Professional Documents
Culture Documents
Sau một thời gian thực hiện , với sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Huỳnh
Thi , đến nay đề tài của tôi đã được hoàn thành . Mặc dù có nhiều nguồn tài liệu
đặt biệt như là trên Internet rất nhiều , nhưng do kiến thức và thời gian có hạn
khó tránh khỏi những say lầm thiếu sót , rất mong sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn để bài tiểu luận của tôi được hoàn thiện hơn .
Qua đây em chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Huỳnh Thi đã gới thiệu đề tài
rất hay để chúng em học và nghiên cứu .
3.2 Các hư hổng của các bộ phận tay dổi hành trình xupap :
3.3 Phưong pháp kiểm tra hư hổng và cơ cấư phân phối khí :
******
Trong thời điểm vật giá leo thang hiện nay , đặt biệt là giá xăng , dầu đang
ngất ngưỡng .Thì trong việc chọn mua một phương tiên giao thông đi lại đặt biệt
là ô tô thì người tiêu dùng hướng tới một loại xe vừa phải tiện nghi vừa tiết kiệm
được nhiên liệu . Hệ thống phân phối khí thông minh VVT-I đã giải quyết được
vấn đề trên. Chẳng những vừa tiết kiệm được vấn đề nhiên liệu mà còn vừa giảm
bớt gây ô nhiễm môi trường .
Với một đích củng cố và mở rộng kiếm thức chuyên môn , đồng thời làm
quen với phong cách nhiên cứu khoa học góp phần nâng cao hiệu quả phối khí
trên động cơ dốt trong . Tôi đã chọn đề tài này làm tiểu luận tốt nghiệp .
Hình 1.3. Cơ cấu phân phối khí có xupáp treo, trục cam đặt trên nắp xupáp.
1–xupáp xả; 2–lò xo xupáp; 3–trục cam; 4–đĩa tựa; 5–bulông điều chỉnh;
6–thân xupáp rỗng; 7–vành tựa; 8–mặt trụ; 9–đĩa tựa lò xo;
Cơ cấu phân phối khí có trục cam truyền động trực tiếp cho xupáp thể
hiện trên hình vẽ (Hình 1.3). khi trục cam đặt trên nắp xylanh, và cam trực tiếp
điều khiển việc đóng, mở xupáp, không qua con đội, đũa đẩy, đòn gánh……
Tuy nhiên hệ trục và hai cặp bánh răng côn có phức tạp, chế tạo khó, nhưng nó
4 Cơ cấu phân phối khí có trục cam đặt trên nắp xylanh nhưng vẫn có
đòn gánh:
Hình 1.4 .Sơ đồ cơ cấu phân phối khí có trục cam đặt trên nắp xylanh
nhưng vẫn có đòn gánh.
Cơ cấu phân phối khí có trục cam đặt trên nắp xylanh nhưng vẫn có đòn
gánh được thể hiện trên hình vẽ (Hình 4). Trục cam đặt trên nắp xylanh, nhưng
cam không trực tiếp tỳ vào xupáp mà thông qua đòn gánh số. Chuyển động từ
b. Sơ đồ cấu tạo:
Hình 1.7 : Phối khí trục cam trên đỉnh, trong DOHC.
Cơ cấu phối khí trục cam trên đỉnh là thuật ngữ trong nghệ ô để chỉ cơ cấu điều
hành sự chuyển động của các trong động cơ ô tô, nhờ vào các đặt trên đỉnh động
cơ.Có một số cơ cấu thông dụng như SOHC, DOHC,...SOHC
- Trên ôtô, các loại động cơ 4 kỳ hiện đại ngày nay sử dụng cơ cấu phối khí
thông minh ( cơ cấu điều khiển trục cam thông minh) nhằm điều chỉnh thời điểm
đóng mở xupap, pha phối khí một cách tự động hoặc làm thay đổi độ nâng của
xupáp tự động tùy thuộc vào chế độ làm việc của động cơ.
3STAGE VTEC: Hệ thống này sử dụng 3 chế độ cam khác nhau hoạt động
ở 3 pha. Mỗi cam điều khiển một pha thời gian mở và nâng van khác nhau.
i-VTEC: (Intelligent VTEC) là hệ thống điều khiển van thành công nhất từ
trước tới nay của hãng HONDA và được ứng dụng trên nhiều mẫu xe. Hệ thống
i-VTEC được giới thiệu năm 2001 và sử dụng thiết bị điều chỉnh thời gian van
AVTEC: Advanced VTEC được hãng HONDA giới thiệu năm 2006. Hệ
thống này kết hợp những lợi thế của hệ thống i-VTEC với hệ thống điều khiển
pha biến thiên liên tục. Hãng HONDA cho biết hệ thống AVTEC sẽ cho phép
tiết kiệm 13% nhiên liệu so với hệ thống i-VTEC và giảm tới 75% khí thải so
với tiêu chuẩn năm 2005. Tuy vậy, cho đến nay, hệ thống này vẫn chưa được
trang bị cho các mẫu xe ô tô mới được sản xuất.
Hệ thống VTEC của HONDA là dấu mốc quan trọng trong việc nghiên cứu
và phát triển động cơ đốt trong vì nó đã góp phần giải quyết thành công một vấn
đề đã được đặt ra từ lâu. Đó là vấn đề về hiệu suất hoạt động của động cơ. Hệ
thống VTEC ra đời không chỉ giúp tăng hiệu suất của động cơ đốt trong mà còn
mang đến cho khách hàng một chiếc xe công suất cao và tiết kiệm nhiên liệu.
Thông thường, thời điểm phối khí được cố định, những hệ thống VVT-i sử
dụng áp suất thủy lực để xoay trục cam nạp và làm thay đổi thời điểm phối khí.
Điều này có thể làm tăng công suất, cải thiện tính kinh tế nhiên liệu và giảm khí
xả ô nhiễm.
Hệ thống này được thiết kế để điều khiển thời điểm phối khí bằng cách
xoay trục cam trong một phạm vi 400 so với góc quay của trục khuỷu để đạt
được thời điểm phối khí tối ưu cho các điều kiện hoạt động của động cơ dựa trên
tín hiệu từ các cảm biến, còn hệ thống VVTL-i dựa trên hệ thống VVT-i và áp
dụng một cơ cấu đổi vấu cam để thay đổi hành trình của xupáp nạp và xả. Điều
này cho phép được được công suất cao mà không ảnh hưởng đến tính kinh tế
nhiên liệu hay ô nhiễm khí xả.
