tiếc, lầm lũi sống vô cảm như kiếp trâu ngựa thì Mị đã dám đứng lên
làm chủ cuộc đời của mình. Việc phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông khiến người đọc thêm trân
trọng ước mơ và khát khao sống của các nhân vật. Nhưng có lẽ, điều chạm đến trái tim của chúng ta sâu đậm
nhất chính là sức sống tiềm tàng bất diệt, âm thầm đầy mãnh liệt của Mị.

Nhận xét khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông
Hình ảnh Mị với những vẻ đẹp tâm hồn cùng với diễn biến tâm trạng theo từng giai đoạn đã được nhà văn Tô
Hoài miêu tả một cách sống động và chân thực như từng hơi thở. Phải là người có tấm lòng nhân đạo sâu sắc
đến độ hóa thân thành nhân vật của mình mới có được những lời văn thấm thía và xúc động đến thế! Là một cô
gái vốn xinh đẹp có tài năng, ấy vậy mà sự bất hạnh lại bủa vây Mị. Thế nhưng, chính trong hoàn cảnh ấy, trong
từng hồi diễn biến tâm trạng của Mị mà người đọc dần nhận ra tính cách đáng trân trọng của nhân vật.
Có thể nói, tác phẩm Vợ chồng A Phủ là thành quả nghệ thuật mà nhà văn Tô Hoài hình thành trong chuyến đi
bộ đội trên Tây Bắc. Người nghệ sĩ từng bộc bạch “đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho
tôi nhiều quá” Chính tâm sự này đã cho chúng ta thấy tại sao tác phẩm lại thành công đến vậy…
Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông cũng chính là lời tri ân sâu sắc mà Tô Hoài dành tặng cho
mảnh đất và con người Tây Bắc. Hơn hết, nhân vật Mị và A Phủ nói riêng, tác phẩm Vợ chồng A Phủ và
tập truyện Tây Bắc nói chung là một bức tranh chân thực đầy cảm động về cuộc sống tủi nhục, tối tâm và sức
mạnh vươn đến tự do hạnh phúc của đồng bào nơi đây.
Có thể nói, giá trị của tác phẩm một phần đã được kết tinh thâm thúy ở hình tượng các nhân vật, đặc biệt khi
nhà văn phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông. Những nhà văn trong trào lưu hiện thực phê phán,
thông thường, chỉ thấy sự bất lực và đầy cam chịu của con người. Thì những nhà văn Cách mạng, tiêu biểu là
Tô Hoài lại phát hiện ra sự hồi sinh mãnh liệt trong tâm hồn họ ngay trong hoàn cảnh cùng cực nhất.
Tô Hoài là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam. Với tập truyện Tây Bắc cùng với sự xây
dựng hình tượng các nhân vật, tác giả đã rất thành công khi tái hiện lên một cô gái từng chết dần chết mòn trong
thân phân cô dâu gạt nợ – nhưng cũng là một người con gái sơn cước tràn đầy sức sống bất diệt. Quả thực, khi
phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông, chúng ta lại càng ngưỡng mộ sự tinh tế trong ngòi bút của Tô
Hoài.
Đôi nét về nhà văn Tô Hoài
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, ông sinh năm 1920 tại Hà Đông (nay là Hà Nội). Khác với nhiều bạn đồng
trang lứa, Tô Hoài đã sống đời cơ cực từ ngày còn thơ và mưu sinh vất vả thời trai trẻ. Với tâm huyết với nghề
cầm bút, trong hơn 60 năm, nhà văn đã đóng góp vào nền văn học nước nhà hàng trăm đầu sách ở các thể loại
đa dạng có thể kể đến như: truyện ngắn, truyện dài, hồi kí, kịch bản phim, tiểu luận…
Ngay từ những ngày tháng đầu bén duyên với văn chương, Tô Hoài đã được rất nhiều người biết đến với các tác
phẩm xoay quanh hai đề tài chính là truyện đồng thoại về loài vật và đời sống con người, các tác phẩm nổi bật
trong giai đoạn này là: “Dế Mèn phiêu lưu kí”  (1941), “O chuột” (1944).
Năm 1943, ông tham gia Hội văn hóa cứu quốc và hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực viết văn, làm báo. Sau Cách
mạng tháng Tám, Tô Hoài chuyển hướng ngòi bút sang khắc họa những tâm tình về miền núi và tập trung chia
sẻ về kinh nghiệm sáng tác, viết tiểu luận. Đó là căn nguyên dẫn đến sự ra đời của các tác phẩm ghi dấu ấn
như: “Truyện Tây Bắc” (1953), “Miền Tây” (1967), “Cát bụi chân ai” (1992).
Từ sau kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài có nhiều điều kiện hơn để dành thời gian chăm chút cho nghề viết và
số lượng tác phẩm đồ sộ kể trên chính là thành quả cho sự miệt mài lao động đó. Trong các sáng tác của mình,
Tô Hoài thường tỏ rõ sự hiểu biết của bản thân về phong tục tập quán vùng miền mà đặc biệt là miền núi.
Ông có lối viết hấp dẫn bởi lời văn rất giàu chất trữ tình, ông không chỉ có khả năng miêu tả thiên nhiên đặc sắc
mà còn có tài phân tích tâm lí nhân vật tinh tế. Với nhiệt huyết dành cho văn chương, Tô Hoài hoàn toàn xứng
đáng với Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật năm 1996..

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Xuất thân nghèo khổ của nhân vật A Phủ
Phân tích nhân vật A Phủ, ta thấy đây là chàng trai miền sơn cước vốn sống cuộc đời khoáng đạt, tự do nhưng
chàng A Phủ lại có một số phận hết sức đặc biệt, thậm chí có phần éo le. Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, lại
vô tình trở thành món hàng đổi chác lấy cái ăn cho người khác. Tuy nhiên vì sức vóc khỏe mạnh, “chạy nhanh
như ngựa”, tính tình siêng năng chăm chỉ, làm lụng tài giỏi tháo vát “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày
giỏi và đi săn bò tót rất bạo” nên A Phủ được dân làng xem là “con trâu tốt”.
Những tưởng chịu thương chịu khó thì A Phủ cũng sẽ có một cuộc sống yên ả như bao người. Nhưng do nghèo
khó, phận là kẻ mồ côi nên A Phủ không thể lấy được vợ như suy nghĩ đã ăn sâu vào tiềm thức bao đời của dân
làng “phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng”.
Đã thế, khi phân tích nhân vật A Phủ người đọc còn thấy chàng trai này phải chịu những hủ tục lạc hậu và sự
bất công. Chàng bị phạt vạ vì đánh A Sử – con nhà thống lý. Dĩ nhiên, người chân chất như A Phủ không tự
dưng sinh sự mà đánh con nhà có thế lực như A Sử. Sự thật là do A Sử đã quấy nhiễu cuộc sống của dân làng,
chính điều đó đã khiến cho A Phủ không thể đứng yên nhìn mà không cho hắn một bài học cảnh cáo.
Thế nhưng, thế lực của hắn lại quá lớn nên A Phủ bị bắt sống và chịu hành đày rất tàn nhẫn: “Cứ mỗi đợt bọn
chức việc hút thuốc phiện xong, A phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sung lên,
môi và đuôi mắt giập chảy máu […] Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng
chửi, càng hút”. A Phủ dường như đã trở thành nơi để trút giận, thú vui để tiêu khiển của bọn người giàu có
nhưng nhẫn tâm.
