You are on page 1of 7

lOMoARcPSD|18366258

BUỔI THẢO LUẬN LẦN 2 - Thảo Luận Luật Hình Sự (Phần


Chung)
luật hình sự (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)

Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university


Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)
lOMoARcPSD|18366258

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ

LỚP 126–TM46A2

––––––––––
NHẬN ĐỊNH

MÔN LUẬT HÌNH SỰ (PHẦN CHUNG)


BÀI TẬP THẢO LUẬN SỐ 06
Giảng viên: Th.S Trần Văn Thượng

DANH SÁCH THÀNH VIÊN THỰC HIỆN (NHÓM 2)

Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)


lOMoARcPSD|18366258

1. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS là mức hình phạt do Tòa
án áp dụng đối với người phạm tội.
Nhận định sai. CSPL: Điều 9 BLHS
Vì phân loại tội phạm phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội,
hay nói cách khác căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS 2015 là dựa trên
mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với mỗi tội danh được luật quy định.
Từ đó nhận biết được đâu là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng.

2. Những tội phạm mà người thực hiện bị Tòa án tuyên phạt từ 3 năm tù trở
xuống đều là tội phạm ít nghiêm trọng
Nhận định sai. CSPL: Điểm a, khoản 1, Điều 9 BLHS năm 2015
Giải thích: Căn cứ theo điểm a, khoản 1, Điều 9 BLHS năm 2015 quy định thì tội
phạm ít nghiêm trọng sẽ có mức cao nhất của khung hình phạt là 3 năm. Do đó, những
tội phạm nào có hình phạt thuộc phạm vi của khung hình phạt này sẽ được coi là tội
phạm ít nghiêm trọng. Theo đó, căn cứ để phân loại tội phạm phải dựa vào mức cao
nhất của khung hình phạt chứ không phải dựa vào bản án mà Tòa án tuyên.

4. Trong một tội danh luôn có cả 3 loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ bản,
cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.
Nhận định SAI. CSPL: Điều 168, 173, 124, 183 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
2017).
Trong một tội danh không bắt buộc phải có đủ 3 loại cấu thành tội phạm. Mỗi
loại tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 luôn có một cấu thành tội
phạm cơ bản, ngoài ra có thể có một hoặc nhiều cấu thành tội phạm tăng nặng hay cấu
thành tội phạm giảm nhẹ. Điển hình như quy định tại Điều 168 quy định về tội cướp
tài sản, Điều 173 về tội trộm cắp tài sản,…chỉ có cấu thành tội phạm cơ bản và cấu
thành tội phạm tăng nặng. Bên cạnh đó, cũng có quy định về tội chỉ có cấu thành cơ
bản mà không có cấu thành tăng nặng hay giảm nhẹ tại Điều 124, Điều 183,…
5. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội.
Nhận định sai. Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu
hiệu định tội (thông thường là quy định chi tiết tại CTTP cơ bản) còn có thêm dấu hiệu
phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách
đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu
định khung hình phạt giảm nhẹ. Như vậy, cấu thành tội phạm giảm nhẹ là tổng hợp cấu
thành tội phạm cơ bản với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Ví dụ: cấu thành
tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 108 Bộ luật hình sự (là cấu thành tội phạm
2

Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)


