You are on page 1of 10

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC


BÀI TẬP
Môn học:
LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Lần 5:
CÁC TỘI PHẠM VỀ KINH TẾ
Nhóm 2 Lớp: HC46B1
1. Phạm Hoàng Tuấn (NT) – 2153801014233
2. Lê Thị Bích Ngọc – 2153801014162
3. Nguyễn Minh Nhật – 2153801014178
4. Huỳnh Lê Yến Nhi – 2153801014180
5. Lê Trung Phát – 2153801014193
6. Nguyễn Văn Phú – 2153801014196
7. Nguyễn Phạm Mai Phương – 2153801014202
8. Nguyễn Thị Hoài Phương – 2153801014203
9. Rah Lan Soni – 2153801014214
10. Nguyễn Thanh Thanh Tâm – 2153801014221

Thành phố Hồ Chí Minh, 4/2023


I. NHẬN ĐỊNH.

Nhận định 1: Hành vi khách quan của các tội phạm quy định trong
Chương các tội xâm phạm sở hữu chỉ là hành vi chiếm đoạt tài sản.
Nhận định SAI. Vì ngoài hành vi chiếm đoạt tài sản thì còn có các hành vi
khách quan khác của tội phạm quy định trong Chương các tội xâm phạm sở hữu như:
- Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176);
- Hành vi sử dụng trái phép tài sản (Điều 177);
- Hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178);
- Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm sở hữu ngoài hành vi chiếm đoạt tài
thì còn có hành vi ….

Nhận định 2: Rừng chỉ là đối tượng tác động của các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế.
Nhận định SAI. Vì rừng không chỉ là đối tượng tác động của các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế mà có thể là đối tượng tác động của các tội phạm khác nhau, cụ
thể:
- Nếu rừng là rừng phòng hộ, rừng sản xuất, rừng tự nhiên hoặc rừng trồng có
vốn từ Nhà nước thì là đối tượng tác động của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
(Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản - Điều 232);
- Rừng có thể là đối tượng tác động của các tội phạm về môi trường nếu có
hành vi hủy hoại rừng - Điều 243 BLHS;
- Nếu là rừng trồng của các hộ cá nhân, gia đình, tổ chức thì là đối tượng tác
động của các tội xâm phạm sở hữu.
SAI. Trong trường hợp mà hành vi vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng
lâm sản (Điều 232). Trong TH chủ thể đặc biệt có hành vi vi phạm quản lý rừng (Điều
233). Hành vi hủy hoại rừng trong chương môi trường (Điều 243).

Nhận định 3: Không phải mọi loại tài sản bị chiếm đoạt đều là đối tượng
tác động của các tội xâm phạm sở hữu.
Nhận định ĐÚNG. Vì để được xem là đối tượng tác động của các tội xâm
phạm sở hữu cần thoả mãn một số điều kiện cụ thể như sau: Tài sản phải là vật có
thực; Tiền, giấy tờ có giá tính được bằng tiền. Hơn nữa, không phải mọi vật có thực
đều là ĐTTĐ của các tội xâm phạm sở hữu, vật có thực phải là sản phẩm lao động của
con người, là tài sản thông thường, không có tính năng đặc biệt. Đối với tiền phải là
tiền VNĐ, ngoại tệ phải được quy đổi ra tiền Việt. Với giấy tờ có giá phải là giấy tờ vô
danh mới là ĐTTĐ của các tội xâm phạm sở hữu.

[1]
Bên cạnh đó, có các loại tài sản bị tác động bởi những hành vi quy định tại các
Chương khác của BLHS thì không phải là đối tượng tác động của tội xâm phạm sở
hữu (Các vật có tính năng đặc biệt như ma tuý, vũ khí quân dụng,... thì nếu có hành vi
xâm phạm đến quyền chiếm hữu, định đoạt, sử dụng các tính năng đặc biệt như trên
thì không cấu thành đối tượng tác động của các tội phạm sở hữu mà cấu thành tội
riêng biệt).
ĐÚNG. Vật có tính năng công dụng đặc biệt (vũ khí quân dụng, ma túy) thì
không thuộc đối tượng tác động của chương sở hữu. Tiền là đối tượng tác động của
chương sở hữu phải là tiền thực (tiền ảo thì không). Giấy tờ có giá vô danh thì là đối
tượng sở hữu, hữu danh thì không.