- Cũng như thế BMW gọi công nghệ này phức tạp hơn là VANOS
(Variable nockenwellen steuerung ) Hệ thống VANOS làm việc dựa trên nguyên
tắc là điều khiển các cơ cấu của hệ thống, mà việc điều chỉnh đó có thể lam thay
đổi vị trí tương đối của trục cam nạp đối với trục khuỷu
Hệ thống điều chỉnh kiểu VANOS giúp cho việc điều khiển hệ thống phân
phối khí ở chế độ tối ưu nhất. Hệ thống này điều chỉnh cả trục cam nạp và trục
cam xả, điều chỉnh được thời điểm đóng, mở các xupáp nạp và xupáp xả theo
từng chế độ yêu cầu của động cơ. Nhờ việc điều chỉnh hợp lý cơ cấu xuppáp nạp
và xuppáp xả do đó để tiết kiệm được lượng nhiên liệu khi động cơ hoạt động ở
các chế độ khác nhau và lượng nhiên liệu thất thoát ra ngoài theo khí thải trong
quá trình xả của động cơ kết quả là đã giảm được chi phí nhiên liệu khi vận hành
động cơ. Làm tăng công suất định mức của động cơ do đó hiệu quả kinh tế khi
sử dụng động cơ tăng.
Nissan có động cơ VVL ( Variable Valve Lift and Timing): độ mở van và thời
gian
GM gọi là VVT,
Subaru cũng không chịu kém phần đặt luôn cái tên là Dual AVCS. Cập nhật
2:30pm 9/8/2010)......Hiện nay trên động cơ ôtô có nhiều ký hiệu chữ cái viết tắt
như: HONDA gọi là VTEC hay i-VTEC, VVT-i và VVTL-i của Toyota….
Chúng nhằm quảng bá cho các công nghệ mới nhất và tiên tiến của hãng nhưng
bên cạnh đó khiến người tiêu dùng không thể hiểu hết được các kí hiệu phức tạp
đó.
2.2 Hệ thống phân phối khí VVT
2.2.1 Lịch sử hình thành hệ thống phân phối khí VVT
FIAT là hãng xe hơi trên thế giới phát minh ra hệ thống có thể thay đổi thời
điểm phối khí bao gồm sự thay đổi về độ nâng van.
FIAT là hãng xe hơi trên thế giới phát minh ra hệ thống có thể thay đổi thời
điểm phối khí bao gồm sự thay đổi về độ nâng van.
Được phát triển bởi Giovanni Torazza vào cuối những năm 1960, hệ
thống này đã sử dụng áp suất bằng thủy lực để làm thay đổi điểm tựa của cam
cho phù hợp ( phát minh US 3.641.988 ).Áp suất thủy lư này thay đổi tuỳ theo
tốc độ động cơ và áp suất của van nạp. Độ mở của van có thể thay đổi tới 37%.
N
Năm 2001, hãng BMW giới thiệu hệ thống Valvetronic,đây là hệ thống duy nhất
có thể làm thay đổi độ nâng van nạp một cách liên tục, cộng thêm thời gian cho
cả hai van nạp và xả. Hệ thống điều khiển chính xác đã chú ý nhiều hơn đến
I
2.2.2. Cấu tạo :
Trên mỗi chiếc xe Toyota, chúng ta luôn thấy có dòng chữ VVT-i nằm ở vị
trí hai bên cửa xe. Dòng chữ viết tắt này có ý nghĩa là gì ? Chúng ta cùng tìm
hiểu VVT-i.
Hiệu suất làm việc của động cơ phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động cung cấp
nhiên liệu. Hệ thống điều khiển hệ thống van nạp biến thiên VVT-i được thiết kế
với mục đích nâng cao mô men xoắn của động cơ, cắt giảm tiêu thụ nhiên liệu
và khí thải độc. Các bộ phận của hệ thống gồm: Bộ xử lý trung tâm ECU 32 bit,
bơm và đường dẫn dầu, bộ điều khiển phối khí (VVT) với các van điện, các cảm
biến: VVT, vị trí bướm ga, lưu lượng khí nạp, vị trí trục khuỷu, nhiệt độ nước.
Ngoài ra, VVT-i thường được thiết kế đồng bộ với cơ cấu bướm ga điện tử
ETCS-i, đầu phun nhiên liệu 12 lỗ và bộ chia điện bằng điện tử cùng các bugi
đầu iridium.
Trong quá trình hoạt động, các cảm biến vị trí trục khuỷu, vị trí bướm ga và
lưu lượng khí nạp cung cấp các dữ liệu chính về ECU để tính toán thông số phối
khí theo yêu cầu chủ động. Trên cơ sở các yếu tố chủ động, hiệu chỉnh và thực
tế, ECU sẽ tổng hợp được lệnh phối khí tối ưu cho buồng đốt. Như vậy, thay cho
hệ thống cam kiểu cũ với độ mở xu-páp không đổi, VVT-i đã điều chỉnh vô cấp
hoạt động của các van nạp. Độ mở và thời điểm mở biến thiên theo sự phối hợp
các thông số về lưu lượng khí nạp, vị trí bướm ga, tốc độ và nhiệt độ động cơ.
Ngoài ra, còn một cảm biến đo nồng độ oxy dư đặt ở cụm góp xả cho biết tỉ lệ %
nhiên liệu được đốt. Thông tin từ đây được gởi về ECU và cũng được phối hợp
xử lý khi hiệu chỉnh chế độ nạp tối ưu nhằm tiết kiệm xăng và bảo vệ môi
trường.
Hiện nay, VVT-i được áp dụng rộng rãi trên các mẫu xe hạng trung của
Toyota, đặc biệt với thiết kế động cơ 4 xi-lanh cỡ vừa và nhỏ
**VVT-I Thông thường, thời điểm phối khí được cố định, những hệ thống
VVT-i sử dụng áp suất thủy lực để xoay trục cam nạp và làm thay đổi thời điểm
GVHD: NGUYỄN HUỲNH THI 30 SVTH : NGUYỄN THANH TUYẾN
phối khí. Điều này có thể làm tăng công suất, cải thiện tính kinh tế nhiên liệu và
giảm khí xả ô nhiễm.Như trong hình minh họa, hệ thống này được thiết kế để
điều khiển thời điểm phối khí bằng cách xoay trục cam trong một phạm vi so
vưới góc quay của trục khuỷu để đạt được thời điểm phối khí tối ưucho các điều
kiện hoạt động của động cơ dựa trên tín hiệu từ các cảm biến. Thời điểm phối
khí được điều khiển như sau.
