Professional Documents
Culture Documents
Bai Tap Cac Toi Pham Ve Kinh Te 1
Bai Tap Cac Toi Pham Ve Kinh Te 1
A và B bàn với nhau tìm cách chiếm đoạt xe gắn máy của người khác. A và B đến một bãi gửi xe. A đứng
ngoài canh chừng để báo động cho B khi cần thiết. B vào trong bãi xe, lựa 1 chiếc xe SUZUKI dắt đi, nổ
máy và gài số chạy nhanh qua nơi kiểm soát mặc cho những người kiểm soát vé truy hô. Sau đó, cả hai bị
bắt giữ.
Dự liệu 2 tội:
- tội cướp giật tài sản theo Điều 171 qua tình tiết A và B bàn với nhau tìm cách chiếm đoạt xe gắn máy của
người khác, A đứng ngoài canh chừng để báo động cho B khi cần thiết. B vào trong bãi xe, lựa 1 chiếc xe
SUZUKI dắt đi, nổ máy và gài số chạy nhanh qua nơi kiểm soát mặc cho những người kiểm soát vé truy hô
(công khai và nhanh chóng)
- tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 qua tình tiết A đứng ngoài canh chừng để báo động cho B khi cần thiết
thể hiện sự lén lút không muốn cho người quản lý tài sản biết, B vào trong bãi xe, lựa 1 chiếc xe SUZUKI
dắt đi
Chứng minh và kết luận:
A và B đồng phạm Tội cướp giật tài sản theo Điều 171 với A có vai trò người giúp sức và B có vai trò
người thực hành
Về mặt khách quan, A có hành vi giúp sức về mặt tinh thần cho B thực hiện hành vi phạm tội thông qua việc
đứng ngoài canh chừng để báo động cho B khi cần thiết (để B an tâm vào thực hiện hành vi phạm tội) . B có
hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai qua việc B vào trong bãi xe, lựa 1 chiếc xe SUZUKI dắt đi và
có hành vi nhanh chóng nổ máy và gài số chạy nhanh qua nơi kiểm soát mặc cho những người kiểm soát vé
truy hô và cướp giật được chiếc xe.
Về mặt chủ quan, A và B cùng thực hiện một tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp.
Bài tập 12
A biết B là người buôn bán hàng cấm nên đã có hành vi sau:
a. A yêu cầu B phải nộp cho y một số tiền 5 triệu đồng thì sẽ không tố giác việc làm của B với công an.
B đành chấp nhận và giao đủ số tiền mà A đặt ra.
b. A mặc trang phục công an, đến nơi B buôn bán, ập vào bắt quả tang. Thấy A mặc trang phục công an
nên B xin được tha. A giả bộ làm căng, yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản. B năn nỉ, A nói đưa cho A 5
triệu đồng thì A sẽ tha. B chấp nhận và giao tiền cho A.
Hãy xác định tội danh cho hành vi của A trong các trường hợp nêu trên
a. Dự liệu
- Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 qua tình tiết A có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần B qua hành vi đe
dọa sẽ tố giác việc làm của B với công an nếu B không nộp cho y số tiền 5 triệu đồng.
- ...
Kết luận và chứng minh:
Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170
Về mặt khách quan, A có hành vi dùng thủ đoạn khác mà ở đây là hành vi đe dọa sẽ tố giác việc làm của B
(buôn bán hàng cấm) với công an uy hiếp tinh thần B.
Về mặt chủ quan, A thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản
(yêu cầu B nộp cho A số tiền 5 triệu đồng thì sẽ không tố giác nữa).
b. dự liệu
- Tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 qua tình tiết A có thủ đoạn gian dối giả làm công an
chiếm đoạt tài sản của B(mặc trang phục công an, đến nơi B buôn bán, ập vào bắt quả tang B, B xin tha thì
A giả bộ làm căng, yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản. B năn nỉ, A nói đưa cho A 5 triệu đồng thì A sẽ tha)
- Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 qua tình tiết A dùng thủ đoạn giả làm công an bắt quả tang và đe dọa
B, giả bộ làm căng, yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản nhằm chiếm đoạt tài sản (A nói đưa cho A 5 triệu
đồng thì A sẽ tha)
Kết luận và chứng minh
- Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170
Về mặt khách quan, A có hành vi dùng thủ đoạn khác mà ở đây là hành vi giả mạo công an và đe dọa B (giả
bộ làm căng, yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản) uy hiếp tinh thần B (B xin tha và năn nỉ).
Về mặt chủ quan, A thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản
(A nói đưa cho A 5 triệu đồng thì A sẽ tha).