Nhận định 5: Mọi hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản đều
cấu thành Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).
Nhận định SAI. Vì hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà cấu
thành Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 BLHS phải là hành vi đe dọa dùng
vũ lực ngay tức khắc, có sự diễn biến nhanh chóng về mặt thời gian, có sức mãnh liệt
và cường độ mạnh trong hành vi đe dọa, làm cho nạn nhân rơi vào tình trạng không
dám chống cự (VD: Hành vi kề dao vào cổ nạn nhân và uy hiếp sẽ giết nếu không đưa
tài sản).
Như vậy, hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà không xảy ra
ngay tức khắc, không có sự mãnh liệt trong hành vi đe dọa dùng vũ lực thì không cấu
thành Tội cướp tài sản (Điều 168) mà có thể cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản (Điều
170).
SAI. Trong TH đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị tấn công
lâm vào tính trạng không chống cự được ( tê liệt ý chí ) nhằm chiếm đoạt tài sản -> tội
cướp tài sản. Đe dọa dùng vũ lực mà không làm tê liệt về mặt ý chí mà khống chế ý
chí thì tội cưỡng đoạt tài sản ( Điều 170)

Nhận định 9: Dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả
chết người là hành vi cấu thành cả hai tội: Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) và
Tội giết người (Điều 123 BLHS).
Nhận định SAI. Vì dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả
chết người có thể cấu thành một tội. Nếu người phạm tội cố ý với hành vi dùng vũ lực
để cố ý gây thương tích nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng vô ý với hậu quả chết người
thì chỉ cấu thành một tội danh là Tội cướp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là
“làm chết người” được quy định tại điểm c khoản 4 Điều 168 BLHS.
SAI. Dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người:
+ Lỗi vô ý -> Tội cướp tài sản ( điểm c k4 Điều 168)
+ Lỗi cố ý -> 2 tội -> Tội giết người + Tội cướp tài sản

[2]
II. BÀI TẬP.

Bài tập 1:
Lúc 6 giờ sáng, T gặp cháu N (8 tuổi), đang đứng trong vườn mận.
Thấy N đeo sợi dây chuyền vàng nên y chợt nảy ý định chiếm đoạt. Quan
sát chung quanh không có ai, T bước qua mé mương lấy một khúc cây còng
lớn bằng cổ tay. Cầm khúc cây trên tay, T nhanh bước đến phía sau lưng
cháu N và vung tay đập mạnh vào đầu cháu N làm cháu té xuống đất. Cháu
N la lên kêu cứu thì T tiếp tục đánh vào đầu cháu N cái thứ hai khiến N bất
tỉnh. T lấy sợi dây chuyền trên cổ của cháu N. Kế đó, T ôm cháu N dìm
xuống mương, nhận xác cháu xuống bùn. Sợi dây chuyền T bán được
775.000 đồng. Vụ việc được phát hiện nhanh chóng. T bị bắt giữ.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T.

Hành vi của T đã cấu thành Tội cướp tài sản theo Điều 168 và Tội giết người
theo Điều 123.

- Tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS 2015.


+ Khách thể: quyền được sở hữu tài sản và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe
của cháu N.
+ Đối tượng tác động: tài sản (sợi dây chuyền vàng) và thân thể của con người
(cháu N).
+ Mặt khách quan:
• Hành vi dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể là T đã dùng khúc cây
lớn bằng cổ tay đập mạnh vào đầu cháu N làm cháu té xuống đất, sau đó tiếp tục đánh
vào đầu cái thứ 2 là cháu N bất tỉnh. Sau đó, T lấy sợi dây chuyền trên cổ của cháu N.
• Tội phạm hoàn thành khi T thực hiện xong hành vi dùng khúc cây đập vào đầu
làm cháu N bất tỉnh, không quan trọng đã chiếm đoạt được sợi dây chuyền hay chưa.
+ Chủ thể: T là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự.
+ Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.
• Lý trí: T biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật.
• Ý chí: T vẫn mong muốn thực hiện hành vi để hậu quả xảy ra trên thực tế.

- Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015.


+ Khách thể: quyền được sống của cháu N.

[3]
+ Đối tượng tác động: cháu N.
+ Mặt khách quan:
• Hành vi tước bỏ trái phép tính mạng của cháu N, được thực hiện dưới
dạng hành động phạm tội cụ thể là hành vi ôm cháu N dìm xuống mương, nhận
xác cháu xuống bùn.
• Hậu quả: khiến cháu N tử vong (không là dấu hiệu định tội, chỉ xác định thời
điểm tội phạm hoàn thành).
• Mối quan hệ nhân quả: hành vi của T là hành vi trực tiếp và chủ yếu khiến cháu
N tử vong.
+ Chủ thể: T là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự.
+ Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.
• Lý trí: T biết hành vi của mình là trái pháp luật và thấy được hậu quả sẽ xảy ra.
• Ý chí: T vẫn thực hiện hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra.

Tội giết người và Tội cướp tài sản:


*T phạm tội cướp tài sản:
+ Khách thể:
+ Đối tượng tác động:
+ Mặt khách quan:
Cấu thành cắt xén/ Cấu thành hình thức -> Hậu quả, mối quan hệ nhân
quả không là dấu hiệu bắt buộc.
Cướp tài sản có 3 dạng hành vi: T dùng vũ lực làm cho cháu N không
thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. (T lấy khúc cây đập vào đầu cháu N …)
+ Mặt chủ quan
Lỗi cố ý trực tiếp: nhằm chiếm đoạt tài sản của cháu N
+ Chủ thể: Tội cướp tài sản có chủ thể thường, T đủ tuổi và có năng lực TNHS.
*T phạm tội giết người:
+ Khách thể:
+ Đối tượng tác động
+ Mặt khách quan
CTVC
Hành vi -> Hậu quả -> Mối quan hệ nhân quả.
T có hành vi giết cháu N -> Dùng vũ khí nguy hiểm đập vào đầu, dìm
xuống mương. Hành vi thực tế gây cái chết cho cháu N.
+ Mặt chủ quan:
Lỗi cố ý trực tiếp
+ Chủ thể: Tội giết người có chủ thể thường, T đủ tuổi và có năng lực TNHS.
Bài tập 3:

[4]
Ông X (45 tuổi) đã có vợ con nhưng vẫn lén lút quan hệ tình cảm với A (29
tuổi). Sau một thời gian, A nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông X và bàn
bạc kế hoạch với anh trai là B. Theo kế hoạch, khi A và ông X đang quan hệ
trong nhà nghỉ thì B xông vào, tự nhận là chồng của A và đánh ông X. Ông X năn
nỉ xin B tha, B yêu cầu ông X phải đưa cho B 300 triệu đồng để “bồi thường danh
dự”. Ông X không đồng ý nên B tiếp tục đánh ông X và lấy đi toàn bộ tiền bạc,
điện thoại, đồng hồ của ông X, trị giá tài sản là 30 triệu đồng. Sau đó, B chụp
hình ông X và A, nói nếu không đưa 250 triệu đồng thì sẽ gửi những tấm hình đó
cho vợ con ông X. Ông X đồng ý và hẹn mười ngày sau sẽ đưa tiền. Vụ việc sau đó
bị phát giác.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Nếu có thì
phạm tội gì? Tại sao?

Hành vi của A và B có phạm tội. Đó là Tội cướp tài sản theo Điều 168 và Tội
cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170.