Sự éo le đáng thương không chỉ dừng lại ở đó, trở thành nạn nhân của bạo lực, A Phủ cũng bỗng chốc trở thành
con nợ của nhà thống lí với số nợ kếch xù dưới tài phân tích lắt léo và sự am hiểu luật lệ cặn kẽ của tên thống lí
Pá Tra: “mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo
phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào…” và cuối cùng “cả tiền phạt, tiền thuốc,
tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng”.
Dĩ nhiên, thống lí Pá Tra đủ hiểu có tra tấn A Phủ hơn nữa cũng không thể lấy được từ chàng số tiền ấy. Do
vậy, hắn đã khéo léo gợi ý ngay: “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ” và cũng không
quên dặn dò: “chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời
cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi” mà đây mới thực sự là mục đích chính của hắn vì hắn
biết rõ, được A Phủ làm việc trong nhà thì lợi cho hắn như thế nào. Có lẽ, tên thống lí này đã quen với thói bắt
vạ này nên cách hắn xử lí mới nhanh chóng, suôn sẻ mà thuần thục đến vậy. Thế thì A Phủ còn cách nào khác
hơn ngoài việc chấp nhận điều đó dẫu biết rằng tháng ngày sắp tới cuộc sống chẳng dễ dàng. Phân tích nhân vật
A Phủ, người đọc thương cảm biết bao về số phận của chàng trai ấy.
Những tháng ngày đọa đầy cùng cực của A Phủ ở nhà thống lý
Khi phân tích nhân vật A Phủ, sẽ không khó để đoán được quãng đời tiếp theo của chàng trai này sẽ diễn ra như
nào khi rơi vào vòng vây của gia đình nhà thống lý: trở thành người làm công bị bóc lột tàn nhẫn. Một thân một
mình chàng cáng đáng biết bao nhiêu là việc để trả nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra, nào là “đốt rừng, rồi cày
nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa”, rồi phải “bôn ba rong ruổi ngoài gò trong rừng”.
Công việc chất chồng như thế nhưng mà nhờ có sức khỏe, A Phủ lại đương tuổi sức lực nên “công việc làm hay
đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Nhưng cuộc đời lại lắm điều trớ trêu với A Phủ. Nợ còn nặng gánh, A
Phủ lại phải chịu thêm một cái gông của sự áp bức khi chàng nhận nhiệm vụ trông bò, trông ngựa nhưng lại
không may để hổ bắt mất bò nhà chủ. Quả thật, phân tích nhân vật A Phủ khiến mỗi chúng ta cảm thấy xót xa
cho số phận của nhân vật.
Khi đó A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, rồi quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng chàng trai ấy cũng
đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng
nước lấp lánh bò xuống ở hai hõm má nơi đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.
Vậy là “A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt dựa lưng vào cái cột trong góc nhà rồi lấy dây mây quấn từ chân đến tận
vai, chờ đến khi nào bắt được hổ mới tha”. Đến đây, ta không khỏi xót lòng khi phân tích nhân vật A Phủ, bởi
chàng trai ấy đã phải sống kiếp người thấp cổ bé họng, dẫu có lương thiện, hiền lành nhưng cuộc sống lại không
hề bớt đi những sóng gió, khổ đau.
A Phủ là chàng trai gan góc kiên cường và có sức phản kháng mãnh liệt
Tưởng chừng khi chịu đọa đày về thể xác, áp bức về tinh thần trong cả một quãng thời gian dài để rồi sẽ
mãi “quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá” đến hết đời nhưng thật may mắn, con người bản lĩnh của A Phủ
hết lần này đến lần khác sống dậy để lại một lần gan góc, mạnh mẽ và giàu sức sống.
Phân tích nhân vật A Phủ, ta nhận thấy đây là một chàng trai mạnh mẽ gan góc ngay từ khi còn nhỏ. Nét tính
cách này có sự nhất quán với bản tính của A Phủ. Trong hoàn cảnh “anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A
Phủ cũng chết” vì đậu mùa và “còn sót lại có mình A Phủ”, lại còn bị người làng đói bụng bắt đem bán để đổi
lấy thóc của người Thái ăn nhưng cậu bé mười tuổi côi cút ấy lại không hề tỏ ra sợ sệt. Trái lại, A Phủ còn “gan
bướng, không chịu ở dưới đồng thấp để rồi trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”.
Sau đó, khi đã trở thành một chàng thanh niên đã biết “cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao,
quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng” thì A Phủ cũng biết phản ứng mạnh mẽ để bênh vực cái đúng.
Chàng đã không e dè mà “chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ,
kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp” tên A Sử ăn không ngồi rồi, hay đi gây sự. Khi phân tích nhân vật
A Phủ, ta thấy hành động này diễn ra đột ngột mang tính bộc phát nhưng đã thể hiện sự dũng cảm ở chàng trai
nhận thức rõ ràng sự phải trái.
Trong lần bị trói vì để hổ vồ mất bò, A Phủ tiếp tục bị hành hạ và dường như nỗi đau khổ, chua chát cho phận
đời có lúc đã vượt lên trên bản lĩnh của chàng trai nên mới dẫn đến nỗi khi Mị nhìn sang chàng thì thấy “một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống nơi hõm má đã xám đen lại”. Đến đây, tưởng rằng A Phủ sẽ có cơ hội trút hết
nỗi đớn đau theo lẽ thường mà người ta vẫn hay làm khi có người đến bên, dù chưa biết rằng họ có đồng cảm
với mình hay không, vậy mà khi Mị rón rén bước lại, “A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.
Phân tích nhân vật A Phủ, ta thấy rõ ràng hơn cả cho cá tính mạnh mẽ của chàng trai này phải kể đến chi tiết
cuối truyện – chi tiết về thái độ và hành động khi chàng được Mị cởi trói. Mặc dù kiệt sức đến mức “khuỵu
xuống, không bước nổi” nhưng lòng ham sống trong A Phủ đã trỗi lên mạnh nhất có thể để chàng “quật sức
cùng lên, chạy”.
Phân tích nhân vật A Phủ, ngược đọc nhận ra rằng chàng trai ấy đã ý thức được một điều rất rõ ràng “cái chết
có thể đến nơi ngay”. Cũng tỉnh táo hơn lúc nào hết, A Phủ nhận thấy rõ cũng cần lắm việc san sẻ cơ hội giải
thoát cho người phụ nữ đã cứu mình nên mới cùng Mị “lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi”. Như vậy, A
Phủ cùng với Mị đã tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Chính khát vọng và sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh
ngộ đã thổi bùng trở lại khát khao tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.
Thế mới thấy, khi bị đẩy đến cùng đường thì đó cũng chính là lúc khát khao sống của con người trở nên mạnh
mẽ nhất, quyết liệt nhất. Phân tích nhân vật A Phủ, ta nhận ra chính khát khao và ý thức muốn được sống đã hối
thúc nhân vật tìm kiếm cho bản thân một tia sáng cuộc đời. Và A Phủ là một trường hợp tiêu biểu như vậy.

