You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ


BỘ MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ

BÀI TẬP HỌC PHẦN KINH TẾ ASEAN

Đề tài: Chính sách phát triển công nghiệp của Cam-pu-chia và


khả năng hợp tác với Việt Nam

Họ và tên sinh viên : LÊ ANH DŨNG


Mã sinh viên : 11196007
Chuyên ngành : Kinh tế quốc tế
Lớp : Kinh tế quốc tế 61 A
Hệ : Chính quy
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Thường Lạng
Email: langnt@neu.edu.vn, langnguyen3300@gmail.com
SĐT: 0983478486
Thời gian học : Học kỳ 3 năm học 2021-2022
SĐT SV: 0328635421
Email SV: dungla.neu@gmail.com

HÀ NỘI, 6/2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài tập này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các phần trích dẫn và tài liệu sử
dụng trong bài tập hoàn toàn trung thực, được trích nguồn và đảm bảo độ chính xác cao nhất trong
phạm vi hiểu biết của tôi. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin chịu trách nhiệm về bài tập của
mình.
Hà Nội ngày 05 tháng 06 năm 2022
Sinh viên thực hiện
Lê Anh Dũng

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho em xin được cảm ơn sâu sắc tới các giảng viên trường Đại học Kinh tế quốc
dân nói chung và các giảng viên thuộc Viện Thương Mại và Kinh tế quốc tế nói riêng đã tận tình
giảng dạy, truyền đạt cho chúng em những kiến thức và kinh nghiệm quý báu.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, người đã trực tiếp hướng
dẫn em trong suốt quà trình thực hiện bài tập. Trong khoảng thời gian được làm việc với thầy, em
đã không ngừng học tích lũy nhiều kiến thức bổ ích cho mình mà còn được học tập được tinh thần
làm việc nghiêm túc, hiệu quả, đây là những điều rất cần thiết cho em trong quá trình học tập và
công tác sau này
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và bạn bè đã luôn động viên, đóng góp
ý kiến và giúp đỡ trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành bài tập này.
Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2022
Sinh viên thực hiện
Lê Anh Dũng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG .............................................................................................. 2
1.1. Tính tất yếu của việc lựa chọn đề tài ................................................................................. 2
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 3
1.2.1. Mục tiêu ................................................................................................................................ 3
1.2.2. Nhiệm vụ .............................................................................................................................. 4
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 4
1.5. Kết cấu của đề tài ................................................................................................................ 4
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CỦA CAM-PU-CHIA............. 4
2.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................................................... 4
2.2. Tổng quát về chính sách công nghiệp của Campuchia ................................................... 6
2.3. Một số chính sách cụ thể .................................................................................................... 7
2.3.1. Một số chính sách chính...................................................................................................... 7
2.3.1.1. Khuyến khích FDI .............................................................................................................. 7
2.3.1.2. Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước ......................................................................... 7
2.3.1.3. Phát triển công nghiệp định hướng xuất khẩu và sản xuất thay thế nhập khẩu ............... 8
2.3.1.4. Hình thành đặc khu kinh tế .............................................................................................. 10
2.3.1.5. Phát triển ngành năng lượng và mạng lưới điện ............................................................ 11
2.3.1.6. Khuôn khổ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................................................. 11
2.3.2. Một số chính sách bổ trợ ................................................................................................... 13
2.3.2.1. Chính sách kinh tế vĩ mô ................................................................................................. 13
2.3.2.2. Chính sách thương mại.................................................................................................... 14
2.3.2.3. Chính sách thị trường lao động ....................................................................................... 14
2.3.3. Tầm nhìn tương lai ............................................................................................................ 15
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG HỢP TÁC GIỮA CAM-PU-CHIA VÀ VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP ........................................................................................................ 17
3.1. Quan hệ hợp tác Việt Nam – Cam-pu-chia .................................................................... 17
3.2. Triển vọng hợp tác giữa Campuchia và Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp ......... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 19
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT NGHĨA ĐẦY ĐỦ


TT
TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT

Association of South East Asian Hiệp hội các quốc gia Đông
1 ASEAN
Nations Nam Á

2 DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ

3 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

4 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

5 LOI Law of Investment Luật Đầu tư

6 SEZ Special Economic Zone Đặc khu kinh tế

7 SOE State Owned Enterprise Doanh nghiệp nhà nước

8 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới

1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Tính tất yếu của việc lựa chọn đề tài
Sau nhiều thập kỷ nội chiến và xung đột chính trị, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Campuchia
đã được tổ chức vào tháng 5 năm 1993 dưới sự bảo trợ của Cơ quan chuyển tiếp liên hợp quốc tại
Campuchia (UNTAC), sau đó Campuchia đạt được hòa bình, thống nhất quốc gia và tương ổn định
chính trị. Sau cuộc bầu cử, Hiến pháp của Vương quốc Campuchia được ban hành vào tháng 9 năm
1993. Kể từ đó, Campuchia được chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường tự do. Chính phủ Hoàng gia của Vương quốc Campuchia đã và đang thực hiện cải
cách cơ cấu và kinh tế vĩ mô, và đã đạt được một số thành công đáng kể trong việc ổn định nền tảng
kinh tế vĩ mô. Nền kinh tế đã phát triển nhanh chóng kể từ nửa đầu những năm 1990, trong khi lạm
phát đã giảm đáng kể.
Ngoài những tiến bộ trong hòa bình, ổn định và trật tự xã hội, Campuchia hiện ngày càng hội
nhập sâu rộng vào khu vực sau khi gia nhập ASEAN và các cơ chế khu vực và tiểu vùng, với sự
tham gia vào các hoạt động bao gồm đăng cai tổ chức thành công hội nghị cấp cao ASEAN năm
2002 tại Phnom Penh. Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã ký các hiệp định thương mại với nhiều
nước ở Châu Á để nới lỏng khả năng tiếp cận thị trường bên ngoài. Trên toàn cầu, một cột mốc quan
trọng cuối cùng đã đạt được khi Campuchia được công nhận là thành viên thứ 148 của WTO vào
ngày 13 tháng 10 năm 2004. Campuchia là nước kém phát triển (LDC) thứ hai sau Nepal gia nhập
WTO thông qua quá trình đàm phán đầy đủ của bên làm việc. Với nguồn nhân lực và chuyên môn
hạn chế trong thương mại quốc tế, tư cách thành viên WTO đã áp đặt lên Campuchia trách nhiệm
cao hơn trong việc tuân thủ các giao thức và tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nó đồng thời mở ra
cơ hội to lớn cho giao thương với thế giới nói chung trên một cơ sở cạnh tranh.
Thực hiện các chính sách phát triển thương mại và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
thuận lợi, công nghiệp Campuchia phát triển nhanh chóng. Sản xuất ở Campuchia trước đây hầu hết
được tiến hành ở quy mô rất nhỏ, không chính thức, chế biến thực phẩm, làm gạch và chế biến gỗ
đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, Campuchia đã trải qua rất nhiều thay đổi cơ cấu trong
khoảng thập kỷ trước hay sau khi tuyên bố nền kinh tế thị trường.
Chiến lược quan trọng của Chính phủ Hoàng gia Campuchia với các chính sách ngành của
mình là mở rộng liên kết kinh tế giữa nông nghiệp và công nghiệp để cải thiện khu vực công nghiệp
và giảm bớt sự phụ thuộc vào khu vực chính duy nhất, ngành công nghiệp dệt may. Chính phủ tiếp
tục cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất cần thiết và các dịch vụ hỗ trợ đủ tiêu chuẩn để nâng cao môi
trường đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tăng cường đào tạo chuyên môn và thành lập các
2
khu công nghiệp hoặc đặc các khu kinh tế (SEZs). Khung pháp lý cũng đang được tăng cường để
đảm bảo hiệu quả và minh bạch trong việc thực hiện pháp luật và các quy định. Sau đây là phác thảo
theo trình tự thời gian về những thay đổi ở Campuchia trong quá trình công nghiệp hóa.
(i) Bắt đầu từ năm 1989: Cải cách triệt để được đưa ra để chấp nhận quyền sở hữu tư nhân về
đất và bất động sản. Tư nhân hóa và mua lại các doanh nghiệp nhà nước thực hiện và FDI đã được
chào đón nồng nhiệt.
(ii) Bắt đầu từ năm 1993: Có một sự thay đổi hoàn toàn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế trở nên phụ thuộc nhiều vào bên ngoài và sự hỗ trợ
từ các cơ quan viện trợ quốc tế.
(iii) Sau năm 1995: Nền kinh tế tăng trưởng mạnh từ các ngành công nghiệp thâm dụng lao
động, đặc biệt là sản xuất hàng may mặc và các ngành liên quan đến du lịch.
(iv) Sau năm 1997: Nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi tình trạng bất ổn chính trị và hậu quả từ
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Tuy nhiên, Campuchia vẫn có thể vượt qua điều này với tăng
trưởng tích cực và ngành công nghiệp trong nước tồn tại chủ yếu do nhu cầu mạnh mẽ trong lĩnh
vực may mặc.
(v) Sau năm 1999: Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực diễn ra bằng việc gia nhập
ASEAN. FDI vào lĩnh vực sản xuất bắt đầu đổ vào.
(vi) Sau năm 2003: Hội nhập thương mại toàn cầu diễn ra bằng việc gia nhập WTO. Ngành
may mặc vẫn chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp và thương mại của Campuchia tiếp tục phát
triển liên tục.
Với định hướng phát triển ngành công nghiệp có nhiều nét tương đồng với Việt Nam, đồng
thời có sự gần gũi về vị trí địa lý và văn hóa, cũng như quan hệ ngoại giao tốt đẹp đã được hình
thành từ lâu, hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp giữa Cam-pu-chia và Việt Nam còn nhiều tiềm
năng phát triển. Điều này đặt ra yêu cầu cần có những nghiên cứu sâu hơn về chính sách phát triển
công nghiệp của Cam-pu-chia và triển vọng hợp tác với Việt Nam. Vì vậy, đề tài “Chính sách phát
triển công nghiệp của Cam-pu-chia và khả năng hợp tác với Việt Nam” được lựa chọn
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích chính sách phát triển công nghiệp của Campuchia, từ đó đề xuất định
hướng và khả năng hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp giữa Việt Nam và Campuchia trong thời gian