• Khi nhiệt độ thấp, khi tốc độ thấp ở tải nhẹ, hay khi tải nhẹ:
Thời điểm phối khí của trục cam nạp được làm trễ lại và độ trùng lặp xupáp
giảm đi để giảm khí xả chạy ngược lại phía nạp. Điều này làm ổn định chế độ
không tải và cải thiện tính kinh tế nhiên liệu và tính khởi động.
• Khi tải trung bình, hay khi tốc độ thấp và trung bình ở tải nặng
Thời điểm phối khí được làm sớm lên và độ trùng lặp xupáp tăng lên để tăng
EGR nội bộ và giảm mất mát do bơm. Điều này cải thiện ô nhiễm khí xả và tính
Thời điểm phối khí được làm sớm lên và độ trùng lặp xupáp tăng lên để
tăng EGR nội bộ và giảm mất mát do bơm. Điều này cải thiện ô nhiễm khí xả và
tính kinh tế nhiên liệu. Ngoài ra, cùng lúc đó thời điểm đóng đường nạp và cải
thiện hiệu quả nạp. Ngoài ra, điều khiển phản hồi được sử dụng để giữ thời điểm
phối khí xupáp nạp thực tế ở đúng thời điểm tính toán bằng cảm biến vị trí trục
cam.
Hinh 2.13: Biều đồ thề hiện thời điểm phối khí Cấu tạo
Bộ điều khiển bao gồm một vỏ được dẫn động bởi xích cam và các cánh gạt
được cố định trên trục cam nạp. áp suất dầu gửi từ phía làm sớm hay làm muộn
trục cam nạp sẽ xoay các cánh gạt của bộ điều khiển VVT-i theo hướng chu vi
để thay đổi liên tục thời điểm phối khí của trục cam nạp. Khi động cơ ngừng,
trục cam nạp chuyển động đến trạng thái muộn nhất để duy trì khả năng khởi
động. Khi áp suất dầu không đến bộ điều khiển VVT-i ngay lập tức sau khi động
cơ khởi động, chốt hãm sẽ hãm các cơ cấu hoạt động của bộ điều khiển VVT-i
để tránh tiếng gõ.
Ngoài loại trên, cũng có một loại mà píttông dọc chuyển theo hướng trục
giữa các then xoắn của bánh răng bên ngoài (tương ứng vưới vỏ) và bánh răng
trong (gắn trực tiếp vào trục cam) để làm xoay trục cam.
Hình 2.16 : Van điều khiển phối khí trục cam VVT - i
Van điều khiển dầu phối khí trục cam hoạt động theo sự điều khiển (Tỷ lệ
hiệu dụng) từ ECU động cơ để điều khiển vị trí của van ống và phân phối áp
suất dầu cấp đến bộ điều khiển VVT-i đế phía làm sớm hay làm muộn. Khi động
cơ ngừng hoạt động, thời điểm phối khí xupáp nạp được giữ ở góc muộn tối đa.
Hoạt động
Van điều khiển dầu phối khí trục cam chon đường dầu đến bộ điều khiển
VVT-i tương ứng với độ lớn dòng điện từ ECU động cơ. Bộ điều khiển VVT-i
quay trục cam nạp tương ứng
với vị trí nơi mà đặt áp suất dầu vào, để làm sớm, làm muộn hoặc duy trì
thời điểm phối khí. ECU động cơ tính toán thời điểm đóng mở xupáp tối ưu
dưới các điều kiện hoạt động khác nhau theo tốc độ động cơ, lưu lượng khí nạp,
vị trí bướm ga và nhiệt độ nước làm mát để điều khiển van điều khiển dầu phối
khí trục cam. Hơn nữa, ECU dùng các tín hiệu từ cảm biến vị trí trục cam và
cảm biến vị trí trục khuỷu để tính toán thời điểm phối khí thực tế và thực hiện
Khi van điều khiển dầu phối khí trục cam được đặt ở vị trí như trên hình vẽ bằng
ECU động cơ, áp suất dầu tác động lên khoang cánh gạt phía làm sớm thời điểm
phối khí để quay trục cam nạp về chiều làm sớm thời điểm phối khí.
Hình 2.19 :Van điều phối dầu ở vị trí phía làm muộn
3. Giữ ECU động cơ tính toán góc phối khí chuẩn theo tình trạng vận hành. Sau
khi đặt thời điểm phối khí chuẩn, van điều khiển dầu phối khí trục cam duy trì
đường dầu đóng như được chỉ ra trên hình vẽ, để giữ thời điểm phối khí hiện tại.
Trục cam
Bộ phận chính của một trục cam là các vấu cam. Khi trục cam quay tròn, các
vấu cam sẽ điều khiển đóng mở các các xu páp nạp và xả ở thời điểm phù hợp
với sự di chuyển của piston. Hình dạng của các vấu cam có liên quan trực tiếp
đến cách thức động cơ làm việc ở các dải tốc độ khác nhau.
Để hiểu rõ điều này bạn hãy tưởng tượng rằng động cơ của chúng ta đang chạy
vô cùng chậm chỉ khoảng từ 10 đến 20 vòng/phút (RPM) bởi vậy sẽ mất khoảng
vài giây để piston hoàn thành một chu kỳ chuyển động. Nhưng trên thực tế thì
một động cơ bình thường không thể chạy chậm như vậy được. Ở tốc độ thấp
này, chúng ta có thể hiểu các vấu cam thực hiện chu trình như sau:
Chỉ khi piston bắt đầu chuyển động đi xuống trong hành trình nạp (từ điểm
chết trên, TDC), xu páp nạp mới bắt đầu mở ra. Xu páp nạp sẽ đóng lại ngay khi
piston đến điểm dưới cùng.