Bác tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản vì có yếu tố uy hiếp tinh thần của nạn nhân, cho thấy hành vi có khả
năng khống chế ý chí của người bị đe dọa, nhưng chưa đến mức làm tê liệt ý chí, trong tội lừa đảo thì phải
có hành động lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản trước khiến cho nạn nhân tự nguyện giao nộp tài sản, nên nếu
có yếu tố chứng minh nạn nhân không tự nguyện giao tài sản thì sẽ không cấu thành tội này.
Bài tập 16
A và B đến gặp M tại quán nhậu X để bàn chuyện làm ăn (B không quen M trước đó). Sau khi bàn bạc
công việc, A nói có việc phải đi trước và nói B tự đi về. B đề nghị M cho đi nhờ xe một đoạn. M đồng ý và
để B chở bằng xe gắn máy của M. Trên đường đi, B vờ đánh rơi cặp xách để M xuống xe nhặt giúp. Lợi
dụng lúc M đang nhặt cặp xách thì B phóng xe đi mất. Sau đó, B đã bị bắt cùng tang vật là chiếc xe gắn máy
của M (trị giá 20 triệu đồng).
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của B trong vụ án này và giải thích tại sao?
Dự liệu:
- Tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS qua tình tiết B lợi dụng lúc M đang nhặt cặp xách thì B
nhanh chóng phóng xe của M đi mất.
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 qua tình tiết B có thủ đoạn gian dối vờ đánh rơi cặp nhờ
M xuống xe lụm, lợi dụng điều đó B phóng xe chiếm đoạt xe của M
Kết luận và chứng minh:
Tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS:
Về mặt khách quan, B có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai khi có sự hiện diện của M, lợi
dụng lúc M đang nhặt cặp xách thì B có hành vi nhanh chóng nổ máy phóng xe đi mất và cướp giật được
chiếc xe
Về mặt chủ quan, B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp (B nhận thức rõ B đang chuẩn bị thực hiện
hành vi phạm tội - cố tình vờ đánh rơi cặp xách để M xuống xe nhặt giúp nhưng B vẫn thực hiện hành vi và
mong muốn hậu quả thiệt hại về tài sản của M phát sinh - lợi dụng lúc M đang nhặt cặp xách thì B thực hiện
hành vi phạm tội).
Để chiếc xe ở đó, trong tầm quản lý của mình chứ không có hành vi giao tài sản => bác tội lừa đảo
(giao ở đây là giao quyền sở hữu luôn chứ không giao quyền quản lý)
Hoàn cảnh không thể ngăn cản được của M là do B tự tạo ra chứ không có sẵn trước đó => bác tội công
nhiên
Bài tập 25
Công ty bảo vệ thực vật A nhập từ nước ngoài về Việt Nam 32 tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu
BPMC hàm lượng khai báo là 97%. Qua kiểm định của Trung tâm kiểm định thực vật phía Nam thì hàm
lượng chỉ có 94,6%. Với cách thức như vậy, Công ty sẽ không phải đóng thuế thay vì phải nộp 10% khi
áp đúng mã thuế. Do vậy Công ty A tránh được việc nộp thuế với giá trị 1tỷ 450 triệu đồng.
Hãy xác định tội danh trong vụ án này.
Dự liệu:
- tội trốn thuế theo Điều 200 qua tình tiết công ty A có hành vi khai sai với thực tế hàng hóa nhập khẩu mà
không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan (nhập từ nước ngoài về Việt Nam
32 tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC hàm lượng khai báo là 97% nhưng qua kiểm định của
Trung tâm kiểm định thực vật phía Nam thì hàm lượng chỉ có 94,6%), nhờ cách thức như vậy, Công ty sẽ
không phải đóng thuế thay vì phải nộp 10% khi áp đúng mã thuế.
- tội buôn lậu theo Điều 188 qua hành vi Công ty A có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới với hành vi
nhập từ nước ngoài về Việt Nam 32 tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC và có hành vi khai báo
gian dối (hàm lượng khai báo là 97% trong khi qua kiểm định chỉ có 94,6%).
- tội buôn bán hàng giả là thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng (Điều 195) qua việc chênh lệch 2,3% hàm
lượng khai báo với kết quả giám định. => bác bỏ vì chỉ quy về hàng giả khi hàng này kiểm định dưới 70%
Kết luận và chứng minh:
Tội trốn thuế: điểm e khoản 1 Điều 200
Về mặt khách quan, Công ty A có hành vi khai sai với thực tế hàng hóa nhập khẩu (nhập từ nước ngoài về
Việt Nam 32 tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC và có hành vi khai báo gian dối hàm lượng khai
báo là 97% trong khi qua kiểm định chỉ có 94,6%) và sau đó không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi
hàng hóa đã được thông quan, Công ty A nhờ cách thức đó trốn thuế (không phải đóng thuế thay vì phải nộp
10% khi áp đúng mã thuế) với giá trị 1tỷ 450 triệu đồng.