3
tới
1.2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, giới thiệu bối cảnh phát triển ngành công nghiệp Cam-pu-chia
Thứ hai, phân tích chính sách phát triển ngành công nghiệp của Cam-pu-chia
Thứ ba, nhận định triển vọng hợp tác trong công nghiệp giữa Việt Nam và Cam-pu-chia
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chính sách phát triển công nghiệp của Cam-pu-chia và khả năng hợp tác với Việt Nam
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tập sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để giải quyết vấn đề đặt ra.
1.5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Giới thiệu chung
Chương 2: Chính sách phát triển công nghiệp của Cam-pu-chia
Chương 3: Triển vọng hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp giữa Việt Nam và Cam-pu-chia
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CỦA CAM-PU-CHIA
2.1. Bối cảnh lịch sử
Hầu hết các cơ sở công nghiệp của Campuchia ở dạng nhỏ và doanh nghiệp vừa (DNVVN).
Ngành công nghiệp bắt đầu phát triển vào những năm 1960 sau khi quốc gia đạt được đầy đủ sự
công nhận và uy tín quốc tế. Sau đó, lĩnh vực này phải đối mặt với một cuộc chiến khó khăn để tồn
tại do nhiều thay đổi trong lãnh đạo và chế độ dẫn đến sự phá hủy và trì trệ.
Công nghiệp chỉ chiếm 5% GDP của Campuchia vào năm 1985, giảm so với 19% vào năm
1969. Hoạt động công nghiệp tiếp tục tập trung vào chế biến các mặt hàng nông nghiệp, chủ yếu là
gạo, cá, gỗ và cao su. Nhà máy sản xuất quy mô nhỏ và sử dụng trung bình ít hơn 200 công nhân.
Những cơ sở này hoạt động nhằm sản xuất đủ hàng tiêu dùng (nước ngọt, thuốc lá và các mặt hàng
thực phẩm) và các sản phẩm gia dụng (xà phòng, giấy và đồ dùng) để đáp ứng nhu cầu địa phương.
Thông qua so sánh các doanh nghiệp thời trước và sau chiến tranh có thể đánh giá mức độ
phục hồi công nghiệp của Campuchia. Năm 1969, năm cuối cùng trước khi đất nước chìm trong
chiến tranh càn quét Đông Dương, một cuộc điều tra cho thấy toàn quốc có 18 doanh nghiệp doanh
4
nghiệp lớn (13 doanh nghiệp công và 5 doanh nghiệp hỗn hợp công-tư) và 33.000 DNVVN thuộc
sở hữu tư nhân. Khoảng một nửa số nhà máy hoạt động vào năm 1969 là nhà máy xay xát gạo, hoặc
đã tham gia vào chế biến gạo. Năm 1985, hãng thông tấn chính phủ Sarpodamean Kampuchea thông
báo rằng 56 nhà máy đã được cải tạo và đã được đưa vào hoạt động trở lại. Tại chính thủ đô, khoảng
một nửa các nhà máy tại Phnôm Pênh trước chiến tranh đã mở cửa trở lại vào năm 1985. Hầu hết
các ngành công nghiệp đều sản xuất ở mức thấp hơn nhiều so với công suất do thường xuyên bị cắt
điện, thiếu phụ tùng thay thế, nguyên liệu thô, và thiếu cả công nhân lành nghề và cán bộ quản lý có
kinh nghiệm. Sự phục hưng công nghiệp tiếp tục khó và cực kỳ chậm vì nó chủ yếu dựa vào việc sử
dụng các tài nguyên.
Đầu năm 1986, các nhà máy công nghiệp lớn ở Phnom Penh bao gồm nhà máy dệt Tuol Kok,
nhà máy dệt lớn nhất trong số 6 nhà máy dệt của thành phố (tuy nhiên nhà máy không hoạt động 3
ngày trong tuần vì thiếu điện). Cùng với đó có bốn nhà máy điện, một nhà máy nước giải khát, một
nhà máy sản xuất thuốc lá, một nhà máy bê tông sắt và một số doanh nghiệp khác sản xuất hàng tiêu
dùng.
Tại đô thị Sihanoukville (hoặc Kampong Som) và các vùng lân cận Tỉnh Kampot, một số nhà
máy xay xát gạo, gỗ xẻ, nhà máy gạch ngói nhỏ, nhà máy điện, một nhà máy lọc dầu, một nhà máy
lắp ráp máy kéo, các nhà máy xi măng và phốt phát, và một nhà máy điện lạnh để lưu trữ cá được
báo cáo là đã đi vào hoạt động. Trong trung tâm công nghiệp quan trọng Ta Khmau, tỉnh Kampot,
có một nhà máy sản xuất lốp xe (sở hữu máy phát điện riêng, nhưng thiếu cao su và phụ tùng thay
thế), một số xưởng cơ khí, và nhà kho. Tỉnh Batdambang có các cửa hàng sửa chữa nông cụ, một
nhà máy tách hạt bông và dệt vải, nhà máy bao đay, nhà máy sửa chữa ô tô và máy kéo và một nhà
máy phân lân. Tại tỉnh Kampong Cham, trước đó là trung tâm trồng thuốc lá và sản xuất hàng may
mặc bằng vải bông, đã có nhà máy vải dệt sợi bông, một số hoạt động dệt lụa và một nhà máy sản
xuất săm lốp ô tô.
Doanh nghiệp nhỏ do gia đình tự quản và doanh nghiệp tư nhân chuyên dệt, may đo (sampot
và xà rông lụa - quốc phục Campuchia), và các sản phẩm chế tạo nhỏ phát triển nhanh hơn so với
các ngành công nghiệp công, và chúng đã đóng góp đáng kể đến sự phục hồi kinh tế. Theo ước tính
chính thức, giá trị sản lượng của địa phương và của các ngành thủ công nghiệp cộng lại lên tới 50%
giá trị sản xuất trong các ngành công nghiệp quốc dân năm 1984. Riêng ở Phnôm Pênh đã có 1.840
các cửa hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị sản lượng tăng từ 14 triệu riel năm 1981 lên 50 triệu riels
năm 1984.