lOMoARcPSD|18366258

cơ bản của tội phản bội Tổ quốc) kết hợp với dấu hiệu được quy định tại khoản 2 Điều
108 Bộ luật hình sự tạo thành cấu thành tội phạm giảm nhẹ của tội phản bội Tổ quốc.
6. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm cấu thành hình thức.
Nhận định sai. Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm mà mặt khách
quan chỉ có hành vi là dấu hiệu bắt buộc. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức
được coi là hoàn thành khi hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện. Như vậy, hậu
quả thực tế gây nguy hiểm cho xã hội không phải là cơ sở để xác định cấu thành tội
phạm hình thức mà cơ sở để xác định cấu thành tội phạm hình thức ở đây quy định của
pháp luật không đòi hỏi hậu quả là dấu hiệu bắt buộc đối với tội danh đó mà chỉ có
hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc duy nhất.
BÀI TẬP
Bài tập 1:
A trộm cắp tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài
sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 02 năm tù giam.
1. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội phạm
gì? Tại sao?
Căn cứ Điều 9 BLHS 2015 thì loại tội phạm mà A thực hiện là tội nghiêm trọng
vì trị giá tài sản mà A trộm được là 70 triệu đồng là thuộc vào cấu thành tội phạm tăng
nặng (rơi vào tình tiết định khung tăng nặng) theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS. Do
đó hành vi của A sẽ có khung hình phạt từ 02 đến 07 năm tù theo quy định tại khoản 2
Điều 173 BLHS. Áp dụng quy định của điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS thì khung hình
phạt đối với tội danh của A có mức hình phạt cao nhất đến 7 năm tù nên thuộc vào loại
tội phạm nghiêm trọng.
2. Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành côi phạm (CTTP) vật chất
hay CTTP hình thức? Tại sao?
Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có CTTP vật chất.
Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà có các dấu hiệu phạm tội
bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan, hậu quả thiệt hại
và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả gây ra. Theo quy định của
Điều 173 BLHS 2015 về Tội trộm cắp tài sản trong đó pháp luật đặt ra yêu cầu phải có
dấu hiệu hậu quả mà chủ thể phạm tội xâm phạm tài sản (trộm cắp từ 2 – 50 triệu đồng
hoặc dưới 2 triệu đồng nếu thuộc một trong các trường hợp ở khoản a, b, c, d, đ). Như
vậy, tội danh này theo BLHS quy định phải đòi hỏi có dấu hiệu là hậu quả gây thiệt hại
và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra là bắt buộc mới cấu
thành tội danh này.

Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)


lOMoARcPSD|18366258

3. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng
hay CTTP giảm nhẹ? Vì sao?
Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP tăng nặng.
Vì khoản 1 Điều 173 BLHS có CTTP cơ bản quy định là “người nào trộm cắp tài
sản sản…người bị hại”. Đến khoản 2 thì có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức
độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên (có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp;...) và khung
hình phạt tăng cao hơn so với CTTP cơ bản (từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng hoặc 06 tháng đến 03 năm (cơ bản) < phạt tù từ 02
năm đến 07 năm (tăng nặng)).
Bài tập 6: A 15 tuổi 6 tháng đã thực hiện hành vi được quy định tại khoản 1 Điều
168 BLHS. Hãy xác định A có phải chịu TNHS về hành vi của mình hay không.
CSPL: khoản 2 Điều 12, khoản 1 Điều 168, điểm c khoản 1 Điều 9 BLHS 2015.
A phải chịu TNHS về hành vi của mình bởi vì:
Trong trường hợp trên A chưa đủ 16 tuổi nên được xem là người từ đủ 14 đến
chưa đủ 16 tuổi nên theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015: “Người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143,
144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286,
287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Do đó, khi hành vi của A là hành vi cướp tài sản theo quy định của Điều 168
BLHS nên cũng đáp ứng điều kiện về phạm vi các tội danh phải chịu trách nhiệm hình
sự của người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi.
“Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”
Do đó mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm vì vậy A được xác định là tội
phạm rất nghiêm trọng. Đối chiếu lại với quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2105
như đã đề cập ở trên thì A vẫn phải chịu TNHS mặc dù chưa đủ 16 tuổi.
Bài tập 7: A là bác sĩ đa khoa có mở phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A
đã kê toa thuốc cho bé Hoài Trung (03 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất, A
không kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà bé Trung. Người nhà bé Trung
đến tiệm thuốc do H đứng bán. H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có
ghi tuổi bệnh nhân là 03 tuổi. Bé Trung do uống thuốc quá liều nên tử vong.
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?

Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)


