You are on page 1of 168

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI GIẢNG
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................................i
MODULE 1. LÝ THUYẾT TIỀN TỆ ............................................................................. 1
1.1. Đại cương tiền tệ ...................................................................................................... 1
1.1.1. Khái niệm tiền tệ ................................................................................................... 1
1.1.2. Các hình thái tiền tệ ............................................................................................... 3
1.1.3. Chức năng tiền tệ ................................................................................................. 13
1.2. Cung cầu tiền tệ ...................................................................................................... 16
1.2.1. Cung tiền tệ .......................................................................................................... 16
1.2.2. Cầu tiền tệ ............................................................................................................ 28
1.2.3. Cân bằng cung cầu tiền tệ .................................................................................... 33
1.3. Lãi suất ................................................................................................................... 35
1.3.1. Khái niệm lãi suất ................................................................................................ 35
1.3.2. Các loại lãi suất ................................................................................................... 35
1.3.3. Phương pháp tính lãi ............................................................................................ 38
1.4. Tiền tệ quốc tế ........................................................................................................ 44
1.4.1. Tỷ giá ................................................................................................................... 44
1.4.2. Chế độ tỷ giá ........................................................................................................ 52
1.4.3. Thị trường ngoại hối ............................................................................................ 54
MODULE 2. LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH ..................................................................... 58
2.1. Đại cương tài chính ................................................................................................ 58
2.1.1. Khái niệm tài chính ............................................................................................. 58
2.1.2. Chức năng của tài chính ...................................................................................... 60
2.1.3. Hệ thống tài chính ............................................................................................... 62
2.2. Tài chính công ........................................................................................................ 68
2.2.1. Khái niệm, phân loại, vai trò của tài chính công ................................................. 68
2.2.2. Thu tài chính công ............................................................................................... 70
2.2.3. Chi tiêu công ........................................................................................................ 72
2.2.4. Cân đối ngân sách nhà nước ................................................................................ 73
2.2.5. Nợ công ............................................................................................................... 75
2.3. Tài chính doanh nghiệp .......................................................................................... 82
2.3.1. Doanh nghiệp ....................................................................................................... 82
2.3.2. Khái niệm, vai trò của tài chính doanh nghiệp .................................................... 87
2.3.3. Tải sản của doanh nghiệp .................................................................................... 89
2.3.4. Nguồn vốn của doanh nghiệp ............................................................................102
2.3.5. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm .........................................107
2.3.6. Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp ........................................................110
i
2.4. Tài chính hộ gia đình ............................................................................................ 112
2.4.1. Khái niệm tài chính hộ gia đình ........................................................................112
2.4.2. Đặc trưng tài chính hộ gia đình .........................................................................113
2.4.3. Thu nhập của hộ gia đình ..................................................................................114
2.4.4. Chi tiêu của hộ gia đình .....................................................................................115
2.4.5. Cân đối thu chi trong gia đình ...........................................................................117
2.5. Tài chính quốc tế ..................................................................................................121
2.5.1. Khái niệm tài chính quốc tế ...............................................................................121
2.5.2. Đầu tư quốc tế....................................................................................................124
2.5.3. Tài trợ quốc tế....................................................................................................127
MODULE 3. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH ...........129
3.1. Thị trường tài chính .............................................................................................. 129
3.1.1. Khái niệm thị trường tài chính ..........................................................................129
3.1.2. Chức năng, phân loại thị trường tài chính .........................................................130
3.1.3. Công cụ thị trường tài chính ..............................................................................134
3.1.4. Thị trường tiền tệ ............................................................................................... 139
3.1.5. Thị trường vốn ...................................................................................................143
3.2. Trung gian tài chính.............................................................................................. 150
3.2.1. Khái niệm trung gian tài chính ..........................................................................150
3.3.2. Đặc điểm của trung gian tài chính .....................................................................151
3.3.3. Vai trò của trung gian tài chính .........................................................................152
3.3.4. Phân loại trung gian tài chính ............................................................................155
3.3.5. Một số trung gian tài chính ................................................................................156

ii
MODULE 1. LÝ THUYẾT TIỀN TỆ
1.1. Đại cương tiền tệ
1.1.1. Khái niệm tiền tệ
Tiền tệ là một thuật ngữ khá quen thuộc trong nền kinh tế. Thông thường khi đề
cập đến tiền tệ, chúng ta nghĩ ngay tới tiền giấy, tiền xu và gần đây là sự xuất hiện tiền
số. Mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế lại có những hình thái tiền tệ khác nhau
tương ứng, ban đầu tiền tệ xuất hiện trong trao đổi ở dạng một vài hàng hóa thông
dụng cụ thể của từng vùng miền như răng cá voi, cừu, lụa,… sau đó tiền tệ tồn tại ở
các dạng kim loại quý như vàng, bạc,... Tuy nhiên, có thể thấy rằng mỗi hình thái tiền
tệ không tồn tại mãi mãi mà thay đổi tùy theo sự phát triển và những biến động của
nền kinh tế, có những hình thái tiền tệ được sử dụng rất phổ biến trong quá khứ thì
ngày nay không còn được sử dụng, trong khi đó có những hình thái tiền tệ mới bắt đầu
xuất hiện trong những năm gần đây (như tiền số) nhưng được cộng đồng dân cư chấp
nhận sử dụng.
Các nhà kinh tế nhận định rằng, tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài
của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ. Nếu chỉ diễn ra việc trao đổi hàng
hóa dịch vụ này với hàng hóa dịch vụ khác (H-H) thì tiền tệ chưa xuất hiện, tiền tệ chỉ
xuất hiện khi có một hàng hóa tách ra, giữ vai trò làm trung gian trong trao đổi hàng
hóa dịch vụ (H-T-H’). Khi tiền tệ ra đời thì những hàng hóa dịch vụ phải thể hiện giá
trị của mình thông qua tiền tệ, qua đó xác định được tỷ lệ trao đổi giữa các hàng hóa
dịch vụ.
Nhiều nhà kinh tế, nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan niệm khác nhau về tiền
tệ, có thể kể đến như:
Phạm Ngọc Dũng, Đinh Xuân Hạng (2014) đã tổng hợp hai quan niệm về tiền
tệ, một là theo quan điểm của Các Mác thì “Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai
trò vật ngang giá chung để đo giá trị của các hàng hóa khác và là phương tiện thực
hiện quan hệ trao đổi”; hai là theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì
“Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi
với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế”.
Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Kim Anh, và Nguyễn Đức Hưởng (2016) quan niệm
rằng “Tiền là bất cứ vật gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hóa
hoặc để hoàn trả các khoản nợ”.
Lê Thị Tuyết Hoa, Đặng Văn Vần (2017) quan niệm “Vật được chấp nhận làm
vật môi giới trung gian trong trao đổi và làm phương tiện thanh toán các khoản nợ,
được xã hội đặt tên là tiền tệ”.

1
Như vậy, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được nhiều người sử dụng làm
trung gian trao đổi giữa các hàng hóa dịch vụ với nhau hoặc để thanh toán các khoản
nợ.
Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, có thể tồn tại ở dạng hữu hình (tiền giấy,
tiền xu,…) hoặc dạng vô hình (tiền tín dụng, tiền số). Tiền tệ được coi là hàng hóa đặc
biệt bởi tiền tệ là sản phẩm của quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ, nó đóng vai trò là
vật ngang giá chung trong trao đổi. Khi một hàng hóa đặc biệt trở thành tiền tệ thì bản
thân nó vẫn mang đầy đủ thuộc tính của hàng hóa, đó là giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị của tiền bao gồm giá trị nội tại của tiền, giá trị danh nghĩa và giá trị
thực của tiền. Giá trị nội tại của tiền thể hiện giá trị nguyên vật liệu, sức lao động,…
để sản xuất ra tiền. Giá trị danh nghĩa của tiền có thể do sự tín nhiệm, sự quy ước của
xã hội hoặc do luật định . Giá trị thực của tiền (hay sức mua của tiền) thể hiện khả
năng tiền được đổi ra nhiều hay ít hàng hóa dịch vụ, sức mua của tiền tệ bao gồm sức
mua đối nội và sức mua đối ngoại, sức mua đối nội được đo lường bằng số lượng hàng
hóa dịch vụ mua được ở trong nước bằng một đơn vị nội tệ, sức mua đối ngoại được
đo lường bằng số lượng hàng hóa dịch vụ mua được ở nước ngoài khi chuyển đổi một
đơn vị nội tệ ra ngoại tệ. Tiền của các quốc gia khác nhau hoặc của các nhà phát hành
khác nhau có thể được trao đổi với nhau thông qua tỷ giá hối đoái , thông qua quá trình
trao đổi này, giá cả của tiền cũng có thể biến động tương tự như giá cả của các hàng
hóa thông thường. Qua quá trình phát triển của tiền tệ cho thấy tiền có thể là tiền đủ
giá hoặc tiền dấu hiệu. Tiền đủ giá là tiền có giá trị nội tại bằng giá trị danh nghĩa, nó
tham gia lưu thông nhờ chính giá trị của nó, hay nói cách khác, giá trị trao đổi của tiền
đủ giá phụ thuộc vào giá trị nội tại của chính nó, không phụ thuộc vào luật định, hay
các quy ước của xã hội. Tiền dấu hiệu là tiền mà bản thân nó không có giá trị nội tại
hoặc giá trị nội tại không đáng kể so với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện. Trong điều
kiện lưu thông tiền dấu hiệu thì vai trò quản lý của nhà nước là rất quan trọng để ổn
định giá trị của đồng tiền.
- Giá trị sử dụng của tiền thể hiện ở việc tiền có những lợi ích gì đối với người sử
dụng (trao đổi, thanh toán, tích lũy,…), giá trị sử dụng của tiền không giống giá trị sử dụng
của hàng hóa dịch vụ thông thường, bởi giá trị sử dụng của hàng hóa dịch vụ thông thường
có thể không bao giờ thay đổi nhưng giá trị sử dụng của tiền phụ thuộc rất lớn vào sự phát
triển kinh tế xã hội hoặc những biến động chính trị, nếu giá trị sử dụng của tiền không còn
thì tiền sẽ không thể tồn tại , và sẽ bị thay thế bởi hàng hóa đặc biệt khác.
Tiền phải được số đông người dân thừa nhận và sử dụng – khi đó sức mua đối
nội của tiền được thực hiện, nếu tiền của quốc gia này nhưng được nhiều người của
quốc gia khác thừa nhận, sử dụng trong trao đổi và thanh toán công nợ,… thì khi đó
sức mua đối ngoại của tiền được thực hiện (những đồng tiền thực hiện được sức mua
2
đối ngoại thường là những đồng tiền mạnh như USD, EUR,…). Mặc dù vấn đề tiền
được nhiều người thừa nhận và sử dụng là do ý chí của dân chúng quyết định nhưng
cũng phụ thuộc rất lớn vào luật pháp của mỗi quốc gia, điều này cũng làm cho dân
chúng của quốc gia đó không được sử dụng một loại tiền nào đó hoặc không được sử
dụng đồng tiền của các quốc gia khác trong lưu thông.

1.1.2. Các hình thái tiền tệ


Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, tiền tệ lần lượt tồn tại dưới
những hình thái khác nhau, bao gồm: Hóa tệ, tiền kim loại quý, tiền kim loại kém giá,
tiền giấy, tiền tín dụng, và tiền số. Các hình thái tiền tệ ra đời có thể thay thế nhau
hoặc bổ sung cho nhau để đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa dịch vụ.
1.1.2.1. Hóa tệ
Hóa tệ (tiền bằng hàng hóa) là hình thái đầu tiên của tiền tệ, ban đầu tiền tệ là
những hàng hóa thông thường. Quan hệ trao đổi H-H’ là quan hệ trao đổi ngang giá
với giá trị thực, ở đây H’ là hàng hóa đặc biệt (đóng vai trò là tiền tệ), người có hàng
hóa H trao đổi lấy hàng hóa H’ (tiền tệ) để sau đó dùng hàng hóa H’ (tiền tệ) để đổi lấy
các hàng hóa dịch vụ khác.
Trong lịch sử phát triển của tiền tệ, có rất nhiều loại hàng hóa được con người
sử dụng làm tiền tệ ở một số nơi trên thế giới, đó là những hàng hóa có giá trị sử dụng
thiết thực cho từng vùng, lãnh thổ riêng biệt như tuần lộc ở Nga; lụa ở Trung Quốc; bơ
ở Na Uy; da thú ở Pháp và Ý; gỗ đàn hương ở Hawaii; rượu Rum ở Australia; gạo ở
Philippines; hạt tiêu ở Sumatra; đường ở đảo Barbados; nô lệ ở Châu Phi, Nigeria,
Ailen; cừu ở Hy Lạp và La Mã; lưỡi câu cá ở quần đảo Gilbert,… sau đó là những
hàng hóa mang giá trị tượng trưng như răng cá voi ở đảo Fiji; mai rùa ở đảo Mariana;
bộ lông vẹt đỏ ở quần đảo Santa Cruz (cho đến năm 1961); chuỗi vỏ sò của những thổ
dân da đỏ Bắc Mỹ,…
* Ưu điểm của hóa tệ:
Trong thời kỳ đầu khi xuất hiện tiền bằng hàng hóa thông thường thì ưu điểm
lớn nhất là giúp cho hoạt động trao đổi được thuận lợi, dễ dàng hơn, tiết kiệm thời gian
và chi phí dành cho việc trao đổi hàng hóa. Ngoài ra, tiền bằng hàng hóa thông thường
– tiền có giá trị nội tại bằng giá trị danh nghĩa nên sự xuất hiện của hình thái tiền tệ
này không gây ra lạm phát, chỉ khi lưu thông tiền dấu hiệu (giá trị danh nghĩa lớn hơn
giá trị nội tại) thì mới là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát.
* Hạn chế của hóa tệ:
Hóa tệ có hạn chế là dễ hư hỏng, khó phân chia hoặc gộp lại, khó bảo quản và
vận chuyển, khó sản xuất đồng loạt với khối lượng lớn và giống nhau trong thời gian
ngắn, chỉ được sử dụng ở một số vùng, lãnh thổ,... cũng như việc có quá nhiều hóa tệ –
3
quá nhiều vật ngang giá chung cũng khó khăn trong quá trình trao đổi, đặc biệt khi quá
trình trao đổi được mở rộng ra các vùng, lãnh thổ khác. Trải qua nhiều giai đoạn lịch
sử, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, nhiều loại hóa tệ bị đào thải do những hạn
chế cố hữu của nó, và dần được thay thế bằng hình thái tiền kim loại quý.

1.1.2.2. Tiền kim loại quý


Kim loại dùng để đúc thành tiền là các kim loại quý hiếm như vàng, bạc, và
thường ở dạng thỏi, nén, chứ chưa được đúc thành các đồng tiền có in mệnh giá. Tiền
kim loại quý có nhiều ưu điểm hơn so với hóa tệ như bền hơn, ít hao mòn, dễ bảo
quản, dễ vận chuyển hơn, dễ phân chia nhỏ, giá trị ổn định hơn,… do đó tiền kim loại
quý dần được sử dụng phổ biến để thay thế hóa tệ.
Trong số tiền kim loại quý thì chỉ có tiền vàng được sử dụng phổ biến và lâu dài
nhất, bởi vì:
- Vàng là kim loại quý được đại bộ phận nhân loại ưa thích sử dụng làm đồ
trang sức và của cải tích lũy. Do đó, việc dùng vàng làm trung gian trao đổi dễ dàng
được chấp nhận trên phạm vi nhiều vùng, lãnh thổ.
- Vàng ít bị hư hỏng dưới tác động của môi trường, dễ bảo quản, việc chia nhỏ
thành đơn vị và nhập những đơn vị nhỏ thành đơn vị lớn hơn rất dễ dàng và hầu như
vẫn bảo tồn được giá trị của chúng.
- Chỉ cần một lượng nhỏ vàng cũng đủ đại diện cho một hàng hóa dịch vụ có giá trị
tương đối lớn. Do vậy nếu dùng vàng làm tiền tệ thì rất tiện lợi cho lưu thông, không cần
khối lượng lớn nhưng có thể trao đổi được với những hàng hóa dịch vụ có giá trị cao.
- Giá trị của vàng ổn định tương đối trong khoảng thời gian dài, ít chịu ảnh
hưởng của năng suất lao động như các hàng hóa thông thường khác, ngay cả khi áp
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất thì ảnh hưởng không đáng kể đến
giá cả của vàng, đây là điều kiện quan trọng để vàng thực hiện tốt chức năng của tiền
tệ.
Mặc dù vàng có một thời gian thống trị lâu dài trong lịch sử phát triển của tiền
tệ, cũng như vàng có nhiều đặc tính thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ, nhưng vàng
cũng có những hạn chế nhất định khi đóng vai trò là vật ngang giá chung trong trao
đổi, đó là:
- Do hạn chế về sản lượng sản xuất dẫn đến không thể đáp ứng được nhu cầu về
tiền tệ của nền kinh tế. Đồng thời, nhu cầu sử dụng vàng vào các mục đích phi tiền tệ
(trang sức, tích trữ,..) ngày càng cao.
- Mặc dù vàng có thể được chia nhỏ nhưng do giá trị của vàng lớn lên không
đáp ứng vai trò là vật ngang giá chung trong các giao dịch trao đổi hàng hóa dịch vụ có
4
giá trị nhỏ, nhưng ngược lại vàng cũng trở lên nặng nề, khó vận chuyển cho những
giao dịch trao đổi có giá trị lớn.
- Việc bảo quản và vận chuyển vàng đôi khi mất an toàn do có thể xảy ra trộm
cướp,…
- Vàng là tài nguyên khan hiếm nên nếu dùng vàng làm tiền tệ thì đó là một sự
lãng phí, bởi quá trình sử dụng vàng làm tiền tệ có thể làm vàng hao mòn không cần
thiết, cũng như tăng chi phí do mỗi lần trao đổi lại phải định lượng lại vàng – vật
ngang giá chung trong trao đổi.
Chính những hạn chế này của vàng mà hiện nay tiền vàng không còn được sử
dụng phổ biến trong lưu thông và được thay thế bởi các hình thái tiền tệ cao hơn (tiền
giấy, tiền tín dụng, tiền số), nhưng vàng vẫn được đại bộ phận nhân loại công nhận nó
là một tài sản có giá trị cao, mục đích sử dụng vàng chủ yếu hiện nay là cất trữ giá trị
và làm trang sức.
1.1.2.3. Tiền kim loại kém giá
Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, con người nhận ra rằng không
nhất thiết phải sử dụng tiền đủ giá trong lưu thông mà chỉ cần dùng tiền dấu hiệu để
làm trung gian trong trao đổi hàng hóa dịch vụ. Vì vậy tiền kim loại kém giá được ra
đời thay thế cho tiền kim loại quý.