5
Năm 1989, trong khi Việt Nam tiến hành công cuộc “Đổi mới", Campuchia cũng bắt đầu cải
cách hệ thống quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung (hoặc kinh tế xã hội chủ nghĩa)
sang định hướng thị trường. Điều này được bắt đầu bằng việc công nhận tài sản tư nhân trong bất
động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, và chào đón FDI. Những cải cách đã đặt nền tảng cho
quá trình công nghiệp hóa của Campuchia.
Sự phát triển công nghiệp được thúc đẩy bởi chính sách đầu tư của Chính phủ Hoàng gia
Campuchia. Chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và thương mại quốc tế bằng cách mở cửa
thị trường tự do cho tất cả các nhà đầu tư và đối tác được đầu tư vào quốc gia mà không có bất kỳ
phân biệt đối xử và hạn chế. Ngoại lệ là yêu cầu rằng quyền sở hữu đất đai là của các thể nhân có
quốc tịch Campuchia hoặc theo pháp luật các pháp nhân trong đó hơn 51% vốn chủ sở hữu do người
hoăc pháp nhân có quốc tịch Campuchia nắm giữ trực tiếp người hoặc pháp nhân có quốc tịch
Campuchia.
Bắt đầu từ năm 1994, Chính phủ Hoàng gia Campuchia bắt đầu tư nhân hóa doanh nghiệp
quy mô nhỏ và các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa, đặc biệt là những doanh nghiệp không tạo
ra lợi nhuận như kỹ thuật, nhà máy gạo, nước giải khát, dệt may và nhà máy nấu rượu. Trong năm
2009, Đường sắt Hoàng gia Campuchia đã được tư nhân hóa cho một công ty của Úc tên là TOLL.
Vì thế cho đến nay, chỉ còn một số doanh nghiệp chiến lược là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,
bao gồm cảng, doanh nghiệp điện, cấp nước, hoặc một phần thuộc sở hữu nhà nước như doanh
nghiệp hàng không, kiểm soát không lưu.
2.2. Tổng quát về chính sách công nghiệp của Campuchia
Chính sách công nghiệp của Campuchia được xây dựng dựa trên bảy điểm chính:
1. Phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động;
2. Thúc đẩy phát triển kinh doanh nông nghiệp;
3. Phát triển các ngành công nghiệp dựa trên việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên cơ bản;
4. Thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ và thủ công nghiệp;
5. Khuyến khích chuyển giao công nghệ và đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu;
6. Thành lập khu công nghiệp và khu chế xuất;
7. Tăng sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu.
Cốt lõi của chính sách công nghiệp này là tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mà
Campuchia có lợi thế so sánh để thúc đẩy xuất khẩu. Do đó, một thành phần quan trọng của chính
6
sách công nghiệp liên quan đến việc giảm bớt các rào cản đối với xuất khẩu và nhập khẩu đầu vào
của doanh nghiệp. Đây là một trong những khía cạnh chính của chính sách được coi là đã phát huy
hiệu quả.
2.3. Một số chính sách cụ thể
2.3.1. Một số chính sách chính
2.3.1.1. Khuyến khích FDI
Bắt đầu từ năm 1993, do chính sách thu hút FDI, công nghiệp đã phát triển liên tục. Tháng 8
năm 1994, Luật Đầu tư (LOI) được Quốc hội Campuchia thông qua, đánh dấu sự khởi đầu của chế
độ đầu tư nước ngoài tự do. Về nguyên tắc, LOI của Campuchia cho phép các doanh nghiệp FDI
tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và sở hữu 100%. Một số lĩnh vực phải tuân theo
các điều kiện, sự tham gia cổ phần của địa phương hoặc sự chấp thuận trước của cơ quan có thẩm
quyền bao gồm sản xuất thuốc lá, sản xuất phim, xay xát gạo, khai thác đá quý, xuất bản và in ấn,
phát thanh và truyền hình, sản xuất đồ chạm khắc gỗ và đá, và dệt lụa
Năm 2003, LOI 1994 đã được sửa đổi để hạn chế sự tùy nghi, cải thiện tính minh bạch và
giảm gánh nặng hành chính, cũng như tăng nguồn thu thuế nhà nước. Trong LOI sửa đổi, thuế doanh
nghiệp được tăng lên 20% từ 9% đối với tất cả các dự án, ngoại trừ các doanh nghiệp tài nguyên
được nâng lên 30%, và 9% hoặc 0% đối với các dự án hiện có và được miễn thuế các nhà đầu tư.
Việc miễn thuế doanh nghiệp này được cung cấp tự động trong 3 năm và về nguyên tắc có thể được
gia hạn lên đến 3 năm nữa tùy thuộc vào giấy chứng nhận hàng năm và sự tuân thủ của các công ty.
Ngoài ra, trong khi các khoản tái đầu tư và thu nhập hồi hương được miễn thuế trong LOI 1994,
theo LOI sửa đổi năm 2003, các khoản này sẽ phải chịu thuế.
2.3.1.2. Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước
Cải cách doanh nghiệp nhà nước (SOEs) được coi là một trong những chính sách kinh tế cốt
lõi nhằm chuyển đổi Campuchia từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường vào
cuối những năm 1980. Doanh nghiệp Nhà nước ở Campuchia bao gồm ba loại hình: a) Doanh nghiệp
công ích kinh tế; 2) công ty nhà nước; c) Liên doanh trong đó Nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp nắm
giữ trên 51% vốn hoặc quyền biểu quyết.
Quá trình tư nhân hóa các DNNN ở Campuchia có thể được chia thành hai giai đoạn. Giai
đoạn một bắt đầu vào cuối năm 1989 cho đến giữa năm 1993. Trong giai đoạn này, các Bộ chỉ cần
tư nhân hóa các doanh nghiệp của mình dưới sự giám sát trực tiếp của họ, đàm phán các điều khoản
bán/cho thuê và đưa doanh thu trực tiếp vào ngân sách của Bộ. Giai đoạn hai bắt đầu vào giữa năm
7
1995, và được thiết kế để thắt chặt và tập trung kiểm soát toàn bộ quá trình bởi một ủy ban tư nhân
hóa liên bộ dưới sự lãnh đạo của Bộ Kinh tế và Tài chính.
Năm 1989, có 187 DNNN ở Campuchia. Đến cuối năm 2000, 160 doanh nghiệp nhà nước đã
được tư nhân hóa, trong đó 139 doanh nghiệp cho tư nhân thuê, 12 doanh nghiệp chuyển thành liên
doanh, 8 doanh nghiệp bán hết và 8 doanh nghiệp giải thể.
2.3.1.3. Phát triển công nghiệp định hướng xuất khẩu và sản xuất thay thế nhập khẩu
Kế hoạch Hành động Phát triển Công nghiệp của Chính phủ Hoàng gia Campuchia (1998-
2003) có hai mục tiêu: phát triển các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu, và phát triển sản
xuất thay thế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng được lựa chọn. Những mục tiêu này được cho là đạt
được bằng cách thúc đẩy: (i) các ngành thâm dụng lao động, (ii) các ngành dựa vào tài nguyên thiên
nhiên, (iii) DNVVN, (iv) nông nghiệp, (v) chuyển giao công nghệ và nâng cấp chất lượng sản phẩm
công nghiệp, (vi) thành lập các khu công nghiệp, và (vii) phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu các
hàng tiêu dùng.
Chiến lược phát triển công nghiệp hướng ngoại được ưu tiên với bốn lý do. Thứ nhất, quy
mô thị trường nội địa nhỏ về dân số và sức mua hạn chế cơ hội sản xuất hiệu quả. Thứ hai, Campuchia
không có đủ nguồn lực tài chính hoặc chuyên môn quản lý để sử dụng đầy đủ cơ sở tài nguyên thiên
nhiên. Thứ ba, tiếp cận với những đổi mới công nghệ làm nền tảng cho gia tăng hiệu quả và mở rộng
sự lựa chọn cho người tiêu dùng chỉ có thể đến từ việc hội nhập với kinh tế khu vực và toàn cầu.
Thứ tư, không quốc gia nào có lợi thế so sánh trong sản xuất mọi thứ và do đó tất cả các quốc gia
đều có thể hưởng lợi từ việc hợp tác và giao dịch với những quốc gia khác.
Việc thúc đẩy sản xuất sử dụng nhiều lao động sẽ tiếp tục tập trung vào ngành dệt may nơi
có sẵn nguồn cung chủ yếu là lao động nữ hỗ trợ chi phí-cạnh tranh. Tuy nhiên, chính phủ thừa nhận
rằng để giữ lại và tăng thị phần trong môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh yêu cầu nâng cấp
chất lượng sản phẩm và tăng năng suất thông qua các cải tiến trong công nghệ và quản lý. Điều quan
trọng là các quan hệ ngành tốt hơn trong khuôn khổ pháp lý đã có được phát triển và các cách thức
để tăng hiệu quả cấp số nhân của ngành sản xuất hàng may mặc được khám phá ra. Hiện nay, hầu
hết các nhà sản xuất hàng may mặc thực hiện hoạt động CMT (cut, make and trim). Họ nhập khẩu
vải và phụ kiện (khóa kéo, cúc, chỉ) và tận dụng các dịch vụ địa phương như vận chuyển và dịch vụ
thanh toán bù trừ hàng hóa, xây dựng và các loại hình tiện ích để vận hành và xây dựng nhà máy.
Việc thúc đẩy ngành công nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên sẽ tập trung vào việc xác
định và khai thác cơ hội trong chế biến tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên khoáng sản phi kim loại,

