You are on page 1of 13

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÌNH SỰ

BÀI THẢO LUẬN


Buổi thảo luận 1
Môn: Luật Hình sự phần chung
Giảng viên: Mai Thị Thuỷ

Lớp: AUF47

1
CỤM 2 - Buổi 1
TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN

Những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao?

1. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS là mức hình phạt do Toà
án áp dụng đối với người phạm tội.
Nhận định trên là sai. Vì theo Điều 9 BLHS thì căn cứ để phân loại tội phạm là dựa vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó được quy định trong Bộ luật
này. Như vậy, mức hình phạt do Toà án áp dụng đối với người phạm tội không phải là
căn cứ để phân loại tội phạm bởi khi ra một quyết định về mức hình phạt cụ thể thì Toà
án cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác.

2. Những tội phạm mà người thực hiện bị Toà án tuyên phạt từ 3 năm tù trở
xuống đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhận định này là sai. Vì theo điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS 2015: “Tội phạm ít nghiêm
trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải
tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm”. Do đó, những tội phạm có mức cao nhất
của khung hình phạt do Bộ luật này quy định là từ 3 năm tù trở xuống thì là tội phạm ít
nghiêm trọng. Như vậy, không phải mọi tội phạm mà người thực hiện bị Tòa án tuyên
phạt từ 3 năm tù trở xuống đều là tội phạm ít nghiêm trọng, bởi quyết định tuyên phạt
của Toà án không phải là căn cứ để phân loại tội phạm.
3. Trong một tội danh luôn có cả ba loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ
bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.

Nhận định này là sai. Bởi tội danh nào cũng phải có cấu thành tội phạm cơ bản và có
thể có một hoặc nhiều cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Như vậy, không
phải tội danh nào cũng đều có đủ cả ba loại cấu thành tội phạm, ví dụ như một số tội
phạm chỉ có cấu thành tội phạm cơ bản (Điều 181 BLHS), một số tội phạm chỉ có cấu
thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng (Điều 130 BLHS),...

4. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội.

Nhận định trên là sai. Vì cấu thành tội phạm giảm nhẹ bao gồm dấu hiệu định tội và
các dấu hiệu khác phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm giảm đi đáng
kể hay còn gọi là dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Như vậy, trong cấu thành tội phạm
giảm nhẹ có dấu hiệu định tội
5. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tội

2
phạm có cấu thành hình thức.
Nhận định trên là sai. Bởi cấu thành tội phạm (CTTP) hình thức là CTTP mà mặt khách
quan chỉ có hành vi là dấu hiệu bắt buộc, tức chỉ cần hành vi nguy hiểm đó được thực
hiện. Do đó, hậu quả trên thực tế do tội phạm đó gây ra không được coi là căn cứ để
xác định một tội phạm có CTTP hình thức mà phải dựa vào mặt khách quan của tội
phạm đó chỉ có hành vi là dấu hiệu bắt buộc hay không.

Ví dụ: Tội cướp tài sản được BLHS quy định là CTTP hình thức, cướp có thể gây thiệt
hại trên thực tế hoặc không gây thiệt hại, trong trường hợp trên thực tế việc cướp tài
sản gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì tội cướp tài sản cũng không thể chuyển
thành CTTP vật chất mà theo luật định vẫn là CTTP hình thức. Việc xác định CTTP
hình thức hay CTTP vật chất phải dựa vào BLHS, cụ thể dựa vào cấu thành cơ bản để
xác định. Không căn cứ vào hậu quả xảy ra trên thực tế.

6. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có nhiệm vụ
điều chỉnh.
Nhận định trên là sai. Bởi khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật Hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Trong khi đó, quan hệ xã hội được luật hình sự điều
chỉnh là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Như vậy, khách thể của tội phạm
không phải là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có nhiệm vụ điều chỉnh
7. Mọi tội phạm suy cho cùng đều xâm hại đến khách thể chung.

Nhận định trên là đúng. Bởi khách thể chung của tội phạm là tổng thể các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm, theo Điều 1 và khoản 1
Điều 8 BLHS. Như vậy, mọi tội phạm suy cho cùng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại ở mức độ đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, cũng chính
là khách thể chung mà tội phạm hướng đến .

BÀI TẬP

Bài tập 1

A lấy trộm tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội
trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS và bị Toà án tuyên phạt 2 năm tù.