- Đối với Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 BLHS 2015.
+ Khách thể: Quyền sở hữu tài sản và quyền được bảo vệ tính mạng, thân thể của
ông X.
+ Đối tượng tác động: Ông X và tài sản ông X (250 triệu đồng).
+ Mặt khách quan:
• Hành vi: B có hành vi dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần ông X, cụ thể nếu không
giao 250 triệu sẽ gửi những tấm hình của X và A cho vợ con ông X (đe dọa tố giác
hành vi vi phạm đạo đức của nạn nhân). Hành vi này có khả năng khống chế ý chí của
người bị đe dọa, mà chưa đến mức làm cho người bị đe dọa bị tê liệt về ý chí.
• Hậu quả: Chưa xảy ra do ông X chưa giao tiền mà hành vi đã bị phát giác. Tuy
nhiên, đây không là dấu hiệu định tội, mà tội phạm đã hoàn thành khi A và B có hành
vi dùng thủ đoạn đe dọa tố giác hành vi trái đạo đức mà ông X đang thực hiện nhằm
chiếm đoạt tài sản.
+ Chủ thể: A và B là chủ thể thường có đủ năng lực và trách nhiệm hình sự.
+ Mặt chủ quan:
• Lỗi: A và B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp (Họ nhận thức được hành vi
của mình là trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra trên thực tế).
• Mục đích: Nhằm chiếm đoạt tài sản của ông X (dấu hiệu định tội).

- Đối với Tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS 2015.
+ Khách thể: Quyền sở hữu tài sản và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe của
ông X.
+ Đối tượng tác động: Ông X và tài sản ông X (tiền bạc, điện thoại, đồng hồ trị giá
30 triệu đồng).

[5]
+ Mặt khách quan:
• Hành vi: A và B có hành vi dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho ông X rơi vào
tình trạng không thể chống cự được để nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể là hành vi
đánh ông X. Sau đó, lấy đi tiền bạc, điện thoại, đồng hồ trị giá 30 triệu đồng.
• Do có cấu thành hình thức cho nên tội phạm hoàn thành khi A và B thực hiện
xong hành vi đánh ông X với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi của A và B
là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới thiệt hại về tài sản của ông X.
+ Chủ thể: A và B là chủ thể thường có đủ năng lực và trách nhiệm hình sự.
+ Mặt chủ quan:
• Lỗi: A và B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp (Họ nhận thức được hành vi
của mình là trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra trên thực tế).
• Mục đích: Nhằm chiếm đoạt tài sản của ông X (dấu hiệu định tội).
Dù B thực hiện hành vi gì thì cả A và B đều là đồng phạm.
2 Trường hợp
+ Đối với tiền bạc, đồng hồ, điện thoại trị giá 30tr đồng -> A và B sẽ
đồng phạm về tội cướp tài sản.
- Khách thể
- Đối tượng tác động: Ông X và 30 triệu của ông X
- Mặt khách quan: Chỉ cần dấu hiệu hành vi (người thực hành trong đồng
phạm)
A và B có hành vi DÙNG VŨ LỰC làm cho ông X lâm vào tình
trạng không chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan: Lỗi và mục đích
- Chủ thể: thường và có NLTNHS

+ Đối với 250tr -> A và B sẽ đồng phạm về tội cưỡng đoạt tài sản.
- ĐTTĐ: Ông X và 250 triệu của ông X
- Mặt khách quan -> CT cắt xén -> chỉ cần hành vi
A và B có HÀNH VI DÙNG THỦ ĐOẠN KHÁC uy hiếp tinh thần ông
X

Bài tập 4:
A và B bàn với nhau tìm cách chiếm đoạt xe gắn máy của người khác. A và
B đến một bãi gửi xe. A đứng ngoài canh chừng để báo động cho B khi cần thiết.
B vào trong bãi xe, lựa 1 chiếc xe SUZUKI dắt đi, nổ máy và gài số chạy nhanh
qua nơi kiểm soát mặc cho những người kiểm soát vé truy hô. Sau đó, cả hai bị
bắt giữ.
Hãy xác định A và B phạm tội gì?

