You are on page 1of 2

SIÊU ÂM TRỊ LIỆU

Trong VLTL, siêu âm là một trong những mô thức điều trị phổ biến nhất, thường
kết hợp với kích thích điện và kích thích nhiệt. Siêu âm là một dạng sóng âm tần
số cao (1-3Mhz) nên con người không nghe được và tạo ra tác dụng sinh lý dựa
trên các hiệu ứng nhiệt và phi nhiệt.
Các mô thức nhiệt bề mặt như đèn hồng ngoại, paraphin hoặc chườm nóng đều
sinh n hiệt tuy nhiên chúng chỉ tác động trên các lớp tổ chức bề mặt, với độ
xuyên sâu tối đa không quá 1-2 cm. Ưu thế nổi bật của siêu âm là khả năng
tăng nhiệt sâu (mặc dù không phải là tính chất chủ yếu).
Sóng siêu âm bản chất là sóng dọc (truyền được trong cả chất rắn và lỏng, còn
sóng ngang thì chỉ truyền được trong chất rắn vidu như xương). Cho nên trong
các mô mềm thì sóng siêu âm sẽ truyền theo phương dọc còn khi đến xương thì
sẽ lại truyền theo phương ngang.
Tần số hay sử dụng là 1-3Mhz. Tần số càng cao, sự tản mát càng thấp và âm
càng dễ hội tụ. Tần số càng thấp càng phân kỳ. Tần số càng thấp càng xuyên
sâu nhiều hơn.
Siêu âm truyền qua các tổ chức nhiều nước và hấp thụ tại các tổ chức nhiều
protein, nơi nó có khả năng sinh nhiệt lớn nhất. Độ xuyên sâu tỷ lệ nghịch với độ
hấp thụ, do đó sự hấp thụ sẽ tăng khi tần số tăng (3Mhz sẽ bị hấp thụ nhanh hơn
1Mhz). Các tổ chức càng đặc và rắn thì càng hấp thụ mạnh hơn, VIDU huyết
tương hấp thụ gấp 23 lần nước, máu lại gấp gần 3 lần huyết tương, mỡ lại gấp 6
lần máu, cơ gấp 2 lần mỡ, thần kinh ngoại biên gấp 2 lần cơ. Ngoài ra sóng siêu
âm còn bị hao tốn do tán xạ khi đi qua ranh giới giữa các môi trường. Lưu ý 1:
siêu âm bị phản xạ toàn phần ngoài không khí cho nên nếu dùng máy siêu
âm ngoài không khí mà không có gel hoặc nước sẽ bị hỏng đầu phát.
Lưu ý 2: khi qua ranh giới giữa gel và mô mềm thì sẽ có một phần bị phản
xạ, nó sẽ hợp với chùm tia mới tới làm cho năng lượng tổng cộng tăng lên
tạo ra cái gọi là sóng đứng hoặc “điểm nóng” có thể làm tổn thương mô. Vì
vậy cần di chuyển đầu phát liên tục (4cm/s) khi siêu âm liên tục, nếu siêu
âm xung thì không cần.
Máy xịn thì ở đầu phát dùng tinh thể thạch anh, máy bình dân thì thường dùng
gốm, dày 2-3mm. Chính tinh thể này biến điện năng thành sống siêu âm bởi sự
biến dạng cơ học của nó.
Diện tích phát hiệu dụng (ERA) là phần bề mặt đầu phát, ERA phụ thuộc vào
diện tích bề mặt tinh thể và trong trường hợp lý tưởng nó xấp xỉ diện tích bề mặt
đầu phát (máy xịn). Do đó chính xác thì ERA thường nhỏ hơn bề mặt đầu phát
một chút và có thể dẫn đến hiểu nhầm, đầu phát càng lớn thì sai số càng cao.
Cách xác định chính xác ERA khá lằng nhằng (phải quét đầu phát và đo đạc
công suất) nên ta có thể coi diện tích đầu phát là ERA là được. Vùng tổ chức
thích hợp điều trị thường có diện tích lớn hơn ERA khoảng 2-3 lần là tối đa, tuy
nhiên khi diện tích càng tăng lên thì hiệu quả tăng nhiệt càng giảm. Đối với vùng
điều trị lớn thì nên dùng sóng ngắn hoặc vi sóng chứ dùng siêu âm thì hết hơi.

Tần số 1Mhz vào sâu 2-5cm thích hợp để điều trị ở lớp mỡ và cơ. Tần số 3Mhz
vào sâu 1-2cm nên phụ hợp với các tổn thương bề mặt như mô sẹo, cân, gân.
Vì tần số 3Mhz xuyên sâu ít hơn nhưng tần số lại cao hơn 1Mhz nên tốc độ hấp
thụ cao hơn, mặc dù chỉ ở 1-2cm nhưng nếu só sánh thì tốc độ làm nóng cao
hơn đến 3 lần so với tần số 1Mhz.
Đường kính đầu phát siêu âm càng lớn thì chùm siêu âm càng hội tụ, càng nhỏ
thì chùm siêu âm càng phân kỳ. Đồng thời chùm siêu âm tần số 1Mhz sẽ phân
kỳ hơn 3Mhz vì có bước sóng lớn hơn.

You might also like