Anh (chị) hãy xác định:


1. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội gì? Tại
sao?

3
Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội phạm nghiêm
trọng. Bởi theo khoản 2 Điều 173 thì mức cao nhất của khung hình phạt tù là 7 năm tù.
Do vậy, căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS: “Tội phạm nghiêm trọng là tội
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung
hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù” thì
tội phạm mà A thực hiện là loại tội phạm nghiêm trọng.
2. Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất hay
CTTP hình thức? Tại sao?

Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất. Bởi trong cấu
thành cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS có quy định về dấu hiệu của
hành vi là trộm cắp tài sản, hậu quả là người bị trộm cắp tài sản thiệt hại từ 2.000.000
đồng đến dưới 5.000.000 đồng và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên.

3. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay
CTTP giảm nhẹ? Tại sao?

Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP tăng nặng. Vì khoản 2 Điều 173 quy
định dấu hiệu định khung tăng nặng đối với hành vi trộm cắp tài sản cao hơn so với
mức phạt CTTP cơ bản (khoản 1 Điều 173).

Bài tập 2
A có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông X. Tội phạm và hình phạt về
hành vi phạm tội này được quy định tại Điều 174 BLHS.

Anh (chị) hãy xác định:


1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
hành vi phạm tội của A thuộc loại tội phạm nào và tại sao nếu hành vi phạm tội
đó thuộc trường hợp quy định tại:

a. Khoản 1 Điều 174 BLHS.

Hành vi phạm tội của A thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. Bởi theo khoản 1 Điều
174 BLHS thì mức cao nhất của khung hình phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù là
đến 3 năm. Vì vậy, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội theo điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm
có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung
hình phạt do Bộ luật này quyết định đối với tội này là phạt tiền, phạt cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm;” thì đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng.
4
b. Khoản 2 Điều 174 BLHS.

Hành vi phạm tội của A thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Bởi theo khoản 2 Điều 174
BLHS thì mức cao nhất của khung hình phạt tù là 07 năm. Vì vậy, căn cứ vào tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo điểm b khoản 1 Điều 9
BLHS: “ Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là
từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù” thì đây là loại tội phạm nghiêm trọng.

c. Khoản 3 Điều 174 BLHS.

Hành vi của A thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Bởi theo khoản 3 Điều 174 BLHS
thì mức cao nhất của khung hình phạt tù là 15 năm. Vì vậy, căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 9 BLHS:
“Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là
từ trên 07 năm đến 15 năm tù” thì đây là loại tội phạm rất nghiêm trọng.

d. Khoản 4 Điều 174 BLHS.

Hành vi của A thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Bởi theo điểm d khoản 1
Điều 9: “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Do
vậy, hành vi của A thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng bởi mức cao nhất của
khung hình phạt theo khoản 4 Điều 174 BLHS là phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.

2. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được CTTP
phản ánh, tội phạm thuộc loại CTTP nào và tại sao nếu hành vi phạm tội đó thuộc
trường hợp quy định tại:
a. Khoản 1 Điều 174 BLHS.

Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được cấu thành
tội phạm phản ánh, tội phạm thuộc loại cấu thành tội phạm cơ bản. Bởi theo khoản 1
điều 174 có quy định về dấu hiệu định tội của 5 trường hợp phạm tội như sau:

5
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác

TH1: Tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.

TH2: Tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng thuộc điểm a) Đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

TH3: Tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng thuộc điểm b) Đã bị kết án về tội này
hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và
290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

TH4: Tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng thuộc điểm c) Gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

TH5: Tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng thuộc điểm .d) Tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

b. Khoản 2 Điều 174 BLHS.

Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được cấu thành
tội phạm phản ánh, tội phạm thuộc loại Cấu thành tội phạm tăng nặng bởi vì tại khoản
2 điều 174 không chỉ có những dấu hiệu tội phạm cơ bản mà còn có thêm yếu tố làm
tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội.

c. Khoản 3 Điều 174 BLHS.

Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được cấu thành tội
phạm phản ánh thì tội phạm thuộc loại cấu thành tội phạm tăng nặng vì theo khoản 3
Điều 174 BLHS thì không chỉ có dấu hiệu định tội mà còn những dấu hiệu khác phản
ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên đáng kể.

d. Khoản 4 Điều 174 BLHS.

Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được cấu thành tội
phạm phản ánh thì tội phạm thuộc loại cấu thành tội phạm tăng nặng vì khoản 4 Điều
174 bao gồm cả dấu hiệu định tội và các dấu hiệu định khung tăng nặng.

Bài tập 3

6
Dựa vào cấu trúc của mặt khách quan và quy định của BLHS về tội phạm cụ
thể, Anh (chị) hãy xác định các tội phạm sau đây thuộc loại CTTP nào:

1. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng (Điều 132 BLHS).

Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có CTTP
vật chất, bởi trong CTTP cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 132 có quy định dấu
hiệu hành vi là hành vi thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp; dấu hiệu hậu quả là nạn nhân chết và mối
quan hệ nhân quả là từ hành vi không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đó đã dẫn đến hậu quả người đó chết.

2. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi thuộc loại cấu thành tội phạm vật chất. Bởi CTTP vật chất là CTTP có các
dấu hiệu hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả. Như theo điểm d khoản 2 Điều 145
BLHS đề cập đến hậu quả của việc giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Thế nên đây là CTTP vật chất.

3. Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).

Tội cướp tài sản là tội phạm thuộc loại cấu thành tội phạm hình thức. Bởi trong CTTP
cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 168 có quy định dấu hiệu hành vi, với tư cách
là dấu hiệu duy nhất bắt buộc, là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự. Vì
vậy đây là cấu thành tội phạm hình thức.

4. Tội đua xe trái phép (Điều 266 BLHS).

Tội đua xe trái phép tại Điều 266 BLHS thuộc loại cấu thành tội phạm vật chất và cấu
thành tội phạm hình thức khi căn cứ vào CTTP cơ bản thì tương ứng như sau:

- Là CTTP vật chất đối với tội sau :“Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy
hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho người khác thuộc một
trong các trường hợp sau đây …

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%;
7
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.”

Sở dĩ đây là CTTP vật chất vì nó có đầy đủ các dấu hiệu hành vi, hậu quả, mối
quan hệ nhân quả.

- Là CTTP hình thức đối với tội sau: “Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy
hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho người khác…đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc Điều 265 của
Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm,...”. Sở dĩ đây là CTTP hình thức vì mặt khách quan chỉ có
hành vi là bắt buộc, những điều kiện khác kèm theo là đặc điểm nhân thân xấu
của một người nên không được coi là hậu quả.

Bài tập 4

A mời hai người bạn là B và C đi nhậu tại quán ông Y hết 2.300.000 đồng. A
chỉ có một triệu đồng và chủ quán đồng ý cho trả số tiền còn lại vào ngày hôm
sau. B thấy vậy sợ chủ quán không tin tưởng nên tháo chiếc đồng hồ đeo tay trị
giá 6 triệu đồng đưa cho chủ quán để làm tin. A cảm thấy bị xúc phạm nên liền
rút một trái lựu đạn (không có thuốc nổ bên trong) đặt mạnh lên bàn và la lên
“Đứa nào dám không tin?”. Hành động của A làm cho thực khách hoảng sợ và bỏ
chạy. Kết quả chủ quán bị thiệt hại hơn 10 triệu đồng do không thể thanh toán
được với khách hàng đã bỏ chạy.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của A xâm phạm đến khách thể trực tiếp nào?
(Cho biết có hai quan hệ xã hội bị thiệt hại trong trường hợp này do hành vi
của A gây ra: thứ nhất là quyền sở hữu của ông Y về số tiền bị thất thoát; thứ
hai là trật tự công cộng).
Hành vi của A xâm phạm đến khách thể trực tiếp là: quyền sở hữu của ông Y về số tiền
bị thất thoát (10 triệu đồng) và trật tự công cộng.

Bài tập 5
Người dưới 15 tuổi có phải chịu TNHS về hành vi trộm cắp tài sản của mình
không nếu hành vi của họ được quy định tại:

1. Khoản 1 Điều 173 BLHS.

Theo khoản 1 Điều 173 thì người dưới 15 tuổi không phải chịu TNHS về hành vị trộm
cắp tài sản của mình.

8
Ta xét hai trường hợp, vì người dưới 15 tuổi bao gồm người dưới 14 tuổi và người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi:

Trường hợp 1: Người dưới 14 tuổi

Người dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS về hành vi trộm cắp tài sản của
mình. Bởi căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thì pháp luật không quy định khung hình phạt cho người phạm tội
dưới 14 tuổi, vậy nên người phạm tội dưới 14 tuổi không chịu trách nhiệm hình
sự.