lOMoARcPSD|18366258

Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là con người; cụ thể A đã xâm
phạm tính mạng của bé Trung; căn cứ ở hành vi A kê đơn thuốc người lớn cho bé
Trung mà không kiểm tra lại, gây hậu quả bé uống quá liều nên tử vong.
2. Hành vi của A đã xâm phạm đến quan hệ xã hội nào?
Hành vi của A đã xâm phạm đến quan hệ xã hội quyền được sống, quyền được
bảo hộ về tính mạng của con người. Việc A kê sai đơn thuốc, dẫn đến cái chết của bé
Trung là hành vi phạm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp theo
quy định tại Điều 129 BLHS 2015.
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này là thuộc loại
nào? Tại sao?
Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại tồn tại dưới
nhiều dạng cụ thể. Trong đó có hai dạng phổ biến:
- Dạng quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: Trong đó chỉ có một hành vi khách quan
đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả thiệt hại. Sự vận động nội tại của hành
vi khách quan có khả năng trực tiếp đưa đến hậu quả gây thiệt hại và khả năng
này sẽ trở thành hiện thực trong điều kiện nhất định.
- Dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp: Là dạng quan hệ nhân quả mà trong đó có
nhiều hành vi khách quan cùng đóng vai trò là nguyên nhân. Trong đó, mỗi
hành vi khách quan đều có khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả.
Ở trường hợp này, chúng ta có thể xác định được là đã tồn tại hai hành vi khách
quan (kê nhầm toa thuốc và bán thuốc không đúng). Và mỗi hành vi này đều cùng
đóng vai trò trong việc nguyên nhân gây ra thiệt hại. Mỗi hành vi như kê nhầm thuốc,
bán thuốc không đúng là những hành vi nếu tách rời nhau thì khả năng thực tế làm
phát sinh hậu quả là chưa có. Bởi lẽ, khả năng này chỉ hình thành khi hành vi kê toa
không đúng và bán thuốc không đúng theo toa có sự kết hợp chặt chẽ một cách có hệ
thống với nhau. Nếu không có hành vi kê toa không đúng thì không thể gây ra hậu quả
chết người hoặc nếu người bán thuốc là anh H không kiểm tra kỹ thông tin về đối
tượng sử dụng thuốc thì cũng không gây hậu quả chết người. Do đó, trường hợp này
có thể phân loại vào dạng mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp.
4. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?
Căn cứ khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Vô ý phạm tội, xét
thấy lỗi của A là lỗi vô ý do cẩu thả, theo đó người thực hiện hành vi phạm tội không
thấy trước hậu quả nguy hiểm mặc dù phải thấy trước hậu quả nguy hiểm hoặc có thể
thấy trước hậu quả.
Vì do “sơ suất” nên A không kiểm tra toa thuốc trước khi giao cho người nhà bé
Trung dẫn đến bé Trung uống thuốc quá liều nên bị tử vong. Có thể nói, đáng lẽ A
buộc phải thấy khi kiểm tra toa thuốc và có thể thấy trước hậu quả là dẫn đến bé Trung
5

Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)


lOMoARcPSD|18366258

tử vong là kê toa thuốc theo toa của người lớn cho một đứa bé 03 tuổi. Bởi vì, A là bác
sĩ đa khoa, được đào tạo, có trình độ chuyên môn về y tế. Tuy nhiên vì lý do cẩu thả là
A không kiểm tra lại toa thuốc trước khi giao cho người nhà bé Trung. Do đó, lỗi của
A là vô ý, cụ thể là thuộc dạng vô ý do cẩu thả.
5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là loại lỗi gì?
Tại sao?
H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung. Cụ thể, lỗi của H là lỗi vô ý.
Trong tình huống trên, người nhà của bé Trung đã đến tiệm thuốc do H đứng bán, H
bán thuốc theo toa của A. Xét đến điều kiện để H có thể mở một tiệm thuốc tư nhân thì
H phải có chứng chỉ hành nghề, phải được đào tạo, có chuyên môn về nghề dược. Vì
vậy, có thể hiểu H có đủ trình độ cũng như kiến thức để nhận biết rằng toa thuốc mà A
đưa có phù hợp với một bệnh nhân 03 tuổi hay không. Do đó, trước khi bán thuốc cho
người khác thì bản thân H phải có trách nhiệm phải xem xét toa thuốc đó có thật sự
phù hợp hay không, mặc dù trên toa thuốc đấy có ghi rõ tuổi của bệnh nhân là 03 tuổi.
Tuy nhiên H lại không xem xét lại toa thuốc này mà vẫn bán theo toa thuốc của A. Xét
về lỗi vô ý, có thể thấy trường hợp của H thuộc lỗi vô ý do cẩu thả được quy định tại
Điều 11 BLHS năm 2015. Có thể thấy vào lúc bán thuốc cho gia đình của bé Trung, H
bán theo toa thuốc của A. Nhưng trên toa thuốc đã có ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi,
vì vậy với địa vị cụ thể của mình thì H phải thấy trước và có đủ điều kiện để thấy trước
hậu quả có thể xảy ra nếu H bán theo toa thuốc mà A đã kê. Do đó, có thể thấy H đã
cẩu thả dẫn đến việc bé Trung bị tử vong và H đã phạm lỗi vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp quy định tại Điều 129 BLHS năm 2015.

Downloaded by Justin Seagull (taekookisreal120@gmail.com)

You might also like