Xu páp xả sẽ mở ra ngay khi piston đến điểm dưới cùng (gọi là điểm chết
dưới, BDC) ở cuối quá trình cháy và sẽ đóng lại khi piston hoàn thành quá trình
xả khí.
Với thứ tự làm việc như vậy sẽ rất tốt cho động cơ chừng nào nó còn
chuyển động ở tốc độ thấp như vậy. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu tốc độ vòng
quay tăng lên. Chúng ta hãy xem.
Khi xu páp nạp mở ra và piston bắt đầu hành trình nạp, hỗn hợp nhiên
liệu/không khí bắt đầu gia tăng trong xilanh. Đúng lúc piston đến điểm cuối của
hành trình nạp, hòa khí chuyển động vào xilanh với tốc độ khá nhanh. Nếu van
nạp bất ngờ đóng lại, toàn bộ lượng hòa khí sẽ ngừng di chuyển và không đi vào
xilanh nữa. Bằng cách để cho xu páp nạp đóng lại muộn hơn một chút, đà di
chuyển nhanh của hòa khí vẫn còn duy trì sẽ đẩy hòa khí thêm vào trong xilanh
đến khi piston bắt đầu hành trình nén. Bởi vậy động cơ chạy càng nhanh, hỗn
hợp nhiên liệu/không khí cũng di chuyển càng nhanh và bởi vậy chúng ta càng
phải để cho xu páp mở càng lâu hơn. Chúng ta cũng phải để cho xu páp nạp mở
rộng hơn ở tốc độ cao, thông số này được gọi là khoảng đội của xu páp, nó bị
chi phối bởi dạng hình học của vấu cam.
Hình ảnh động dưới đây đã cho thấy sự khác nhau ra sao về cách điều chỉnh
thời điểm đóng mở xu páp đối với cam thông thường và cam đã có sự điều
chỉnh. Chú ý kỳ xả (đường cong mầu đỏ) và kỳ nạp (đường cong mầu xanh) có
sự trùng khớp nhiều hơn khi điều chỉnh trục cam. Bởi vậy trong trường hợp này,
động cơ xe có xu hướng nổ to và đều hơn ở trạng thái không tải.
Có một vài kiểu trục cam khác nhau được lắp trên động cơ. Ở đây chúng ta để
cập đến một vài kiểu trục cam phổ biến mà bạn đã từng nghe nói:
Loại trục cam này chỉ có một cam duy nhất được lắp ở nắp xilanh. Bởi vậy, nếu
động cơ có 4 xilanh hoặc 6 xilanh thẳng hàng thì nó sử dụng chung một cam duy
nhất; nếu là động cơ với 6 hoặc 8 xilanh xếp chữ V thì sẽ có 2 trục cam lắp ở
trên nắp mỗi dãy xilanh.
Trục cam đẩy cò mổ tỳ lên đuôi các xu páp và mở chúng ra. Các lò xo có tác
dụng đẩy các xu páp trở về vị trí đóng. Các lò xo này rất khỏe bởi ở tốc độ động
cơ cao, các xu páp được đẩy xuống rất nhanh và chúng phải giữ cho các xu páp
luôn tỳ sát vào các cò mổ. Nếu các lò xo không đủ khỏe thì các xu páp có thể
không tiếp xúc với các cò mổ và phát ra tiếng lách cách. Đây là tình trạng xấu và
dễ khiến cho các xu páp và cò mổ chóng mòn.
Ở động cơ có một cam hay hai cam đặt trên đều được dẫn động bởi trục khuỷu,
dây curoa hoặc xích (gọi là dây curoa cam và xích truyền động trục cam). Các
curoa cam hay xích cam đều cần phải được thay thế hay điều chỉnh thường
xuyên định kỳ. Nếu dây curoa cam bị đứt, trục cam sẽ không làm việc và piston
sẽ va vào các xu páp, làm hỏng bề mặt piston.
Loại này có hai trục cam đặt trên nắp xilanh. Bởi vậy, ở động cơ có xilanh đặt
thẳng hàng có hai trục cam ở trên và động cơ có xilanh đặt chữ V có bốn trục
cam đặt trên. Thông thường ở động cơ có hai cam đặt trên thường có 4 xu páp
hoặc nhiều hơn ở mỗi xilanh.
Lý do chính để sử dụng loại hai trục cam đặt trên bởi nó cho phép bố trí được
nhiều xu páp nạp và xả hơn ở mỗi xilanh. Số xu páp nhiều hơn nghĩa là hòa khí
được nạp vào nhiều hơn bởi các cửa lưu thông sẽ lớn hơn. Điều này giúp tăng
đáng kể công suất của động cơ.
Giống như động cơ SOHC và DOHC, các xu páp cũng được lắp trên đỉnh xilanh
nhưng sự khác nhau chính ở đây là trục cam ở động cơ này lại nằm bên trong
block động cơ mà không nằm trên nắp các xilanh.
Trục cam tác động lực đẩy lên các trục dài đặt thông qua block động cơ vào nắp
xilanh để làm dịch chuyển các cò mổ. Các đũa đẩy dài này làm tăng khối lượng
và thể tích của hệ thống động cơ, đồng thời cũng tăng lực đẩy lên các lò xo xu
páp.
Các trục cam trong động cơ sử dụng đũa đẩy thường được dẫn động bằng các
bánh răng hoặc xích. Các trục cam dùng bánh răng dẫn động thường ít hỏng hơn
so với dẫn động bằng xích và thường được dùng trong động cơ với trục cam đặt
ở nắp máy.
Một điều đặc biệt quan trọng trong việc thiết kế trục cam cho hệ thống là có
thể thay đổi thời điểm đóng mở các xu páp (hay còn gọi là điều khiển thời
điểm phối khí). Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này trong kỳ tới.
Trong cơ cấu chuyển vấu cam, ECU động cơ điều khiển chuyển đổi giữa 2 vấu
cam nhờ van điều khiển dầu VVTL dựa trên các tín hiệu từ cảm biến nhiệt độ
nước làm mát và cảm biến vị trí trục khuỷu.
Các bộ phận cấu thành hệ thống VVTL-i gần giống như những bộ phận của hệ
thống VVT-i. Đó là van điều khiển dầu cho VVTL, các trục cam và cò mổ.