Tiền xu Mỹ Tiền xu Canada Tiền xu Euro

Tiền xu Anh Tiền xu Úc Tiền xu Ấn Độ

5
Tiền xu Chile Tiền xu Nga Tiền xu Nam Phi
Hình 1.1. Tiền xu của một số quốc gia trên thế giới
Tiền kim loại kém giá là loại tiền được đúc thành các đồng xu, trên đó được in
sẵn các mệnh giá khác nhau, nguyên liệu để sản xuất thường bằng đồng, kẽm, nhôm,
niken, thiếc,... Mệnh giá tiền kim loại kém giá do nhà nước quy định, dân chúng quốc
gia đó hoặc các quốc gia khác chấp nhận sử dụng. Tiền kim loại kém giá thuộc dạng
tín tệ - tức là bản thân đồng tiền không có giá trị nội tại hoặc có nhưng không đáng kể
nhưng mọi người thừa nhận và gán cho tiền kim loại kém giá một giá trị nhất định, hay
nói cách khác là giá trị danh nghĩa mà tiền kim loại kém giá đại diện cao hơn rất nhiều
giá trị thực của lượng kim loại đúc ra nó.
Hiện nay, trên thế giới nhiều nước vẫn dùng tiền kim loại kém giá (tiền xu)
trong lưu thông như Mỹ, Anh, Ấn Độ, Liên minh châu Âu,… Ngoài việc làm trung
gian trong các giao dịch giá trị nhỏ thì tiền xu còn được dùng để mua bán hàng hóa ở
các máy bán hàng tự động, mua vé ở các bến tàu xe,… Tại Việt Nam, vào những năm
2003 – 2004, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng phát hành tiền xu các mệnh giá 200
VND, 500 VND, 1.000 VND, 2.000 VND và 5.000 VND. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau như tâm lý ngại sử dụng tiền xu của người dân, tiền xu nhanh chóng bị
xuống cấp, xỉn màu, cũng như tốc độ trượt giá của VND,… làm cho tiền xu VND dần
dần không còn được sử dụng trong lưu thông, đến tháng 4/2011 Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã dừng in đúc, phát hành tiền xu mới.
* Ưu điểm của tiền kim loại kém giá:
- Không cần sử dụng vàng làm tiền, từ đó tiết kiệm của cải của xã hội.
- Có thể phát hành khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu làm phương tiện trao đổi
trong nền kinh tế.
* Hạn chế của tiền kim loại kém giá:
- Giá trị nội tại nhỏ nên nhà nước cần quản lý chặt chẽ nhằm ổn định giá trị đồng
tiền.
- Dễ hỏng, dễ bị làm giả, khó vận chuyển khối lượng lớn, việc kiểm đếm phức
tạp, ít được người dân các nước đang và kém phát triển ưa chuộng,…

6
1.1.2.4. Tiền giấy
Sự ra đời của tiền giấy đã giúp việc trao đổi hàng hóa dịch vụ có giá trị lớn hoặc
việc vận chuyển tiền cũng trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. Tiền giấy ra đời nhằm thay
thế cho tiền vàng, tiền kim loại kém giá trong việc thực hiện chức năng tiền tệ. Tiền
giấy phát triển qua hai dạng:
- Tiền giấy xuất hiện đầu tiên ở dạng các giấy chứng nhận đổi được ra bạc hoặc
vàng do các ngân hàng phát hành (còn gọi là tiền giấy khả hoán). Đây được coi là
những giấy cam kết của các ngân hàng phát hành đảm bảo cho người nắm giữ giấy này
được quyền đến ngân hàng phát hành rút số lượng bạc hay vàng tương ứng ghi trên
giấy. Có rất nhiều ngân hàng phát hành, và việc đổi tiền giấy ra vàng hoặc bạc chỉ
được thực hiện ở các ngân hàng phát hành ra nó. Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất,
nhằm siết chặt quản lý trong việc phát hành tiền giấy và ổn định giá trị của nó, nhiều
quốc gia ở châu Âu đã quy định việc phát hành tiền giấy chỉ do ngân hàng trung ương
thực hiện. Và sau đó, tất cả các quốc gia trên thế giới đều áp dụng quy định này. Do
đó, hiện nay khi nói đến tiền giấy thì được hiểu là tiền do ngân hàng trung ương các
nước phát hành. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh, các cuộc khủng hoảng kinh
tế, cũng như một thực tế là không có đủ lượng vàng cần thiết để đảm bảo cho lượng
giấy chứng nhận phát hành ra, do đó nhiều quốc gia lần lượt bỏ quy định tiền giấy có
thể đổi ra bạc hoặc vàng, đến năm 1978 Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã chính thức yêu
cầu các thành viên không được gắn cố định đồng tiền của quốc gia mình với vàng.
- Dạng phát triển thứ hai của tiền giấy là những giấy bạc do ngân hàng trung
ương phát hành nhưng không thể đổi ngược ra bạc hoặc vàng (còn gọi là tiền giấy bất
khả hoán). Ngày nay, tiền giấy chỉ còn là giấy nhận nợ của ngân hàng trung ương đối
với người sở hữu chúng, nhưng không như những giấy nhận nợ khác, mà tiền giấy –
giấy nhận nợ của ngân hàng trung ương là “lời hứa” đổi những giấy nhận nợ này thành
những giấy nhận nợ khác. Giá trị danh nghĩa được ghi trên tiền giấy có thể cao gấp
nhiều lần giá trị nội tại của đồng tiền, nhưng mọi người đều thừa nhận giá trị danh
nghĩa của tiền giấy bởi tiền chỉ là trung gian trong trao đổi, người ta không cần giá trị
nội tại của tiền, và đặc biệt tiền giấy được phát hành bởi ngân hàng trung ương, được
pháp luật các quốc gia thừa nhận nên người dân các quốc gia sẽ tin tưởng mà sử dụng
nó. Tuy vậy, nếu người dân mất lòng tin vào giá trị ổn định của đồng tiền, mất lòng tin
vào chính phủ thì người dân có thể sẽ không còn sử dụng tiền giấy do ngân hàng trung
ương quốc gia đó phát hành nữa.

7
Tờ tiền 500.000 VND Tờ tiền 100 USD

Tờ tiền 1.000 LAK Tờ 100 EUR


Hình 1.2. Tiền giấy của một số quốc gia trên thế giới
* Ưu điểm của tiền giấy:
- Tiền giấy gọn nhẹ, dễ dàng cất trữ và vận chuyển.
- Tiền giấy có nhiều mệnh giá nên phù hợp với hầu hết các giao dịch trao đổi
hàng hóa dịch vụ.
- Chính phủ các quốc gia có thể có được nguồn thu từ việc phát hành tiền giấy
(chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa của tiền và chi phí để in ấn, phát hành tiền), nhưng
nếu quá lạm dụng điều này mà ngân hàng trung ương phát hành lượng tiền giấy quá
lớn so với lượng hàng hóa dịch vụ trong lưu thông thì có thể dẫn đến lạm phát, làm
cho đồng tiền bị mất giá, trong trường hợp xấu nhất có thể làm người dân từ bỏ không
sử dụng đồng tiền đó nữa.
* Hạn chế của tiền giấy:
- Tiền giấy dễ bị rách, cháy hỏng, từ đó làm tăng chi phí thu hồi tiền.
- Nếu mệnh giá tiền giấy quá nhỏ thì chi phí sản xuất tiền giấy có thể cao hơn
mệnh giá của đồng tiền sản xuất ra.
- Tiền giấy tỏ ra không phù hợp khi trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia
với nhau hoặc giữa người mua, người bán có khoảng cách địa lý lớn. Đối với những
8
giao dịch trao đổi có giá trị lớn thì việc dùng tiền giấy để thanh toán có thể trở lên
cồng kềnh, mất nhiều thời gian và chi phí kiểm đếm.
- Tiền giấy có khả năng bị làm giả cao, dễ dẫn đến tình trạng lạm phát, bất ổn
cho nền kinh tế.
- Chính phủ các quốc gia khó khăn trong việc kiểm soát nguồn gốc thu nhập
của người dân đối với các khoản thu nhập phát sinh liên quan đến tiền giấy. Do đó,
nhiều quốc gia đã thực hiện đưa ra các quy định về giá trị cao nhất mà các giao dịch
mua bán hàng hóa dịch vụ được thực hiện bằng tiền mặt, trường hợp các giao dịch lớn
bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt.

1.1.2.5. Tiền tín dụng


Với sự phát triển của các trung gian tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng
thương mại, một hình thái tiền tệ mới đã xuất hiện là tiền tín dụng (hay còn gọi là bút
tệ). Tiền tín dụng là tiền nằm trên các tài khoản mở tại các ngân hàng. Tiền tín dụng
được hình thành trên cơ sở vay mượn vốn của các ngân hàng, các ngân hàng sẽ thực
hiện huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân và mở cho họ một tài khoản để ghi nhận số
tiền mà họ gửi vào; sau khi huy động vốn, các ngân hàng lại tiếp tục sử dụng tiền huy
động được để cho vay, mỗi lần huy động và cho vay thì mỗi ngân hàng sẽ tham gia
vào quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Tiền tín dụng về bản chất là cam kết
của ngân hàng cho phép người sở hữu tiền tín dụng đượt rút ra một lượng tiền giấy tối
đa bằng số dư trên tài khoản ngân hàng. Do cam kết này nên mọi người tin tưởng và sử
dụng tiền tín dụng trong các giao dịch trao đổi hàng hóa dịch vụ mà không nhất thiết
phải đổi ra tiền giấy.
Quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng có thể minh họa qua ví dụ sau:
(1) Anh A có 500 triệu VND tiền giấy (tiền mặt). Anh dùng số tiền này nộp vào
tài khoản mở tại ngân hàng X. Khi đó, tiền tín dụng trong hệ thống ngân hàng tăng
thêm 500 triệu VND. Anh A giảm 500.000 triệu VND tiền giấy mình nắm giữ, thay
vào đó anh A có 500 triệu VND tiền tín dụng.
(2) Ngân hàng X sau khi huy động được 500 triệu VND từ anh A, tiếp tục cho
Công ty B vay để trả tiền cho Công ty C có tài khoản mở tại ngân hàng Y. Khi đó,
Công ty B sẽ nợ ngân hàng X khoản tiền 500 triệu VND, còn Công ty C có 500 triệu
VND tiền tín dụng. Đến bước này, ta thấy từ 500 triệu VND tiền giấy ban đầu, thì qua
hai ngân hàng đã tạo ra 2 x 500 = 1.000 triệu VND tiền tín dụng.
(3) Giả sử Công ty C chưa sử dụng số tiền vừa nhận được từ Công ty B, khi đó
ngân hàng Y sẽ “tạm thời” sử dụng số tiền này để cho Công ty D vay để trả tiền cho
Công ty E có tài khoản mở tại ngân hàng Z. Khi đó, Công ty D sẽ nợ ngân hàng Y
khoản tiền 500 triệu VND, còn Công ty E có 500 triệu VND tiền tín dụng. Đến bước
9
này, số tiền tín dụng được tạo ra ở hệ thống ngân hàng đã là 3 x 500 = 1.500 triệu
VND chỉ từ 500 triệu VND tiền mặt ban đầu.
Giả sử quá trình trên vẫn tiếp tục thì chỉ với số tiền 500 triệu VND tiền giấy ban
đầu, thì qua n ngân hàng sẽ tạo được n x 500 triệu VND, có thể hiểu là một số tiền vô
hạn khi quá trình huy động – cho vay được lặp đi lặp lại ở các ngân hàng. Tuy nhiên,
thực tế thì điều này không xảy ra bởi 2 nguyên nhân đó là: (i) Nếu người đi vay nhận
bằng tiền mặt thì quá trình tạo tiền tín dụng chấm dứt; (ii) Ngân hàng không thể cho
vay hết số huy động, cũng như phải tiến hành dự trữ một khoản tiền nhất định để đảm
bảo khả năng thanh toán. Do vậy, số tiền tín dụng tạo ra trên hệ thống ngân hàng sẽ
thấp hơn con số tính toán theo lý thuyết.
Ngân hàng trung ương là đơn vị phát hành (tạo tiền) tiền giấy, còn hệ thống
ngân hàng tạo ra tiền tín dụng. Thực tế chứng minh tổng giá trị tiền giấy luôn nhỏ hơn
nhiều lần so với tổng giá trị tiền tín dụng. Do đó, nếu người dân không còn tin tưởng
vào một ngân hàng thì họ có thể đến rút tiền (đổi từ tiền tín dụng sang tiền giấy), điều
này nếu xảy ra đồng loạt có thể làm cả hệ thống ngân hàng sụp đổ do không đủ tiền
giấy để chi trả nhu cầu rút tiền của người dân (xảy ra rủi ro thanh khoản).
Để sử dụng tiền tín dụng, chủ tài khoản phải sử dụng các lệnh thanh toán gửi
cho ngân hàng mở tài khoản thanh toán hộ mình. Có nhiều lệnh thanh toán khác nhau
như séc, ủy nhiệm chi,… hoặc hiện nay đang dần phổ biến bằng các lệnh thanh toán
điện tử. Các ngân hàng khác nhau sẽ phải ký kết với nhau các hợp đồng đại lý để đảm
bảo các hoạt động thanh toán liên ngân hàng được thực hiện, theo đó các ngân hàng sẽ
mở cho nhau các tài khoản để ghi chép các khoản tiền di chuyển giữa các ngân hàng.
Khi đó, thay vì phải chuyển giao tiền giấy giữa các ngân hàng, họ chỉ việc ghi tăng
hoặc giảm tiền ở các tài khoản này. Với cơ chế hoạt động này đã giúp đẩy nhanh quá
trình thanh toán giữa các ngân hàng diễn ra nhanh gọn, an toàn.
* Ưu điểm của tiền tín dụng:
- Tiết kiệm được chi phí giao dịch do giảm bớt việc phải chuyển tiền giữa người
mua và người bán, đặc biệt là những giao dịch có giá trị lớn hoặc giữa người mua và
người bán ở khoảng cách địa lý xa nhau.
- Giảm bớt một cách đáng kể các chi phí về lưu thông tiền mặt: in tiền, bảo
quản, vận chuyển, kiểm đếm, đóng gói,…
- Tốc độ thanh toán nhanh, an toàn và đơn giản.
- Bảo đảm an toàn trong việc sử dụng đồng tiền, hạn chế được những hiện
tượng tiêu cực, đặc biệt có thể truy xuất được nguồn gốc phát sinh tiền qua đó chính
phủ có thể kiểm soát được nguồn phát sinh thu nhập của dân chúng.
* Hạn chế của tiền tín dụng:

10
- Nhóm đối tượng là người nghèo hoặc ở khu vực vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ
tầng thông tin chưa phát triển, không có tài khoản ngân hàng và không có ngân hàng
phục vụ mình thì sẽ không thể sử dụng được tiền tín dụng.
- Việc xử lý các giao dịch đòi hỏi phải có sự tham gia của ngân hàng với các
giao dịch giấy tờ có thể làm tốn kém cho xã hội, hoặc có thể phát sinh rủi ro trong quá
trình kỹ thuật xử lý nghiệp vụ của chính nhân viên ngân hàng,…
- Có thể xảy ra tình trạng tội phạm lừa đảo đánh cắp thông tin và chiếm đoạt
tiền trong tài khoản của khách hàng.
1.1.2.6. Tiền số
Sự xuất hiện của máy tính điện tử và mạng internet đã tạo môi trường để tiền tệ
có thêm hình thái mới gọi là tiền số (digital currency), tiền số không có hình thái vật
chất nhất định như tiền giấy hay tiền kim loại mà chỉ là sự thể hiện giá trị tiền tệ ở
dạng số. Tiền số được phân thành hai loại là tiền điện tử (electronic curency) và tiền ảo
(virtual curency).
Tiền điện tử là giá trị tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử được trả trước
bởi khách hàng cho ngân hàng hoặc các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán để thực hiện giao dịch thanh toán và được đảm bảo giá trị tương ứng tại ngân
hàng. Đơn vị đo lường của tiền điện tử là đồng tiền truyền thống (như VND, EUR,
USD…) với địa vị tiền pháp định. Người sử dụng tiền điện tử không nhất thiết phải có
tài khoản mở tại các ngân hàng. Ở Việt Nam hiện nay, các phương tiện lưu trữ tiền
điện tử bao gồm thẻ trả trước, ví điện tử, tài khoản điện thoại. Đối tượng cung ứng tiền
điện tử gồm có ngân hàng (phát hành thẻ trả trước) và tổ chức cung ứng dịch vụ trung
gian thanh toán (phát hành ví điện tử, tài khoản điện thoại).
- Thẻ trả trước là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi
giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền đã trả trước cho tổ chức phát hành
thẻ. Thẻ trả trước bao gồm: Thẻ trả trước định danh (có các thông tin định danh chủ
thẻ) và thẻ trả trước vô danh (không có các thông tin định danh chủ thẻ).

Hình 1.3. Một số thẻ trả trước ở Việt Nam


- Ví điện tử cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền
gửi tương đương với số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán của khách hàng tại

11
ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử
theo tỷ lệ 1:1 và được sử dụng làm phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.

Hình 1.4. Một số ví điện tử phổ biến hiện nay ở Việt Nam
- Tài khoản điện thoại là tài khoản lưu trữ tiền điện tử do tổ chức kinh doanh
dịch vụ viễn thông phát hành và định danh khách hàng thông qua cơ sở dữ liệu thuê
bao di động. Ở một số quốc gia, tiền điện tử trong tài khoản điện thoại có thể được
phép sử dụng để thanh toán hàng hóa có giá trị nhỏ, thanh toán các hóa đơn tiền điện,
tiền nước,…
Tiền ảo là sự thể hiện dưới dạng số của giá trị, không do ngân hàng trung ương,
tổ chức tín dụng hay tổ chức tiền điện tử phát hành và quản lý, mà được phát hành bởi
những người phát triển phần mềm và được sử dụng, chấp nhận thanh toán giữa các
thành viên trong một cộng đồng ảo nhất định. Tiền ảo không có đơn vị tiền pháp định.
Giá trị tiền ảo có nhiều biến động, đặc biệt sự tồn tại của tiền ảo phụ thuộc rất lớn vào
sự phát triển của nền tảng công nghệ, internet, và sự tồn tại của chính nhà phát hành.
Tiền mật mã (cryptocurrency) là một tập hợp con của tiền ảo, loại tiền này có ba đặc
điểm chính: (i) dựa trên nền tảng kỹ thuật số; (ii) không phải tài sản nợ bất kỳ ai; (iii)
và giao dịch ngang hàng. Một số tiền mật mã xuất hiện trong thời gian gần đây như
Bitcoin, Ethereum, Litecoin, Ripple,…
* Ưu điểm của tiền số:
- Người sử dụng không mất chi phí kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản.
- An toàn hơn so với tiền giấy do không bị cháy hỏng, tốc độ thanh toán nhanh hơn.
* Hạn chế của tiền số:
- Người sử dụng phải có biết sử dụng máy tính, điện thoại,…
- Phụ thuộc vào sự phát triển của nền tảng công nghệ và mạng internet.
- Có thể bị tội phạm công nghệ cao chiếm đoạt tiền.
- Đa số dân chúng chưa chấp nhận tiền ảo trong trao đổi hàng hóa dịch vụ, nó
được sử dụng cho mục đích đầu cơ kiếm lời là chủ yếu, cũng như nhiều quốc gia trên
thế giới chưa công nhận tiền ảo là đồng tiền hợp pháp hoặc một số quốc gia chỉ coi nó
là một tài sản thông thường, do vậy nó không được sử dụng trong thanh toán ở các
quốc gia này.