Về mặt chủ quan, công ty A thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp (nhận thức rõ hành vi phạm tội
và mong muốn hậu quả xảy ra)
Bác buôn lậu vì hành vi không xâm phạm đến khách thể của tội buôn lậu
Bài tập 29
Lực lượng trinh sát đã phát hiện A đang vận chuyển số hàng có dấu hiệu nghi vấn. Qua kiểm tra, công
an phát hiện 200 gói bột ngọt nhãn hiệu Thai Fermenttion Ind. A khai nhận số bột ngọt này có nguồn gốc từ
Trung Quốc nhưng được đóng gói với nhãn hiệu Thai Fermentation Ind. Bên cạnh đó A còn có hành vi mua
bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem về đóng gói vào bao bì mang các nhãn hiệu Ajnomoto, Miwon,
A-one, Thai Fermentation Ind… rồi bán ra thị trường tổng cộng 8 tấn bột ngọt tương đương với giá trị của
hàng thật là 300 triệu đồng. Theo kết luận giám định thì bột ngọt Trung Quốc có hàm lượng, định lượng chất
chính chỉ đạt mức 60% so với tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án nêu trên.
Dự liệu:
- xác định bột ngột là gì dựa vào Luật An toàn thực phẩm (xong hỏi viện kiểm soát ntn là phụ gia thực phẩm
– truy cầu chuyên gia)
- tội Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm theo Điều 193 qua tình tiết A có hành vi mua bột
ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem về đóng gói vào bao bì mang các nhãn hiệu Ajnomoto, Miwon, A-
one, Thai Fermentation Ind… rồi bán ra thị trường tổng cộng 8 tấn bột ngọt tương đương với giá trị của
hàng thật là 300 triệu đồng
- tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 226 qua tình tiết A sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn
hiệu được bảo hộ cho bột ngọt như nhãn hiệu Ajnomoto, Miwon, A-one, Thai Fermentation Ind cho bột ngọt
giả mạo các nhãn hiệu trên của mình.
Kết luận và chứng minh
Tội sản suất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm (Điều 193) và Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 226) nếu chứng minh được những nhãn hiệu trên đã được bảo hộ tại VN.
Điêu 35 Luật Sở hữu trí tuệ
Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm:
Khách thể: Xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế.
Đối tượng tác động: hàng giả là chất phụ gia thực phẩm (bột ngọt).
Vì lượng bột ngọt mà A đã bán ra thị trường có kết luận giám định có hàm lượng, định lượng chất chính chỉ
đạt mức 60% so với tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước (điểm b khoản 8 Điều 3 NĐ 185/2015). Căn cứ
điểm b khoản 1 Điều 4 NĐ 03/2013/ NĐ – CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản
xuất, buôn bán hàng giả thì lượng bột ngọt A đã bán ra thị trường là hàng giả.
Chủ thể: A có đầy đủ NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Mặt khách quan:
Hành vi: A sản xuất, buôn bán bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đóng gói vào bao bì mang các nhãn
hiệu Ajnomoto, Miwon, A-one, TháiFermenttiom Ind.Co;Ltd…rồi bán ra thị trường tổng cộng 8 tấn bột
ngọttương đương với giá trị của hàng thật là 300 triệu đồng.
Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.
Mục đích: nhằm buôn bán, tiêu thụ lượng bột ngọt có nguồn gốc Trung Quốc không đảm bảo chất lượng
trên thị trường.
Đối với Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226)
Đối tượng tác động: hàng giả về hình thức (Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý).
Mặt khách quan: Hành vi: Hành vi đóng gói 200 gói bột ngọt có nguồn gốc Trung Quốc với nhãn hiệu Thai
Fermenttiom Ind.Co;Ltd…; mua bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem về đóng gói vào bao bì mang
các nhãn hiệu Ajnomoto,Miwon, A-one, Thai Fermenttiom Ind.Co;Ltd… rồi bán ra thị trường tổng cộng 8
tấn bột ngọt tương đương với giá trị của hàng thật là 300 triệu đồng nếu các nhãn hiệu này được bảo hộ tại
VN.
Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.
Mục đích: nhằm buôn bán, tiêu thụ lượng bột ngọt có nguồn gốc Trung Quốc với những nhãn hiệu có uy tín
khác trên thị trường
Bài tập 36
A đã thuê người vào chặt phá 4,6 ha rừng thuộc khu vực rừng sản xuất tự nhiên cạnh bản Khe Dây,
do UBND xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh quản lý, bảo vệ để chiếm đất trồng keo lai. Theo ước tính
ban đầu, hành vi của A đã gây thiệt hại cho nhà nước gần 300 triệu đồng.