Nhận xét giá trị của tác phẩm khi phân tích nhân vật A Phủ
Theo một cách tổng quát, khi phân tích nhân vật A Phủ ta có thể thấy tác phẩm này dưới bàn tay tài hoa của nhà
văn Tô Hoài đã trở thành một bức tranh chân thực lột tả hết được mọi ngóc ngách đời sống của con người miền
núi. Họ là hiện thân của những số phận bi thảm chịu sự áp bức bóc lột tàn bạo của bọn phong kiến, thực dân bên
cạnh những hủ tục lạc hậu của chính đồng bào mình.
Tuy nhiên, tác giả vẫn có một niềm tin mãnh liệt vào họ – những người không thôi hi vọng về một tương lai
mới. Vì vậy chính ông đã thể hiện ý thức tự giác đấu tranh nơi họ để giành lấy hạnh phúc. Để chuyển tải nội
dung đó, Tô Hoài đã dùng cách khắc họa nhân vật sinh động cùng nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc. Ngôn từ
chọn lọc và phong phú cũng đã giúp ông thành công trong việc tạo dựng nên khung cảnh mang phong vị miền
núi đậm đà. Phân tích nhân vật A Phủ cũng giúp người đọc cảm nhận được tài năng cùng với tâm huyết của nhà
văn.
Nếu như Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo và đầy quyết liệt. Có thể thấy
khi miêu tả A Phủ, Tô Hoài đã phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể và ấn tượng để khắc họa rõ
nét đặc điểm cũng như tính cách của nhân vật. Cùng với nhân vật Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung
con người miền núi Tây Bắc trong xã hội thực dân phong kiến thối nát. Đó là những số phận đau thương nhưng
giàu tình cảm, sức sống và khát vọng…
Mỗi người đọc có lẽ đều mong một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị, bởi họ chính là những con người
không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi
nhà lý thống trong đêm tối đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách
mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lí thống, gặp được ánh sáng của Cách
mạng nơi cuối đường.
Kết bài: Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ trong tác phẩm của
mình. Người đọc không chỉ ấn tượng với sức sống tiềm tàng của Mị mà còn bất ngờ về sức sống ấy ở cả A Phủ.
Nhìn lại một lần nữa, có thể thấy Mị và A Phủ đã hoàn thành bức chân dung về những con người nơi miền núi
Tây Bắc. Cùng với Mị, nhân vật A Phủ đã giúp người đọc có một cái nhìn đầy đủ về số phận của con người dù
đau thương nhưng dạt dào tình cảm và khát khao hạnh phúc.
Mở bài: Số phận người nông dân trong xã hội luôn là nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn. Ở người nông
dân luôn có những nét bình dị chất phác lại vừa đại diện tiêu biểu cho tính cách con người Việt Nam – chịu
thương, chịu khó, cần cù và nhân hậu. Tuy vậy, họ lại là đối tượng chịu nhiều áp bức bất công. Cũng bởi vậy,
không biết từ bao giờ người nông dân đã nhận được sự quan tâm của những người nghệ sĩ. Đó là hình ảnh chị
Dậu tuy rơi vào hoàn cảnh khốn khó nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp nhân cách trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, là
Chí Phèo rơi vào bi kịch tha hóa nhưng vẫn còn chút lương tri khát khao hướng thiện trong tác phẩm “Chí
Phèo” của Nam Cao. Và đó còn là anh Tràng ngờ nghệch nhưng giàu tình yêu thương trong truyện ngắn “Vợ
nhặt” của Kim Lân. Thông qua nhân vật Tràng, số phận bi kịch của con người trong xã hội cũ cũng như những
vẻ đẹp khuất lấp dần được hé lộ. Cùng cảm nhận về nhân vật Tràng qua bài viết dưới đây.
Giới thiệu về tác giả Kim Lân cùng tác phẩm Vợ nhặt
Với truyện ngắn Làng nói riêng hay những tác phẩm văn học khác nói chung, để thấy được giá trị nội dung và
nghệ thuật cũng như nội dung mà nhà văn muốn truyền tải, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả
và tác phẩm. Trước khi cảm nhận về nhân vật Tràng thì chúng ta cần ghi nhớ một số điểm như sau:
Đôi nét về nhà văn Kim Lân
Kim Lân sinh năm 1920, mất năm 2007. Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Năm 1944,
Kim Lân tham gia hội văn hóa cứu quốc, sau đó ông lại liên tục hoạt động văn nghệ để phục vụ kháng chiến.
Kim Lân tuy không sáng tác nhiều nhưng mỗi tác phẩm của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, ghi
dấu ấn trên văn đàn. Trước cách mạng tháng tám, Kim Lân chủ yếu viết về cuộc sống hiện tại tiêu điều ảm đạm
của nông thôn Việt Nam nhưng đồng thời ông cũng tái hiện lại những nét sinh hoạt văn hóa phong phú. Từ đó,
ông thể hiện vẻ đẹp nội tâm của người nông dân trước cách mạng tuy sống trong đói khổ nhưng vẫn yêu đời vẫn
giữ được vẻ đẹp của mình.
Sáng tác của Kim Lân trong giai đoạn này có thể kể đến Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Đôi chim
thành, Con mã nhái, Chó săn,… Sau cách mạng tháng tám, ông tiếp tục làm báo viết văn. Tác phẩm phải kể đến
trong giai đoạn này là các tập truyện ngắn Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962). Năm 2001, ông
được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Tìm hiểu về truyện ngắn Vợ nhặt
Truyện ngắn Vợ nhặt  được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tác phẩm này có tiền thân là tiểu thuyết Xóm
ngụ cư, được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tiểu thuyết Xóm ngụ cư lấy bối cảnh nạn đói
1945 nhưng sau đó bị lạc mất bản thảo. Năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên tác
phẩm hoàn chỉnh như hiện tại.
Trong quá trình cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác giả đã gây một ấn tượng
mạnh mẽ cho người đọc. Bởi lẽ, cưới vợ vốn là một việc trọng đại trong đời người, được tiến hành một cách
thận trọng trang nghiêm. Đối lứa đến với nhau thường thông qua một quá trình tìm hiểu kỹ càng hay có sự mai
mối. Thế mà, ở đây lại là nhặt vợ.
Nhặt thường gợi ra việc vô tình nhặt được một cách dễ dàng, thường là những thứ nhỏ nhoi không có giá trị. Có
ai có thể tưởng tượng được vợ cũng có thể nhặt được như nhặt rơm nhặt rác bên đường. Nhan đề “Vợ nhặt” đã
phần nào nói lên thân phận rẻ rúng bèo bọt của người phụ nữ trong hoàn cảnh xã hội đương thời – nạn đói 1945.
Truyện kể về một gia đình nghèo trong nạn đói 1945. Tràng là một thanh niên chưa vợ, sống cùng mẹ ở xóm
ngụ cư. Trong lúc cái đói đang diễn ra, thì Tràng lại dắt thêm một người phụ nữ về nhà làm vợ. Trước tình cảnh
ấy, không chỉ người dân xóm ngụ cư mà cả mẹ Tràng là bà cụ Tứ cũng rất ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng với
tấm lòng cảm thông sâu sắc, mẹ Tràng đã đồng ý. Và họ bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới với niềm tin hy
vọng về tương lai.