8
gỗ và thủy sản. Sự phát triển của các cơ sở chăn nuôi động vật và cá đóng vai trò như nguồn cung
cấp nguyên liệu thô cho các nhà máy tái chế. Tuy nhiên, triển vọng chính trong lĩnh vực này là sử
dụng tài nguyên phi kim loại để sản xuất vật liệu xây dựng.
Đối với sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chính phủ dự định ưu tiên quảng bá đồ nghệ thuật và
thủ công truyền thống cho thị trường khách du lịch ở cả nông thôn và thành thị. Một lĩnh vực khác
có tiềm năng mở rộng là các nhà sản xuất thuốc lá quy mô nhỏ có thể góp phần tăng nguồn cung cấp
nguyên liệu thô cho các nhà sản xuất lớn. Tuy nhiên, để thành công sẽ cần các doanh nghiệp này
đảm bảo chất lượng sản phẩm bền vững. Ngoài ra, vì họ không có khả năng tiếp cận tín dụng ngoài
những người cho vay tiền chi phí cao, họ sẽ cần phải được cung cấp các phương tiện tín dụng tài
chính vi mô.
Chiến lược cốt lõi để phát triển ngành nông nghiệp là cấp các khu đất ưu đãi cho cả các công
ty trong nước và nước ngoài trên cơ sở dài hạn và khuyến khích sự tham gia của các chủ đất nhỏ ở
địa phương thông qua hợp đồng để phát triển các nhà máy chế biến trên địa bàn. Sự phát triển của
các sáng kiến công nghiệp nông nghiệp sẽ đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Công nghiệp, Mỏ
và Năng lượng, Bộ Nông lâm ngư nghiệp và chính quyền địa phương cũng như hỗ trợ kỹ thuật trong
việc đánh giá đầy đủ tiềm năng phát triển. Tăng cường liên kết kinh tế giữa nông nghiệp và công
nghiệp trong sự quản lý môi trường lành mạnh được coi là cần thiết để tạo ra thu nhập và việc làm.
Việc thúc đẩy chuyển giao công nghệ và nâng cấp sản phẩm sẽ đòi hỏi Bộ Công nghiệp, Mỏ
và Năng lượng thiết kế và thực hiện hệ thống kiểm soát chất lượng cho các sản phẩm xuất khẩu đặt
ra các tiêu chuẩn được quốc tế chấp nhận. Ngoài ra, chuyển giao công nghệ sẽ yêu cầu Chính phủ
Hoàng gia Campuchia phát triển khuôn khổ pháp lý và quy định phù hợp bao gồm bản quyền, nhãn
hiệu,…
Việc khuyến khích thay thế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng được lựa chọn sẽ được chỉ
được thực hiện sau khi phân tích kỹ lưỡng về việc có hay không một triển vọng thực sự về một liên
doanh có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nói chung, chính phủ sẽ hỗ trợ phát triển công nghiệp trên diện rộng bằng cách: (i) khuyến
khích mở rộng khu vực DNVVN, đặc biệt là thông qua cung cấp phương tiện tài chính trung và dài
hạn, (ii) cải thiện hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thông qua tập đoàn hóa và tư
nhân hóa, (iii) ngăn chặn dòng sản phẩm nhập khẩu bất hợp pháp, (iv) giảm các rào cản đối với xuất
khẩu như thuế xuất khẩu và dịch vụ tạo thuận lợi thương mại không hiệu quả (ví dụ: cấp phép), (v)
giảm bớt các rào cản đối với việc nhập khẩu đầu vào, (vi) bảo vệ trong ngành công nghiệp non trẻ
trong các trường hợp được lựa chọn cẩn thận, (vii) tăng cường liên kết giữa các DNVVN và giữa
9
các DNVVN với các ngành công nghiệp lớn, (viii) thúc đẩy một trung tâm năng suất quốc gia sẽ hỗ
trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, (ix) thiết lập
một viện tiêu chuẩn quốc gia nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn khu vực
và quốc tế, (x) thiết lập phòng thí nghiệm quốc gia với năng lực kỹ thuật thực hiện các phân tích vật
lý, hóa học, vi sinh và cơ học của các sản phẩm để thiết lập các thông số chất lượng và kỹ thuật khác
của các sản phẩm này, (xi) thành lập một văn phòng quyền sở hữu công nghiệp để bảo vệ các sản
phẩm, thiết kế và công nghệ mới khỏi việc sao chép bất hợp pháp, (xii) thúc đẩy đào tạo nghề trong
nước và nước ngoài, và (xiii) nâng cấp khung pháp lý trong các lĩnh vực luật nhà máy, luật khu công
nghiệp, luật bằng sáng chế và kiểu dáng công nghiệp, trọng lượng và biện pháp, và an toàn công
nghiệp.
Các tổ chức khu vực tư nhân sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định các cơ hội
và hạn chế phát triển, tham gia vào quá trình xây dựng chính sách và giám sát các quy trình, và thúc
đẩy đầu tư tư nhân trong và ngoài nước.
2.3.1.4. Hình thành đặc khu kinh tế
Việc thành lập Đặc khu Kinh tế (SEZ) ở Campuchia dựa trên tiểu nghị định số 148 ban hành
ngày 29 tháng 12 năm 2005. Theo tiểu nghị định, mục tiêu chính của việc thành lập SEZ là cung cấp
và cải thiện môi trường đầu tư có lợi cho việc nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh, tăng trưởng
kinh tế quốc gia, thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm. Bản thân ý tưởng thành lập SEZ không phải là
mới đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với những nước có cơ sở hạ tầng còn thiếu và
thủ tục hành chính phức tạp. Việc thành lập SEZ nói chung bổ sung cho những thiếu hụt trên.
Việc hình thành các khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển xuất khẩu và tạo
việc làm bằng cách cung cấp cơ sở hạ tầng chất lượng cao và các tiện ích cần thiết để khuyến khích
đầu tư. Các khu ở ngoại ô Phnom Penh và Sihanoukville sẽ cung cấp giao thông và thông tin liên
lạc, điện và nước, quản lý chất thải, giáo dục và các cơ sở y tế, khu phức hợp mua sắm, cùng với các
thủ tục hải quan tối thiểu và miễn thuế nhập khẩu các đầu vào kinh doanh. Sự tập trung các doanh
nghiệp định hướng xuất khẩu sẽ cung cấp một môi trường ươm tạo doanh nghiệp trong đó ý tưởng
và kinh nghiệm có thể được trao đổi và cũng sẽ cho phép kiểm soát tốt hơn tác động đến môi trường
của các hoạt động kinh doanh cụ thể. Các khu vực có thể khác cho các khu công nghiệp, chế xuất
bao gồm Koh Kong, Battambang (gần biên giới Thái Lan), và Banteay Meanchey (tỉnh đông dân
nhất).
Chính phủ Hoàng gia Campuchia công nhận rằng các SEZ là nền tảng cho công nghiệp hóa,
xúc tiến thương mại và phát triển kinh tế vì chúng mang lạicơ sở hạ tầng, việc làm, kỹ năng, nâng
10
cao năng suất và triển vọng xóa đói giảm nghèo ở những vùng nông thôn. Chính phủ theo đó đã phê
duyệt tổng cộng 21 SEZ, nằm dọc theo biên giới với Thái Lan và Việt Nam, tại Sihanoukville, và
tại Phnom Penh. Nhằm thu hút nhiều nhà đầu tư hơn, các SEZ cung cấp dịch vụ một cửa cho xuất
nhập khẩu, với các cơ quan tại chỗ cung cấp các dịch vụ hành chính. Đơn xin thành lập nhà máy
trong các đặc khu kinh tế được giải quyết tại chỗ, cũng như tất cả các giấy phép hành chính khác.
Có nhiều thách thức đối với sự phát triển SEZ ở Campuchia. Thách thức đầu tiên là đầu cơ
đất đai và thách thức thứ hai là thiếu vốn. Vài người trong số họ, sau khi nhận được giấy phép, rất
chậm triển khai do nhiều nguyên nhân. Một số SEZ do các công ty địa phương phát triển chỉ nhằm
mục đích đầu cơ đất đai. Các chủ sở hữu đầu tư quá ít (chỉ là những con đường đất và những mảnh
đất được chia nhỏ), và họ chờ đợi các khoản thanh toán từ người thuê hoặc người mua các lô đất.
Một số không thể bắt đầu do vấn đề tài chính do thiếu kinh phí.
2.3.1.5. Phát triển ngành năng lượng và mạng lưới điện
Công nghiệp hóa không thể được thực hiện nếu không xây dựng một nguồn năng lượng tốt.
Phát triển công nghiệp ở Campuchia đã từng phải đối mặt với hạn chế do giá điện cao và thiếu nguồn
cung cấp điện. Điện chỉ có ở thủ đô và thành phố trực thuộc tỉnh. Để “tăng cường” nguồn cung,
Campuchia nhập khẩu điện từ Thái Lan và Việt Nam. Mặc dù vậy, chỉ 20% dân số được tiếp cận
với điện lực. ở các vùng nông thôn hẻo lánh, mọi người làm bằng máy phát điện chạy dầu, ắc quy ô
tô, đèn dầu và nến. Bắt đầu từ năm 1994, các nhà máy phát điện chạy bằng dầu diesel và dầu nhiên
liệu nặng lần đầu tiên được xây dựng ở Phnom Penh, Sihanoukville và Siem Reap, và sau đó là ở
các thị trấn của tỉnh, dẫn đến sự phát triển của hơn 20 lưới điện tỉnh lẻ. Từ năm 2005, Chính phủ,
với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế, đã liên kết các nhà máy điện với các đường dây cao áp 230
kV (kV) và 115 kV và các đường dây trung thế 22 kV. Chính phủ cũng đã mở rộng lưới điện đến
các khu vực bị cô lập trước đây và cung cấp cho họ nguồn điện nhập khẩu hoặc điện sản xuất trong
nước rẻ hơn. Kể từ năm 2015, Campuchia đã có hệ thống truyền tải điện cao thế tích hợp hoàn chỉnh
tại chỗ. Lưới điện quốc gia được kết nối đồng bộ với Việt Nam qua đường dây 230 kV ở phía Đông
Nam. Campuchia cũng phụ thuộc vào nguồn cung cấp điện từ Thái Lan ở phía tây bắc và từ
CHDCND Lào ở phía đông bắc thông qua các liên kết 115 kV riêng biệt.
2.3.1.6. Khuôn khổ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chính phủ Hoàng gia vương quốc Campuchia đã bắt tay vào một dự án đầy tham vọng là
chương trình phát triển và cải cách để đáp ứng nhu cầu của người dân. Mục tiêu chính là giảm đói
nghèo. Trong cuộc chiến chống đói nghèo, chính phủ thừa nhận rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra việc làm và thu nhập. Do đó,
11
Khung phát triển DNVVN đã được thiết kế để cải thiện và điều phối các nỗ lực của chính phủ trong
việc thúc đẩy hoạt động của DNVVN trong nền kinh tế thị trường. Việc này giúp kết hợp và xây
dựng các chính sách then chốt của chính phủ dành cho DNVVN, bao gồm những chính sách được
đưa ra vào tháng 7 năm 2004 trong cái gọi là “Chiến lược Hình chữ nhật”.
Khung phát triển DNVVN đóng vai trò như một con đường phát triển của khu vực DNVVN.
Khi làm như vậy, nó phải được xem như là một “tài liệu sống” sẽ được sửa đổi theo các điều kiện
mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đối mặt và năng lực cung cấp dịch vụ của chính phủ thay đổi.
Các cuộc thảo luận và hoạt động giữa chính phủ và nhà tài trợ cũng được điều phối xung quanh
khuôn khổ này.
Khung phát triển DNVVN được chia thành năm chương có mối liên hệ với nhau và một phụ
lục. Chương 1 và 2 cung cấp thông tin cơ bản và xác định các vấn đề chính mà các DNVVN phải
đối mặt. Chương 3 cung cấp bối cảnh chính sách và cấu trúc thể chế cho Khung phát triển DNVVN.
Chương 4 và 5 đưa ra chiến lược đối phó với từng vấn đề chính đã được xác định. Nó chia chiến
lược thành hai giai đoạn và theo vấn đề. Phụ lục cung cấp một sơ đồ tóm tắt về hành động cần thực
hiện.
Để thực hiện Chiến lược Hình chữ nhật của chính phủ và đạt được môi trường thuận lợi cho
kinh doanh, Khung phát triển DNVVN tập trung vào ba lĩnh vực chính: (i) khuôn khổ pháp lý và
quy định, (ii) tiếp cận tài chính, và (iii) các hoạt động hỗ trợ DNVVN. Một số vấn đề được xác định
và thảo luận trong mỗi lĩnh vực chính. Thảo luận bao gồm thông tin cơ bản, những ràng buộc và các
mục tiêu mà các DNVVN phải đối mặt. Đối với mỗi chủ đề phụ, thảo luận sau đó chuyển sang hành
động được thực hiện trong hai giai đoạn (giai đoạn I năm 2005-2007 và giai đoạn II năm 2008 -
2010).
Liên quan đến khuôn khổ pháp lý và quy định, một vấn đề quan trọng là cần phải hợp lý hóa
và giảm chi phí đăng ký thành lập công ty. Hiện tại, thủ tục này đang tiêu tốn thời gian thời gian và
chi phí cao nhất trong khu vực. Ưu tiên thứ hai là thiết lập quy trình xem xét theo quy định và cơ
chế truy đòi. Điều này sẽ tập trung vào nhiều loại giấy phép chồng chéo do hầu hết các bộ ban hành,
tình huống gây ra gánh nặng lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ ba, sự cần thiết phải thiết
lập một khuôn khổ pháp luật thương mại được đánh dấu là một phần quan trọng của chiến lược.
Tính đến giữa năm 2005, khung pháp lý thương mại vẫn chưa hoàn thiện.
Lĩnh vực quan trọng thứ hai trong chiến lược là cải thiện khả năng tiếp cận tài chính. Tiếp
cận với tài chính là một vấn đề quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp và vẫn là một vấn đề đặc
biệt đối với DNVVN. Trong số các vấn đề mà chiến lược giải quyết là: (i) tài sản thế chấp và quyền
12
sở hữu đất đai, (ii) cho thuê, (iii) chia sẻ thông tin tín dụng, (iv) kế toán đơn giản cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, và (v) các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Giải quyết những vấn đề này được
coi là quan trọng đối với cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của DNVVN.
Cuối cùng, lĩnh vực quan trọng thứ ba là cải thiện các hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, chính phủ đóng vai trò quan trọng bên cạnh khu
vực tư nhân. Nơi hàng hóa và dịch vụ công có liên quan hoặc có thất bại thị trường, chính phủ nên
chủ động tự mình hoặc hợp tác với khu vực tư nhân. Nơi không có thị trường tư nhân cung cấp dịch
vụ phát triển doanh nghiệp (BDS), Tiểu ban DNNVV liên Bộ có vai trò làm việc với các nhà tài trợ
và hiệp hội doanh nghiệp để kích cầu và phát triển khu vực tư nhân cung cấp. Đặc biệt, các hoạt
động hỗ trợ cần tập trung vào việc cải thiện khả năng tiếp cận thị trường, nâng cấp công nghệ và
nguồn nhân lực, phát triển liên kết.
Khung phát triển DNVVN đòi hỏi nỗ lực đáng kể của tiểu ban và ban thư ký. Nó cũng đòi
hỏi sự hợp tác và phối hợp của các nhà tài trợ, doanh nghiệp các hiệp hội và các bên liên quan khác.
Hơn nữa, khuôn khổ phải được xem xét định kỳ và sửa đổi để phản ánh các điều kiện và ưu tiên thay
đổi đối với DNVVN Campuchia.
2.3.2. Một số chính sách bổ trợ
2.3.2.1. Chính sách kinh tế vĩ mô
Lập trường chính sách kinh tế vĩ mô của Campuchia phần lớn nhất quán với các mục tiêu
chính là thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu. Là một nền kinh tế được đô la hóa phần
lớn, Campuchia chủ yếu dựa vào chính sách tài khóa bảo thủ để ngăn chặn áp lực lạm phát. Chính
sách tiền tệ đã cho phép mở rộng lĩnh vực tài chính. Tài khoản vãng lai và tài khoản vốn được mở
và không có hạn chế về tỷ giá hối đoái.
Các mục tiêu trung và dài hạn chính của Ngân hàng Quốc gia Campuchia (NBC), như được
đề ra trong Kế hoạch Phát triển Chiến lược Quốc gia (NSDP) (2009–2013) (RGC 2009 , 2013 ) là:
(1) duy trì giá cả ổn định với mục tiêu lạm phát dưới 5%; (2) đảm bảo sự lành mạnh liên tục của khu
vực tài chính; (3) tiếp tục điều hành chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi với mục tiêu khoảng 4100 KHR /
USD; (4) duy trì dự trữ ngoại hối để tài trợ ít nhất ba tháng cho nhập khẩu. Dự trữ quốc tế tăng từ
500 triệu đô la Mỹ năm 2000 (Hằng 2010) lên 6,027 triệu đô la Mỹ năm 2015, không bao gồm vàng
và quyền rút vốn đặc biệt (SDR) (NBC 2015).
Để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ đặt ra các ưu tiên sau: thực hiện chính sách
tài khóa linh hoạt, phù hợp với chính sách tiền tệ; đa dạng hóa cơ sở xuất khẩu; giữ nợ công ở mức