Van điều khiển dầu cho VVTL điều khiển áp suất dầu cấp đến phía cam tốc độ
Trục cam nạp và xả có các vấu cam với 2 hành trình khác nhau cho từng xylanh,
và ECU động cơ chuyển những vấu cam này thành vấu cam hoạt động bằng áp
suất dầu.
2.3.2 Nguyên lý hoạt động
Tốc độ thấp và trung bình (tốc độ động cơ: dưới 6000 vòng/phút)
Hệ thống VTEC nhằm cải thiện hiệu suất động cơ ở tốc độ thấp và cao
bằng cách bố trí hai loại vấu cam ở mỗi xilanh, vấu cam tốc độ thấp và vấu cam
tốc độ cao. Tùy theo điều kiện làm việc cụ thể của động cơ mà sử dụng loại vấu
cam phù hợp.
Ở dải tốc độ thấp, thời gian mở xupáp được tối ưu hóa nhằm đạt được mômen
xoắn cần thiết để xe có thể di chuyển tốt nhất ở vòng tua thấp, đồng thời tiết
kiệm nhiên liệu.
Ở dải tốc độ cao, độ mở xupáp và thời gian mở xupáp được tăng lên, không khí
được nạp vào nhiều hơn. Hệ thống cung cấp cho xe khả năng di chuyển tốt ở tốc
độ thấp và tăng hiệu suất động cơ khi tốc độ xe tăng lên.
Hệ thống VTEC của Honda là một trong những công nghệ tiên tiến nhằm tối ưu
hóa hiệu quả của động cơ. Được kỹ sư thiết kế động cơ của Honda, Kenichis
Nagahiro sáng tạo
Cò mổ thứ nhất và cò mổ thứ hai được tách rời, do vấu cam A và B điều
khiển riêng biệt hai supap, khả năng nâng của cò mổ thứ hai rất nhỏ để hé
mở supap(một supap điều khiển sự phân phối khí chính).
Hình 2.31: Cấu tạo của cơ cấu phân phối khí ở tốc độ thấp.
1:Piston tác động , 2: Piston đồng bộ , 3: Piston chặn , 4:Cò mổ thứ nhất ,5: Cò
mổ thứ hai , 6: Cam thứ nhất , 7: Cam thứ hai.
Ở tốc độ cao:
Ở dải tốc độ cao, PCM/ECM kích hoạt để VTEC hoạt động, các piston
GVHD: NGUYỄN HUỲNH THI 56 SVTH : NGUYỄN THANH TUYẾN
nối dưới tác động của dầu thủy lực sẽ di chuyển để nối các cò mổ tốc độ
thấp và tốc độ cao với nhau thành mối khối. Lúc này, các xu páp mở ra
nhiều hơn và thời gian mở tăng lên. Không khí được nạp vào nhiều hơn,
công suất động cơ tăng lên nhanh chóng.
Piston tác động được bố trí bean trong cò mổ thứ nhất, nó được tác động
bở áp lực dầu để di chuyển theo hướng mũi tên như hình (4). Cả hai cò
mổ thứ 1 và thứ 2 được liên kết lại bằng piston đồng bộ. Ơ tốc độ này,
biên độ mở của supap thứ hai giống như biên đo mở của supap thứ nhất
nhằm đáp ứng cho sự hoạt động ở tốc độ cao giống như động cơ 4 supap
thông thường (2 supap điều khiển phân phối khí).
Hình 2.32 : Cấu tạo của cơ cấu phân phối khí ở tốc độ cao.
1: Áp lực dầu đến, 2: Cam thứ nhất.
Hình 2.32 : Thời điểm xupap biến đổi và hệ thống nâng xupap trên độngcơ
DOHC.
1.Trục cam , 2.Vấu cam cho tốc độ thấp v/p, 3. Vấu cam cho tốc độ cao v/p, 4.
Cò mổ sơ cấp, 5. Cò mổ trung gian, 6. Cò mổ thứ cấp, 7. Piston
thuỷ lực A, 8. Piston thuỷ lực B, 9. Chốt chặn , 10. Lò xo lam mat sự
chuyển động vấu cam đến các thân xupap. Trục cam có 3 vấu cam cho mỗi cặp
xupap nạp và xupap thải, cò mổ thứ 3 là co mổ trung gian (ở hình 6). Nó ở giữa
mỗi cặp xupap, mỗi cò mổ được gắn một piston thuỷ lực. Sự hoạt động của
piston ăn khớp hay không ăn khớp với cò mổ này. Sự khác nhau ở sự thực hiện
xảy ra bởi vì mỗi vấu cam thì khác nhau, vấu cam ở giữa thì cho tốc độ cao v/p.
Các vấu cam thứ cấp và sơ cấp thì cho tốc độ thấp. Các cảm biến ở động cơ gởi
tín hiệu tốc độ động cơ, tải động cơ, tốc độ xe, và nhiệt độ nước làm mát đến
ECM. Tại một thời điểm trên công tắc định trước , ECM sẽ gởi tín hiệu điện thế
tới cuộn solenoid. Khi cuộn dây solenoid mơ và đóng , áp lực dầu đon g cơ được
gởi đến các piston trong các cò mổ được lựa chọn. Khi đó các cò mổ ăn khớp
hay không ăn khớp. Điều này làm thay đổi mà các vấu cam đang hoạt động các
xupap. Sự thay đổi từ sự nâng thấp của các vấu gắn ở ngoài đến sự nâng cao hơn
và sự cảm ứng của vau ở giữa sẽ tiếp nhận khoảng 0,1 giây. Hệ thống không ăn
khớp tại tốc độ thấp hay khi động cơ ở không tải.
Hệ thống điều khiển:
Hệ thống điều khiển cho cơ cấu này được trình bày bên dưới. Các cảm biến liên
tục nhận sự thay đổi bên trong động cơ như : tải, nhiệt độ nước, số vòng quay
động cơ và tốc độ xe. Những tín hiệu này sẽ được chuyển đến ECU để ECU
điều khiển chính xác áp lực dầu đến các piston thuỷ lực.
* Các điều kiện chuyển đổi:
Số vòng quay động cơ : 2500 v/p.