Cảm nhận về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
Hoàn cảnh xuất thân của nhân vật Tràng
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy Tràng là người dân ngụ cư nghèo. Nghĩa là Tràng thuộc tầng lớp dưới
đáy xã hội, thuộc hạng cùng đinh lúc bấy giờ. Tràng cũng không có công việc ổn định, anh làm nghèo đẩy xe bò
mướn. Từ công việc ấy, ta cũng thấy được cuộc sống của Tràng cũng vất vả, không khấm khá được bao nhiêu.
Không có địa vị xã hội, không có công việc ổn định, ngay cả ngoại hình của không có nét nổi bật. Tràng có
ngoại hình bình thường nếu không muốn nói là thô kệch. Nhà cửa luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
mọc lổn nhổn những búi có dại”. Cảm nhận về nhân vật Tràng ta còn thấy sau tấm phên rách nát là “niêu bát,
sống áo vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất”, cuộc sống bấp bênh đang bị cái đói đe dọa.
Nhà văn Kim Lân qua tình huống truyện đặc sắc đã “đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết” (Nguyễn
Đăng Mạnh) để nhân vật tự tỏa sáng từ chính hoàn cảnh éo le của mình. Cuộc đời Tràng là một số không tròn
trĩnh, mọi thứ diễn ra mang tính tạm bợ, qua ngày qua tháng. Hoàn cảnh ấy còn bi thảm hơn trong những ngày
đói. Một không khí u ám tiêu điều. Xung quanh nơi xóm ngụ cư, Tràng ở nhà cửa thì “úp úp, tối om, không nhà
nào có ánh đèn, lửa”, “tối sầm lại vì đói khát”. Trong “không khí vẩn lên vì mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi
ngây của xác người”, thì những thanh âm đáng sợ thê lương vang lên.
Đó là tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”, tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Người
đói khắp nơi “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp liều
chợ”.  Người “chết như ngả rạ”, không sáng nào “không lại gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”,
“bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma ấy”.
Phân tích và cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy cuộc sống của nhân vật này vốn đã khó khăn nay lại càng khó
khăn hơn gấp bội bởi nạn đói. Tràng cũng như những người dân khác trong xóm ngụ cư vẫn cứ lê lết từng ngày
từng ngày trong nạn đói ấy. Họ đang chờ đợi cái chết hay chờ đợi một tươi lai tương lai, ta cũng không biết nữa.
Hoàn cảnh ấy đã tô đậm hiện thực cuộc sống người dân nghèo trong nạn đói 1945, thể hiện sự cảm thông sâu
sắc của nhà văn dành cho những kiếp người nghèo khổ lầm than. Thế nhưng, hoàn cảnh ấy còn góp phần thể
hiện vẻ đẹp của Tràng – giàu tình yêu thương và lòng vị tha.
Nhà văn Thạch Lam từng cho rằng “Cái đẹp nằm trong cuộc sống. Cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ
hẻm, cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, và cái đẹp tiềm tàng che lấp đi sự vật”. Phân tích và cảm nhận về
nhân vật Tràng, người đọc cũng nhận ra bên lề sự ngờ nghệch, bên lề cuộc sống túng quẫn khi bị cái đói rình
rập đến tận cùng thì Tràng cũng như những người nông dân khác vẫn luôn ánh lên vẻ đẹp của sự chân chất, giàu
niềm tin và hi vọng.
Tràng là nhân vật có tính cách nhân hậu và cởi mở
Giữa lúc đói, anh vẫn sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc khi chỉ biết người đàn bà ấy qua vài câu
nói đùa tầm phơ tầm phào mà thôi. Tràng đã quyết định cưu mang cô gái cưới cô về làm vợ. Tràng còn đưa cô
ra chợ mua vài thứ lặt vặt rồi dắt cô về nhà.
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy Tràng đã chấp nhận nuôi người phụ nữ, dù lúc đầu anh nghĩ “đến cái
thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, dù vẫn có những lo sợ cho cuộc sống quá bấp
bênh, khó khăn nhưng cuối cùng anh chỉ “tặc lưỡi một cái: Chậc, kệ!” – cái chậc lưỡi muốn đánh cuộc một lần
với cái đói để có được một cuộc sống bình thường như bao người, cái chậc lưỡi sẵn sàng cưu mang người khác
trong cơn hoạn nạn.
Việc Tràng lấy vợ vốn đã là một điều kỳ lạ. Kỳ lạ hơn, Tràng lại quyết định lấy vợ trong hoàn cảnh gia đình
đang khốn khó vì nghèo vì đói. Bản thân anh cũng phải làm lụng chạy vạy từng bữa ăn, nay lại còn “đèo
bòng” thêm người vợ nhặt. Họ sẽ sống thế nào và liệu có thể vượt qua được nạn đói đang đe dọa tính mạng của
cả xóm ngụ cư hay không?
Tuy ý thức được điều đó, nhưng Tràng vẫn bỏ qua mọi suy nghĩ về hiện tại nghèo khó về tương lai mịt mờ mà
đi đến một quyết định ít ai làm được – cưu mang người phụ nữ xa lạ. Nếu không phải là một người có tấm lòng
nhân hậu, sao Tràng có thể hào phóng đãi người đàn bà mới quen ấy một bữa ăn, sao Tràng có thể chấp nhận
người đàn bà kia về chung sống với mình.
Tràng sống trong hoàn cảnh nghèo khó, túng thiếu, bị xem thương nên hơn ai hết Tràng hiểu được cảm giác của
người vợ nhặt lúc bấy giờ – chấp nhận bỏ qua danh dự chỉ bản thân để được một bữa ăn no. Thấu hiểu và thông
cảm cho người phụ nữ là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành động có vẻ lạ lùng này của Tràng. Nếu
người ta đến với nhau bằng tình yêu nam nữ, thì trước hết Tràng và người phụ nữ xa lạ này lại đến với nhau
bằng tình thương, tình người trong cơn hoạn nạn.
Có thể nói khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy nhân vật này như một chiếc phao cứu sinh cho người vợ
nhặt. Tràng đã làm một điều tốt mà ít người có thể làm được trong lúc mạng sống luôn bị đe dọa bởi nạn đói
này nhưng Tràng không vênh váo vì điều đó hay cũng không cần báo đáp. Đó mới chính là vẻ đẹp của người
nông dân nghèo. Tuy họ không có gì cả nhưng vẫn sẵn sàng cứu giúp người khác. Họ không cần ai tuyên dương
vì việc làm tốt của mình. Tràng là hiện thân chân thật nhất của vẻ đẹp ấy.
Tràng là người có khát khao và ý thức xây dựng hạnh phúc
Cảm nhận về nhân vật Tràng ta cũng thấy, câu nói nửa đùa nửa thật của anh với người vợ nhặt cũng đã ẩn chứa
niềm khát khao tổ ấm gia đình và anh đã đánh liều đưa một người đàn bà xa lạ về làm vợ. Tràng tuy ngờ nghệch
nhưng đã có ý thức chăm sóc gia đình ngay từ khi chưa đưa vợ về nhà. Trước khi đưa thị về, Tràng “đưa thị
vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị vài cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”.