[6]
Hành vi của A và B cấu thành Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS).
- Khách thể: xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu
đối với tài sản bị trộm cắp.
- Chủ thể: A và B có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi chiếm đoạt chiếc xe SUZUKI (chiếc xe đang trong sự quản lý của người
quản lý tài sản – nhân viên bãi giữ xe) của A & B được thực hiện một cách lén lút, bí
mật đối với người giữ xe (thể hiện qua hành vi A đứng ngoài canh chừng để báo động
cho B khi cần thiết; gài số chạy nhanh qua nơi kiểm soát). Trong ý thức chủ quan của
người phạm tội, họ mong muốn che giấu hành vi phạm tội của mình.
+ Hành vi trộm cắp tài sản của A và B được coi là hoàn thành kể từ thời điểm A
chạy chiếc xe ra khỏi khu vực bãi giữ xe.
- Mặt chủ quan: A và B thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, với mục đích
họ mong muốn chiếm đoạt được tài sản của nạn nhân (Động cơ và mục đích phạm tội
không phải là dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản).
Tội trộm cắp tài sản
+ Đồng phạm: A là người giúp sức, B là người thực hành.
(để xác định tối danh -> căn cứ vào hành vi của người thực hành).
+ Lén lút/công khai đối với người ở bãi giữ xe
+ Hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra khi dắt xe ra bãi giữ xe mà không
đưa vé cho người ta.
=> Tội cướp giật tài sản (Điều 171).
+ Mặt khách quan
CTVC (quan điểm) -> hành vi: B chiếm đoạt chiếc xe SUZUKI
một cách công khai và nhanh chóng
+ Tính chất khách quan: ngay khi hành vi chiếm đoạt ts
xảy ra thì chủ sở hữu, người quản lý ts biết ngay hành vi đó đang xảy ra
+ Ý thức chủ quan của người phạm tội: B công khai,
không che dấu hành vi.

+ B vừa nhanh chóng chiếm đoạt, vừa nhanh chóng tẩu


thoát.
-> hậu quả -> mối QHNQ
+ Mặt chủ quan:
Lỗi cố ý trực tiếp
+ Chủ thể: A B chủ thể thường, có năng lực TNHS.

Bài tập 6:

[7]
Công ty X được thuê vận chuyển một số container hàng hóa của công ty Y
từ cảng Cát Lái về kho hàng của công ty Y. Chiều 14/3, nhân viên điều động của
công ty X nhận được 13 phiếu giao nhận container để thực hiện việc vận chuyển.
Sau khi về đến công ty, nhân viên này giao cho tài xế 3 phiếu, còn 10 phiếu để
trên bàn làm việc. Lợi dụng lúc vắng người, một nhân viên của công ty X là A đã
trộm một phiếu giao nhận và đưa cho B. Sau đó, B thuê xe vào cảng Cát Lái và tự
nhận mình là nhân viên do công ty X điều động rồi dùng phiếu giao nhận do A
đưa lấy đi một container hàng xà bông. B bán container hàng này được 400 triệu
đồng và chia cho A 200 triệu đồng.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A và B trong vụ án này và giải
thích tại sao?

Hành vi của A và B đã cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định
tại Điều 174 BLHS 2015.
- Khách thể: A và B xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công ty X.
- Đối tượng tác động: container hàng xà bông, trị giá 400 triệu đồng.
- Mặt khách quan:
+ A và B có hành vi cố ý đưa ra thông tin biết rõ là không đúng sự thật nhằm làm
cho người khác tin và tự nguyện giao tài sản. Cụ thể, A là nhân viên công ty đã trộm
một phiếu giao nhận hàng hoá của công ty, sau đó A đưa cho B và B đã thuê xe vào
cảng lấy hàng. Hành vi của A và B được gọi là hành vi lừa gạt lấy trộm tài sản của
người khác bằng các hình thức dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó.
+ Hậu quả: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất nên tội phạm
hoàn thành khi người phạm tội nhận được tài sản từ người quản lý và có khả năng
chiếm giữ, sử dụng hoặc định đoạt tài sản đó. Trong trường hợp này, tội phạm hoàn
thành khi B được giao container hàng.
- Về chủ thể: A và B đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
- Mặt chủ quan: A và B phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Tức cả hai thấy trước được
hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn hậu quả
xảy ra trên thực tế.

Xác định tội danh -> dựa vào người thực hành.

A và B là đồng phạm, A là người giúp sức, B là người thực hành.

Khi A trộm được phiếu -> hành vi chiếm đoạt tài sản chưa xảy ra

Khi B chiếm được thùng hàng container.

B đã có hành vi đưa ra thông tin gian đối (tôi là người đc công ty điều
động…) -> lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

[8]
- Mặt khách quan -> hành vi: đưa ra thông tin gian đối tưởng là thật và làm
cho giao tài sản tự nguyện.

-> Hậu quả -> MQHNQ.

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp

[9]

You might also like