Hình 2.32 : Sơ đồ Hệ thống điều khiển cơ cấu phân phối khí bằng điện tử
d./.Ưu điểm của hệ thống:
Tính ưu việt ở loại động cơ này là công suất động cơ cao đồng thời với việc tiết
kiệm nhiên liệu. Cơ cấu phân phối khí của động cơ này gần giống như kiểu phân
phối khí của động cơ bốn xupap thông thường, nhưng nó được cải tiến sư phân
phối tốt hơn. Ơ tốc độ thấp, lượng hoà khí nạp vào trong xylanh được tiết kiệm
do chỉ mở moat trong hai supap, nhưng ở tốc độ trung bình và cao, công suất
phát ra lớn do mở đồng thời cả hai supap hút. Kiểu động cơ VTEC –E được kết
hợp từ hai loai động cơ hai supap và bốn supap để chế tạo thành loại động cơ
mang ưu điểm
của hai loại này.
Nguồn oto-hui.com
Vào năm 1993, hãng Mitsubishi bắt đầu đưa vào sản xuất loại động cơ có ứng
dụng công nghệ MIVEC (Mitsubishi innovative Valve timing Electronic
Control System). Vào thời điểm đó, MIVEC đứng đầu trong hàng ngũ những
công nghệ giúp tiết kiệm nhiên liệu với mức tiêu thụ nhiên liệu vào khoảng 16
km cho 1 lít xăng khi đi trong thành phố.
Trong công nghệ MIVEC sử dụng các biên dạng cam khác nhau để mở xupap
nạp theo hai chế độ động cơ: tốc độ thấp và tốc độ cao, nó sẽ nâng cao hơn công
suất lớn nhất và và tăng mô men xoắn trong trong các chế độ làm việc của động
cơ. Khi động cơ ở số vòng quay thấp MIVEC sẽ chọn biên dạng cam nhỏ và
cung cấp hỗn hợp cháy ổn định, ít khí xả. Khi bướm ga được mở rộng, tốc độ
động cơ tăng lên, MIVEC sẽ cho phép tăng thời gian và hành trình mở của
xupap nạp, vì vậy nó sẽ cung cấp cho động cơ công suất và mômen lớn hơn hẳn
so với các động cơ không cử dụng công nghệ này.
Trong công nghệ MIVEC sử dụng các biên dạng cam khác nhau để mở xupap
nạp theo hai chế độ động cơ: tốc độ thấp và tốc độ cao, nó sẽ nâng cao hơn công
suất lớn nhất và và tăng mô men xoắn trong trong các chế độ làm việc của động
cơ. Khi động cơ ở số vòng quay thấp MIVEC sẽ chọn biên dạng cam nhỏ và
cung cấp hỗn hợp cháy ổn định, ít khí xả. Khi bướm ga được mở rộng, tốc độ
động cơ tăng lên, MIVEC sẽ cho phép tăng thời gian và hành trình mở của
xupap nạp, vì vậy nó sẽ cung cấp cho động cơ công suất và mômen lớn hơn hẳn
so với các động cơ không cử dụng công nghệ này.
Điểm đặc biệt của công nghệ MIVEC là việc bố trí trên trục cam với 3 biên dạng
cam có kích thước khác nhau. Biên dạng cam lớn nhất đặt ở giữa và hai biên
dạng cam nhỏ và trung bình đặt ở hai bên (như hình 2), mặc dù có 3 biên dạng
cam như vậy nhưng chỉ tạo ra 2 chế độ động cơ: Chế độ tốc độ thấp, sử dụng
biên dạng cam nhỏ, trung bình và chế độ tốc độ cao sử dụng biên dạng cam to.
Ở chế độ tốc độ thấp, các xupap nạp được dẫn động bởi hai biên dạng cam nhỏ
và trung bình và sẽ được điều khiển độc lập bởi hai cò mổ riêng biệt, còn biên
dạng cam to này được dẫn động trực tiếp cần chữ T, cần này sẽ điều khiển cả
thời gian và khoảng mở của cả hai xupap nạp khi động cơ chạy ở chế độ tốc độ
cao.
Khi động cơ chạy ở chế độ tốc độ thấp, cần chữ T vẫn kết nối với biên dạng cam
to, nhưng lúc này chỉ chuyển động tự do và không tiếp xúc với cò mổ của xupap
nạp. Khi đó vấu cam nhỏ và trung bình được dẫn động từ trục cam sẽ điều khiển
khoảng nâng và thời điểm mở thích hợp cho xupap nạp. Bên trong cò mổ có các
piston được nén lại nhờ các lò xo, khi đó cần T chỉ chuyển động tự do và không
điều khiển các cò mổ. Ngoài ra, việc sử dụng hai biên dạng cam khác nhau để
mở xupap nạp khi ở chế độ tốc độ thấp giúp tạo ra sự xoáy lốc cho dòng khí nạp
đi vào bên trong xilanh,làm quá trình cháy ổn định và giảm lượng khí thải.
Khi động cơ ở chế độ tốc độ cao: MIVEC sẽ điều khiển mở van dầu làm tăng áp
suất dầu tới piston, khiến cho piston được nâng lên và tiếp xúc với cần chữ T,
khi đó biên dạng cam lớn thông qua cần chữ T tác động vào cả hai cò mổ và
điều khiển đóng mở xupap nạp. Nhờ biên dạng cam lớn hơn nên sẽ tăng thời
gian và độ mở của xupap nạp, vì vậy sẽ làm tăng được công suất và mô men của
động cơ. Hệ thống MIVEC điều khiển bốn chế độ vận hành tối ưu của động cơ
như sau:
o Khi cần công suất cực đại (tốc độ và tải trọng cao), thời điểm đóng
xupáp nạp được làm chậm lại để đồng nhất hóa không khí nạp với thể tích nạp là
lớn nhất.
o Ở dải tốc độ thấp và tải nặng, MIVEC đảm bảo tối ưu mômen xoắn
do thời điểm xupáp nạp đóng được làm sớm hơn để đảm bảo đủ lượng khí nạp.
Cùng lúc đó, thời điểm xupáp xả mở được làm chậm lại để tăng tỷ số nén và cải
thiện hiệu suất động cơ.
o Ở chế độ không tải, thời điểm xupáp xả và nạp trùng nhau được
loại bỏ để ổn định quá trình cháy.