Từ trong sâu thẳm tiềm thức, con người ấy vẫn khát khao được hạnh phúc bất chấp sự đe dọa của cái đói cái
chết đang chực chờ cướp đi tính mạng con người. Niềm khát khao ấy cũng chính là một nguồn động lực to lớn
giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Trên đường về nhà, xen lẫn với tâm trạng vui sướng là
những hành động vụng về, lóng ngóng “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một
mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng ta cũng nhận thấy, từ khi ý thức thực được mình có vợ, Tràng như một con
người khác. Niềm vui có vợ đã khiến Tràng quên đi nỗi lo lắng, bất an với cuộc sống hiện tại. Nếu thường ngày,
cái đói khiến bước chân Tràng trở nên nặng nhọc và mệt mỏi thì hôm nay vẫn trên con đường quen thuộc, vẫn
lúc nạn đói đang diễn ra nhưng Tràng lại vô tư yêu đời hơn bao giờ hết… Trước con mắt tò mò của người dân
xóm ngụ cư, Tràng không hề lúng túng bối rối mà ngược lại Tràng “thích lắm, cái mặt cứ vênh vênh như tự đắc
với chính mình”.  Tràng hãnh diện, hạnh phúc với mình của hiện tại.
Tràng được tận hưởng niềm vui mà trước đây chưa bao giờ anh dám nghĩ tới. Bởi lẽ, khi phân tích kĩ cũng như
cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy không có cô gái nào lại đồng ý lấy một anh chàng ngờ nghệch không có
nghề nghiệp ổn định lại là người dân xóm ngụ cư kia chứ. Nhưng những điều tưởng chừng không bao giờ diễn
ra ấy lại xảy ra, cứ như trong một giấc mơ. Khi chờ mẹ về, anh ngượng nghịu lúng túng “Tràng đứng tây ngây
ra giữa nhà một lúc, rồi chợt hắn thấy sờ sợ”.
Thậm chí anh chưa dám tin chắc là mình đã có vợ, khi hạnh phúc đến quá bất ngờ thường khiến cho con người
cảm thấy không chân thật “nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.  Khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ “kìa nhà tôi nó chào u” nghe như có cái gì nỏ ruột
nở gan, như một sự xác nhận rành rọt, một lời khẳng định chắc chắn về việc Tràng đã có vợ.
Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, khi thức dậy Tràng thấy  “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc
mơ đi ra”. Ngôi nhà đã có những thay đổi – nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm “hai cái ang nước vẫn để
khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch.”, mấy
chiếc áo quần rách bươm đã được đem ra phơi.
Mẹ thì rạng rỡ tươi tỉnh, vợ thì không còn vẻ chao chát, đanh đá. Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy khi
đứng trước những sự thay đổi ấy, Tràng cảm thấy thấm thía vô cùng, cảm động yêu thương và muốn gắn bó với
gia đình đồng thời cũng thấy mình cần có trách nhiệm với gia đình “Bỗng nhiên hắn lại thấy hắn yêu thương và
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ ở cái nơi đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm, che mưa che nắng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận là phải lo
lắng cho vợ con sau này.”.
Tràng đã xúc động vô cùng trước sự thay đổi của căn nhà và vào giây phút ấy Tràng thấy mình trưởng thành
nên người. Niềm vui sướng ấy còn gắn với ý thức về bổn phận trách nhiệm với gia đình nhỏ bé của mình. Từ
một con người chỉ nghĩ đến việc làm sao cho khỏi đói, làm sao sống qua được hết ngày hôm nay, Tràng đã bắt
đầu suy nghĩ đến tương lai.
Tràng cũng nghĩ tới những sự đổi thay trong tương lai cho dù vẫn chưa có ý thức thật đầy đủ khi trong đầu hiện
lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới cùng với đoàn người phá kho thóc. Quả thật, tuy Tràng lấy vợ
không có hình thức trang trọng nhưng lại rất nghiêm túc  trong suy nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mình đối
với gia đình.
Nhận xét tác phẩm khi cảm nhận về nhân vật Tràng
Khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy dù nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm không với vẻ đẹp về ngoại
hình cũng không có những hành động hay lời nói mạnh mẽ gây ấn tượng, mà Tràng xuất hiện một cách chân
thật, giản dị. Ẩn sau cái con người có vẻ ngờ nghệch kia là một tấm lòng yêu thương, một khát khao mái ấm
hạnh phúc gia đình.
Tràng là nhân vật tiêu biểu chi những nghèo lao động nghèo khổ trước nạn đói. Qua nhân vật Tràng, người đọc
cảm nhận được phẩm chất cao quý và sức sống mãnh liệt của người lao động. Bên cạnh đó, khi cảm nhận về
nhân vật Tràng, người đọc cũng nhận ra nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến người đọc niềm tin vào tương lai,
dù kề cận cái đói, cái chết nhưng người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng vào ánh sáng tương lai. Quả
thật, Kim Lân đã dành trọn những yêu thương những nhân văn sâu sắc vào từng nhân vật, để rồi như nhà văn Tô
Hoài từng nhận xét “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu, nguyên thủy
của làng quê Việt Nam…”
Kết bài: Vợ nhặt không chỉ phản ánh tình cảnh bi thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp
1945, mà còn thể hiện tấm lòng của Kim Lân đối với cuộc đời. Kim Lân đã đồng cảm xót thương cho số phận
những người nghèo khổ, thấu hiểu và trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khát khao hạnh phúc và niềm tin vào
tươi lai tươi sáng của họ. Nhân vật Tràng chính vì vậy mà dễ đi vào lòng người, để lại dấu ấn sâu sắc cho người
đọc về một anh chàng nhà nghèo, có vẻ khờ khạo nhưng giàu lòng yêu thương và đầy tốt bụng.
“Thời gian có thể phủ bụi một số thứ, nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp” (Nhà phê
bình văn học Phạm Xuân Nguyên). Có lẽ, tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân chính là minh chứng rõ ràng
nhất về quan điểm trên. Nhân vật Tràng, cũng như hình ảnh người vợ hay bà cụ Tứ sẽ còn sống mãi trong lòng
bạn đọc bao thế hệ
Mở bài: Khắc họa hình tượng người phụ nữ, các nhà văn thường lựa chọn những người phụ nữ tài sắc mà số
phận cùng cực bị đẩy đến đường cùng. Ta từng bắt gặp những người phụ nữ lận đận trong ca dao, một nàng
Kiều trong những lời thơ của Nguyễn Du, hay hình ảnh chị Dậu trong đêm tối không lối thoát… Nhưng với
Kim Lân, nhà văn lại chọn một hình tượng người phụ nữ đặc biệt. Đó là hình ảnh một người phụ nữ được nhìn
nhận trong nạn đói khủng khiếp, vì miếng cơm mà sẵn sàng đánh đổi cả lòng tự trọng, liều mình theo một người
đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với bốn bát bánh đúc. Thế nhưng, ở người phụ nữ ấy, Kim Lân vẫn phát hiện ra
những vẻ đẹp tưởng chừng như đã bị cái đói che khuất đi. Cùng phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt
của Kim Lân. 
Đôi nét về tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt 
Trước khi phân tích nhân vật Thị cũng như những nhân vật khác trong tác phẩm này, người đọc cần nắm được
những điểm chính về Kim Lân cũng như truyện ngắn Vợ nhặt. 