12
1.1.3. Chức năng tiền tệ
Tiền tệ có ba chức năng cơ bản là đơn vị đo lường giá trị của hàng hóa dịch vụ,
chức năng làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ và chức năng làm
tài sản dự trữ giá trị . Trong đó chức năng phương tiện trao đổi là chức năng để phân
biệt tiền với các tài sản khác như hàng tồn kho, chứng khoán, bất động sản,…
1.1.3.1. Đơn vị đo lường giá trị của hàng hóa dịch vụ
Trong nền kinh tế, khi so sánh giá trị các hàng hóa dịch vụ với nhau, chúng ta
phải quy đổi giá trị của chúng về một đơn vị đo lường chung, và đơn vị đo lường được
lựa chọn phổ biến là tiền tệ. Khi đó, người ta sẽ tính toán xem một đơn vị hàng hóa
dịch vụ quy đổi ra được bao nhiêu đơn vị tiền tệ, giá trị hàng hóa dịch vụ được thể
hiện qua đơn vị tiền tệ là giá cả, ngược lại giá cả hàng hóa dịch vụ bằng chính giá trị
thực của tiền (sức mua của tiền - thể hiện khả năng tiền đổi ra nhiều hay ít hàng hóa
dịch vụ).
Hiện nay, để một đồng tiền làm đơn vị đo lường giá trị của hàng hóa dịch vụ thì
nó phải thỏa mãn bốn điều kiện: (i) phải có đơn vị thì mới có thể thực hiện chức năng
đo lường; (ii) được nhà nước cho phép sử dụng hợp pháp; (iii) được đại đa số dân
chúng chấp nhận sử dụng; (iv) có sức mua – có giá trị thực ổn định. Trong đó, để được
dân chúng sử dụng thì giá trị thực của tiền phải ổn định trong dài hạn, nếu giá trị thực
của tiền không ổn định hoặc mất giá nhanh thì dân chúng sẽ từ bỏ đồng tiền đó, không
sử dụng chúng làm đơn vị đo lường giá trị hàng hóa dịch vụ. Các hình thái tiền tệ hiện
nay đều ở dạng tiền dấu hiệu, do đó giá trị thực của tiền phụ thuộc vào cung cầu tiền
tệ, mức độ lạm phát, tình trạng của nền kinh tế và cả niềm tin của dân chúng,... Do đó,
để ổn định giá trị thực của đồng tiền phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ của chính
phủ, mà đơn vị thực thi chính sách tiền tệ chủ đạo là ngân hàng trung ương.
Trong nền kinh tế thực hiện trao đổi trực tiếp các hàng hóa dịch vụ với nhau
(chưa có sự tham gia của tiền tệ) thì mỗi hàng hóa dịch vụ phải thể hiện giá cả thông
qua tất cả các hàng hóa dịch vụ còn lại, như vậy với n hàng hóa dịch vụ thì cần tới n(n-
1)/2 giá cả tương ứng, chẳng hạn như chỉ với 100 hàng hóa thì ta cần tới 100x99/2 =
4.950 giá cả mới có thể thực hiện đầy đủ các hoạt động trao đổi hàng hóa dịch vụ. Tuy
nhiên, nhờ có chức năng là đơn vị để đo lường giá trị của hàng hóa dịch vụ đã giúp
cho việc xác định giá cả của hàng hóa dịch vụ được nhanh chóng và dễ dàng – số
lượng giá cả bằng số lượng hàng hóa dịch vụ, qua đó giúp việc trao đổi hàng hóa dịch
vụ, cũng như việc tính toán giá trị trở nên đơn giản hơn. Hiện nay, thông thường mỗi
quốc gia đều có đồng tiền riêng, và giá cả hàng hóa dịch vụ trong nước đều được biểu
thị thông qua đồng tiền quốc gia đó. Khi hàng hóa dịch vụ của một quốc gia được trao
đổi trên phạm vi quốc tế thì giá cả hàng hóa dịch vụ phải được đo lường bởi một đơn
vị tiền tệ nhất định, để làm được điều này thì các đồng tiền khác nhau phải được quy
13
đổi với nhau theo tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, có những đồng tiền sau khi xác định xong
tỷ giá, chúng không có khả năng lưu thông ra khỏi biên giới quốc gia. Trong khi đó,
một số ít đồng tiền như USD, EUR,… thì chúng được sử dụng rộng rãi trong thanh
toán quốc tế, được nhiều nước chấp nhận sử dụng song song với đồng nội tệ, cũng như
được lựa chọn làm tài sản dự trữ quốc gia.
1.1.3.2. Trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ
Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt với vai trò làm trung gian trao đổi hàng hóa
dịch vụ. Quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ trải qua hai giai đoạn: (i) H-T là giai đoạn
bán hàng hóa dịch vụ để lấy tiền và (ii) T-H’ là giai đoạn dùng tiền để mua hàng hóa
dịch vụ. Khi tiền tệ thực hiện chức năng làm trung gian trao đổi hàng hóa dịch vụ thì
tiền tệ có thể xuất hiện đồng thời trong quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ (chẳng hạn
như mua bán hàng hóa dịch vụ trả tiền ngay); nhưng sự xuất hiện của tiền tệ cũng có
thể tách rời hoặc độc lập tương đối so với quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ (như đối
với trường hợp mua bán chịu, trả tiền vay nợ, trả lương, thanh toán tiền điện nước, nộp
thuế,…).
Tiền chỉ xuất hiện tạm thời trong quá trình trao đổi, người ta trao đổi lấy tiền không vì
mục đích nắm giữ tiền mãi mãi mà vì những gì trong tương lai tiền sẽ đổi được, hay
nói cách khác thì tiền chỉ là phương tiện trao đổi chứ không phải mục đích của trao
đổi. Với sự xuất hiện của tiền tệ, giai đoạn mua hàng và bán hàng được tách rời nhau
về không gian và thời gian, điều này có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu về
một số loại hàng hóa nào đó, đây cũng là nguyên nhân tạo nên mầm mống của những
cuộc khủng hoảng kinh tế.
Việc dùng tiền tệ làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ (H-
T-H’) đã khắc phục được những hạn chế của việc trao đổi hàng hóa dịch vụ trực tiếp
(H-H’). Việc trao đổi hàng hóa dịch vụ trực tiếp chỉ diễn ra giữa những chủ thể kinh tế
có nhu cầu phù hợp tương ứng, việc mua và bán phải diễn ra đồng thời, cùng một địa
điểm. Nhưng khi có sự xuất hiện của tiền tệ thì người ta chỉ cần bán hàng hóa dịch vụ
mình nắm giữ để lấy tiền, rồi sau đó dùng tiền để mua những hàng hóa dịch vụ mình
muốn ở bất cứ nơi nào, lúc nào. Nhờ vậy quá trình lưu thông hàng hóa dịch vụ được
diễn ra nhanh chóng, quá trình sản xuất cũng thuận lợi hơn, thúc đẩy chuyên môn hóa
và phân công lao động xã hội, góp phần vào phát triển kinh tế.
Tiền tệ trao đổi với hàng hóa dịch vụ khác theo giá cả, do đó ngoài việc thỏa
mãn các điều kiện để tiền tệ làm đơn vị đo lường giá trị hàng hóa dịch vụ thì để thực
hiện được chức năng làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ thì tiền
phải thỏa mãn thêm ba điều kiện là:
(i) Lượng tiền phải đáp ứng đủ nhu cầu trao đổi hàng hóa dịch vụ. Lượng tiền
lớn hơn hoặc thấp hơn nhu cầu trao đổi đều không có lợi cho sự phát triển của nền
14
kinh tế. Do lưu thông hàng hóa dịch vụ và lưu thông tiền tệ có sự vận động khác nhau
(hàng hóa dịch vụ kết thúc quá trình lưu thông thì nó đi vào quá trình tiêu dùng – tức
là hàng hóa dịch vụ sẽ không còn tồn tại hoặc qua quá trình sản xuất nó chuyển hóa
sang dạng hàng hóa dịch vụ khác; còn tiền tệ kết thúc quá trình lưu thông thì nó
chuyển sang quá trình lưu thông mới), do đó không nhất thiết có bao nhiêu giá trị hàng
hóa dịch vụ trong nền kinh tế thì phải có bấy nhiêu giá trị tiền tệ. Số tiền cần thiết
trong lưu thông phụ thuộc vào tổng giá trị hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế và vòng
quay của tiền tệ .
(ii) Tiền tệ phải bao gồm nhiều mệnh giá khác nhau để đáp ứng mọi quy mô
trao đổi hàng hóa dịch vụ. Hiện nay, với hình thái tiền tín dụng, tiền số thì có thể đáp
ứng mọi quy mô giao dịch nhỏ lẻ hoặc có giá trị rất lớn, còn tiền giấy hoặc tiền xu thì
sẽ hạn chế hơn do không thể in tiền có quá nhiều mệnh giá hoặc in tiền có mệnh giá
quá lớn, nên cũng hạn chế đối với các giao dịch có số tiền quá lẻ hoặc giao dịch có giá
trị quá lớn thì tiền giấy và tiền xu tỏ ra không phù hợp làm trung gian trao đổi.
(iii) Tiền tệ phải ít bị hư hỏng và phải gọn nhẹ để dễ dàng vận chuyển.
1.1.3.3. Tài sản dự trữ giá trị
Sau khi bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, người bán đã đổi từ hàng hóa dịch
vụ thành tiền, và nếu người bán không muốn sử dụng tiền để chi tiêu ngay thì tiền tạm
thời rút khỏi lưu thông, trở thành tài sản dự trữ giá trị. Tiền có chức năng là tài sản dự
trữ giá trị bởi tiền có thể đổi lấy một lượng hàng hóa dịch vụ trong tương lai, do đó
thay vì phải dự trữ các loại tài sản như lương thực, quần áo,… thì chúng ta sẽ dự trữ
tiền. Tuy nhiên, tiền không phải là tài sản dự trữ giá trị tốt nhất, đặc biệt khi xảy ra lạm
phát thì tiền không những không bảo toàn được giá trị thực của mình mà còn mất giá
theo thời gian. Trong khi đó, một số tài sản khác lại có thể đem lại cho người sở hữu
chúng những khoản thu nhập nhất định như chứng khoán, bất động sản, hàng hóa hay
các kim loại quý,… Mặc dù vậy, dân chúng vẫn thích dự trữ tiền bởi nó là tài sản có
tính thanh khoản cao nhất, trong khi các tài sản khác mà dân chúng muốn chuyển đổi
thành tiền phải mất thời gian và chi phí nhất định, đặc biệt trong trường hợp cấp bách
cần tiền để tiêu dùng thì có thể sẽ phải bán tài sản với giá rẻ hơn giá trị của nó, mà nếu
như đã dự trữ tiền thì điều này không xảy ra. Ngoài ra, việc dự trữ tiền lợi thế hơn so
với các tài sản khác khi chi phí dự trữ rất thấp, không cần kho bãi quá lớn để bảo quản
(tiền tín dụng, tiền số thì chi phí bảo quản gần như bằng không).
Điều kiện để tiền thực hiện chức năng làm tài sản dự trữ giá trị là tiền phải có
giá trị ổn định trong dài hạn. Trước đây, dân chúng hay dự trữ tiền vàng hoặc tiền giấy
có khả năng chuyển đổi thành vàng. Nhưng hiện nay, dân chúng đã chuyển sang dự trữ
tiền dấu hiệu, chỉ cần giá trị đồng tiền đó ổn định (sức mua ổn định) theo thời gian.
Trong thực tế thì nền kinh tế luôn xảy ra tình trạng lạm phát, điều này dẫn đến tiền dấu
15
hiệu sẽ bị mất giá theo thời gian, để dự trữ tiền thì dân chúng thường gửi tiền tiết kiệm
tại các ngân hàng với mức lãi suất nhất định để bù đắp phần mất giá của tiền.
1.2. Cung cầu tiền tệ
1.2.1. Cung tiền tệ
1.2.1.1. Cung tiền tệ và phép đo mức cung tiền tệ
Mức cung tiền tệ là lượng tiền được cung ứng nhằm thoả mãn các nhu cầu
thanh toán và dự trữ của các chủ thể trong nền kinh tế. Mức cung tiền phải tương ứng
với mức cầu về tiền tệ. Sự thiếu hụt hay dư thừa của cung tiền tệ so với cầu đều có thể
dẫn tới những tác động không tốt cho nền kinh tế. Cơ quan có thẩm quyền cao nhất
quyết định khối cung tiền trong nền kinh tế là Ngân hàng trung ương.
Ngày nay việc cung ứng tiền cho nền kinh tế chủ yếu là Ngân hàng trung ương
và hệ thống ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung ương phát hành tín tệ, còn hệ
thống ngân hàng trung gian cung ứng bút tệ. Ngoài ra, Nhà nước và các doanh nghiệp
cũng được coi là các chủ thể cung ứng tiền cho nền kinh tế, vì đây là các chủ thể phát
hành các chứng từ nợ như tín phiếu, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi,...
Điều quan trọng khi nghiên cứu về mức cung tiền tệ là xác định thành phần của
lượng tiền cung ứng. Tức là, xác định những cái gì được coi là tiền trong nền kinh tế
và do vậy sẽ được đưa vào phạm vi đo lượng tiền. Việc xác định này về mặt lý thuyết
căn cứ vào định nghĩa về tiền tệ: “Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được nhiều người
sử dụng làm trung gian trao đổi giữa các hàng hóa dịch vụ với nhau hoặc để thanh
toán các khoản nợ”. Nếu như tiền giấy hay các tài khoản séc dễ dàng được coi là tiền
vì chúng được sử dụng trực tiếp làm phương tiện thanh toán trong nền kinh tế một
cách phổ biến, thì các tài khoản tiền gửi ngắn hạn, các giấy chứng nhận tiền gửi,... có
được coi là tiền tệ không? Tuy chúng không được sử dụng trực tiếp làm phương tiện
thanh toán nhưng sự phát triển của thị trường tài chính hiện đại đã khiến cho chúng có
khả năng đổi ra tiền một cách dễ dàng khi cần, và do vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến
tổng phương tiện thanh toán (tổng lượng tiền) của xã hội.
Khối lượng tiền trong nền kinh tế được đo lường bằng một số mức cung tiền tệ
khác nhau và được kết cấu theo nguyên tắc tính lỏng giảm dần. Do tính lỏng của một
tài sản tài chính càng cao thì ảnh hưởng của chúng tới tổng phương tiện thanh toán
càng lớn và ngay bản thân tiền giấy và khoản tương đương tiền (với tư cách là các
phương tiện thanh toán trực tiếp trong nền kinh tế) cũng có thể coi là một dạng tài sản
tài chính có tính lỏng cao nhất nên người ta đã căn cứ vào tính lỏng của các tài sản tài
chính để xác định thành phần lượng tiền cung ứng. Tiêu chí này dẫn đến sự hình thành
nên nhiều phép đo lượng tiền khác nhau tuỳ theo quan niệm rộng hay hẹp về tiền tệ.
Chúng được ký hiệu là M1, M2 (M là viết tắt của chữ Monetary aggregates - Tổng
lượng tiền), trong đó các phép đo sau sẽ bao gồm phép đo trước cộng thêm các dạng
16
tài sản tài chính có tính lỏng kém hơn. Các phép đo lượng tiền cung ứng thường được
sử dụng gồm:
Phép đo M0 (còn gọi là phép đo lượng tiền mặt) bao gồm:
Tiền mặt (Cash - ký hiệu là C): là bộ phận tiền giấy do ngân hàng trung
ương phát hành lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng. Nó bằng lượng tiền giấy do ngân
hàng trung ương phát hành trừ đi lượng tiền giấy do các ngân hàng (kể cả ngân hàng
trung ương) nắm giữ.
Đây là bộ phận tiền tệ có tính lỏng cao nhất và đang có xu hướng giảm dần
trong tổng phương tiện thanh toán. Ở các nước phát triển, bộ phận tiền mặt trong lưu
thông chỉ chiếm khoảng 5 - 7% mức cung tiền tệ. Ở Việt Nam, M0 giảm mạnh từ tỷ
trọng khoảng 30% vào đầu những năm 1990 xuống còn khoảng 10% trong những năm
gần đây.
Phép đo M1 (còn gọi là phép đo lượng tiền giao dịch)
M1 được coi là khối tiền căn bản nhất, nó gắn liền với lưu thông hàng hóa - dịch
vụ trong nền kinh tế. M1 là khối tiền mà nó có thể trực tiếp làm phương tiện lưu thông
hoặc thanh toán mà không đòi hỏi phải có bất cứ một điều kiện nào khác.
M1 bao gồm: tiền mặt, các khoản tiền gửi tài khoản séc và séc du lịch. Những
tài sản này rõ ràng là tiền vì chúng có thể trực tiếp làm phương tiện trao đổi.
Như chúng ta biết khi Ngân hàng Trung ương phát hành vào nền kinh tế một
lượng tiền mặt (bao gồm tiền giấy, tiền kim loại) thì một tỷ lệ nhất định số tiền mặt đó
bị giữ lại trong hệ thống ngân hàng bao gồm dự trữ của các ngân hàng thương mại ở
tại ngân hàng trung ương và dự trữ tiền mặt còn lại của các ngân hàng thương mại,
phần còn lại là do các tổ chức và dân cư nắm giữ. Phần tiền mặt do tổ chức và dân cư
nắm giữ này chính là một bộ phận của khối cung tiền M1.
Bên cạnh khối cung tiền M0 ta còn có một lượng tiền gửi trên các tài khoản
thanh toán còn gọi là tiền gửi có thể phát hành séc, cá nhân đơn vị gửi một phần tiền
mặt của họ vào các tài khoản thanh toán ở các ngân hàng để sử dụng các phương thanh
toán của ngân hàng. Số tiền này cũng có thể được sử dụng để chi trả cho việc mua
hàng hóa dịch vụ hoặc thanh toán một khoản nợ một cách tức thời. Do đó, ta có:
M1 = M0 + D
Trong đó:
M1: Khối cung tiền
M0: Tiền mặt trong dân cư, các tổ chức (trừ hệ thống ngân hàng)
D: Tiền gửi tài khoản thanh toán của các cá nhân, tổ chức ở ngân hàng và tiền
gửi có thể phát hành séc.
Đây là bộ phận tiền được sử dụng cho các giao dịch thường xuyên và là đối
tượng kiểm soát trước hết của ngân hàng trung ương các nước.
17
Trong thực tế do tồn tại nhu cầu giữ tiền mặt của dân chúng và nhu cầu dự trữ
vượt mức của các ngân hàng nên lượng tiền mới được tạo ra trong nền kinh tế sẽ nhỏ
hơn nhiều so với kết quả của mô hình số nhân tiền giản đơn. Câu hỏi đặt ra: nếu dân
chúng có nhu cầu nắm giữ tiền mặt là C, dự trữ bắt buộc là RR, hệ thống ngân hàng
duy trì dự trữ vượt mức là ER, thì với một lượng tiền cơ sở tăng là MB thì sẽ làm cung
tiền M tăng lên thêm bao nhiêu, lúc đó tiền mặt C và tiền gửi thanh toán D thay đổi
như thế nào? Và trả lời cho câu hỏi này chính là tính được hệ số nhân tiền m1.
m1 = [1+c]/ [r + c + e]
Trong đó:
m1: là hệ số nhân tiền
c: tỷ lệ tiền mặt giữ lại so với tiền gửi thanh toán = C/D
r: tỷ lệ dự trữ bắt buộc = RR/D
e: tỷ lệ dự trữ vượt mức so với tiền gửi thanh toán = ER/D
Tổng cung tiền ra nền kinh tế sẽ là:
M1 = m1 x MB (MB là lượng tiền cơ sở)
Theo phương pháp này thì cung tiền sẽ chịu tác động bởi ba yếu tố:
- Tỷ lệ dự trữ tiền mặt: nếu tiền mặt tăng thì cung tiền sẽ giảm.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức sẽ tỷ lệ nghịch với tổng cung tiền
trong nền kinh tế.
Phép đo M2
Khối tiền tệ M2 được gọi là khối tiền tệ tài sản như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
định kỳ. M2 vừa là tiền vừa là khoản sinh lợi. M2 đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh tế. Khi ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ, người
dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và sẽ làm gia tăng tiền mặt của các ngân hàng và
ngược lại khi lãi suất giảm thì người dân sẽ rút tiền ra, làm giảm khả năng cung ứng
tiền mặt của ngân hàng.
Sự khác biệt bắt đầu thể hiện trong kết cấu khối tiền tệ M2 trở đi và khối tiền
càng rộng thì tính lỏng của nó càng giảm. Việc kết cấu khối tiền cụ thể của từng nước
tùy thuộc vào độ nhạy cảm của khối tiền đó đối với các biến số vĩ mô và khả năng
quản lý của ngân hàng trung ương.
Trên thị trường Mỹ thì M2 bao gồm M1 cộng thêm vào những tài sản khác gồm
tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, hợp đồng mua lại qua đêm và đô la
Châu Âu qua đêm. Những loại tài sản này đặc biệt lỏng, nghĩa là nó có thể chuyển
thành tiền mặt với phí tổn rất thấp và nhanh chóng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý mức cung tiền theo khối tiền M1, M2.
Khối tiền M2 gồm toàn bộ khối tiền M1 cộng thêm các tài sản tài chính như tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, các trái phiếu và kỳ phiếu do ngân hàng thương mại phát
18
hành. Khối tiền M2 kém linh hoạt hơn M1 nhưng sự kiểm soát M2 là quan trọng vì tiền
gửi tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng là lượng tiền giao dịch tiềm năng. Hơn nữa, giữa
chúng và M1 thường xuyên có sự chuyển hoá lẫn nhau.
Tiêu chí để đưa tài sản tài chính vào M2 phụ thuộc vào: mức độ thanh khoản
của tài sản, khả năng Ngân hàng trung ương kiểm soát được tài sản này. Trên thực tế
có hai tài sản tài chính đáp ứng được điều này: Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
(ký hiệu là T) và trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng phát hành (ký hiệu là B).
M2 = M1 + T + B = C + D + T + B
Đặt: t = T/D, b = B/D
Gọi rt là tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi kỳ hạn và tiết kiệm; TT là số tiền dự
trữ bắt buộc từ tiền gửi kỳ hạn và tiết kiệm, tức rt = TT/T
m2 = [1+c+t+b] / [r+e+c+rt.t]
M2 = m2 x MB
Phép đo M3
Khối cung tiền M3 được định nghĩa là M2 cộng thêm những loại tài sản có tính
thanh khoản, hay tính lỏng thấp hơn, đó là những loại tiền gửi có kỳ hạn dài, hợp đồng
mua lại dài hạn và đô la Châu Âu có kỳ hạn dài.
Phép đo M4 hay khối cung tiền L
Khối cung tiền L bao gồm M3 và các tài sản có tính thanh khoản thấp như tín
phiếu kho bạc, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng,...
Vì trình độ phát triển của thị trường tài chính không giống nhau giữa các nước
và thay đổi theo thời gian nên thành phần của các phép đo nêu ở trên có thể khác nhau
giữa các quốc gia và thay đổi theo thời gian. Ví dụ: Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) còn
đưa thêm séc du lịch và các dạng tiền gửi có thể phát séc khác vào phép đo M1, ở phép
đo M2 họ tách tiền gửi có kỳ hạn thành tiền gửi có kỳ hạn lượng nhỏ thì để lại M2 còn
tiền gửi có kỳ hạn lượng lớn thì đưa sang M3 và thêm vào M3 tài khoản tiền gửi tại thị
trường tiền tệ, cổ phần quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ (không có tính tổ chức). Việt
Nam thì thêm vào M2 kỳ phiếu ngân hàng thương mại. Việc lựa chọn ra một phép đo
lượng tiền chính thức trong thực tế sẽ căn cứ vào việc phép đo lượng tiền nào giúp
thực hiện được tốt nhất việc dự báo các biến số kinh tế mà tiền tệ có ảnh hưởng nhiều
như tỉ lệ lạm phát, chu kỳ kinh doanh. Trên thực tế các quốc gia thường sử dụng phép
đo M1 hoặc M2. Việt Nam chúng ta sử dụng phép đo M2. Như vậy, mức cung tiền
(Money Supply - MS) được xác định bởi khối lượng tiền M (có thể là M1 hoặc M2 )
Cần lưu ý rằng, việc thu thập các số liệu về lượng tiền cung ứng của các ngân
hàng trung ương không phải bao giờ cũng kịp thời và chính xác. Có hai lý do khách
quan gây ra điều này:

19
Thứ nhất, các báo cáo của các tổ chức tín dụng nhỏ như quỹ tín dụng, quỹ tiết
kiệm,... thường là định kỳ nên khi cần công bố thông tin về lượng tiền cung ứng ngân
hàng trung ương thường phải ước tính cho đến khi nhận được những báo cáo số liệu
thực vào một ngày trong tương lai.
Thứ hai, những biến động của lượng tiền cung ứng mang tính thời vụ, chẳng
hạn tổng lượng tiền cung ứng luôn tăng vào các dịp lễ tết do chi tiêu của các hộ gia
đình tăng lên. Mức tăng này không hoàn toàn giống nhau giữa các năm, và thường thì
khi chưa có số liệu cụ thể, các ngân hàng trung ương sẽ đưa ra các số liệu ước tính dựa
vào các thống kê của các năm trước. Kết quả là những số liệu ước đoán này sẽ không
phải bao giờ cũng chính xác. Những số liệu này sẽ được điều chỉnh lại cho chính xác
khi có đầy đủ số liệu. Những khác biệt giữa số liệu ước tính và số liệu được điều chỉnh
lại khi có đủ số liệu nhiều khi dẫn đến những bức tranh khác nhau về những gì đang
xảy ra đối với lượng tiền cung ứng. Ví dụ theo những số liệu ước tính thì tỉ lệ tăng
trưởng của mức cung tiền giảm nhưng theo những số liệu đã được điều chỉnh thì tỉ lệ
tăng trưởng của mức cung tiền lại là tăng nhẹ. Tình trạng này hay xảy ra với các thống
kê ngắn hạn, ví dụ mức cung tiền hàng tháng, nhưng có xu hướng mất đi khi thời gian
thống kê dài hơn, ví dụ mức cung tiền hàng năm. Vì vậy, khi nghiên cứu về lượng
cung ứng tiền tệ, chúng ta không cần phải chú ý đến những biến động ngắn hạn trong
số lượng tiền cung ứng mà chỉ tập trung vào những biến động dài hạn của nó.
1.2.1.2. Quá trình cung ứng tiền
a. Ngân hàng trung ương phát hành tiền pháp định
Việc cung ứng tiền vào lưu thông thường do ngân hàng trung ương đảm nhiệm.
Hàng năm, trên cơ sở tính toán nhu cầu tiền trong lưu thông biểu hiện qua các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tình hình ngân sách nhà nước
và tình hình cán cân thanh toán quốc tế, ngân hàng trung ương sẽ lên kế hoạch cung
ứng tiền vào lưu thông. Lượng tiền cơ sở hay cơ số tiền (ký hiệu là MB - Monetary
base) được phát hành thông qua bốn kênh chủ yếu:
* Phát hành qua nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá ngắn
hạn giữa một bên là Ngân hàng trung ương với một bên là các tổ chức tín dụng trong
đó Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người điều hành hoạt động thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong các công cụ được Ngân hàng trung ương sử
dụng để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua hoạt động mua, bán các giấy
tờ có giá ngắn hạn trên thị trường mở, Ngân hàng trung ương đã tác động trực tiếp đến
dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị trường,
từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

20
Ngân hàng Dự trữ
Dự trữ mở Khối Mức
trung ương ngân hàng
rộng cho lượng tín cung tiền
bán giấy tờ thương mại
vay giảm dụng giảm giảm
có giá giảm

Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở đến dự trữ của ngân
hàng thương mại
Hành vi mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở của Ngân hàng trung
ương có khả năng tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các ngân hàng
thương mại thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại Ngân
hàng trung ương (nếu các ngân hàng thương mại là đối tác tham gia nghiệp vụ thị
trường mở) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là
đối tác tham gia nghiệp vụ thị trường mở).
Khi Ngân hàng trung ương thực hiện bán giấy tờ có giá cho các ngân hàng thì
dự trữ của các ngân hàng thương mại sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng giấy tờ
có giá mà Ngân hàng trung ương bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ
làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến
cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương thực hiện mua giấy tờ có giá
trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi Ngân
hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân
hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng.
Hành vi mua bán giấy tờ có giá của Ngân hàng trung ương trên thị trường mở
có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường sau:
Cung tín phiếu Giá tín phiếu Lãi suất thị
kho bạc tăng kho bạc giảm trường tăng
tăng

Ngân hàng trung Đầu tư giảm


ương bán tín
phiếu kho bạc

Dự trữ ngân
Cung của quỹ Lãi suất ngắn Lãi suất thị
hàng thương mại
cho vay giảm hạn tăng trường tăng
giảm

Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở


đến lãi suất thị trường

21
Khi Ngân hàng trung ương bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ
thống ngân hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất
ngắn hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi
suất thị trường. Bên cạnh đó khi Ngân hàng trung ương thực hiện bán tín phiếu kho
bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm
giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín
phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu
kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường
sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với
nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường
giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, Ngân hàng trung ương đã xây
dựng và thực thi các công cụ chính sách tiền tệ nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu
thông theo tín hiệu thị trường. Trong đó, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính
sách tiền tệ gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ
dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán giấy tờ có giá
tại thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền
dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng
tiền cung ứng. Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở đã tạo điều kiện cho Ngân hàng
trung ương hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp trong điều hành chính
sách tiền tệ.
Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông qua
mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở, Ngân hàng trung ương còn cấp tín hiệu cho
thị trường về định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai là nới lỏng hay
thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thường xuyên và hiệu quả,
lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất
thị trường và qua đó Ngân hàng trung ương có thể hạn chế những biến động của lãi
suất thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ chính sách tiền tệ có tính chủ động
cao. Nghiệp vụ thị trường mở do Ngân hàng trung ương chủ động khởi xướng, khác
với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của Ngân hàng trung ương thường do các
ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, Ngân hàng trung ương
có thể chủ động thực hiện nghiệp vụ thị trường mở theo định kỳ hoặc vào các thời
điểm cần thiết. Nghiệp vụ thị trường mở có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc
độ về khối lượng cũng như thời gian giao dịch. Ngân hàng trung ương có thể thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán giấy tờ có giá
lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định mua/bán giấy tờ có giá. Nghiệp vụ
22
thị trường mở có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ
trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở có tính
hai chiều, qua đó Ngân hàng trung ương có thể bơm thêm tiền vào lưu thông hoặc rút
tiền từ lưu thông, trong khi công cụ tái cấp vốn chỉ có thể bơm thêm tiền vào lưu
thông. Mặt khác, với công cụ nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể
chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ
quan của ngân hàng thương mại như trong công cụ tái cấp vốn. Qua việc tính toán và
dự báo vốn khả dụng cũng như lượng tiền cung ứng, Ngân hàng trung ương có thể biết
chính xác được khối lượng tiền cần bơm thêm hoặc rút về từ lưu thông.
* Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ
Ngân hàng trung ương cung ứng tiền thông qua hành vi mua vàng hoặc ngoại tệ
cho dự trữ quốc gia (National reserves). Lượng tiền cung ứng vào lưu thông cũng sẽ
tăng lên trực tiếp hoặc gián tiếp qua các ngân hàng trung gian như trường hợp phát
hành qua thị trường mở.
Khi Ngân hàng trung ương tham gia mua ngoại hối trên thị trường cũng là một
nghiệp vụ phát hành tiền. Trường hợp Ngân hàng trung ương mua ngoại tệ, dự trữ
ngoại tệ tại Ngân hàng trung ương tăng, đồng thời một lượng tiền cơ sở cũng được đưa
vào lưu thông. Phát hành tiền thông qua kênh thị trường ngoại hối không chỉ có nghĩa
tăng lượng tiền cơ sở mà còn giúp cho Ngân hàng trung ương thực hiện được chính
sách tỷ giá và sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối có hiệu quả hơn.
Khi Ngân hàng trung ương mua 100 triệu đồng tài sản dự trữ ngoại hối trên thị
trường làm cho dự trữ ngoại hối của Ngân hàng trung ương tăng lên, đồng thời khi
Ngân hàng trung ương thanh toán tiền mua vàng và ngoại tệ bằng tiền mặt đã làm tăng
lượng tiền mặt trong lưu thông một lượng tương ứng. Điều này thể hiện rõ trong bảng
tổng kết tài sản của Ngân hàng trung ương như sau:
Tại Ngân hàng trung ương
Tài sản có Tài sản nợ
Dự trữ quốc tế + 100 Tiền trong lưu thông + 100
Khi Ngân hàng trung ương bán tài sản dự trữ ra thị trường sẽ có tác dụng ngược
lại, nghĩa là Ngân hàng trung ương đã rút bớt tiền từ lưu thông về.
* Phát hành qua các ngân hàng trung gian
Ngân hàng trung ương cung ứng tiền thông qua hành vi cấp tín dụng cho các
ngân hàng trung gian, làm tăng dự trữ của các ngân hàng này, qua đó tạo điều kiện cho
các ngân hàng tăng quy mô cho vay khiến lượng tiền đưa vào lưu thông tăng thêm.
Như vậy Ngân hàng trung ương đã cung ứng tiền ra lưu thông gián tiếp qua các ngân
hàng trung gian. Lượng tiền này có thể dưới dạng tiền mặt hoặc tiền tín dụng tuỳ theo
các ngân hàng trung gian cho vay dưới dạng tiền mặt hay chuyển khoản. Ngân hàng
23
trung ương cho các ngân hàng trung gian vay chủ yếu dưới hai hình thức: chiết khấu
hay tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn và thế chấp hay ứng trước.
* Phát hành qua Chính phủ
Ngân hàng trung ương cũng sẽ làm cho lượng tiền tăng lên qua hành vi cho
ngân sách nhà nước vay. Ngân hàng trung ương có thể cho vay trực tiếp hoặc thông
qua việc mua lại các chứng khoán chính phủ do kho bạc phát hành.
Thu chi của Chính phủ thể hiện qua thu chi của Ngân sách Nhà nước, thông
thường các khoản thu có tính thời vụ, trong khi đó khoản chi lại diễn ra thường xuyên.
Do đó, tại một thời điểm của năm Ngân sách có thể tạm thời thiếu vốn ngắn hạn. Để
đáp ứng nhu cầu chi, được sự đồng ý của Chính phủ, Quốc hội, ngân hàng trung ương
có thể tạm ứng cho Ngân sách vay ngắn hạn để kịp thời thực hiện các khoản chi. Như
vậy, ngân hàng trung ương đã cung ứng một khối lượng tiền chi Chính phủ vay. Để
đảm bảo cho đồng tiền ổn định, về nguyên tắc, ngân hàng trung ương không được phát
hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, mà chỉ tạm ứng cho ngân sách có bảo đảm
bằng Tín phiếu kho bạc và phải được hoàn trả trong năm ngân sách.
Khi ngân hàng trung ương cho Chính phủ vay tiền sẽ ghi có vào tài khoản tiền
gửi của kho bạc tại ngân hàng trung ương. Khi kho bạc sử dụng số tiền này để chi tiêu
bằng cách thanh toán cho công chúng, nếu công chúng gửi số tiền này vào hệ thống
ngân hàng sẽ làm tăng dự trữ của các ngân hàng, nếu công chúng rút tiền mặt ra để chi
tiêu sẽ làm tăng lượng tiền mặt trong lưu thông. Bởi vì, tiền dự trữ và tiền mặt lưu
hành là một bộ phận của cơ sở tiền, khi tiền mặt trong lưu thông, hoặc tiền dự trữ của
hệ thống ngân hàng tăng sẽ làm tăng cơ sở tiền.
Qua các kênh trên, ngân hàng trung ương sẽ trực tiếp cung cấp một lượng tiền
giấy và tiền kim khí vào lưu thông. Trong quá trình lưu thông, một phần lượng tiền
này được giữ trong tay các chủ thể kinh tế (phi ngân hàng) - gọi là tiền mặt lưu hành
(ký hiệu C - cash), một phần nằm tại các ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ - gọi là tiền
dự trữ trong các ngân hàng (ký hiệu R - Reserves). Như vậy, lượng tiền cơ sở (hay cơ
số tiền) được biểu thị thông qua công thức:
MB = C + R.
Bộ phận tiền dự trữ của các ngân hàng chia làm hai bộ phận nhỏ hơn là dự trữ
bắt buộc (ký hiệu RR - Required reserves) - là bộ phận tiền giấy mà các ngân hàng
phải giữ lại theo yêu cầu của ngân hàng trung ương và dự trữ vượt mức (ký hiệu ER -
Excess reserves) - là bộ phận tiền giấy do các ngân hàng tự ý giữ lại ngoài mức dự trữ
theo yêu cầu, được xem như là thành phần nhàn rỗi của tiền dự trữ. Qua hệ thống ngân
hàng, bộ phận tiền dự trữ R có thể được nhân lên thành lượng tiền tín dụng hay tiền
gửi (ký hiệu D - Deposit) lớn hơn nhiều lần thông qua cơ chế tạo tiền của hệ thống các
ngân hàng trung gian.
24
b. Tạo tiền gửi từ hệ thống ngân hàng
Khi hệ thống ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các ngân hàng không còn
hoạt động riêng lẻ mà theo hệ thống. Trong đó, ngân hàng trung ương giữ độc quyền
phát hành giấy bạc ngân hàng và với vai trò ngân hàng của các ngân hàng. Còn các
ngân hàng thương mại chuyên kinh doanh tiền tệ trong mối quan hệ giao dịch với các
doanh nghiệp và cá nhân. Với các chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền gửi thanh toán. Ngân hàng sử dụng
số tiền vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để
thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở ngân hàng khác và chỉ khi thực hiện
nghiệp vụ cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Mức độ mở rộng tiền gửi phụ
thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (m). Hệ số này được quyết định bởi các yếu tố: tỷ lệ
dự trữ bắt buộc (r), tỷ lệ sử dụng tiền mặt của khách hàng/tiền gửi thanh toán (c), tỷ lệ
dự trữ dư thừa/tiền gửi thanh toán (e.). Để hiểu về nguyên lý, ví dụ sau đây nghiên cứu
quá trình tạo tiền với giả thiết c = 0 và e = 0
Một khách hàng A đem tiền mặt gửi vào tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng X,
số tiền là 10 triệu đồng. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại X sau khi nhận tiền gửi như sau:
Ngân hàng thương mại X
Tài sản Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Dự trữ: 10 triệu - Tiền gửi của khách hàng: 10 triệu
(Dưới hình thức tồn quỹ tiền mặt) (Khách hàng A)
Giả sử tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 1%, ngân hàng thương mại X có thể cho vay tối
đa là 9,9 triệu đồng. Nếu khách hàng B vay hết số tiền này và được ngân hàng thương
mại X cho phép sử dụng để chi trả cho C bằng séc thì báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng X như sau:
Ngân hàng thương mại X
Tài sản Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Dự trữ bắt buộc: 0,1 triệu - Tiền gửi của khách hàng: 10 triệu
- Cho vay: 9,9 triệu (Khách hàng B) (Khách hàng A)
Và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Y phục vụ
khách hàng C sẽ như sau:
Ngân hàng thương mại Y
Tài sản Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Dự trữ: 9,9 triệu - Tiền gửi của khách hàng: 9,9 triệu
(Dưới hình thức tồn quỹ tiền mặt) (Khách hàng C)
Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 1%, mức dự trữ bắt buộc là 0,099 triệu đồng và số
tiền cho vay tối đa là 9,801 triệu đồng. Ví dụ khách hàng D vay số tiền này và sử dụng
25
nó để trả cho khách hàng E (mà ngân hàng Z phục vụ) bằng séc, tình hình bảng báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Y và Ngân hàng Z sẽ như sau:
Ngân hàng thương mại Y
Tài sản Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Dự trữ bắt buộc: 0,099 triệu - Tiền gửi của khách hàng: 9,9 triệu
- Cho vay: 9,801 triệu
- Cộng: 9,9 triệu
Ngân hàng thương mại Z
Tài sản Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Dự trữ: 9,801 triệu - Tiền gửi của khách hàng: 9,801 triệu
(Khách hàng E)
Quá trình lại diễn ra tương tự với tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1%, số gia tăng tiền gửi
và cho vay giảm dần cho đến 0. Số tiền gửi ban đầu sẽ trở thành dự trữ bắt buộc cho số
tiền gửi được tạo ra theo bảng sau:
Ngân hàng Số gia tăng tiền gửi Số gia tăng tín dụng Dự trữ bắt buộc
X 10 9,9 0,1
Y 9,9 9,801 0,099
Z 9,801 … …