13
có thể quản lý được; tăng cường phối hợp thể chế; tăng cường phát triển khu vực tư nhân; thúc đẩy
phát triển thị trường lao động; khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực then chốt và đảm bảo tăng dự
trữ quốc tế; tiếp tục thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý để duy trì sự ổn định của
đồng Riel; củng cố niềm tin của công chúng và nhà đầu tư vào đồng nội tệ để thúc đẩy việc sử dụng
nó nhiều hơn; và tăng cường giám sát và quản lý rủi ro thanh khoản, tín dụng và thị trường theo các
tiêu chuẩn quốc tế (RGC 2013 ).
2.3.2.2. Chính sách thương mại
Đặc điểm chính của chính sách công nghiệp ở Campuchia là tập trung vào thương mại. Thị
trường nội địa quá nhỏ để hỗ trợ tăng trưởng dài hạn, và vì vậy đầu tư hướng vào xuất khẩu là rất
quan trọng. Campuchia đã tận dụng lợi thế nội khối (p.226) tính bổ sung bắt nguồn từ sự khác biệt
về chi phí lao động, sự sẵn có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các quy định kinh doanh.
Campuchia gia nhập ASEAN vào năm 1999 và WTO năm 2003. Đây là bước tiến cuối cùng
để gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế lớn điều hành các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đối với
ngành may mặc, việc gia nhập không chỉ là thách thức để trở nên cạnh tranh hơn, mà còn là cơ hội
mở rộng do việc dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu của Campuchia đối với 147 thành viên
WTO.
2.3.2.3. Chính sách thị trường lao động
Trên thực tế, thị trường lao động của Campuchia vẫn tự do và cởi mở, mặc dù luật lao động
đã có từ năm 1992. Sự xuất hiện của lĩnh vực may mặc đã dẫn đến luật lao động mới vào năm 1997,
tập trung vào tự do, thành lập công đoàn và quyền biểu tình. Luật năm 1997 chỉ áp dụng cho lĩnh
vực may mặc và các lĩnh vực liên quan. Có tổng cộng 989 cuộc đình công từ năm 2003 đến năm
2014, trung bình 1,6 cuộc mỗi tuần (GMAC 2015b).
Mức lương tối thiểu là một đặc điểm chính. Mức lương tối thiểu hợp pháp tại các nhà máy ở
Campuchia là 40 đô la Mỹ mỗi tháng vào năm 1997 đối với nhân viên thường xuyên và phải mất
mười ba năm để tăng lên 61 đô la Mỹ vào năm 2010 (GMAC 2015b). Tuy nhiên, gần đây, nó đã
tăng đều đặn từ 80 đô la Mỹ năm 2013 lên 117 đô la Mỹ năm 2014 và 145 đô la Mỹ năm 2015. Các
cuộc đàm phán hiện đang diễn ra giữa các nhà máy, công đoàn và chính phủ để tăng lương hơn nữa
vào năm 2016. Để so sánh với các đối thủ cạnh tranh, trong Năm 2015, mức lương tối thiểu của
Campuchia ngang bằng với Việt Nam; nhưng số giờ làm việc trung bình mỗi tháng và số ngày làm
việc mỗi năm ở Campuchia ít hơn; trong khi ở Bangladesh và Myanmar, mức lương tối thiểu thấp
hơn nhiều lần lượt là 70 đô la Mỹ và 78 đô la Mỹ.