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt của Kim Lân
Trong quá trình phân tích nhân vật Thị (người vợ nhặt), ta thấy người phụ nữ này hiện lên với một số điểm
chính. Thị là người có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân của nạn đói, là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc,
khao khát cuộc sống bình dị. Bên cạnh đó, Thị cũng là người làm thay đổi cách nghĩ của Tràng và cũng là người
mang đến niềm tin cho cả gia đình. 
Thị có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân đáng thương của nạn đói
Nhân vật thị xuất hiện không tên tuổi, không gốc gác, không gia đình. Tất cả những thông tin về thị đều là một
số không tròn trĩnh, thậm chí là không có một cái tên rõ ràng chỉ được gọi là “thị, ả, người đàn bà”. Cách xây
dựng nhân vật như vậy gợi một thân phận mờ nhạt, đáng thương. Và có lẽ thân phận ấy không chỉ của riêng thị
mà còn của rất người những con người khác trong nạn đói. Thị chỉ như một mảnh đời trôi dạt, vô danh và hèn
mọn.
Cái đói đã làm cô thay đổi quá nhiều về cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, lần trước gặp Tràng, thị còn
hồn nhiên “liếc mắt, cười tít”, đon đả với anh nhưng đến lần thứ hai thì chính Tràng cũng ngạc nhiên về sự thay
đổi của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày
xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. 
Còn về nhân cách thì thị quên đi cả sự ý tứ của một người phụ nữ mà trở nên suồng sã đến bất ngờ “sầm sập
chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mà trách mắng Tràng “Điêu! Người thế mà điêu”. Thị đã buông ra những
lời nói có phần trơ trẽn sống sượng gợi ý Tràng để được ăn. Khi Tràng đồng ý thì “hai con mắt trũng xoáy của
thị tức thì sáng lên” và “ngồi sà xuống…cắm đầu ăn một chập bốn bánh bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn
xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”. 
Khi phân tích nhân vật Thị, người đọc nhận ra đó là hình tượng đáng thương hơn đáng giận. Cái đói, cái chết
dồn con người vào bước đường cùng sẵn sàng làm tất cả. Thị còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ sau
khi ăn bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa nửa thật của người đàn ông xa lạ này. Lúc này, thị không được
khắc họa với những dằn vặt nội tâm hay với những ước mơ hoài bão mà mọi hành động suy nghĩ của thị chỉ
quẩn quanh miếng ăn, cái đói, cái chết.
Đó là thân phận bị rẻ rúng, bị cái đói đẩy đến đường cùng. Đây cũng chính là số phận điển hình cho những
người nông dân trong nạn đói bị cái ăn dày vò, bất chấp cả phẩm giá. Bức chân dung của một người phụ nữ
không được nhìn qua con mắt của một người đang yêu – Tràng, không hề được đẽo gọt mà nó hiện lên một cách
thật trần trụi.
Nhân vật Thị vẫn khát khao một mái ấm gia đình
Cuối cùng, cô đã liều lĩnh nhắm mắt đưa chân khi theo Tràng về làm vợ vì lúc này cô cần một chỗ dựa, cần một
miếng ăn để tồn tại và cần một mái ấm gia đình. Phân tích nhân vật Thị, ta thấy hình ảnh cô dâu vu quy trong
ngày đói cũng thật xót xa. Cô đi sau Tràng “chừng ba bốn bước”, “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái
nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” với một vẻ “rón rén, e thẹn”. 
Không còn là người đàn bà sỗ sàng như ban nãy để được đòi ăn, mà giờ cái vẻ rón rén ấy chính là biểu hiện của
lòng tự trọng, ý thức về phẩm giá của mình. Thị ý thức được rằng mình là người vợ theo không, không có chút
tôn nghiêm nào và đây cũng là con đường duy nhất. Tràng trở thành điểm tựa, cái phao duy nhất mà thị có thể
bám víu vào trong lúc này.
Cô rất lo lắng, ngập ngừng và có chút thất vọng khi về đến nhà Tràng. Nhìn xung quanh nhà Tràng thì có thể
đoán được gia cảnh của Tràng cũng không khá khẩm hơn thị là bao nhiêu. Bởi “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”, vào trong nhà thì thấy “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa,
hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi”. 
Trước tình cảnh ấy, Thị“đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Ngôi nhà
là nơi sự sống được ấp ủ, nâng niu, vậy mà ở đây, ngôi nhà của mẹ con bà cụ Tứ tiêu điều hoang lạnh như cạn
cùng sự sống khiến cho thị đành ngậm ngùi. Dáng ngồi “mớm xuống mép giường”, có cái gì đó lo lắng, bất an,
chông chênh đến tội nghiệp, hoang mang cho những ngày tháng tương lai sau này. 
Thị cũng chẳng biết quyết định theo người đàn ông này có đúng hay không, chẳng biết những ngày tháng sau
này sẽ như thế nào. Phân tích nhân vật Thị ta cũng nhận ra, khi chấp nhận theo không một người xa lạ về làm
vợ, thị đã phó mặc số phận của mình cho cuộc đời. Nhưng cuộc đời lại trêu ngươi thị một lần nữa. Người đàn
ông hào phóng sẵn sàng cho thị bốn bánh đúc chỉ qua vài lời bông lơn hóa ra gia cảnh cũng không khá hơn thị
là bao, vẫn phải chạy vạy từng bữa ăn. Thị thương cho cuộc đời mình nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận.
Và nỗi niềm của Thị lúc này đây ngoài buồn tủi cho số phận mình, Thị còn rất bất an. Bởi cô không biết liệu mẹ
Tràng có chấp nhận một người xa lạ như cô về làm dâu, có chấp nhận cưu mang thêm một miệng ăn trong căn
nhà vốn đã khốn đốn nhiều này. Vì thế, khi mẹ Tràng về, thị đã là người chủ động cất lời chào. Trước mặt mẹ
chồng, thị càng rụt rè khép nép hơn, dù thị chủ động gọi bà là “u” nhưng chỉ dám “đứng nguyên một chỗ không
nhúc nhích”. 
Dáng vẻ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ấy cũng khiến bà mẹ già xót xa, ái ngại. Chính cái dáng
vẻ ấy của thị, đã khiến bà cụ Tứ động lòng thương. Với con mắt của một người từng trải, bà cụ hiểu tất cả mọi
chuyện đang diễn ra. Bà nhìn thị không bằng ánh mắt dò xét như mẹ chồng thông thường, cũng không nhìn thị
với ánh mắt khinh rẻ mà bà cảm thông hết mực cho số phận của thị.
Khi chính thức trở thành vợ của Tràng, thị đã có những thay đổi bất ngờ hay có lẽ đó mới chính là con người
thật của thị trước khi bị cái đói làm mờ mắt. Cô thức dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, thay đổi cách
xưng hô với Tràng “sao nhà biết” và “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực,
không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.” 
Phân tích nhân vật Thị, ta thấy trong hoàn cảnh này thì Thị đã bắt đầu biết vun xén cho cái gia đình nhỏ của
mình. Đặc biệt, thị tỏ ra rất bình thản trước bữa ăn ngày đói. Khi nhận chén cám – “chè khoáng” từ tay mẹ
chồng, ban đầu “hai con mắt thị tối lại”  nhưng rồi “điềm nhiên và vào miệng”. Cô chấp nhận số phận hiện tại
và cũng không muốn làm bà mẹ thêm tủi cực, xót xa.