Tổng số gia tăng tiền gửi là: Sn = 10 + 9,9 + 9,801 +…
Cho đến nay, các nghiên cứu đã đi đến kết luận, lượng tiền gửi thanh toán tăng
lên (do cách tạo tiền bút tệ) trong toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian từ một khoản
tiền ban đầu được gửi vào ngân hàng đầu tiên qua chu trình cho vay, gửi tiền ở các
ngân hàng kế tiếp sẽ tỷ lệ thuận với bản thân số lượng tiền gửi đó và tỷ lệ nghịch với
tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà ngân hàng trung ương quy định theo công thức:
∆D = 1/r x ∆R
Trong đó:
- ∆D: Tổng lượng tiền gửi thanh toán (Tổng số dư có các tài khoản tiền gửi
thanh toán) tăng thêm trong toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian.
- ∆R: số tiền thay đổi trong hệ thống ngân hàng
- r: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định.
Tỷ lệ m = 1/r (vì 0 < r < 1 nên m > 1)
Tỷ lệ m được gọi là số nhân tiền giản đơn với ý nghĩa là từ một khoản tiền mặt
pháp định của tiền cơ sở, hệ thống ngân hàng trung gian sẽ tạo nên một số tiền gửi
thanh toán gấp m lần.
Ví dụ: nếu r = 10% thì m =1/0,1 = 10 và ∆D = 10. ∆R
1.2.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến cung tiền tệ
26
Lượng tiền cơ sở (MB)
Việc tăng (giảm) lượng tiền cơ sở làm tăng (giảm) cung tiền tệ. Sự thay đổi
cung tiền tệ dẫn đến sự thay đổi tương quan cung cầu trên thị trường tiền; làm tác động
đến giá cả của nó là lãi suất. Khi lượng tiền cơ sở tăng thì khối cung tiền tệ sẽ tăng
theo cấp số nhân tiền. Ngược lại, khi lượng tiền cơ sở giảm giảm thì khối cung tiền
cũng giảm theo cấp số nhân tiền.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi Ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi) sẽ làm tỷ lệ vốn khả dụng có thể cho vay của các tổ chức tín dụng
tăng lên, khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng tăng lên. Khả năng tạo bút tệ của
các ngân hàng thương mại tăng lên, do đó cung tiền tệ tăng. Ngược lại, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tăng thì tỷ lệ vốn khả dụng có thể cho vay giảm. Hệ số nhân tiền giảm, cung tiền
tệ giảm theo. Như vậy, khối cung tiền có quan hệ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ sử dụng tiền mặt của công chúng
Việc sử dụng tiền mặt nhiều trong nền kinh tế sẽ làm cho tỷ lệ tiền mặt trên tiền
gửi thanh toán tăng lên. Khi tỷ lệ này tăng có nghĩa là người gửi tiền có nhu cầu rút
tiền mặt trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn nhiều hơn. Điều này làm giảm khả năng
tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Ngược lại khi tỷ lệ sử dụng tiền mặt giảm xuống, hệ
số mở rộng tiền sẽ tăng lên. Với một lượng tiền cơ sở tăng lên như cũ thì khối lượng
tiền cung ứng tăng lên. Mối quan hệ này luôn đúng trong điều kiện tổng của tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ dư thừa nhỏ hơn 1 ((r +e) < 1).
Tỷ lệ dự trữ dư thừa của hệ thống ngân hàng thương mại
Dự trữ dư thừa hay dự trữ vượt mức là số tiền dự trữ vượt quá mức dự trữ bắt
buộc do ngân hàng trung ương quy định và các ngân hàng thương mại phải chấp hành.
Thông thường, các ngân hàng thương mại giữ lại một phần dự trữ này để đáp ứng nhu
cầu rút tiền mặt hàng ngày của khách hàng và tìm cách cho vay hết số còn lại. Nếu các
ngân hàng không cho vay hết vì không tìm được người vay, họ có dự trữ dư thừa. Tác
động của dự trữ dư thừa đối với khối cung tiền cũng tương tự như tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Hay nói cách khác là khối cung tiền tỷ lệ nghịch với tỷ lệ dự trữ dư thừa.
Khi một ngân hàng có dự trữ dư thừa cao họ sẽ bị thiệt hại do phải trả lãi cho khoản dư
thừa này, mà khoản dự trữ dư thừa này không mang lại lợi tức cho ngân hàng, vì vậy
các ngân hàng thương mại cố gắng hạn chế tối đa các khoản dự trữ dư thừa. Tuy nhiên,
ngân hàng không hoàn toàn có thể quyết định được mức dự trữ dư thừa như mong
muốn, mà nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: rủi ro tín dụng, khả năng hấp thụ vốn
của nền kinh tế…
Tỷ lệ tiền gửi có kỳ hạn

27
Nếu đo lường cung tiền tệ theo phép đo M2 thì nhân tố này có tác động đến mức
cung tiền M2 theo tỷ lệ thuận, do khả năng tạo bút tệ của tiền gửi này cao hơn so với
khả năng tạo bút tệ của loại tiền gửi không kỳ hạn. Tỷ lệ tiền gửi có kỳ hạn trên tiền
gửi không kỳ hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lãi suất, lạm phát, thu nhập…
1.2.2. Cầu tiền tệ
1.2.2.1. Cầu tiền tệ và các học thuyết về cầu tiền
Mức cầu tiền (MD) là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa – dịch vụ
trong nền kinh tế trong một thời kỳ. Nhìn chung, người ta muốn có tiền không phải vì
bản thân nó mà vì nó có thể sử dụng để mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các tài sản khác.
Vì vậy, các nhà kinh tế coi nhu cầu về tiền là nhu cầu phái sinh, tức là nhu cầu sinh ra
từ nhu cầu khác.
Trong những năm gần đây, bản chất của nhu cầu về tiền đã trở thành vấn đề
trung tâm trong kinh tế vĩ mô. Keynes lập luận rằng mọi người có 3 động cơ để giữ
tiền: để thanh toán các khoản mua hàng hóa và dịch vụ hàng ngày, gọi là động cơ giao
dịch; để đáp ứng các khoản chi tiêu bất thường không dự báo trước, gọi là động cơ dự
phòng; giữ tiền để mua các tài sản khác khi giá của chúng giảm, gọi là động cơ đầu cơ.
a. Học thuyết số lượng tiền tệ của Fisher
Học thuyết này được đề xướng ra trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nó được
trình bày rõ nhất bởi nhà kinh tế Mỹ Irving Fisher (1867 - 1947) trong cuốn sách nổi
tiếng của ông – “Sức mua tiền tệ” xuất bản năm 1911. Học thuyết này đã chỉ ra mối
liên hệ giữa tổng lượng tiền lưu hành (M) với tổng số chi tiêu để mua hàng hoá thành
phẩm và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế bằng phương trình:
M.V = P.Y
Trong đó:
M: Lượng tiền lưu hành
V: là tốc độ chu chuyển của tiền tệ (tức là số lần trung bình một năm mà một
đơn vị tiền tệ được chi dùng để mua tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra
trong nền kinh tế vào năm đó).
P: Giá cả
Y: Tổng sản phầm
Theo Irving Fisher, tốc độ V phụ thuộc vào phương thức thanh toán (dùng tiền
mặt, hay dùng tiền tín dụng, hay ghi sổ nợ,...) sử dụng trong các giao dịch. Thói quen
thanh toán này thay đổi một cách chậm chạp qua thời gian cho nên tốc độ V thông
thường sẽ ổn định trong thời gian ngắn. Mặt khác, các nhà kinh tế cổ điển (bao gồm cả
Irving Fisher) cho rằng tiền lương và giá cả là hoàn toàn linh hoạt nên mức tổng sản
phẩm được sản xuất ra (Y) thường ở mức công ăn việc làm đầy đủ (mức sản lượng
tiềm năng) cho nên có thể coi Y là không thay đổi trong thời gian ngắn.
28
Kết quả là khi khối lượng tiền lưu hành (M) tăng lên, vì Y và V không thay đổi,
nên mức giá (P) cũng tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Như vậy, theo học thuyết số lượng
tiền tệ cổ điển thì những sự vận động trong mức giá cả chỉ là kết quả của những thay
đổi trong số lượng tiền tệ. Vì học thuyết số lượng tiền tệ cho chúng ta biết bao nhiêu
tiền được nắm giữ đối với một mức tổng thu nhập đã cho, cho nên thực ra nó là một
học thuyết về cầu tiền tệ. Ta có thể viết lại phương trình trao đổi như sau:
M = 1/V × P
Khi thị trường tiền tệ cân bằng, số lượng tiền tệ mà các chủ thể kinh tế nắm giữ
(M) bằng mức cầu tiền tệ (Md). Ta có:
Md = k × PY
Với k = 1/V là một hằng số vì V là hằng số.
Phương trình này cho thấy mức các giao dịch tạo ra bởi một mức cố định của
thu nhập danh nghĩa (P.Y) xác định mức cầu tiền tệ (Md). Như vậy, học thuyết số
lượng tiền tệ của Fisher nêu lên rằng mức cầu tiền tệ thuần tuý là một hàm số của thu
nhập và do vậy lãi suất không có ảnh hưởng đến cầu về tiền tệ. Fisher đi đến kết luận
đó vì ông tin rằng các chủ thể kinh tế giữ tiền chỉ để tiến hành các giao dịch và không
tự do quyết định số lượng tiền tệ muốn nắm giữ.
b. Học thuyết ưu tiên thanh khoản
Thuyết ưa chuộng tính thanh khoản là một trong những lý luận liên quan
đến nhu cầu tiền tệ mà John Maynard Keynes đã giới thiệu trong tác phẩm nổi tiếng
"Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ" và trở thành một trong những lý
luận quan trọng của kinh tế học Keynes. Nội dung của lý luận này là nhu cầu về tiền
mặt của người ta gồm hai bộ phận. Một bộ phận là nhu cầu tiền mặt cho giao dịch. Sở
dĩ người ta nắm giữ một lượng tiền nào đó là để thỏa mãn nhu cầu giao dịch hàng
ngày, phục vụ cho cuộc sống. Số lượng tiền cần cho giao dịch tỷ lệ với thu nhập. Bộ
phận còn lại là nhu cầu tiền mặt cho mục đích đầu cơ. Lượng cầu tiền mặt thứ hai này
ngoài việc lệ thuộc vào thu nhập, nó còn chịu ảnh hưởng của lãi suất. Lãi suất càng
hấp dẫn thì người ta càng ít giữ tiền mặt. Lãi suất kém hấp dẫn thì có xu hướng giữ
tiền mặt nhiều hơn. Nói cách khác, lãi suất chính là cái giá để người ta hy sinh sự ưa
chuộng tính thanh khoản của tiền mặt.
Phần thu nhập kiếm được nếu không đem tiêu dùng mà để đấy dưới dạng tiền
mặt thì không sinh lời. Muốn nó sinh lời thì phải đem đầu tư vào đâu đó, chẳng hạn
mua chứng khoán. Giữ tiền mặt thì có cái lợi là tính tính thanh khoản cao. Còn nếu
mua chứng khoán thì lại được cái lợi là sinh lãi. Những người lạc quan thì dự tính giá
chứng khoán lên sẽ từ bỏ tiền mặt và mua chứng khoán. Những người bi quan thì dự
tính giá chứng khoán giảm sẽ bán chứng khoán đang giữ đi và nhận tiền mặt về.
Chứng khoán sẽ di chuyển từ tay người bi quan sang tay người lạc quan. Giá chứng
29
khoán rốt cục bị quy định bởi cả những người lạc quan mua vào và những người bi
quan bán ra. Và lãi suất cũng bị quy định cùng bởi mức độ thích tiền mặt của hai loại
người này.
Là một người thuộc trường phái Cambridge nên Keynes đương nhiên cũng đi theo
quan điểm do các nhà kinh tế học trường phái Cambridge đi trước đã phát triển. Lý thuyết
về cầu tiền của Keynes, được ông gọi là lý thuyết về sự ưa thích tiền mặt cũng đặt câu hỏi:
tại sao các cá nhân lại giữ tiền? Nhưng Keynes đã chính xác hơn nhiều so với những người
đi trước khi ông đi sâu tìm hiểu về những gì ảnh hưởng đến những quyết định nắm giữ tiền
của các cá nhân. Theo ông, có 3 động cơ nằm sau cầu về tiền tệ:
Động cơ giao dịch: Vì tiền là phương tiện trao đổi nên người ta cần có tiền để
tiến hành các giao dịch hàng ngày. Đi theo truyền thống cổ điển, Keynes nhấn mạnh
rằng bộ phận cấu thành đó của cầu tiền trước tiên là do mức giao dịch của dân chúng
quyết định và tỷ lệ thuận với thu nhập.
Động cơ dự phòng: Keynes đã đi xa hơn sự phân tích cổ điển bằng cách thừa
nhận rằng, ngoài việc giữ tiền để tiến hành các giao dịch hàng ngày, người ta còn có
nhu cầu dự trữ tiền cho các nhu cầu chi tiêu bất ngờ trong tương lai. Số tiền dự phòng
mà người ta muốn nắm giữ được xác định trước tiên bởi mức độ các giao dịch mà
người ta dự tính sẽ thực hiện trong tương lai, đến lượt số lượng những giao dịch này
lại tỷ lệ với thu nhập. Chính vì vậy cầu về tiền do động cơ dự phòng tỷ lệ với thu nhập.
Động cơ đầu cơ: Nếu như Keynes kết thúc học thuyết của mình với các động
cơ giao dịch và động cơ dự phòng thì thu nhập sẽ vẫn là yếu tố quyết định quan trọng
duy nhất của cầu tiền tệ, và như vậy có nghĩa là ông không thêm gì hơn vào cách tiếp
cận của trường phái Cambridge. Tuy nhiên, Keynes đồng ý với các nhà kinh tế cổ điển
Cambridge rằng tiền tệ là phương tiện cất giữ của cải và gọi động cơ giữ tiền đó là
động cơ đầu cơ. Vì ông cũng đồng ý với các nhà kinh tế Cambridge cổ điển rằng của
cải tỷ lệ với thu nhập nên bộ phận cầu tiền do động cơ đầu cơ cũng sẽ tỷ lệ với thu
nhập. Tuy nhiên, Keynes lưu tâm cẩn thận hơn đến những nhân tố ảnh hưởng đến các
quyết định về việc bao nhiêu tiền được nắm giữ cho mục đích cất giữ của cải và ông
cho rằng ngoài thu nhập, lãi suất cũng đóng một vai trò quan trọng trong các quyết
định này. Khi lãi suất tăng cao, người ta sẽ muốn nắm giữ của cải hơn là tiền mặt và
ngược lại, khi lãi suất giảm người ta sẽ nắm giữ tiền nhiều hơn các loại của cải khác.
c. Thuyết lượng tiền hiện đại của Friedman
Năm 1956, Milton Friedman đã phát triển một học thuyết mới về cầu tiền tệ
trong bài báo nổi tiếng của mình "Học thuyết số lượng tiền tệ: Một sự xác nhận lại".
Cũng giống như Keynes, ông tìm hiểu cầu tiền tệ bắt đầu từ câu hỏi tại sao người ta
chọn việc giữ tiền. Nhưng thay vì phân tích những động cơ đặc biệt thúc đẩy việc giữ
tiền như Keynes đã làm, Friedman đơn giản nêu lên rằng cầu tiền tệ phải chịu ảnh
30
hưởng bởi cùng những nhân tố ảnh hưởng tới cầu của bất kỳ tài sản nào. Động lực cho
việc giữ các tài sản ngoài tiền thể hiện bằng lợi tức dự tính về mỗi một tài sản đó so
với lợi tức dự tính về tiền. Lợi tức dự tính về tiền bị ảnh hưởng bởi lãi trả cho các
khoản tiền gửi nằm trong cung tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng đi kèm khoản tiền gửi.
Từ sự phân tích đó, Friedman đã đưa ra hàm số cầu tiền tệ như sau:
Md
= f (Yp, rb – rm, re – rm,  e – rm )
P
Trong đó:
Md/P là cầu về số dư tiền thực tế
Yp = phép đo của cải của Friedman được gọi là thu nhập thường xuyên (về mặt
kỹ thuật, nó bằng giá trị được chiết khấu về hiện tại của các thu nhập tương lai dự tính)
và có thể mô tả một cách dễ hiểu hơn như là thu nhập dài hạn bình quân dự tính.
rm là lợi tức dự tính về tiền
rb là lợi tức dự tính về trái phiếu
re là lợi tức dự tính về vốn cổ phần (cổ phiếu thường)
 e là tỷ lệ lạm phát dự tính
Các dấu ở dưới phương trình chỉ ra rằng cầu tiền tệ liên hệ dương (+) hay âm (-)
với các số hạng ngay trên dấu đó.
Trong hàm cầu tiền của Friedman, các số hạng (rb – rm) và (re – rm) biểu thị cho lợi
tức dự tính về trái phiếu và cổ phiếu so với lợi tức dự tính về tiền. Khi chúng tăng lên cầu
tiền tệ sẽ giảm xuống. Số hạng sau cùng (  e – rm) biểu thị cho lợi tức dự tính về hàng hoá
so với tiền. Lợi tức dự tính về giữ hàng hoá là tỷ lệ dự tính của khoản lợi về vốn phát sinh
khi giá cả hàng hoá tăng lên (tăng bằng tỷ lệ lạm phát dự tính pe). Khi (  e – rm) tăng lên, lợi
tức dự tính về hàng hoá so với tiền tăng lên và cầu tiền tệ giảm xuống.
Friedman không coi lợi tức dự tính về tiền là một hằng số như Keynes. Khi lãi
suất tăng lên trong nền kinh tế, các ngân hàng thu được nhiều lợi trong việc cho vay
hơn và vì thế họ muốn thu hút nhiều tiền gửi để tăng hơn nữa khối lượng các khoản
cho vay lấy lãi của mình hiện nay. Kết quả là lợi tức về tiền được giữ dưới dạng tiền
gửi ngân hàng tăng lên cùng với lãi suất và (rb – rm) ổn định tương đối khi lãi suất tăng.
Như vậy, khác với học thuyết của Keynes cho rằng lãi suất là một yếu tố quyết định
của cầu tiền tệ thì học thuyết của Friedman chỉ ra rằng những thay đổi của lãi suất sẽ ít
có tác dụng đến cầu tiền tệ. Do vậy, hàm số cầu tiền tệ của Friedman chủ yếu là
một hàm số mà trong đó thu nhập thường xuyên là yếu tố quyết định đầu tiên của cầu
tiền tệ.
Phương trình cầu tiền tệ có thể được tính gần đúng với Md/P = f(Y).p
1.2.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ

31
Tiền có vai quan trọng trong cuộc sống của con người, đáp ứng các mục địch
khác nhau. Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt giúp điều hành cuộc sống, một công cụ
cho phép chúng ta có cuộc sống tốt hơn. Nhưng nắm giữ tiền nhiều cũng có thể bị thiệt
hai, ví dụ như thiệt hại do lạm phát, thiệt hại vì không thể sinh lợi cho khối tài sản của
mình. Vậy những nhân tố nào ảnh hưởng tới tổng cầu tiền và ảnh hưởng như thế nào?
Qua nghiên cứu, các nhà kinh tế học đều nhất trí một số nhân tố sau ảnh hưởng đến
mức cầu tiền tệ:
Thu nhập thực tế: Do nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch phụ thuộc vào tổng giá
trị các giao dịch mà các chủ thể kinh tế dự định tiến hành, mà tổng giá trị các giao dịch
này lại phụ thuộc vào thu nhập thực tế nên có thể nói thu nhập thực tế là nhân tố đầu
tiên tác động đến bộ phận cầu tiền này. Thu nhập thực tế tăng lên sẽ làm cầu tiền cho
giao dịch tăng lên và ngược lại.
Lợi tức dự tính của việc nắm giữ các tài sản khác: Việc quyết định để một bộ
phận thu nhập nhận được dưới dạng tiền cho nhu cầu giao dịch đã khiến cho các chủ
thể không thể sử dụng phần thu nhập đó để đầu tư vào các dạng tài sản sinh lời, như
khoản cho vay, giữ các trái phiếu, cổ phiếu,... Khi lợi tức dự tính của việc nắm giữ các
tài sản sinh lời tăng lên sẽ làm cho nhu cầu tiền cho giao dịch giảm xuống và ngược
lại.
Lãi suất được xem là nhân tố đặc trưng cho lợi tức dự tính của các tài sản khác.
Sự biến động trong mức lãi suất sẽ gây ra những biến động ngược chiều trong cầu tiền
tệ. Cũng cần lưu ý rằng, việc giữ các tài sản sinh lợi dẫn tới chi phí giao dịch, chẳng
hạn phí môi giới khi bán chứng khoán, để chuyển đổi các tài sản sinh lời sang tiền cho
nhu cầu giao dịch khi cần. Hơn nữa, trong một số trường hợp việc đầu tư vào các tài
sản sinh lời làm phát sinh các khoản chi phí đầu tư, chẳng hạn phí môi giới chứng
khoán. Khi các khoản chi phí này tăng lên sẽ làm giảm khoản lợi tức dự tính nhận
được từ việc đầu tư vào các tài sản sinh lợi, kết quả là làm cầu tiền tăng. Tuy nhiên, do
các chi phí này là tương đối ổn định trong ngắn hạn nên những biến động trong lãi suất
vẫn được xem là nguyên nhân dẫn tới những biến động trong cầu tiền.
Tính lỏng của tài sản sinh lời: Sự phát triển của thị trường tài chính đã làm
xuất hiện nhiều dạng tài sản tài chính có tính lỏng rất cao, khiến cho việc chuyển qua
lại giữa chúng và tiền chỉ đòi hỏi một khoản chi phí rất nhỏ. Điều này sẽ tạo điều kiện
cho các chủ thể kinh tế giảm thiểu số tiền nắm giữ cho nhu cầu giao dịch, do đó sẽ làm
giảm nhu cầu nắm giữ tiền cho giao dịch.
Thói quen và tâm lý của công chúng: Tích lũy tài sản dưới dạng tiền mặt là một
vấn đề ở các nước kém phát triển. Người lao động bán được sản phẩm thu hoạch được
một giá trị tiền tệ, họ vội vàng cất vào két cho đến khi nào cần. Cách thức tích lũy như
vậy sẽ làm tổng cầu tiền của nền kinh tế gia tăng.
32
1.2.3. Cân bằng cung cầu tiền tệ
1.2.3.1. Hàm cung tiền tệ
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung tiền tệ, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ
tiền mặt trên tiền gửi chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi của lãi suất tiền gửi và lãi
suất thị trường. Khi lãi suất tăng làm các nhân tố này giảm, số nhân tiền tăng lên, do
đó tổng cung tiền tăng lên. Tuy nhiên, những yếu tố này lại chịu ảnh hưởng trực tiếp
bởi sự điều tiết của ngân hàng trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền
tệ. Chúng ta giả sử rằng, lượng cung tiền được ngân hàng trung ương kiểm soát đầy
đủ. Vì vậy, mức cung tiền được xem như độc lập với những biến động của lãi suất,
biểu hiện trên đồ thị, đường tổng cung tiền là đường thẳng đứng, song song với trục lãi
suất.
Nếu gọi MSN là cung ứng tiền tệ danh nghĩa, P là mức giá, i là lãi suất thì hàm cung
MS N
MS r 
tiền thực tế được xác định như sau: P

i MS2 MS0 MS1

0 M2 M0 M1 M

Hình 1.5. Đường tổng cung tiền tệ


Đường cung tiền sẽ di chuyển khi mức lãi suất thay đổi và dịch chuyển khi
ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ kiểm soát để thay đổi mức cung tiền trên
thị trường tiền tệ. Đường tổng cung tiền sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi trong điều
hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm
gia tăng lượng tiền cung ứng, đường tổng cung tiền dịch chuyển sang phải. Chính sách
tiền tệ thắt chặt sẽ làm giảm lượng tiền cung ứng, đường tổng cung dịch chuyển qua
trái.
1.2.3.2. Hàm cầu tiền tệ
Theo các học thuyết về cầu tiền, tổng cầu tiền tệ thực tế chịu tác động của hai
yếu tố chủ yếu là thu nhập thực tế (Y) và lãi suất (i). Trong đó, tổng cầu tiền tỷ lệ
thuận với thu nhập thực tế và tỷ lệ nghịch với lãi suất. Hàm cầu tiền được mô tả là MD
= kY – hr. Trong đó k, h là hệ số đo độ nhạy cảm của thu nhập và lãi suất đối với cầu
về tiền.

33
Do đó, nếu thể hiện trên đồ thị sự biến đổi của mức cầu tiền theo lãi suất thì đường
tổng cầu tiền có dạng nghiêng xuống phía dưới như hình 2.2.
Đường tổng cầu sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi của thu nhập thực tế và mức
giá cả trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng, thu nhập thực tế của người dân
tăng lên do đó nhu cầu nắm giữ tiền cũng tăng lên. Người dân cần tiền để thỏa mãn
nhu cầu giao dịch gia tăng, khi đó tổng cầu tiền dịch chuyển sang phải. Ngược lại, khi
nền kinh tế suy thoái, thu nhập thực tế của người dân bị giảm xuống, làm cho nhu cầu
nắm giữ tiền giảm, đường tổng cầu tiền dịch chuyển sang trái.

MD

0
M

Hình 1.6. Đường tổng cầu tiền tệ


Ngoài ra, khi mức giá cả trong nền kinh tế tăng lên, nhu cầu tiền danh nghĩa
cũng tăng lên để duy trì sức mua không đổi của lượng tiền đang nắm giữ, đường tổng
cầu tiền dịch chuyển sang phải. Ngược lại, khi mức giá cả giảm, đường tổng cầu tiền
dịch chuyển sang trái.
1.2.3.3. Cân bằng trên thị trường tiền tệ
Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định vị trí cân bằng, xác định lãi
suất cân bằng, hay còn gọi là lãi suất thị trường (có khi hiểu lãi suất cân bằng là giá
vốn trên thị trường vốn). Giao điểm của đường tổng cung tiền và tổng cầu tiền chính là
điểm cân bằng cung cầu tiền tệ. Tại điểm cân bằng này, lãi suất cân bằng trên thị
trường tiền tệ được xác lập (i0).

i MS0
A
i2
io E0 B
r1
MD0(Y0)

0 M2 M0 34 M1 M
Hình 1.7. Điểm cân bằng cung cầu tiền
Nếu lãi suất thực tế trên thị trường lớn hơn lãi suất cân bằng i0 thì nhu cầu nắm
giữ tiền của dân cư sẽ thấp hơn lượng tiền cung ứng vì vậy lãi suất sẽ bị giảm đến gần
mức cân bằng thị trường. Ngược lại, nếu có lãi suất thực tế nhỏ hơn lãi suất cân bằng
thì lượng tiền cung ứng không đáp ứng đủ nhu cầu nắm giữ tiền của dân cư do đó gây
áp lực đẩy lãi suất lên tới mức cân bằng.
Vậy thị trường luôn chuyển động tới một mức lãi suất cân bằng tại đó mức cung
tiền thực tế bằng mức cầu tiền thực tế. Sự cân đối này cho thấy trong ngắn hạn khi
mức giá và sản lượng chưa kịp điều chỉnh; nếu ngân hàng trung ương tăng mức cung
ứng tiền, lãi suất thị trường sẽ được điều chỉnh giảm, ngược lại khi mức cung tiền
giảm xuống sẽ đẩy lãi suất thị trường tăng lên. Chính vì vậy, khi ngân hàng trung ương
tìm cách kiểm soát cả mức cung tiền và mức lãi suất của thị trường đều dẫn tới nguy
cơ mất cân đối thị trường.
1.3. Lãi suất
1.3.1. Khái niệm lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất
định. Một quan điểm khác lại cho rằng lãi suất là tỷ lệ % tính theo một thời hạn xác
định (ngày, tuần, tháng, quý, năm…) dùng làm căn cứ để tính toán lợi tức mà các chủ
thể phải trả (đối với chủ thể đi vay) hoặc nhận được (đối với chủ thể cho vay) để điều
hoà lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng.
Khác với giá cả hàng hóa, lãi suất không biểu diễn dưới dạng số tuyệt đối mà
dưới dạng tỷ lệ phần trăm (%). Do đó lãi suất được xem là tỷ lệ sinh lời mà người chủ
sở hữu thu được từ khoản vốn vay hay khoản đầu tư.
1.3.2. Các loại lãi suất
Lãi suất được chia thành nhiều loại khác nhau tương ứng với mục đích và điều
kiện sử dụng. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, lãi suất cũng được chia thành nhiều
loại khác nhau.
Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất do ngân hàng trung ương công bố làm cơ sở cho
các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Dựa trên mức lãi suất
cơ bản và biên độ dao động do ngân hàng trung ương ấn định, các tổ chức tín dụng xây
dựng mức lãi suất phù hợp.
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng: là lãi suất ngân hàng trả cho khách hàng khi gửi
tiền vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi phụ thuộc vào loại tiền gửi là nội tệ hay ngoại tệ,
loại tài khoản là tiền gửi thanh toán hay tiền gửi tiết kiệm, thời hạn gửi không kỳ hạn
hay ngắn, trung, dài hạn và quy mô tiền gửi.
35
- Lãi suất cho vay: là loại lãi suất mà người đi vay (khách hàng) phải trả cho
ngân hàng khi xác lập quan hệ tín dụng dựa trên những điều kiện nhất định. Có nhiều
mức lãi suất cho vay khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố như: loại tiền, thời hạn
(ngắn, trung và dài hạn), phương thức vay, mục đích của tiền vay và theo mức độ quan
hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
- Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng.
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất được áp dụng khi ngân hàng trung ương cho
các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ
có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu do
ngân hàng trung ương ấn định căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu của chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động của lãi suất liên ngân hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho vay trên
thị trường liên ngân hàng. Lãi suất này hình thành qua quan hệ cung cầu vay trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung
gian vay của ngân hàng trung ương.
Căn cứ vào giá trị của tiền lãi
- Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói
cách khác là lãi suất khi chưa tính giá trị biến động của tiền tệ (lạm phát). Lãi suất
danh nghĩa thường được công bố trên các hợp đồng tín dụng và ghi rõ trên các công cụ
nợ.
- Lãi suất thực: là lãi suất được điều chỉnh lại theo sự biến động của giá trị tiền
tệ, hay nói cách khác là lãi suất sau khi đã tính đến yếu tố lạm phát. Lãi suất thực phản
ánh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được hay chi
phí thực của việc vay tiền từ đó.
Vì tiền tệ có sức mua nên giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực có mối quan
hệ lượng hoá với nhau thông qua nhân tố lạm phát. Nếu mức lãi suất danh nghĩa là r
(tính theo năm), tỷ lệ lạm phát sau 1 năm là  , thì lãi suất thực rr (tính theo 1 năm)
được xác định như sau:

r-
rr =
1+ 
Ví dụ mức lãi suất của VND là 8,00%/năm, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam là
4%/năm, thì mức lãi suất thực là:
8% - 4%
rr = = 3,85 %
1 + 4%

36
Khi lạm phát thấp (gần bằng 0) thì 1 +  ~ 1 nên mối quan hệ giữa lãi suất
thực và lãi suất danh nghĩa có thể được xác định qua phương trình:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát (  )
Như vậy có thể thấy:
+ Đối với người đi vay: Lãi suất thực là chi phí thực tế cho quyền sử dụng vốn vay.
+ Đối với người cho vay: Lãi suất thực phản ánh số tiền lời thực tế nhận được
sau khi loại trừ yếu tố lạm phát.
Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
- Lãi suất cố định: là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn vay. Ưu
điểm của loại lãi suất này là được cố định và biết trước, nhờ vậy cả người cho vay và
đi vay đều xác định được phần lãi mình nhận được hay chi phí phải trả. Tuy nhiên
nhược điểm của nó là bị ràng buộc với một mức lãi suất cố định ngay cả khi lãi suất thị
trường có chiều hướng biến động.
- Lãi suất thả nổi: là lãi suất có thể thay đổi theo lãi suất thị trường trong thời
hạn tín dụng (có thể báo trước hoặc không báo trước). Lãi suất thả nổi vừa chứa đựng
rủi ro cũng vừa có thể mang lại lợi nhuận.
Thông thường lãi suất được quy định cố định trong từng thời kỳ, khi chuyển
sang kỳ hạn khác thì lại theo lãi suất thị trường tại thời điểm bắt đầu kỳ hạn mới. Ví dụ
lãi suất tiền gửi tiết kiệm VND kỳ hạn 6 tháng của Viettinbank thời điểm tháng 7/2020
là 4,4% /năm, lãi suất này sẽ không đổi trong suốt 6 tháng đó, nhưng nếu gửi tiếp kỳ
hạn 6 tháng nữa thì sẽ theo lãi suất hiện hành vào thời điểm bắt đầu kỳ hạn mới. Tuy
nhiên với các kỳ hạn dài, ví dụ các khoản vay trung hạn (5 năm) thì lãi suất có thể quy
định cố định trong năm đầu tiên, những năm tiếp theo áp dụng lãi suất hiện hành.
Căn cứ vào loại tiền cho vay
- Lãi suất nội tệ: là lãi suất đi vay và cho vay bằng đồng nội tệ.
- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất đi vay và cho vay bằng đồng ngoại tệ.
Mối liên hệ giữa hai loại lãi suất này được biểu diễn qua phương trình:
iD = iF + ∆Ee
Trong đó: - iD: là lãi suất nội tệ (Interest domestic)
- iF: là lãi suất ngoại tệ (Interest foreign)
- ∆Ee: là mức tăng tỷ giá dự tính của đồng ngoại tệ
Phương trình này được xây dựng dựa trên lập luận: lợi tức của việc nắm giữ các
khoản tiền gửi bằng nội tệ phải bằng lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền
gửi bằng ngoại tệ. Nếu tồn tại sự chênh lệch về mức lợi suất dự tính, sẽ xuất hiện sự di
chuyển vốn từ loại tiền gửi này sang tiền gửi kia để hưởng mức lợi nhuận cao hơn.
Tuy nhiên phương trình này chỉ tồn tại trong điều kiện chế độ tự do ngoại hối, tức là
được tự do chuyển nhượng từ đồng nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại.
37
1.3.3. Phương pháp tính lãi
1.3.3.1. Phương pháp tính lãi
a. Lãi đơn
Lãi đơn là số tiền lãi chỉ được tính trên số tiền gốc mà không tính trên số tiền lãi
do chính số tiền gốc đó sinh ra. Lãi đơn được áp dụng chủ yếu đối với các hợp đồng có
thời hạn dưới 1 năm và chỉ có 1 kỳ thanh toán.
Pt = P0 + P0.i.t
Hay Pt = P0 (1 + i.t)
Trong đó: - Pt: Số tiền gốc và lãi thu được
- P0: Số tiền gốc
- i: lãi suất được yết (%/năm)
- t: thời hạn của hợp đồng tính theo năm
Ví dụ 1: Một người gửi 10 triệu đồng vào tài khoản định kỳ tính lãi đơn với lãi
suất 8%/năm. Sau 10 năm số tiền gốc và lãi người đó thu được là:
P10 = 10 x (1 + 8% x 10) = 18 (triệu đồng)
Ví dụ 2: Một hợp đồng tín dụng có trị giá 100 triệu đồng, áp dụng lãi suất đơn
10%/năm. Tính gốc và lãi đến hạn trong các trường hợp kỳ hạn tín dụng là: (i) 10 năm;
(ii) 1 năm; (iii) 6 tháng; (iv) 3 tháng.
P10 = 100 x (1 + 10% x 10) = 200 (triệu đồng)
P1 = 100 x (1 + 10% x 1) = 110 (triệu đồng)
P1/2 = 100 x (1 + 10% x 1/2) = 105 (triệu đồng)
P1/4 = 100 x (1 + 10% x 1/2) = 102,5 (triệu đồng)
b. Lãi kép
Lãi kép (lãi nhập gốc) là số tiền lãi không chỉ tính trên số tiền gốc mà còn tính
trên số tiền lãi do số tiền gốc sinh ra. Lãi kép được áp dụng cho những hợp đồng tài
chính dài hạn, thường là trên 1 năm, được quy định rõ trong hợp đồng.
Ví dụ 3: Ngày 15/7/N một khách hàng mở một tài khoản tiết kiệm kỳ hạn 5 năm
(lãi nhập gốc theo năm) trị giá 100 triệu đồng với lãi suất niêm yết là 8%/năm. Sau 5
năm tiền lãi thu được của khách hàng là bao nhiêu? Cả gốc và lãi thu được là bao
nhiêu?
Ta có bảng theo dõi quá trình lãi phát sinh như sau:
Thời gian Lãi phát sinh Gốc và lãi
15/7/N 100.000.000
Năm 1 100.000.000x8%=8.000.000 108.000.000
Năm 2 108.000.000x8%=8.640.000 116.640.000
Năm 3 116.640.000x8%=9.331.200 125.971.200