Theo anh (chị) A và B có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
Đối tượng tác động: 46000 m2 rừng sản xuất tự nhiên
Dự kiến A:
A phạm Tội hủy hoại rừng (điểm đ khoản 2 Điều 243 BLHS): A có hành vi phá rừng trái phép thuộc
trường hợp rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2) (A thuê
người vào chặt phá 4,6 ha rừng thuộc khu vực rừng sản xuất tự nhiên cạnh bản Khe Dây, do UBND
xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh quản lý)
Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản: có hành vi thuê người chặt phá rừng (được xem
là tài sản) (bác do hành vi của A xâm phạm đến đối tượng tác động được cụ thể hóa ở luật riêng là tội hủy
hoại rừng, thuộc sở hữu toàn
Dự kiến B:
Đồng phạm với A tội hủy hoại rừng (điểm đ khoản 2 Điều 243 BLHS): với việc A thuê mình, B đã
chặt phá 4,6 ha rừng thuộc khu vực rừng sản xuất tự nhiên cạnh bản Khe Dây, do UBND xã Trường Xuân,
huyện Quảng Ninh quản lý.
Không có tội
Kết luận và chứng mính:
Về A: Tội hủy hoại rừng cấu thành tăng nặng (điểm đ khoản 2 Điều 243 BLHS)
Về mặt khách quan: A có hành vi phá rừng trái phép thuộc trường hợp rừng sản xuất có diện tích từ
10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2) (A thuê người vào chặt phá 4,6 ha rừng). Hậu quả
hành vi của A đã gây thiệt hại cho nhà nước gần 300 triệu đồng
Về mặt chủ quan: A thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp với mục đích để chiếm đất trồng
keo lai
Bác Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản Điều 232 vì hành vi thuê người chặt
phá rừng của A trong tình huống trên về bản chất là để chiếm đất chứ không có hành vi khai thác, tàng trữ,
vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép tài nguyên (gỗ, thực vật...) thuộc các trường hợp trong khoản 1
Điều 232 ở trong đây (không có căn cứ tình tiết nào cho thấy điều này)
Khai thác là hành vi chặt (có dấu bài chặt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền)
Về B:
Trong mọi trường hợp, hành vi chặt phá rừng thuộc các trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều
243 đều là hành vi phạm tội
=> đồng phạm do thỏa yếu tố lỗi cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội (B nhận lời thuê của A cho thấy
sự đồng thuận của B về hành vi phạm tội này)
Cùng thực hiện qua việc chặt phá rừng của B
Bài tập 39
Cơ quan CSĐT Công an quận X đã bắt quả tang A đang vận chuyển bằng xe máy một bộ xương hổ
đựng trong một túi nilon màu đen trên phố Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Qua giám định kết
luận: bộ xương thu được là xương hổ, trọng lượng 15 kg, tên khoa học Panthera, thuộc nhóm 1B, nằm
trong Sách đỏ Việt Nam, bị nghiêm cấm săn bắt, buôn bán, sử dụng vào mục đích thương mại.
Theo anh (chị), hành vi của A phạm tội hay không? Nếu có phạm tội gì? Tại sao?
Dự kiến:
Điểm b khoản 1 Điều 234. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã: A có hành vi vận chuyển
bộ phận cơ thể động vật (A đang vận chuyển bằng xe máy một bộ xương hổ đựng trong một túi nilon màu
đen)
Điểm b khoản 1 Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm: A có hành vi
vận chuyển bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống động vật (A đang vận chuyển bằng xe máy một bộ
xương hổ đựng trong một túi nilon màu đen)
Khoản 1 Điều 190 tội vận chuyển hàng cấm (bác do thuộc trường hợp ưu tiên xét theo tội riêng là tội 244)
A không có tội
Kết luận và chứng minh:
Điểm b khoản 1 Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm
Đối tượng tác động: một bộ xương hổ, trọng lượng 15 kg, tên khoa học Panthera, thuộc nhóm 1B, nằm
trong Sách đỏ Việt Nam, bị nghiêm cấm săn bắt, buôn bán, sử dụng vào mục đích thương mại
Về mặt khách quan: A có hành vi vận chuyển trái phép (không có yếu tố cho thấy A có giấy phép hợp pháp
cho hành vi vận chuyển xương hổ) một bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống động vật thuộc Danh mục
thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB
Về mặt chủ quan: A thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý
Bác tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã vì đối tượng tác động trong tình huống trên không
thuộc đối tượng tác động của tội này mà thuộc đối tượng tác động của tội i phạm quy định về bảo vệ động
vật nguy cấp, quý, hiếm
Điều 234 BLHS năm 2015 quy định hành vi xâm phạm động vật hoang dã thuộc nhóm IIB hoặc Phụ lục II
Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (Công ước CITES), thì ở Điều
244 BLHS năm 2015 quy định hành vi xâm phạm động vật thuộc nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước CITES.