Phân tích nhân vật Thị để thấy dù có hoàn cảnh bất hạnh nhưng thị đã may mắn tìm được những con người giàu
tình yêu thương sẵn sàng cưu mang thị, mang đến cho thị hơi ấm của tình người, của cuộc sống. Chính điều ấy
đã trả lại cho thị bản chất tốt đẹp và thắp sáng lên trong thị khát khao tình yêu, khát khao một cuộc sống hạnh
phúc
Thị mang đến ánh sáng niềm tin cho gia đình Tràng
Xuất hiện ở nơi mà nạn đói hiện ra với những hình ảnh thảm khốc nhất, nhưng có ai ngờ sự xuất hiện của thị đã
mang đến một luồng gió mới cho nơi đây. Tiếng cười nói, trêu chọc từ lâu vốn đã im bặt bởi cái đói hiển hiện
bởi cái chết đang đến dần thì hôm nay bỗng vang lên. Trẻ con thích thú trêu chọc “chông vợ hài”, còn những
người dân xóm ngụ cư thì ngạc nhiên bán tán xôn xao. Không khí đã có phần bớt u ám, ảm đạm hơn.
Không chỉ ảnh hưởng đến người dân xóm ngụ cư này, mà sự xuất hiện của thị còn mang đến sức sống hy vọng
cho gia đình Tràng. Căn nhà cũng thay đổi không còn xiêu vẹo nữa mà thay vào đó là “nhà cửa sân vườn hôm
nay đều được quét nước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi
niên ở một góc nhà đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi được kín nước
đầy ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã được hót sạch”. 
Và thị còn khiến Tràng thấy mình nên người trưởng thành hơn, bắt đầu biết sống có trách nhiệm hơn với gia
đình. Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên một ngọn lửa niềm tin, lạc quan. Phân tích nhân vật Thị ta thấy, niềm tin ấy
tuy nhỏ bé nhưng âm ỉ và bất diệt cứ lớn dần lên trong lòng bà cụ. Bà cũng cùng con dâu vui vẻ dọn dẹp sân nhà
đón chào một cuộc sống mới. Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường “cái mặt bủng beo, u ám của
bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”.  Bữa cơm ngày đói thảm thương với nồi cháo với nhúm rau chuối thái rối nhưng
cũng đủ để gắn kết những con người này lại với nhau tạo nên một không khí gia đình ấm cúng, hòa hợp.
Điều quan trọng hơn, thị còn đem đến tin tức về cách mạng. Thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe câu
chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người dân không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc của Nhật
chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng thấy ân hận và tiếc rẻ khi mình không tham gia vào đoàn người
đi phá kho thóc mà Tràng từng gặp. Thị đã mang lại nguồn sáng là người báo tin cách mạng. Và điều ấy đã dự
cảm trước sự thay đổi trong tương lai.

Nhận xét về tác phẩm khi phân tích nhân vật Thị 
Hình tượng nhân vật người vợ nhặt được khắc họa một cách chân thật từ ngoại hình tính cách cho đến số phận.
Phân tích nhân vật Thị để thấy đây là hình tượng có ý nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp cho những người
nghèo đói, cho khát vọng sống mãnh liệt và ước muốn có một mái ấm gia đình trong hoàn cảnh nghiệt ngã. 
Phân tích nhân vật Thị để thấy khi được sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chở che, cô trở về đúng với bản
chất tốt đẹp của mình gợi lên sự đồng cảm, trắc ẩn cho người đọc. Người phụ nữ ấy xuất hiện trong tác phẩm
tuy không mang vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy nhưng lại mang đến một cảm giác ấm áp, mang đến làn gió tươi mát
cho căn nhà u ám đang bên bờ vực của cái chết.
Kết bài:  Người vợ nhặt chính là đại diện tiêu biểu cho số phận con người trong nạn đói thảm khốc năm 1945.
Qua đó, nhà văn đã lên án tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời, Kim Lân còn thể
hiện sự đồng cảm xót xa cho số phận những con người nghèo khổ. Nhưng Kim Lân dù khắc họa họ là những
nạn nhân khổ đau của nạn đói nhưng vẫn hiện lên những vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị đời thường. Đó là vẻ
đẹp của tình yêu thương. Và còn là vẻ đẹp của khát khao hạnh phúc, trong hoàn cảnh tối tăm vẫn hướng về một
tương lai tươi sáng.
Mở bài: Viết về nỗi thống khổ của nhân dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1945, có lẽ “Vợ nhặt” của Kim Lân
là một trong số những tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc khi khắc họa chân thực và xúc động cảnh lầm than, cơ cực
của con người. Thế nhưng, điều ý nghĩa hơn cả là thông qua việc miêu tả sự ngang trái, éo le của hoàn cảnh
sống, Kim Lân đã làm toát lên những vẻ đẹp đáng trân trọng của con người. Riêng với việc xây dựng nhân vật
bà cụ Tứ, nhà văn đã làm hiện lên ở người mẹ nghèo ấy lòng nhân ái và tình yêu thương dành cho con người.
Trong tác phẩm, bà được đặt vào trong tình huống trớ trêu với những diễn biến tâm trạng phức tạp. Nhưng
những nét tâm lí ấy lại là một biểu hiện chân thực cho tấm lòng nhân hậu của bà.
Tâm trạng của bà cụ Tứ khi chưa biết con nhặt vợ
Khi phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, ta thấy ngay từ khi nhìn thấy Thị, dù chưa biết thị là người vợ mà
con trai nhặt được, bà cụ Tứ đã có những biểu hiện tâm trạng của một người mẹ nặng nỗi lo toan. Xuất hiện trên
trang viết của nhà văn Nam Cao trong cái dáng vẻ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”, với
sự “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng”, trong hoàn cảnh cái đói khắc nghiệt, có lẽ bà cụ Tứ đang lo nỗi lo
cơm áo gạo tiền. 
Dù đã bước qua tuổi thuộc cái dốc bên kia cuộc đời nhưng dường như bà chưa bao giờ hết lo thế nên nỗi khổ
tâm bà mang mới cắt hình rõ rệt trên cái dáng người “lọng khọng” ấy. Cái lo cũng xuất hiện ngay từ lúc bà gặp
người phụ nữ xa lạ trong chính ngôi nhà của mình. 
Ban đầu bà đã cảm thấy sự khác thường khi Tràng vui mừng và bày tỏ sự sốt sắng lúc đón mẹ về. Bà “nhấp
nháy” nhìn Tràng đầy thắc mắc nhưng rồi đã theo anh vào nhà với tâm trạng “phấp phỏng” lo âu. Điều bà thắc
mắc về biểu hiện khác lạ của anh Tràng được hé mở khi bà thấy thị, bà “đứng sững lại”, “ngạc nhiên” và băn
khoăn: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ?”. Bà còn hoang mang khi thị chào mình bằng u.
Đến lần thứ hai thị chào “U đã về đấy ạ!”, nỗi băn khoăn ấy của bà vẫn không hề nguôi bớt. 