Trường hợp 2: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi không phải chịu TNHS về hành vi trộm
cắp tài sản của mình. Bởi căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015
quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm quy định tại Điều 173 nếu đó là tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Xét thấy, tội phạm được quy
định tại khoản 1 Điều 173 BLHS có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt
cải tạo không giam giữ và phạt tù đến 3 năm, vì vậy căn cứ vào điểm a khoản 1
Điều 9 BLHS về phân loại tội phạm thì tội phạm được quy định tại khoản 1
Điều 173 BLHS là tội phạm ít nghiêm trọng.

Như vậy, trong cả hai trường hợp thì người dưới 15 tuổi không phải chịu TNHS về
hành vị trộm cắp tài sản của mình theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

2. Khoản 2 Điều 173 BLHS.

Theo khoản 2 Điều 173 thì người dưới 15 tuổi không phải chịu TNHS về hành vị trộm
cắp tài sản của mình.

Ta xét hai trường hợp, vì người dưới 15 tuổi bao gồm người dưới 14 tuổi và người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi:

Trường hợp 1: Người dưới 14 tuổi

Người dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS về hành vi trộm cắp tài sản của
mình. Bởi căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thì pháp luật không quy định khung hình phạt cho người phạm tội
dưới 14 tuổi, vậy nên người phạm tội dưới 14 tuổi không chịu trách nhiệm hình
sự.
9
Trường hợp 2: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi không phải chịu TNHS về hành vi trộm
cắp tài sản của mình. Bởi căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015
quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm quy định tại Điều 173 nếu đó là tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Xét thấy, tội phạm được quy
định tại khoản 2 Điều 173 BLHS có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt
tù đến 7 năm, vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS về phân loại tội
phạm thì tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 173 BLHS là tội phạm
nghiêm trọng.

Như vậy, trong cả hai trường hợp thì người dưới 15 tuổi không phải chịu TNHS về
hành vị trộm cắp tài sản của mình theo quy định tại khoản 2 Điều 173 BLHS.

3. Khoản 3 Điều 173 BLHS.

Người dưới 15 tuổi bao gồm người dưới 14 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới
15 tuổi. Vì vậy, tuỳ theo trường hợp để xác định họ có phải chịu TNHS về hành vi trộm
cắp tài sản của mình hay không.

Trường hợp 1: Người dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS về hành vi trộm cắp tài
sản của mình.

Trường hợp 2: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi phải chịu TNHS về hành vi
trộm cắp tài sản của mình. Bởi căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy
định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ
phải chịu TNHS về tội phạm quy định tại Điều 173 nếu đó là tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Xét thấy, tội phạm được quy định tại khoản 3
Điều 173 BLHS có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 15 năm, vì vậy
căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 9 BLHS về phân loại tội phạm thì tội phạm được quy
định tại khoản 3 Điều 173 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng.

Như vậy, trong trường hợp người dưới 14 tuổi thì họ không phải chịu TNHS về
hành vi trộm cắp của mình, nhưng người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi thì phải chịu
TNHS về hành vi trộm cắp của mình theo khoản 3 Điều 173.

4. Khoản 4 Điều 173 BLHS.

Người dưới 15 tuổi bao gồm người dưới 14 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15

10
tuổi.

Trường hợp 1: Người dưới 14 tuổi thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi trộm cắp tài sản của mình được quy định tại khoản 4 Điều 173 BLHS.

Trường hợp 2: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi phải chịu TNHS về hành vi trộm
cắp tài sản của mình. Bởi căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định
về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu TNHS về tội phạm quy định tại Điều 173 nếu đó là tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Xét thấy, tội phạm được quy định tại khoản 4 Điều 173
BLHS có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 20 năm, vì vậy căn cứ vào
điểm d khoản 1 Điều 9 BLHS về phân loại tội phạm thì tội phạm được quy định tại
khoản 4 Điều 173 BLHS là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Như vậy, trong trường hợp người dưới 14 tuổi thì họ không phải chịu TNHS về
hành vi trộm cắp của mình, nhưng người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi thì phải chịu
TNHS về hành vi trộm cắp của mình theo khoản 4 Điều 173.