14
Chương trình nhà máy tốt hơn được đưa ra vào năm 2010. Mục tiêu cơ bản của chương trình
là cải thiện điều kiện lao động trong lĩnh vực dệt may của Campuchia, đặc biệt thông qua một hệ
thống giám sát độc lập về điều kiện lao động trong các nhà máy may mặc. Chương trình này là kết
quả của các cuộc đàm phán thương mại Hoa Kỳ - Campuchia để đổi lấy việc tiếp cận thị trường vào
Hoa Kỳ.
2.3.3. Tầm nhìn tương lai
Chính phủ Hoàng gia dự kiến sẽ chuyển đổi và hiện đại hóa cơ cấu công nghiệp của
Campuchia từ ngành sử dụng nhiều lao động sang ngành dựa trên kỹ năng vào năm 2025, liên kết
với chuỗi giá trị toàn cầu, tích hợp vào mạng lưới sản xuất khu vực và các cụm phát triển, đồng thời
tăng cường khả năng cạnh tranh và nâng cao năng suất sản xuất của các ngành công nghiệp trong
nước và tiến tới phát triển một ngành công nghiệp dựa trên tri thức và công nghệ hiện đại. Việc hiện
thực hóa tầm nhìn này sẽ đóng góp rộng rãi vào sự phát triển kinh tế quốc gia thông qua việc hỗ trợ
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao bền vững và bao trùm, tạo việc làm cho người lao động
Campuchia, nâng cao giá trị gia tăng cho nền kinh tế và tăng thu nhập hợp lý cho người dân
Campuchia.
Theo tầm nhìn, Chính phủ Hoàng gia sẽ chú trọng thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu trong ba giai
đoạn quan trọng: Giai đoạn đầu, tiếp tục phát huy tiềm năng công nghiệp và đa dạng hóa các ngành
sử dụng nhiều lao động như sản xuất và công nghiệp nông nghiệp; Trong giai đoạn hai, thực hiện
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp toàn diện thông qua đa dạng hóa sản xuất; và cuối cùng, tiến hành
thay đổi hơn nữa theo hướng chuyên môn hóa dựa trên sự phát triển và đổi mới của khoa học và
công nghệ. Trong mỗi giai đoạn, Chính phủ Hoàng gia sẽ tập trung phát triển các cơ sở công nghiệp
mới bằng cách thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước với sự hỗ trợ từ các tổ chức công liên quan,
mở rộng cơ sở sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu thông qua hiện đại hóa và nâng cao năng suất của các
doanh nghiệp công nghiệp. Quá trình hợp lý hóa và chuyên môn hóa như vậy sẽ được thực hiện bằng
cách thực hiện một chính sách và khuôn khổ quy định một cách chủ động và dựa trên các thông lệ
tốt nhất.
Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia đưa ra chiến lược phát triển công nghiệp 2015-2025 với
ba mục tiêu chính: chuyển đổi và củng cố cơ cấu công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân; gia tăng
và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu; và củng cố và thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các
mục tiêu này được phản ánh thông qua chuyển đổi cơ cấu và các chỉ số hoạt động quan trọng như
sau:

15
1. Chuyển đổi và tăng cường cơ cấu công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân theo hướng tăng tỷ
trọng khu vực công nghiệp lên 30% năm 2025 từ 24,1% GDP năm 2013, tăng trưởng khu vực chế
tạo từ 15,5% năm 2013 lên 20% năm 2025.
2. Tăng cường và đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu bằng cách tăng xuất khẩu sản phẩm chế tạo
(sản phẩm không dệt) lên 15% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025, tăng xuất khẩu nông sản
chế biến lên 12% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025 cũng như xuất khẩu các sản phẩm mới.
3. Tăng cường cơ chế quản lý và phát triển các DNVVN bằng cách thúc đẩy đăng ký chính thức của
họ bao gồm cả các doanh nghiệp lớn và thúc đẩy quản trị công ty tốt với các tài khoản và bảng cân
đối kế toán phù hợp. Mục tiêu đến năm 2025, 80% đến 95% DNNVV đăng ký chính thức, trong đó
50% đến 70% có tài khoản và bảng cân đối kế toán chính xác. Trên thực tế, mục tiêu này tuy đơn
giản nhưng rất quan trọng vì sổ sách kế toán hợp lý là một trong những cơ chế quản trị để kiểm tra
tình hình kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp trách nhiệm giải trình cho các cổ
đông, là công cụ đảm bảo để đảm bảo nguồn tài chính và là cơ sở đánh giá cho Hoàng gia. Chính
phủ hỗ trợ và khuyến khích, chẳng hạn như đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật,…
Các chiến lược chính của Chính phủ Hoàng gia để đạt được tầm nhìn, mục tiêu và chỉ tiêu
nói trên tập trung chủ yếu vào việc chuẩn bị và thực hiện một khung chính sách cụ thể gắn với một
bộ cơ chế phối hợp bổ sung và liên kết để đảm bảo thực hiện IDP một cách hiệu quả. Khung chính
sách này bao gồm bốn trụ cột:
Thứ nhất, thu hút FDI và huy động đầu tư tư nhân trong nước để phát triển công nghiệp, phát triển
và mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy phát triển và chuyển giao công nghệ;
Thứ hai, phát triển và hiện đại hóa các DNVVN bằng cách mở rộng và củng cố cơ sở sản xuất, hiện
đại hóa và đăng ký doanh nghiệp chính thức, thúc đẩy phát triển và chuyển giao công nghệ, tăng
cường liên kết công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, cụ thể là trong lĩnh vực
nông - công nghiệp;
Thứ ba, cải thiện môi trường pháp lý để tăng cường năng lực cạnh tranh bằng cách cải thiện môi
trường đầu tư và thúc đẩy lợi nhuận thương mại, cung cấp trường thông tin và giảm bớt giao dịch
kinh doanh;
Thứ tư, phối hợp các chính sách hỗ trợ như phát triển nguồn nhân lực, đào tạo kỹ năng và cải thiện
quan hệ lao động, thực hiện kế hoạch quản lý đất đai, đô thị hóa và sử dụng đất phù hợp với Chính
sách đất đai và Chính sách quốc gia về quản lý đất đai cùng với phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm

16
cả giao thông / hậu cần kết nối hệ thống và kỹ thuật số, cung cấp điện, nước sạch và các dịch vụ hỗ
trợ khác như dịch vụ công, dịch vụ xã hội và dịch vụ tài chính.
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG HỢP TÁC GIỮA CAM-PU-CHIA VÀ VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP
3.1. Quan hệ hợp tác Việt Nam – Cam-pu-chia
Việt Nam và Cam-pu-chia là hai nước láng giềng, cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc
vùng hạ lưu sông Mê Công, đều có nguồn gốc nền văn minh nông nghiệp lúa nước với lịch sử lâu
đời ở khu vực Đông Nam Á. Với nhiều điểm tương đồng, hai nước luôn gần gũi, gắn bó, chia sẻ,
giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trải qua hơn nửa thế kỷ thiết lập quan hệ ngoại giao (1967 - 2021), quan hệ Việt Nam - Cam-
pu-chia đã được thử thách, tôi luyện và khẳng định qua năm tháng. Năm 2005, lãnh đạo hai nước đã
thống nhất xác định khuôn khổ quan hệ Việt Nam – Campuchia là quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu
nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” và từ đó đến nay lãnh đạo và nhân hai nước
luôn không ngừng phấn đấu vun đắp quan hệ giữa hai nước theo phương châm đó. Trong các chuyến
thăm, tiếp xúc và gặp gỡ, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước đều nhấn mạnh quyết tâm cùng
nhau vun đắp quan hệ đoàn kết, hữu nghị trên nền tảng lịch sử giữa hai nước Việt Nam và Cam-pu-
chia; đồng thời khẳng định, quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước đang phát triển ngày càng sâu
rộng, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc, góp
phần tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định và phát triển lâu dài.
Về quan hệ thương mại, năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 9,5 tỷ USD,
tăng 79,1% so với năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Campuchia đạt 4,8
tỷ USD, tăng 16,4% so với năm 2020. Xuất khẩu của Việt Nam đến Campuchia chiếm 1,4% trong
tổng xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Campuchia đạt 4,7
tỷ USD, tăng 299,9% so với năm 2020. Nhập khẩu của Việt Nam từ Campuchia chiếm 1,4% trong
tổng nhập khẩu của Việt Nam từ thế giới. Xuất siêu của Việt Nam đến Campuchia có giá trị 119,3
triệu USD, giảm 96% so với năm 2020.
Các nhóm hàng xuất khẩu chính bao gồm: Sắt thép các loại (đạt 952,2 triệu USD, tăng 13,4%);
Hàng dệt, may (đạt 733,7 triệu USD, tăng 16,7%); Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày (đạt 300 triệu
USD, tăng 24,9%); Phân bón các loại (đạt 209,2 triệu USD, tăng 59,1%); Sản phẩm từ sắt thép (đạt
168,6 triệu USD, tăng 4,8%); Sản phẩm từ chất dẻo (đạt 162,1 triệu USD, tăng 12,3%); Giấy và các
sản phẩm từ giấy (đạt 146,3 triệu USD, tăng 39,9%); Thức ăn gia súc và nguyên liệu (đạt 146,2 triệu

17
USD, tăng 19,5%); Kim loại thường khác và sản phẩm (đạt 104,4 triệu USD, giảm 17,3%); Sản
phẩm hóa chất (đạt 104,3 triệu USD, tăng 21,6%).
Các nhóm hàng nhập khẩu chính bao gồm: Hạt điều (đạt 1,9 tỷ USD, tăng 579,1%); Cao su (đạt
1,5 tỷ USD, tăng 259,2%); Phế liệu sắt thép (đạt 52,6 triệu USD, tăng 125%); Hàng rau quả (đạt
42,9 triệu USD, tăng 67%); Vải các loại (đạt 35,4 triệu USD, tăng 67,7%); Máy móc, thiết bị, dụng
cụ, phụ tùng khác (đạt 25,3 triệu USD, giảm 6,5%); Đậu tương (đạt 18 triệu USD, tăng 150,2%);
Gỗ và sản phẩm gỗ (đạt 10,9 triệu USD, tăng 31%); Nguyên phụ liệu thuốc lá (đạt 9,8 triệu USD,
giảm 15,6%); Ngô (đạt 151,9 nghìn USD).
Về quan hệ đầu tư, hiện Việt Nam có 187 dự án đầu tư sang Cam-pu-chia còn hiệu lực, với tổng
số vốn đầu tư đăng ký khoảng 2,76 tỷ USD, đứng thứ 3 trong tổng số 77 quốc gia, vùng lãnh thổ mà
Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu là các lĩnh vực nông nghiệp (chiếm gần 70% tổng vốn
đăng ký); tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông; các dự án còn lại nằm trong các lĩnh vực hàng
không, khoáng sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, vận tải kho bãi, y tế, xây dựng, du lịch - khách
sạn, bất động sản và các dịch vụ khác. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào 15 ngành,
lĩnh vực tại 17/25 tỉnh, thành phố của Campuchia.
3.2. Triển vọng hợp tác giữa Campuchia và Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp
Các lĩnh vực thâm dụng lao động: các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày,… đang
đồng thời là ngành công nghiệp mũi nhọn của cả hai quốc gia, có nhiều cơ hội để hai bên cùng hợp
tác phát triển như nâng cao kỹ năng sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm, phát triển các
thương hiệu có thể cạnh tranh trong phạm vi khu vực cũng như toàn cầu.
Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: trong nỗ lực đa dạng hóa mặt hàng chế tạo xuất khẩu,
hai quốc gia có thể chia sẻ với nhau những kinh nghiệm, bài học, hỗ trợ nhau trong phát triển ngành
công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm.
Tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu: Kết hợp lợi thế cạnh tranh của hai quốc gia, cùng
nhau chia sẻ những kinh nghiệm, bài học để nâng cao hơn vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, tham
gia vào các khâu đoạn có giá trị gia tăng lớn hơn.
Lĩnh vực năng lượng: Tận dụng nguồn tài nguyên của hai quốc gia, đẩy mạnh hợp tác thông qua
các hoạt động như khai thác mỏ, dầu khí, tiếp tục phát triển hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp điện.
Cùng với đó là hợp tác phát triển các nguồn năng lượng tái tạo hướng tới phát triển bền vững cho cả
hai quốc gia.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cambodia Development Resource Institute (CDRI) (2007). ‘Youth Migration and Urbanization in
Cambodia’. Working Paper 36. Phnom Penh: CDRI.
Chhair, S., & Ung, L. (2016). Cambodia’s Path to Industrial Development. Manufacturing
Transformation, 213.
Garment Manufacturers Association in Cambodia (GMAC) (2015a). Bulletin 2015. Phnom Penh:
Garment Manufacturers Association in Cambodia.
Garment Manufacturers Association in Cambodia (GMAC) (2015b). History of Minimum Wage for
Garment and Footwear Industry in Cambodia. Phnom Penh: Garment Manufacturers
Association in Cambodia.
Ministry of Industry, Mine and Energy (1997). “Industrial Development Action Plan (1998-2003).”
Royal Government of Cambodia (2010). “National Strategic Development Plan Update (2009-
2013).”
Royal Government of Cambodia (2015). “Cambodia Industrial Development Policy 2015 – 2025”
Sotharith, C. (2011). Industrial development policy and intermediate goods trade in
Cambodia. Intermediate Goods Trade in East Asia: Economic Deeping through FTAs/EPAs.
Sotharith, C. (2011). Industrial development policy and intermediate goods trade in
Cambodia. Intermediate Goods Trade in East Asia: Economic Deeping through FTAs/EPAs.

19

You might also like