You are on page 1of 6

KHÔNG NGHE ĐƯỢC CÁI J ĐỂ SỬA

Nhận định (Hân, Hiệp, Duyên)

1. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS là mức hình phạt do Toà án áp
dụng đối với người phạm tội (Duyên)
Nhận định sai
Căn cứ phân loại tội phạm theo khoản 1 Điều 9 BLHS 2015 sđ, bs 2017 là dựa vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mức cao nhất của khung hình
phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội phạm đó chứ không phải căn cứ vào mức
hình phạt cụ thể Tòa án đã tuyên phạt trong bản án. Nói cách khác, căn cứ phân loại
tội phạm phải dựa trên mức cao nhất của khung hình phạt (do trực tiếp các điều luật
quy định), còn mức hình phạt do Tòa án áp dụng là hoạt động áp dụng pháp luật của
Tòa án, không phải là căn cứ phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS 2015 sđ,bs 2017.

Sửa bài: nhận biết được căn cứ phân loại là gì? Căn cứ xác định là gì?

2. Những tội phạm mà người thực hiện bị Toà án tuyên phạt từ 3 năm tù trở xuống
đều là tội phạm ít nghiêm trọng (Duyên)
Nhận định sai
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 9 BLHS 2015 sđ, bs 2017
Dựa vào mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt do luật định để phân loại tội
phạm nghiêm trọng, ít nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, hay đặc biệt nghiêm trọng chứ
không phải qua mức hình phạt tòa tuyên.

3. Trong một tội danh luôn có cả ba loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ bản,
cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ (Hiệp)
nhận định sai
Chỉ có cấu thành cơ bản là cấu thành bắt buộc luôn có trong một tội danh. Vì
cấu thành cơ bản quy định dấu hiệu định tội cơ bản, đặc trưng nhất cho phép xác định
một tội phạm cụ thể và phân biệt tội phạm đó với tội phạm khác cho nên luôn phải có
trong các tội danh. Còn cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ phản ánh mức độ
nguy hiểm cao hơn hoặc thấp hơn cho xã hội của hành vi phạm tội và không bắt buộc
phải có để cấu thành tội phạm.
Điển hình có thể như tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ quy định tại Điều 124
BLHS 2015, tội tổ chức tảo hôn quy định tại Điều 183 BLHS 2015,... Chỉ có cấu
thành cơ bản mà không có cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.
 Chỉ có cấu thành cơ bản là bắt buộc trong mọi tội danh, còn dấu thành tăng
nặng và cấu thành giảm nhẹ thì tùy thuộc vào từng trường hợp.

4. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội. Hân
- Nhận định Sai.
- CSPL:
- Giải thích: Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu
hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy
hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình
thường).

5. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm có cấu thành hình thức. (Hân) (có thể là vật chất hoặc hình thức)
- Nhận định đúng.
- CSPL: Điều 133, 169 BLHS 2015.
- Giải thích: Cấu thành tội phạm hình thức liên quan đến các hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội. Yếu tố bắt buộc khách quan của tội phạm có thể là hành vi
gây thiệt hại cho xã hội hoặc tạo ra khả năng gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ. Điều 169 BLHS 2015 quy định Tội bắt cóc chiếm
đoạt tài sản, có nghĩa người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi về mặt khách
quan bao gồm bắt cóc con tin và đe dọa chiếm đoạt tài sản là đủ cấu thành nên
tội phạm, không có hậu quả xảy ra. Điều 133 BLHS 2015 quy định về tội đe
doạ giết người cũng tương tự như trên.
Sửa bài: nhận định sai; dựa vào luật để quy định cấu thành hình thức hoặc vật
chất; hậu quả chưa xảy ra là do nó k muốn mà phải do luật mô tả, quy định. “Trên
thực tế chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội” không được xác định là cấu
thành hình thức mà phải do luật mô tả, quy định.