Bài tập 6
A là là bác sĩ đa khoa có mở phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A đã kê toa
thuốc cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất, A không
kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà của bé Trung. Người nhà của bé
Trung đến tiệm thuốc do H đứng bán. H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa
thuốc có ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. Bé Trung do uống thuốc quá liều nên bị
tử vong.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là bé Trung.
2. Hành vi của A đã xâm phạm quan hệ xã hội nào?
Hành vi kê toa thuốc quá liều làm cho nạn nhân là bé Hoài Trung tử vong là xâm phạm
quyền nhân thân, cụ thể là quyền được sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể
3. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?
Lỗi của A là loại lỗi vô ý cẩu thả. Vì ông A đã gây ra hậu quả khiến bé Trung tử vong
nhưng do cẩu thả không kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà của bé Trung
11
và cũng không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả đó mặc dù điều kiện khách
quan buộc ông A phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Vì vậy đây chính là
lỗi do vô ý cẩu thả.
4. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là lỗi gì? Tại
sao?
H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung và lỗi của H là loại lỗi vô ý do cẩu thả.
Vì H là người đứng bán thuốc và khi nhận được toa thuốc H cũng đã thấy được trên toa
thuốc của bé Trung ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. H vì cẩu thả và không kiểm tra kỹ
nên vẫn lấy đúng thuốc được kê trong toa mặc dù H phải thấy trước và có thể thấy
trước hậu quả của việc kê toa thuốc cho bé 3 tuổi sẽ dẫn đến nguy cơ tử vong.
5. Quan hệ nhân quả giữa hành vi hậu quả trong vụ án này thuộc loại nào? Tại
sao?
Quan hệ nhân quả giữa hành vi kê toa thuốc, bán thuốc quá liều với hậu quả là nạn
nhân tử vong thuộc loại mối quan hệ kép trực tiếp. Bởi trong mối quan hệ nhân quả
trên có hai hành vi trái pháp luật là kê toa thuốc và bán thuốc quá liều làm chết người.

Bài tập 7

A là nhân viên bảo vệ kho C cảng Tân Thuận. Trong một ca trực đêm, do một
người vắng mặt nên A phải trực một mình. Vào lúc 1 giờ 30 sáng ngày hôm sau,
trong khi đang làm nhiệm vụ thì bất ngờ A bị ba tên côn đồ xông tới dùng dao kề
vào cổ A, buộc A phải giao chìa khoá kho hàng nếu không sẽ giết A ngay lập tức.
Trong tình trạng đó A buộc phải giao chìa khoá cho chúng. Bọn côn đồ trói A lại,
nhét khăn vào miệng A. Kết quả là chúng đã chiếm đoạt một số hàng hoá trị giá
500 triệu đồng. Đến ca trực ngày hôm sau vụ việc được phát hiện.

Anh (chị) hãy xác định: A có được coi là bị cưỡng bức không? Nếu có thì là loại
cưỡng bức gì và A có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?

Xét thấy A bị cưỡng bức ở hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: lúc 1 giờ 30 sáng, trong khi đang làm nhiệm vụ, thì bất ngờ A bị ba tên
côn đồ xông tới dùng dao kề vào cổ A, buộc A phải giao chìa khoá kho hàng nếu không
sẽ giết A ngay lập tức.

Ở giai đoạn này A bị cưỡng bức về tinh thần ở mức độ bị tê liệt ý chí bởi:

Thứ nhất, ba tên côn đồ đã dùng lời nói để đe doạ, uy hiếp tinh thần, tác động
đến ý chí và buộc A phải giao chìa khoá cho chúng.

Thứ hai, A không có khả năng lựa chọn bất kỳ một xử sự nào khác ngoài việc
đưa chìa khoá cho đám côn đồ.
12
Như vậy ở giai đoạn này A được loại trừ TNHS.

Giai đoạn 2: A bị bọn côn đồ trói và nhét khăn vào miệng.

Ở giai đoạn này A bị cưỡng bức về thân thể. Mặc dù A không ngăn bọn côn đồ chiếm
đoạt một số hàng hoá, nhưng biểu hiện này của A xuất phát từ việc A bị bọn côn đồ
trói, nhét khăn vào miệng để ngăn chặn khả năng điều khiển ý chí của A. Do vậy việc
“không hành động” của A không phải là hành vi phạm tội và vì thế A không phải chịu
TNHS.
—HẾT—

13

You might also like