Có phải chính sự ngang trái mà hoàn cảnh gieo rắc trong trang đời mà việc con cần lập gia đình, bà vô tình
không nhớ tới. Làm sao có thể trách bà được khi mỗi bữa cơm để có thể sống từng ngày, bà còn phải tính sao
cho vừa vặn? Làm sao có thể trách bà được khi hôm nay còn nặng nề chuyện đói no chứ nói gì đến chuyện xây
dựng gia đình cho con?
Ngạc nhiên đến sững sờ cùng tâm trạng vừa mừng vừa lo
Khi phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, người đọc cũng nhận thấy khi được Tràng giải thích rõ sự
tình: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! […] Chẳng qua nó cũng là cái số cả”, lúc này thì bà mới vỡ
lẽ mọi điều. Bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu nỗi buồn tủi, nghẹn ngào hóa thành cái “nín lặng”: “Bà lão hiểu
rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán lại vừa xót thương cho số kiếp đứa
con mình”. 
Bà vẫn biết chuyện con cái lập mái ấm là lẽ thường ở đời: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, rồi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này” nhưng sao với gia cảnh của mình
lại khó khăn đến thế: “Còn mình thì…”. Biết bao nhiêu cảm xúc, nỗi xót xa vỡ ra, bà lão dường như không thể
kìm nén được nên “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” cùng với nỗi lo lắng khôn
nguôi: “biết rằng chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. 
Bà có nỗi lo ấy cũng là điều dễ hiểu vì trong thời buổi phải lo cho được miếng ăn thế nào để không khỏi chết
đói đã là chuyện khó khăn huống hồ chi là xây dựng tổ ấm. Liệu rằng người con trai bất hạnh và người đàn bà
cũng bất hạnh không kém kia có cùng nhau vượt qua được những ngày tháng khổ sở này hay chỉ trong nay mai
sẽ đứt gánh dễ dàng như chính cái cách họ đến với nhau.
Lo là lo thế nhưng bà cụ Tứ vẫn xúc động vì con bà cuối cùng cũng có ngày lấy được vợ như người ta và mủi
lòng thương người phụ nữ xa lạ:  “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này thì người ta mới lấy đến con
mình”. Thế nên, bà xem đó là ý trời và phó thác cho cuộc đời đã run rủi cho con bà nên duyên nên số với
thị: “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, mà bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra thì qua khỏi được cái tao
đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ giờ
biết thế nào mà lo cho hết được?”. 
Bà lão day dứt vì chưa làm tròn bổn phận của một người mẹ với con nhưng mặt khác cũng biết ơn khi người
phụ nữ kia đã giúp con bà có hi vọng về một mái ấm. Câu nói nhẹ nhàng với thị cũng chính là cách thể hiện sự
đón chào của bà   với nàng dâu mới: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng…”. Tiếng “mừng lòng”  nghe sao đỗi thật thương, thật quý. Quý sao cho tấm lòng rộng lượng đã đồng ý
cho một người phụ nữ bất hạnh về làm dâu trong một gia đình có gia cảnh cũng rất khó nghèo của mẹ con bà.
Và cũng thương sao cho một trái tim dạt dào tình thương con, xót xa nhìn đứa con tội nghiệp có cơ hội được
vun đắp mái ấm dù chỉ bằng sự nhặt nhạnh, chắp ghép không chủ định. Bà nghĩ: “Kể có ra làm được dăm ba
mâm thì phải đấy” nhưng biết con hiểu rõ gia cảnh khốn khó của mình, bà chỉ còn cách khuyên con và động
viên con: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho
khá”. 
Bà gieo vào lòng con niềm tin: “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời” nhưng cũng sụt sùi thương
xót để “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Chính những biểu hiện đó nơi bà đã giúp người đọc có thể cảm
nhận được một tấm lòng nhân hậu bao la và tình yêu thương của người phụ nữ nhân hậu, tình thương ấy bà
dành cho đứa con trai rứt ruột sinh thành và cũng dành cho cả người phụ nữ cơ hàn, khốn cùng.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói cùng niềm tin của bà cụ Tứ
Bên cạnh đó, khi phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, ta cũng nhận thấy hôm sau cái ngày Tràng có vợ, đặc
biệt là trong bữa cơm ngày đói, những biểu hiện trong tâm trạng của bà cụ Tứ khiến người đọc lại càng mến
phục bà hơn.
Có nàng dâu mới, tâm trạng của bà như cũng được thay mới với sự  “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà cùng thị “lúi húi giẫy những bụi cỏ mọc nham nhở” rồi
lại “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”. Cử chỉ nhanh nhẹn, linh hoạt ấy đã thay thế hoàn toàn cho cái
sự “lọng khọng”, “húng hắng” thường trực nơi bà. Trong cảnh cực khổ, bà lại tin việc “thu xếp nhà cửa cho
quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói lại càng khiến ta cảm động hơn nữa. Mặc dù “giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo” có lẽ hiếm hoi lắm, bà cụ Tứ mới nói đến chuyện tương lai
đầy hứa hẹn và vui vẻ như thế: “Khi nào có tiền thì ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia sẽ làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại thì chả mấy mà có đàn gà cho mà xem”. 
Trong hiện thực đói nghèo thảm hại phải ăn cháo cám thay cơm, bà vẫn thấy vui lòng: “Chè khoán đây, ngon
đáo để cơ”, đến khi tiếng trống thúc thuế nổi lên, bà cũng không muốn nhìn thấy sự buồn tủi, lo lắng nên
mới “ngoảnh mặt vội ra ngoài” để mà khóc. Bà chính là người thắp lên nguồn sống mới cho mọi người trong
nhà để xua tan những đau khổ, chết chóc đang bủa giăng, chực chờ cướp đi sinh mạng của gia đình mình.
Bà giúp cho không khí gia đình mình trở nên nhẹ nhàng, có niềm tin và hi vọng hơn về một ngày có thể vùng
thoát khỏi không gian sống tối mờ, lay lắt, lẫn lộn cả sự sống và cái chết. Đó chính là ý thức vươn lên của một
người ở cái tuổi xế chiều và cũng là biểu hiện của một tình yêu thương con vô bờ bến. Bà cho rằng mình không
làm tròn bổn phận với con nhưng cái cách bà giúp các con tin tưởng hơn về một tương lai mới chính là minh
chứng chân thật nhất cho sự hết lòng vì các con của một người mẹ.
Đánh giá tác phẩm khi phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ 
Từ diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ cũng như thông qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân bày tỏ tấm lòng trân trọng,
nâng niu đối với những con người sống mấp mé bên bờ vực của cái chết. Bằng cách xây dựng tình huống và
việc khai thác, miêu tả tâm lí nhân vật, Kim Lân đã giúp người đọc cảm nhận được ở những người sống kiếp cơ
cực, khốn cùng những vẻ đẹp vô cùng quý giá.
Kết  bài: Có thể thấy rằng, đằng sau cái phức tạp trong diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chính là một tình yêu
thương sâu sắc của một người mẹ hiền từ với Tràng, một người phụ nữ bao dung với thị. Chính tình yêu thương
ấy của những người như bà là động lực để thị, Tràng và những người cùng cảnh ngộ có thể dễ dàng vượt qua sự
dồn đuổi của cái đói, cái chết vô cùng đáng sợ kia.

You might also like