Ở động cơ 4G69 của hãng Mitsubishi (lắp trên xe Grandis), khi tốc độ động cơ
đạt khoảng 3600 vòng/phút thì hệ thống MIVEC sẽ điều khiển mở van dầu để
động cơ hoạt động ở chế độ tốc độ cao, và khi tốc độ động cơ giảm xuống dưới
3600 vòng/phút van dầu sẽ đóng lại và động cơ lại hoạt động ở chế độ tốc độ
thấp.
Hiện nay hãng Mitsubishi đã ứng dụng công nghệ MIVEC trên xe Grandis 2.4
và trên xe Colt với động cơ 1.3L và 1.5L. Với việc ứng dụng công nghệ này sẽ
giúp giảm được đáng kể chi phí nhiên liệu và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Những chiếc xe thể thao mang nhãn hiệu PORSCHE luôn nổi tiếng trên thế
giới. Động cơ của xe PORSCHE 911 sáu xilanh nằm ngang tăng áp sử dụng
hệ thống VARIO CAM PLUS. Cơ cấu này cho phép thay đổi chẳng những
Hình 2.40 Cấu tạo hệ thống phân phối khí kiểu VARIO CAM PLUS .
1: Xupap; 2: Lò xo xupap; 3: Đĩa chặn; 4: Lò xo điều khiển đuôi xupap;
5:Đuôi xupap; 6: Bulông; 7: Cơ cấu điều khiển; 8: Đĩa xích.
Cơ cấu thay đổi góc làm việc của xupap cũng dựa tren nguyên lý dịch chuyển sự
ăn khớp giữa các bánh răng. Khi bánh răng nghiêng phía trong dưới tác dụng
của piston thủy lực chuyển động dọc trục buộc bánh răng nghiêng phía ngoài
chuyển động quay tương đối mot góc làm cho trục cam có xu hươn g mở xupap
sớm hơn. Trục cam có hai cam lớn và một cam nhỏ có tác dụng trực tiếp vào
con đội kép. Mỗi xupap của cơ cấu VARIO CAM PLUS dẫn động bởi một con
đội kép gồm hai con đội lắp lắp đồng tâm và có thể trượt tương đối với nhau.
Con đội tiếp xúc với cam hành trình nhỏ được lắp phía trong và con đội tiếp xúc
với cam hành trình lớn lắp ở phía ngoài. Khi chốt thuỷ lực có đường kính 11mm
ở vị trí tháo ( dịch chuyển sang trái ) thìa cam có hành trình nhỏ tác dụng vào
con đội phía trong, lúc này hai con đội có chuyển động tương đối và xupap làm
việc với hành trình nhỏ. Khi chốt ở vị trí cài ( dịch chuyển sang phải ) con đoi
nhỏ và lớn được cài chặt và lúc này xupap làm việc với hành trình lớn. Cơ cấu
dùng trục cam thời điểm biến đổi đe mở các xupap nạp sớm tại tốc độ cao (hình
2). Nó có một sự nối mềm giữa đĩa răng trục cam và trục cam. Sự nối bao gồm
piston thuỷ lực được hoạt động bởi áp lực dầu động cơ và một van điều khiển
dầu được hoat động bởi cuộn solenoid. Khi bộ phận đieu khiển điện tử (ECM)
chuyển tín hiệu đến cuộn solenoid để đóng van, áp lực dầu ép piston hướng tới
trước (hướng về trục cam). Khi piston chuyển động, bánh răng trong của piston
trượt lên trên đường răng của bánh răng xoắn. Điều này làm dịch chuyển dầu
trục cam và lam tăng thời điểm trục cam khoảng 100, các xupap nạp mở sớm
hơn. Cách khác để thay đổi thời điểm là thay vì dùng một trục cam, các cuộn
solenoid điện mở các xupap. Mỗi solenoid được đặt để piston của nó tì vào đầu
của xupap. Các cảm biến gởi thông tin ở tốc độ tải và các biến đổi khác của
động cơ đến ECM động cơ. Khi đó nó quyết định khi nào và thời điểm bao lâu
Cơ cấu phân phối khí EMVT là cơ cấu điều khiển xupap bằng diện . Nó không
giống các cơ cấu điều khiển khác , việc thay đổi hành trình xupap và pha phối
khí hoàn toàn bằng điện thong qua ECU .Cơ này không sử dụng bướm tiết lưu
( bướm ga) để thay dổi lượng hỗn hợp trong xylanh .Ở hệ thống này người ta
không cần trục cam , con đội , đòn gánh ,… và cơ cấu truyền động từ trục khuỷu
đến trục cam .
Để ứng dụng EMVT vào động cơ phải giải quyết hang loạt nhiệm vụ như:
Tính năng của bộ ECU phỉ có phạm vi hoạt động rộng , hệ thống cng cấp điện
năng cho cơ cấu phối khí EMVT có công suất 1.7-2KW , cần thiết kế cơ cấu
Valve Control Unit thích hợp
Hệ thống phối khí EVHS sử dụng nguyên lý điều khiển điện – thuỷ lực được
hãng Daim Benz sử dụng trên các xe thế hệ mới của hãng này . Nó cho phép
thay đổi hành trình và pha phối khí của xupap theo chế độ tải của động cơ ,
Các hư hỏng của các bộ phận thay đổi hành trình xupap:
Trong khi làm việc xu páp đóng không kín và bị rò hơi là do rà xu páp không
tốt, khe hở xu páp quá nhỏ, lò xo xu páp quá yếu hoặc bị gãy v.v… Nếu khe hở
xu páp quá nhỏ thì cơ cấu phối khí làm việc chịu nhiệt độ cao bị giãn nở, đầu
đòn gánh sẽ luôn đội vào thân xu páp làm cho xu páp đóng không kín và bị rò
hơi.
2. Xu páp làm việc có tiếng gõ:
Khe hở xu páp quá lớn: khi chạy với tốc độ thấp thì ở nắp đậy xu páp có tiếng
kêu lách tách rõ ràng, liên tục.
Nếu lò xo bị gãy thì khi làm việc sẽ phát ra tiếng gõ nhẹ.
Trường hợp khe hở giữa thân xu páp và ống dẫn quá lớn ta có thể nghe thấy
tiếng gõ nhẹ với âm điệu trung bình.
Con đội bị kẹt trong ống dẫn làm cho xu páp đi xuống không được linh hoạt,
khi rơi xuống sẽ va đập vào trục cam khi máy chạy với tốc độ thấp hoặc trung
bình sẽ phát ra tiếng gõ yếu nhưng rất rõ.