Bài tập

1. (Hiếu, Đình)
A lấy trộm tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài
sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 2 năm tù
Anh (chị) hãy xác định:
a. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội gì? Tại
sao?
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi 2017 thì loại tội phạm
mà anh A thực hiện là loại tội phạm nghiêm trọng. Vì tình huống trên Tòa án đã
dựa trên hành vi của A cấu thành tội trộm cắp theo khoản 2 Điều 173 BLHS
2015, sửa đổi 2017 mà tại khoản này BLHS quy định mức phạt tù từ 2 năm đến
7 năm và theo điểm b khoản 1 Điều 9: “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình
phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm
tù”. Do đó, loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội phạm nghiêm trọng.

b. Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất
hay CTTP hình thức? Tại sao?
Cấu thành tội phạm vật chất là CTTP mà mặt khách quan có các dấu hiệu hành
vi, hậu quả, quan hệ nhân quả là dấu hiệu bắt buộc. Tội trộm cắp tài sản là tội
phạm có CTTP vật chất. Theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi
năm 2017: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các
trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm:...” đã quy định cấu thành tội phạm vật chất bên cạnh
dấu hiệu hành vi “trộm cắp”.
 Giải thích từng cái một ra: hành vi, hậu quả, quan hệ nhân quả. (nghe trong ghi âm
tại sửa k kịp =))) )
c. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng
hay CTTP giảm nhẹ? Tại sao?
Hành vi của A thuộc trường hợp CTTP tăng nặng. Vì:
Dấu hiệu định tội được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi
2017: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm” và loại tội phạm được quy định trong khoản 1 Điều này là tội phạm ít nghiêm
trọng. Mà trong tình huống trên A đã lấy trộm tài sản trị giá 70 triệu đồng vượt mức
quy định tại khoản 1 Điều này. Mức giá trị tài sản trên được quy định trong khoản 2
Điều này và quy định mức phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Đây là loại tội phạm nghiêm
trọng được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi 2017.
Sửa k kịp =))

3. (Châu, Hà)
Dựa vào cấu trúc của mặt khách quan và quy định của BLHS về tội phạm cụ thể, Anh
(chị) hãy xác định các tội phạm sau đây thuộc loại CTTP nào:
1. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
(Điều 132 BLHS).
⇒ CTTP vật chất.
Chủ thể là người thực hiện tội phạm
Mặt khách quan của TP: thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp
Mặt chủ quan của TP: Người thực hiện hành vi với lỗi cố ý (trực tiếp/ gián tiếp)
Khách thể của tội phạm: người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng (Điều 132 BLHS).

2. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
⇒ CTTP hình thức.
Chủ thể là người thực hiện tội phạm
Mặt khách quan của TP: hành vi giao cấu giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục
Mặt chủ quan của TP: Người thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
Khách thể của tội phạm: người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
3. Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).
⇒ CTPT cắt xén
Chủ thể là người thực hiện tội phạm (có năng lực trách nhiệm hình sự)
Mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực… làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản. (Đã nêu rõ một phần của hành vi thực tế)
Khách thể của tội phạm: Quyền sở hữu tài sản, tính mạng, sức khỏe của chủ tài
sản, người quản lý tài sản…
4. Tội đua xe trái phép (Điều 266 BLHS).
⇒ CTTP vật chất, hình thức
Chủ thể là người thực hiện tội phạm
Mặt chủ quan của TP: Người thực hiện hành vi với lỗi cố ý (trực tiếp/ gián tiếp)
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi đua xe. Người đua xe trái phép
có thể thực hiện một trong các hành vi như: Chuẩn bị, tập kết phương tiện đua, điều
khiển phương tiện….Hành vi đua xe được coi là hành vi phạm tội khi hành vi đó
không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; nếu việc đua xe được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thì không bị coi là tội phạm; Hậu quả nguy
hiểm là dẫn đến vi phạm an toàn giao thông, tính mạng của người khác.., có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Khách thể của tội phạm là trật tự an toàn giao thông và trật tự an toàn công
cộng.
5. (Bình, Anh)
Người dưới 15 tuổi có phải chịu TNHS về hành vi trộm cắp tài sản của mình không
nếu hành vi của họ được quy định tại:

1. Khoản 1 Điều 173 BLHS


Khung hình phạt cao nhất được quy định là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm
phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm . Tại điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS quy định ở khung
hình phạt này là tội phạm ít nghiêm trọng
Chủ thể phạm tội trong trường hợp này là người dưới 15 tuổi, thuộc quy định tại
khoản 2 Điều 12 BLHS
⇒ Không phải chịu TNHS

2. Khoản 2 Điều 173 BLHS


Khung hình phạt cao nhất được quy định là phạt tù từ 02 đến 07 năm. Tại khoản 2
Điều 9 BLHS quy định hình phạt này là tội phạm nghiêm trọng
Chủ thể trong trường hợp này là người dưới 15 tuổi, không thuộc trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 12 BLHS nên không phải chịu TNHS

3. Khoản 3 Điều 173 BLHS


Khung hình phạt cao nhất được quy định là phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Điểm c
khoản 1 Điều 9 BLHS quy định khung hình phạt này là khung hình phạt cho tội phạm
rất nghiêm trọng
Chủ thể trong trường hợp này mặc dù là người dưới 15 tuổi nhưng phạm tội rất
nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS thì vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự

4. Khoản 4 Điều 173 BLHS


Khung hình phạt cao nhất được quy định là phạt tù từ 12 đến 20 năm. Theo khoản 4
Điều 9 BLHS quy định thì khung hình phạt này là khung hình phạt dành cho tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng
Chủ thể trong trường hợp này là người dưới 15 tuổi nhưng vì đã phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS nên vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự.

Bài tập 6
A là bác sĩ đa khoa có mở phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A đã kê toa thuốc
cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất, A không kiểm tra toa
thuốc trước khi trao cho người nhà của bé Trung. Người nhà của bé Trung đến tiệm
thuốc do H đứng bán. H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có ghi tuổi
của bệnh nhân là 3 tuổi. Bé Trung do uống thuốc quá liều nên bị tử vong.
Anh (chị) hãy xác định:

1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là bé Hoài Trung.

2. Hành vi của A đã xâm phạm quan hệ xã hội nào?


Hành vi của A đã xâm phạm quan hệ xã hội là xâm phạm sức khỏe, tính mạng của con
người (quyền con người) được bảo vệ tại Điều 8 BLHS 2015. Vì hành vi của A cũng
góp phần làm nên cái chết của bé Hoài Trung.

3. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?


Lỗi của A là loại lỗi vô ý vì cẩu thả. Theo khoản 2 Điều 11 BLHS 2015: “Vô ý phạm
tội vì cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả này.”
Theo đó, A do sơ suất mà không kiểm tra toa thuốc trước khi đưa cho người nhà bé
Trung trong khi đây là việc mà A cần phải làm và A hoàn toàn có thể lường trước hậu
quả nếu có xảy ra sai sót trong toa thuốc.

4. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là lỗi gì? Tại
sao?
H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung. Lỗi của H cũng là lỗi vô ý vì cẩu thả.
Vì khi nhận được toa thuốc từ tay người nhà bệnh nhân, ngoài việc lấy thuốc thì H
cũng cần phải kiểm tra toa thuốc để tránh các trường hợp không đáng xảy ra. Tuy
nhiên, vì lỗi vô ý cẩu thả mà H đã bỏ qua việc kiểm tra toa thuốc và tiến hành bốc
thuốc nên cái chết của bé Trung cũng có lỗi của H.

5. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại nào?
Tại sao?
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này là mối quan hệ nhân quả
kép trực tiếp. Vì đây là mối quan hệ có 2 hành vi trái pháp luật làm nguyên nhân trong
đó mỗi hành vi trái pháp luật đều đã chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu
quả. Cụ thể:
- Đối với hành vi của A: kê sai toa thuốc người lớn cho bé Trung.
- Đối với hành vi của H: không kiểm tra kĩ toa thuốc trước khi tiến hành lấy thuốc.
Cả 2 hành vi này, đều chứa đựng khả năng làm phát sinh hậu quả là cái chết của bé
Trung.

You might also like