3.2 Các hư hổng của các bộ phận tay dổi hành trình xupap
Lò xo hồi vị : lò xo yếu ảnh hưởng đến sự làm việc cửa động cơ khi ở tốc độ
cao , xupap phải đống mổ nhanh dể bi gẫy hoặc yếu lò xo .m không đủ lực hồi
vị laị vị trí ban đầu .
GVHD: NGUYỄN HUỲNH THI 77 SVTH : NGUYỄN THANH TUYẾN
Nguyên nhân : do làm việc trong điều kiện tốc độ cao , làm việc ở thời giang dài
dẩn ra hư hỏng trên.
Trục cam : Trục cam nứt ngầm, bị công , gãy do làm việc lau dài trong điều
kiện nhiệt độ cao , không đảm bảo dưỡng dinh kỳ , dầu bôi trơn bẩn làm nghẹt
hoạc là không được bôi trơn dầu trong quá trình lam việc.
Cốc trượt: cóc trược có thể bị các vết cào, xước trong mặt hoặt là ngoài cóc
trược . do đế và van bị có các vết cào xước , có vết mõm của kim loại lò so bị
giảm độ đàng hồi .
Nguyên nhân: do trong lúc làm việc ở nhiệt độ cao , làm việc liên tục pittông
chuyển động len xuống nhiều lần làm mòn và ma xác với than cóc trượt làm các
mạc kim loại bị văng ra hoà với dầu làm cho sự boi trơn không được tốt màm
chuyễn động lên xuông theo thắng lò xo và bị làm cóc trượt mau mòn cào xước
lo xo yếu hơn, van bị cào xước
Cò mổ: ít khi bị hư hỏng nhưng có thể bị gãi do làm việc lâu dài trong điều
kiện nhệt độ cao, chiệu súc nén lớn
Chốt hảm : do chuyển động trong cò mổ nên xãy ra hiện tượng ma sác làm
mòn chi tiết gây ra sai góc lệch phun sớm
Các cảm biến : ngoài ra các hư hổng của công tắt áp xuất dầu và các cảm biến
và van điều khiển dầu như bị tắt , đường dây nối từ ECU, bị lỗi…. gây nên hoạt
động kém của hệ thống vì áp suất dầu không đủ điều khiển chuyễn trục cam hoặt
là vấu cam sang chế độ khác hoặt gây nên điều kiện sai hành trình đống mở của
suppap
Cảm biến vị trí bướm ga: được lắp trên cổ họng gió cảm biến nầy biến đổi góc
mở bướm ga thành điện áp, được truyền đến ECU động cơ như tính hiệu mở
bướm ga ( VTA). Ngoài ra một số thiết bị truyền một tính hiệu IDL riêng biệt .
các bộ phận khác xác định nó lúc tại thời điểm chạy không tảikhi điện áp VTA
này dưói giá trị chuẩn.
Cảm biến vị trí trục khuỷu ( bộ tạo tín hiệu tới NE) : tín hiệu NE đựơc ECU
động cơ sử dụng để phát hiện góc của trục khuỷu và tốc độ của động cơ. ECU
của động cơ dung tín hiệu NE để tín toán thời gian phun cơ bản và góc dánh lửa
sớm cơ bản . Đối với tín hiệu NE đựoc tạo ra bởi khe không khí giửa cảm biến
trục khuỷu và các răng trên chu vicủa roto tín hiệu NE đựoc lắp trên trục khuỷu.
Cảm biến nhiệt độ nứoc làm mát và cảm biến nhiệt độ khí nạp : cảm biến nhiệt
độ nứoc làm mát đựoc gắn các nhiệt điện trở bên trong , nhiệt trở cang thấp , trị
số điện trở càng cao , ngựoc lại nhiệt độ càng cao, trị số điện trở càng thấp . và
sự thay đổi về giá trị điện trở cửa nhiệt điện trở này đựoc sử dụng để các thay
đổi nhiệt độ nứoc làm mát và không khí nạp .
Cảm biến luư lưọng khí nạp : là một trong những cảm biến quan trọng nhất nó
đuọc sử dụng trong EFI kiểu L để phát hiện khối lưọng hoặc thể tích không khí
nạp . tín hiệu cửa khối lưọng hoặc không khí nạp đựoc dùng để tính hthời lưọng
khí nạp chủ yếu dựoc chia thành hai loại Kiểu cánh và kiểu gian phun cơ bản và
góc dánh lửa sớm cơ bản .Cảm biến giá xoay quan học Karman .
Hiện nay hầu hết các loại xe sửa dụng cảm biến luư lưọng khí nạp kiểu dây và
nó đo chính xát hơn , trọng lưọng nhẹ hơn và độ bền cao hơn.
Qua tìm hiểu thì hệ thống phân phối khí đựơc trang bị trên ô tô rất phong phú
và đa dạng tuỳ theo hãng xe khác nhau mà các hệ thống phân phối khí đựoc
trang bị củng khác nhau.
Tất cả các cơ cấu đó diều hưóng đến một đích tiết kiệm nhiân liệu , động cơ
chạy dạt công xuất cao hơn.
Mặc dù cũng có sự tham gia của diều khiển bằng điện nhưng chua hoàn toàn ,
vẫn còn nhiều phần điều khiển bẳng cơ khí . Các cơ cấu đó điều lấy mất di một
phần nào đó công xuất của dộng cơ .
Đáp ứng đưọc nhu cầu về phân phối khí có hiệu quả nhưng nó tiêu hao công
suất của động cơ quá nhiều , cơ cấu quá nhiều chi tiết , giá thành mắt thí cơ cấu
đó cũng khó chấp nhận .
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật , em mong rằng nghành
công nghệ ô tô sẽ cho ra nhiều cơ cấu tốt hơn , hiệu quả hơn , đặt biệt là về
nhiên liệu thay thế nhiên liệu hoá thạch ngày càng cạn kiệt .
2
T
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiểu luận tốt nghiệp : HỆ THỐNG PHÂN PHỐI KHÍ THÔNG MINH VVT-I
TRÊN Ô TÔ : SV : NGUYỄN VĂN THƠM.
Trang wep:
www,oto-hui.com
www.thuvienoto.com
www.baigiang.com
www.oto365.com
………………..