38
Năm 4 125.971.200x8%=10.077.696 136.048.896
Năm 5 136.048.896x8%=10.838.912 146.932.808
Số tiền lãi thu được là: 146.932.808-100.000.000 = 46.932.808 (đồng)
Giả sử vẫn tài khoản tiết kiệm trên nhưng áp dụng cách tính lãi đơn thì tiền lãi
thu được là: 100.000.000 x 8% x 5 = 40.000.000 (đồng)
Như vậy so với tính lãi đơn thì rõ ràng tính lãi kép sẽ mang đến khoản tiền lãi
lớn hơn cho người gửi tiền hay các nhà đầu tư.
Ta có công thức tính lãi kép như sau:
Pt = P0 (1 + i)t
Hay P0 = Pt/(1 + i)t
Trong đó:
- Pt: Số tiền gốc và lãi thu được
- P0: Số tiền gốc
- i: lãi suất được yết (%/năm)
- t: thời hạn của hợp đồng tính theo năm
Ví dụ 4: Một người gửi 10 triệu đồng vào tài khoản định kỳ tính lãi kép với lãi
suất 8%/năm. Sau 10 năm số tiền gốc và lãi người đó thu được là:
P10 = 10 x (1 + 8%)10 = 21.589.250 (đồng)
Ví dụ 5: Một khách hàng mong muốn sau 2 năm tiết kiệm được 2 tỷ đồng để
mua nhà, vậy ngay từ đầu năm nay khách hàng đó phải gửi tiết kiệm với số tiền bằng
bao nhiêu để đạt được mục tiêu của mình? Biết lãi suất tiền gửi tiết kiệm hiện đang là
7%/năm.
Số tiền cần gửi là: P0 = 2.000.000.000/(1 + 7%)2 = 1.746.877.457 (đồng)
c. Lãi tiền gửi thanh toán
Theo thông lệ ở các nước phát triển, ngân hàng không trả lãi cho khách hàng
mở tài khoản tiền gửi thanh toán vì mục đích khách hàng sử dụng tài khoản này là để
thực hiện thanh toán qua ngân hàng chứ không phải để hưởng lãi. Hơn nữa, ngân hàng
còn yêu cầu khách hàng phải duy trì một số dư tối thiếu để được hưởng các dịch vụ
ngân hàng, nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho ngân hàng.
Ở Việt Nam, do dân chúng chưa có thói quen sử dụng tài khoản và gửi tiền vào
ngân hàng nên để thu hút khách hàng, ngân hàng vẫn trả lãi đối với tài khoản tiền gửi
thanh toán. Tuy nhiên, mức lãi suất áp dụng thường rất thấp, khoảng 0,1%-
0,2%/tháng. Lãi tiền gửi thanh toán có thể tính định kỳ hàng tháng hoặc quỹ theo
phương pháp tích số và lãi được nhập vào số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Công thức tính lãi đối với tài khoản tiền gửi thanh toán như sau:
Số dư tài x Số ngày tồn tại x Lãi suất

39
Tiền lãi = khoản số dư (%/tháng)
Số ngày trong tháng
Ví dụ 6: Ông X có tài khoản tiền gửi cá nhân tại ACB. Tình hình số dư tài
khoản tiền gửi tháng 4 năm N của ông X như sau:
Đơn vị tính: Đồng
Ngày Số dư Ngày Số dư Ngày Số dư
1/4 3.000.000 18/4 20.000.000 25/4 18.000.000
9/4 4.800.000 20/4 22.000.000 26/4 28.000.000
15/4 4.000.000 23/4 15.000.000 30/4 8.000.000
Giả sử bạn là nhân viên phụ trách tài khoản của ông X, hãy tính lãi tiền gửi
tháng 4/N cho tài khoản của ông X, biết rằng ACB trả lãi tiền gửi cá nhân là
0,1%/tháng.
Lãi tiền gửi = 1/30 x (Số dư x Số ngày x Lãi suất theo tháng)
Ngày Số dư Số ngày Lãi
A B C D = (B x C x 0,1%)/30
1/4 3.000.000 8 800
9/4 4.800.000 6 960
15/4 4.000.000 3 400
18/4 20.000.000 2 1.333
20/4 22.000.000 3 2.200
23/4 15.000.000 2 1.000
25/4 18.000.000 1 600
26/4 28.000.000 4 3.733
30/4 8.000.000 1 267
Cộng 11.293
d. Xác định lãi suất tiền vay
- Lãi suất của khoản tiền vay có thời hạn 1 năm
FVn
r= -1
PV
Trong đó:
- r: lãi suất của khoản tiền vay (%/năm)
- FVn: Giá trị phải trả của khoản tiền vay trong tương lai
- PV: Số tiền vay ban đầu
- n: thời hạn vay (tính theo năm)
- Lãi suất theo năm của khoản tiền vay > 1 năm

40
FVn
n 1
r= PV
Trong đó:
- r: lãi suất của khoản tiền vay (%/năm)
- FVn: Giá trị phải trả của khoản tiền vay trong tương lai
- PV: Số tiền vay ban đầu
- n: thời hạn vay (tính theo năm)
Ví dụ 7: Một người gửi số tiền là 100 triệu đồng vào tài khoản tiết kiệm trả lãi
10%/năm.
a. Ngân hàng tính lãi đơn, thì sau 3 năm người đó có được bao nhiêu tiền trong tài
khoản?
Sau 3 năm tổng số tiền nhận được của khách hàng là:
100.000.000 x (1+3x10%) = 130.000.000 (đồng)
b. Nếu ngân hàng tính lãi kép hàng năm, thì sau 3 năm người đó có được bao nhiêu
tiền trong tài khoản?
Sau 3 năm tổng số tiền nhận được của khách hàng là:
100.000.000 x (1+10%)3 = 133.100.000 (đồng)
c. Nếu sau 3 năm người đó thu được 144.289.700 đồng, tìm lãi suất của khoản tiền gửi
trên.
Lãi suất của khoản tiền gửi trên là:
FVn 144.289.882
n 1 3 1
PV = 100.000.000 = 13%/năm
- Lãi suất có kỳ hạn < 1 năm
Để thu hút khách hàng và cạnh tranh, các ngân hàng thường đưa ra kỳ hạn lãi
nhập gốc là nửa năm, quý, tháng hay ngày.
rn là lãi suất danh nghĩa (lãi suất ghi trên hợp đồng %/năm)
rt lãi suất thực trả kỳ hạn t (%/năm)
m là số lần nhập lãi vào vốn (tính trong 1 năm)
rn
rt = (1 + )m - 1
m
Ví dụ 8: Một người gửi số tiền là 100 triệu đồng vào tài khoản tiết kiệm trả lãi
10%/năm. Nếu ngân hàng trả lãi kép theo qúy thay vì theo năm, thì sau 3 năm người
đó có được bao nhiêu tiền trong tài khoản?
100.000.000 x (1+10%/4)4x3 = 134.488.882 (đồng)
Từ công thức tính lãi kép:
FVn = PV0 (1 + rt)n

41
rn
FVn = PV0 x (1 + )mn
m
Ví dụ 9: Một người gửi ngân hàng khoản tiền 500 triệu đồng trong 5 năm. Lãi
suất ngân hàng công bố 10%/năm. Xác định số tiền người đó nhận được sau 5 năm với
các kỳ hạn tính lãi khác nhau.
Kỳ tính lãi m rt (%/năm) Số tiền nhận được sau 5 năm (đồng)
Hàng năm 1 10 500 x (1+10%)5 = 805.255.000
Nửa năm 2 10,25 500 x (1+10%/2)2x5 = 814.447.313
Hàng quý 4 10,38 500 x (1+10%/4)4x5 = 819.308.220
Hàng tháng 12 10,47 500 x (1+10%/12)12x5 = 822.654.467
Hàng ngày 365 10,52 500x(1+10%/365)365x5 = 824.304.185
Như vậy nếu kỳ tính lãi càng mau thì lãi suất thực trả càng lớn.
Ví dụ 10: Một ngân hàng phát hành kỳ phiếu kỳ hạn 1 năm. Là người mua kỳ
phiếu thì anh (chị) chọn cách yết lãi suất nào có lợi nhất trong các trường hợp sau đây.
Lãi được yết:
a. 15%/năm, tính lãi hàng năm.
b. 14,5%/năm, tính lãi 6 tháng một lần.
c. 14%/năm, tính lãi 3 tháng một lần.
d. 13,5%/năm, tính lãi tháng một lần.
e. 13%/năm, tính lãi ngày một lần (một năm 365 ngày).
Áp dụng công thức:
rn m
rt = (1 + ) -1
m
Ta có bảng quy đổi lãi suất:
Kỳ yết lãi Lãi suất danh Số lần nhập lãi vào Lãi suất thực
nghĩa (rn) (%) vốn gốc (m) (lần) trả (rt) (%)
Hàng năm 15,00 1 15,00
Nửa năm 14,50 2 15,03
Ba tháng 14,00 4 14,75
Một tháng 13,50 12 14,37
Hàng ngày 13,00 365 13,88
So sánh lãi suất thực trả trong các trường hợp trên, là người đầu tư ta chọn
trường hợp rt cao nhất là trường hợp tính lãi 6 tháng một lần với lãi suất thực trả rt cao
nhất là 15,03%/năm. Tương tự, nếu là người đi vay, ta sẽ chọn trường hợp có rt thấp

42
nhất là trường hợp tính lãi một ngày một lần với lãi suất thực trả rt thấp nhất là
13,88%/năm.
1.3.3.2. Giá trị hiện tại của tiền tệ
Giá trị hiện tại của một khoản tiền là giá trị của khoản tiền phát sinh trong
tương lai được quy về thời điểm hiện tại theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định.
Giá trị hiện tại của một số tiền trong tương lai:
PV = FV_n/〖(1+i)〗^n = FVn x (1+i)-n
Ví dụ 11: Bạn muốn có một số tiền là 380 triệu đồng trong 5 năm tới, biết rằng
ngân hàng trả lãi suất 14%/năm và tính lãi kép hàng năm. Vậy bây giờ bạn phải gửi
ngân hàng bao nhiêu để sau 5 năm nữa bạn thu về số tiền cả gốc và lãi là 380 triệu
đồng?
PV = 380 x ( 1+14%)-5 = 197,3601 (triệu đồng)
Nếu lãi suất tính theo tháng: PV = FVn/ (1+i)n/12
Nếu lãi suất tính theo ngày: PV = FVn/ (1+i)n/365

1.3.3.3. Giá trị tương lai của tiền tệ


Giá trị tương lai của số tiền hiện tại là giá trị của số tiền này ở thời điểm hiện tại
cộng với số tiền lãi mà nó sinh ra trong khoảng thời gian từ hiện tại cho đến một thời
điểm trong tương lai.
FVn = PV x (1+i)n
Trong đó:
FVn: Giá trị kép nhận được ở cuối kỳ thứ n.
PV: Số vốn đầu tư ban đầu.
i: lãi suất trên kỳ.
n: số kỳ tính lãi.
Trong công thức trên (1+i)n được gọi là thừa số lãi, nó biểu thị giá trị tương lai
của 1 đồng sau n kỳ với lãi suất mỗi kỳ là i tính theo phương pháp lãi kép.
Có nghĩa là, nếu tôi gửi tiết kiệm với số tiền ban đầu là PV, lãi suất là i
(%/năm), thì sau n (năm) tôi sẽ có một khoản tiền là FVn.
Ví dụ 12: Gửi tiết kiệm 2 triệu đồng, lãi suất 12%/năm, thì sau 3 năm sẽ thu được:
FV = 2.000.000 x (1+12%)3 = 2.809.856 (đồng)
Tương tự như vậy:
- Tính theo tháng: FVn = PV (1+i)n/12
- Nếu tính theo ngày: FV = PV (1+i)n/365

43
Ví dụ 13: Gửi tiền tiết kiệm 100 triệu đồng trong vòng 18 tháng với lãi suất
9%/năm, hỏi số tiền lãnh cuối kỳ là bao nhiêu?
FV = 100.000.000 (1+9%)18/12 = 113.800.000 (đồng)
Ví dụ 14: Gửi tiền tiết kiệm 100 triệu đồng với lãi suất 9%/năm và sau 600
ngày thì số tiền lãnh cuối kỳ là bao nhiêu?
FV = 100 tr.đ (1+9%)600/365 = 115.218.710 (đồng)
1.4. Tiền tệ quốc tế
1.4.1. Tỷ giá
1.4.1.1. Tỷ giá và phân loại tỷ giá
Hiện nay trên thế giới có một số khái niệm về tỷ giá được sử dụng phổ biến như sau:
Theo Fitch (2012), tỷ giá là giá chuyển đổi từ một đồng tiền này để lấy một
đồng tiền khác.
Theo A & C Black Publishers (2009), tỷ giá là một tỷ lệ mà một đồng tiền này
đổi lấy một đồng tiền khác hay là một con số thể hiện đơn vị tiền tệ của một quốc gia
có giá trị bao nhiêu tính theo đơn vị tiền tệ của một quốc gia khác.
Theo Pilbeam (2006), tỷ giá đơn giản là giá của một đồng tiền được thể hiện
thông qua một đồng tiền khác.
Theo Eiteman và cộng sự (2000), tỷ giá là giá của đồng tiền của quốc gia này
thể hiện bằng số đơn vị của đồng tiền khác hoặc hàng hóa (thường là vàng và bạc)
Theo Mishkin (2016), tỷ giá là giá của một đồng tiền được thể hiện bằng một
đồng tiền khác.
Theo Đinh Trọng Thịnh (2010), tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa các
đồng tiền và là mức giá mà tại đó các đồng tiền có thể chuyển đổi được cho nhau.
Theo Nguyễn Văn Tiến (2018), tỷ giá là giá cả của một đơn vị ngoại tệ được
thể hiện bằng một số đơn vị nội tệ, tức ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá, còn
nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá. Hay nói cách khác, tỷ giá là số đơn vị nội tệ
trên một đơn vị ngoại tệ.
Từ các khái niệm trên cho thấy thuật ngữ tỷ giá được hiểu khá đồng nhất là: Tỷ
giá là giá cả của một đồng tiền được biểu hiện thông qua một đồng tiền khác.
Ví dụ: 1 USD = 23.184 VND
Tỷ giá này ta có thể hiểu là 1 USD có thể đổi ra được 23.184 VND và ngược
lại.
Trong một tỷ giá lúc nào cũng bao gồm 2 đồng tiền: một đồng tiền là đồng tiền
yết giá (ký hiệu là C – Commodity currency) có giá trị cố định là 1, một đồng tiền là
đồng tiền định giá (ký hiệu là T- Term currency) có giá trị thay đổi phụ thuộc vào quan
hệ cung cầu của 2 đồng tiền này trên thị trường ngoại hối.
Trong ví dụ trên: đồng USD là đồng yết giá còn đồng VND là đồng định giá.
44
Trong thực tế: Đồng USD là đồng tiền định giá đối với các đồng EUR, GBP,
AUD, NZD, SDR; là đồng tiền yết giá đối với các đồng tiền còn lại.
Trên thị trường ngoại hối, các ngân hàng thực hiện niêm yết cả tỷ giá mua và tỷ
giá bán đồng tiền yết giá, tỷ giá mua đứng trước, tỷ giá bán đứng sau, tỷ giá bán cao
hơn tỷ giá mua.
Ví dụ: Ngân hàng A thực hiện niêm yết tỷ giá mua bán đồng USD bằng hình
thức thanh toán qua tài khoản ngân hàng như sau:
USD/VND = 23.090 – 23.270
Trong đó: Tỷ giá USD/VND = 23.090 là tỷ giá mua vào đồng USD của ngân
hàng A, tỷ giá USD/VND = 23.270 là tỷ giá bán ra đồng USD của ngân hàng A bằng
hình thức thanh toán qua tài khoản ngân hàng.
Trên thị trường liên ngân hàng:
- Ngân hàng thực hiện niêm yết tỷ giá mua vào và bán ra là ngân hàng yết giá.
Tại tỷ giá được yết, ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào và bán ra đồng tiền yết giá khi
có ngân hàng khác muốn giao dịch.
- Ngân hàng không thực hiện niêm yết tỷ giá mua vào và bán ra mà đi hỏi giá
ngân hàng khác là ngân hàng hỏi giá. Tại tỷ giá được yết, ngân hàng hỏi giá có quyền
chấp nhận hay không chấp nhận thực hiện giao dịch với ngân hàng yết giá.
Lưu ý khi lựa chọn tỷ giá:
Giả sử ngân hàng yết giá niêm yết tỷ giá C/T = x – y (Trong đó: C là đồng yết
giá, T là đồng định giá, x là tỷ giá mua (Bid), y là tỷ giá bán (Ask))
- Khi ngân hàng yết giá muốn bán đồng yết giá (C) sẽ sử dụng tỷ giá x
- Khi ngân hàng yết giá muốn mua đồng yết giá (C) sẽ sử dụng tỷ giá y
- Khi ngân hàng yết giá muốn bán đồng định giá (T) sẽ sử dụng tỷ giá x
- Khi ngân hàng yết giá muốn mua đồng định giá (T) sẽ sử dụng tỷ giá y
- Khi ngân hàng hỏi giá (khách hàng) muốn bán đồng yết giá (C) sẽ sử dụng tỷ
giá x
- Khi ngân hàng hỏi giá (khách hàng) muốn mua đồng yết giá (C) sẽ sử dụng tỷ
giá y
- Khi ngân hàng hỏi giá (khách hàng) muốn bán đồng định giá (T) sẽ sử dụng tỷ
giá y
- Khi ngân hàng hỏi giá (khách hàng) muốn mua đồng định giá (T) sẽ sử dụng
tỷ giá x
Hiện nay có 2 tiêu chí để phân loại tỷ giá là: căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối, căn cứ vào cơ chế điều hành chính sách tỷ giá.
* Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tỷ giá được chia thành:

45
- Tỷ giá mua: Là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng tiền
yết giá.
- Tỷ giá bán: Là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán ra đồng tiền yết giá.
- Tỷ giá giao ngay: Là tỷ giá được áp dụng trong hợp đồng ngoại hối giao ngay,
được hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối.
- Tỷ giá phái sinh: Là tỷ giá được áp dụng trong các hợp đồng ngoại hối phái
sinh như: hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, hợp đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng tiền tệ
tương lai, hợp đồng quyền chọn tiền tệ. Các tỷ giá này không hình thành dựa trên quan
hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, không có sẵn, cần phải được tính toán dựa trên
các thông số có sẵn trên thị trường như: tỷ giá giao ngay, lãi suất 2 đồng tiền, kỳ hạn
của hợp đồng phái sinh.
- Tỷ giá mở cửa (chỉ có trên thị trường ngoại hối tập trung): là tỷ giá áp dụng
cho hợp đồng ngoại hối giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa (chỉ có trên thị trường ngoại hối tập trung): là tỷ giá áp dụng
cho hợp đồng ngoại hối giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá chéo: là tỷ giá của hai đồng tiền được xác định dựa trên một đồng tiền
thứ ba.
- Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá được áp dụng trong các giao dịch ngoại hối
dưới hình thức chuyển khoản.
- Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá được áp dụng trong các giao dịch ngoại hối dưới
hình thức tiền mặt.
* Căn cứ vào cơ chế điều hành chính sách tỷ giá thì tỷ giá được chia thành:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do ngân hàng trung ương công bố, không phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá chính thức thường được
sử dụng để tính thuế xuất nhập khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá
chính thức.
- Tỷ giá trên thị trường tự do: là tỷ giá được hình thành trên cơ các giao dịch
trao đổi ngoại tệ được thực hiện bên ngoài hệ thống ngân hàng. Tỷ giá này biến động
phụ thuộc vào quan hệ cung, cầu trên thị trường tự do.
- Tỷ giá cố định: là tỷ giá được ngân hàng trung ương công bố, cố định trong
một biên độ dao động hẹp, không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại hối.
- Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là tỷ giá phụ thuộc hoàn toàn vào cung cầu trên thị
trường ngoại hối, ngân hàng trung ương không can thiệp.
- Tỷ giá thả nổi có điều tiết: là tỷ giá thả nổi nhưng được ngân hàng trung ương
can thiệp trong một số trường hợp để tỷ giá biến động theo hướng phục vụ chính sách
tiền tệ của chính phủ.
46
1.4.1.2. Phương pháp yết tỷ giá
a. Phương pháp yết tỷ giá trực tiếp và gián tiếp
Hai phương pháp yết tỷ giá này chỉ thực hiện được khi ta xác định được đồng tiền là
ngoại tệ, và đồng tiền là nội tệ trong tỷ giá. Hay nói cách khác để thực hiện được 2 phương
pháp yết tỷ giá này ta phải đứng trên giác độ một quốc gia để thực hiện yết tỷ giá.
Phương pháp yết tỷ giá trực tiếp Phương pháp yết tỷ giá gián tiếp
- Đồng yết giá là đồng ngoại tệ - Đồng yết giá là đồng nội tệ
- Đồng định giá là đồng nội tệ - Đồng định giá là đồng ngoại tệ
Ví dụ: Tại thị trường ngoại hối Việt Ví dụ: Tại thị trường ngoại hối Việt Nam ta
Nam ta có: có:
1 USD = 23.265 VND 1
1 VND = USD = 0,00004298 USD
23265
Trong thực tế:
- Các quốc gia: Anh, New Zealand, Australia, các quốc gia thuộc Liên minh
Châu Âu là sử dụng phương pháp yết tỷ giá gián tiếp.
- Nước Mỹ sử dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp khi yết giá với đồng tiền
của các quốc gia Anh, New Zealand, Australia, các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu
và sử dụng phương pháp yết tỷ giá gián tiếp khi yết giá với các đồng tiền còn lại.
- Các quốc gia còn lại sử dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp.

b. Phương pháp yết tỷ giá kiểu châu Âu và kiểu Mỹ


Hai phương pháp này chỉ thực hiện được khi một trong 2 đồng tiền trong tỷ giá
là đồng USD.
Phương pháp yết tỷ giá kiểu Châu Âu Phương pháp yết tỷ giá kiểu Mỹ
- Đồng USD đóng vai trò đồng yết giá - Đồng USD đóng vai trò đồng định giá
- Đồng tiền còn lại trong tỷ giá đóng vai trò - Đồng tiền còn lại trong tỷ giá đóng vai
đồng định giá trò đồng yết giá
Ví dụ: 1 USD = 23.265 VND Ví dụ: 1 EUR = 1,1294 USD
Trong thực tế:
- Các quốc gia: Anh, New Zealand, Australia, các quốc gia thuộc Liên minh
Châu Âu là sử dụng phương pháp yết tỷ giá kiểu Mỹ.
- Nước Mỹ sử dụng phương pháp yết tỷ giá kiểu Mỹ khi yết giá với đồng tiền
của các quốc gia Anh, New Zealand, Australia, các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu
và sử dụng phương pháp yết tỷ giá kiểu Châu Âu khi yết giá với các đồng tiền còn lại.
- Các quốc gia còn lại sử dụng phương pháp yết tỷ giá kiểu Châu Âu.
c. Phương pháp yết tỷ giá sử dụng quy tắc số 1
47
Khi thực hiện yết tỷ giá mà không xác định được đồng nội tệ và ngoại tệ trong
tỷ giá hoặc không xuất hiện đồng USD trong tỷ giá ta không thể thực hiện được các
phương pháp yết giá trực tiếp và gián tiếp hay yết giá kiểu châu Âu và kiểu Mỹ. Khi
đó ta có thể thực hiện yết giá theo quy tắc số 1
Quy tắc số 1 được phát biểu như sau: Tỷ giá của hai đồng tiền bất kỳ, trong đó
USD không tham gia, phải được yết sao cho có giá trị lớn hơn hoặc bằng 1.
Ví dụ: GBP/EUR = 1,1200 >1 chứ không được yết EUR/GBP = 0,8929 <1
Trong thực tế phương pháp này thường được sử dụng khi yết các tỷ giá chéo
không có sự tham gia của đồng USD.
1.4.1.3. Cách đọc, viết tỷ giá
a. Cách đọc tỷ giá
Theo thông lệ quốc tế trong các giao dịch ngoại hối một tỷ giá bao gồm 5 chữ
số có ý nghĩa từ trái qua phải. Khi đọc tỷ giá ta chia tỷ giá thành nhiều cụm để đọc: 2
chữ số cuối cùng bên phải đọc là điểm (points), 2 chữ số liền trước điểm đọc là số
(figures). Với cách đọc rõ ràng như vậy sẽ ít gây nhầm lẫn cho các nhà đầu tư trên thị
trường tập trung trong quá trình giao dịch.
Ví dụ:
USD/VND = 23.265 đọc là hai – ba hai số - sáu năm điểm
EUR/USD = 1,1294 đọc là một – phẩy – một hai số - chín tư điểm
NZD/USD = 0,6576 đọc là sáu năm số - bảy sáu điểm

b. Cách viết tỷ giá


- Đối với các tỷ giá chỉ niêm yết tỷ giá mua hoặc tỷ giá bán:
Ví dụ: 1 USD = 23.265 VND
Cách viết đầy đủ: 1 USD = 23.265 VND
Cách viết gọn hơn: USD/VND = 23.265
Cách viết chuyên nghiệp: VND = 23.265
- Đối với các tỷ giá niêm yết cả tỷ giá mua và tỷ giá bán:
Ví dụ: USD/VND = 23.090 – 23.270
Cách viết đầy đủ: USD/VND = 23.090 – 23.270
Cách viết gọn hơn: USD/VND = 23.090/270
Cách viết chuyên nghiệp: VND = 090/270
Ví dụ: EUR/USD = 1,1298 – 1,1302
Cách viết đầy đủ: EUR/USD = 1,1298 – 1,1302
Cách viết gọn hơn: EUR/USD = 1,1298/02
Cách viết chuyên nghiệp: EUR = 98/02
Lưu ý:
48
- Cách viết chuyên nghiệp chỉ áp dụng với các tỷ giá có xuất hiện đồng USD.
- Nếu hai tỷ giá mua và bán chênh lệch quá 100 điểm thì đối với cách viết gọn
và chuyên nghiệp phải ghi toàn bộ phần khác nhau của tỷ giá; Nếu hai tỷ giá mua và
bán chênh lệch dưới 100 điểm thì đối với cách viết gọn và chuyên nghiệp chỉ cần ghi
hai chữ số của phần điểm của hai tỷ giá, người đọc sẽ tự hiểu phải cộng thêm một số
vào tỷ giá bán.
- Trong cách viết tên tỷ giá có hai cách viết:
(1) Theo tập quán kinh doanh: đồng tiền yết giá viết trước, đồng tiền định giá viết
sau.
(2) Theo học thuật: đồng tiền định giá viết trước, đồng tiền yết giá viết sau.
Trong phạm vi giáo trình này, thống nhất cách viết tên tỷ giá theo tập quán kinh
doanh, nghĩa là đồng tiền yết giá viết trước, đồng tiền định giá viết sau.
- Tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, các đồng tiền ngoại tệ được niêm
yết với đồng VND thay vì USD như trên thị trường ngoại hối quốc tế. Chính vì vậy khi
các ngân hàng ghi các tỷ giá được niêm yết trên các bảng điện tử theo cách chuyên
nghiệp như: tỷ giá mua vào đồng AUD là 16147 thì ta hiểu là 1AUD=16147 VND.

Bảng 1.1. Bảng tỷ giá niêm yết tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương
Việt Nam ngày 26/4/2019

49
Nguồn: https://laodong.vn/tien-te-dau-tu/ty-gia-ngoai-te-264-usd-tu-do-va-the-gioi-
tang-cuc-manh-730039.ldo
1.4.1.4. Tỷ giá chéo
Trên lý thuyết: Tỷ giá chéo là tỷ giá của hai đồng tiền được xác định thông qua
một đồng tiền thứ ba.
Trên thực tế: Ngày nay hầu hết các đồng tiền đều niêm yết với USD nên tỷ giá
chéo là tỷ giá của hai đồng tiền được xác định thông qua đồng USD.
Cách xác định tỷ giá chéo:
- Đối với các tỷ giá niêm yết 1 chiều mua hoặc bán:
Ví dụ: Ta có tỷ giá: USD/VND = 23.179
USD/SGD = 1,3901
Khi đó ta có: 1 USD = 23.179 VND; 1 USD = 1,3901 SGD
Nên 23.179 VND = 1,3901 SGD  1 SGD = 16.674 VND
Vậy tỷ giá SGD/VND = 16.674
- Đối với các tỷ giá niêm yết 2 chiều bao gồm cả tỷ giá mua và tỷ giá bán:
Từ mô hình xác định tỷ giá chéo từ góc độ người tạo lập thị trường (ngân hàng)
của Bishop và Dixon (1992) ta có thể đưa ra công thức xác định tỷ giá chéo trong các
trường hợp như sau:
(1) Đồng USD đóng vai trò là đồng yết giá trong cả hai tỷ giá

50
Giả sử ngân hàng thương mại niêm yết tỷ giá USD/A và USD/B ta có công thức
xác định tỷ giá chéo A/B như sau:
Bid (A/B) = Bid (USD/B) / Ask (USD/A)
Ask (A/B) = Ask (USD/B) / Bid (USD/A)
Ví dụ: Ngân hàng thương mại X niêm yết 2 tỷ giá như sau:
USD/VND = 23.179 – 23.181
USD/JPY = 107,17 – 107,20
Tính tỷ giá chéo JPY/VND:
Bid (JPY/VND) = 23.179 / 107,20 = 216,22
Ask (JPY/VND) = 23.181 / 107,17 = 216,30
Vậy JPY/VND = 216,22 – 216,30
(2) Đồng USD đóng vai trò là đồng định giá trong cả hai tỷ giá
Giả sử ngân hàng thương mại niêm yết tỷ giá A/USD và B/USD ta có công thức
xác định tỷ giá chéo A/B như sau:
Bid (A/B) = Bid (A/USD) / Ask (USD/B)
Ask (A/B) = Ask (A/USD) / Bid (USD/B)
Ví dụ: Ngân hàng thương mại X niêm yết 2 tỷ giá như sau:
GBP/USD = 1,2551 – 1,2552
EUR/USD = 1,1342 – 1,1346
Tính tỷ giá chéo GBP/EUR:
Bid (GBP/EUR) = 1,2551 / 1,1346 = 1,1062
Ask (GBP/EUR) = 1,2552 / 1,1342 = 1,1067
Vậy GBP/EUR = 1,1062 – 1,1067
(3) Đồng USD vừa đóng vai trò là đồng tiền định giá vừa đóng vai trò là đồng
tiền yết giá
Giả sử ngân hàng thương mại niêm yết tỷ giá A/USD và USD/B ta có công thức
xác định tỷ giá chéo A/B như sau:
Bid (A/B) = Bid (A/USD) x Bid (USD/B)
Ask (A/B) = Ask (A/USD) x Ask (USD/B)
Ví dụ: Ngân hàng thương mại X niêm yết 2 tỷ giá như sau:
USD/VND = 23.179 – 23.181
GBP/USD = 1,2551 – 1,2552
Tính tỷ giá chéo GBP/VND:
Bid (GBP/VND) = 1,2551 x 23.179 = 29.092
Ask (GBP/VND) = 1,2552 x 23.181 = 29.097
Vậy GBP/VND = 29.092 – 29.097
(4) Mối quan hệ giữa hai tỷ giá A/B và B/A
51
Bid (A/B) = 1/ Ask (B/A)
Ask (A/B) = 1/ Bid (B/A)
1.4.2. Chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giá là tổng hợp những quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của
một quốc gia.
Chế độ tỷ giá được phân loại theo mức độ can thiệp vào tỷ giá của ngân hàng
trung ương. Chế độ tỷ giá được chia thành 3 loại: chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ giá
thả nổi hoàn toàn, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết.
1.4.2.1. Chế độ tỷ giá cố định
Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá mà ngân hàng trung ương công bố và
cam kết duy trì tỷ giá cố định, hoặc cho phép tỷ giá biến động trong một biên độ rất
hẹp.
Đây là chế độ tỷ giá mà mức độ can thiệp của ngân hàng trung ương là cao
nhất, tỷ giá hoàn toàn phụ thuộc vào các công bố của ngân hàng trung ương mà không
phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá cố định cũng mang lại nhiều lợi ích:
+ Nhà xuất khẩu và nhập khẩu có thể yên tâm thực hiện các giao dịch thương
mại quốc tế mà không cần quan tâm đến sự biến động của tỷ giá.
+ Bất kỳ khoản thanh toán nào sử dụng tỷ giá cố định sẽ không có rủi ro tỷ giá.
+ Các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư vốn ra nước ngoài mà không cần quan
tâm đến lợi nhuận của mình khi thu về sẽ bị giảm sút do biến động của tỷ giá.
+ Các quốc gia thực hiện chế độ tỷ giá cố định có thể thu hút được nhiều vốn
đầu tư từ các chủ thể ở nước ngoài hơn vì các nhà đầu tư nước ngoài cũng không phải
lo về sự biến động của tỷ giá làm ảnh hưởng đến lợi nhuận đầu tư.
Bên cạnh đó khi tỷ giá trên thị trường biến động quá nhiều, ngân hàng trung
ương phải can thiệp để duy trì tỷ giá cố định hoặc đưa về dao động trong một biên độ
cho phép. Khi đó ngân hàng trung ương có thể gây ra cho đồng nội tệ bị định giá quá
cao hoặc quá thấp so với các đồng tiền khác, đồng thời trong một số trường hợp ngân
hàng trung ương phải cung ra một lượng ngoại tệ rất lớn để điều chỉnh tỷ giá, điều này
sẽ gây ra mất an toàn cho quỹ dự trữ ngoại hối của quốc gia.
1.4.2.2. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn là chế độ tỷ giá mà tỷ giá phụ thuộc hoàn toàn
vào cung cầu trên thị trường ngoại hối, ngân hàng trung ương không tiến hành can
thiệp lên tỷ giá.
Đây là chế độ tỷ giá mà mức độ can thiệp của ngân hàng trung ương là thấp
nhất, tỷ giá phụ thuộc hoàn toàn vào biến động của thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn mang lại một số lợi ích cho quốc gia áp dụng:
52
+ Quốc gia đó sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi các vấn đề lạm phát, thất
nghiệp của các quốc gia khác.
+ Ngân hàng trung ương không phải can thiệp lên tỷ giá, điều này sẽ giúp giảm
những tác động đến quỹ dự trữ ngoại hối, tác động đến nền kinh tế.
Bên cạnh đó chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn cũng mang lại bất lợi là nếu một
quốc gia trước khi áp dụng tỷ giá thả nổi hoàn toàn nền kinh tế gặp phải một số vấn đề
hay các điều kiện cạnh tranh với các quốc gia khác thấp thì khi áp dụng chế độ tỷ giá
này sẽ gặp nhiều khó khăn do không có những lá chắn bảo vệ như khi áp dụng chế độ
tỷ giá cố định.
1.4.2.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ tỷ giá mà tỷ giá không phụ thuộc
hoàn toàn vào cung cầu trên thị trường ngoại hối, ngân hàng trung ương không cam
kết duy trì tỷ giá mà chỉ chủ động điều tiết tỷ giá theo hướng phục vụ cho các chính
sách tiền tệ của Chính phủ.
Đây là chế độ tỷ giá vừa có sự tác động của thị trường ngoại hối lên tỷ giá, vừa
có sự can thiệp của ngân hàng trung ương khi thấy cần thiết. Chế độ tỷ giá này là sự
kết hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Khi một quốc gia
áp dụng chế độ tỷ giá này phần nào có thể khắc phục những nhược điểm của hai chế
độ tỷ giá trên như:
+ Không phải lúc nào ngân hàng trung ương cũng phải can thiệp lên tỷ giá, điều
này giúp các quốc gia không cần phải duy trì một lượng dự trữ ngoại hối lớn như đối
với khi áp dụng chế độ tỷ giá cố định.
+ Các quốc gia gặp khó khăn về kinh tế, hay mức độ cạnh tranh quốc tế chưa
cao cũng có thể dần thích nghi và có thời gian nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hiện nay Việt Nam đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Nội dung
này được quy định rất cụ thể trong nghị định số 70/2014/NĐ-CP của Thủ tướng Chính
phủ ban hành ngày 17/7/2014 về quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh
ngoại hối và pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ngoại hối như sau:
“1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu
ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách
tiền tệ và thực hiện phương án can thiệp trên thị trường ngoại tệ.
2. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan
hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô
trong từng thời kỳ.”

53
1.4.3. Thị trường ngoại hối
1.4.3.1. Thị trường ngoại hối và đặc điểm của thị trường ngoại hối
Ngoại hối là các phương tiện thanh toán được sử dụng trong thanh toán quốc
tế.
Ngoại hối bao gồm: ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, giấy tờ có giá ghi bằng
ngoại tệ, nội tệ do người không cư trú nắm giữ.
Tuy nhiên, ngày nay do những bất lợi khi thanh toán bằng vàng nên vai trò của vàng
trong thanh toán quốc tế có xu hướng giảm sút. Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ cũng
không được thường xuyên sử dụng trực tiếp trong thanh toán quốc tế mà phải đổi ra ngoại
tệ để thanh toán. Chính vì vậy mà ngày nay người ta thường sử dụng đan xen các thuật ngữ
“ngoại hối” – “ngoại tệ”, “thị trường ngoại hối” – “thị trường ngoại tệ”.
Thị trường ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau.
Theo thống kê có tới 85% các giao dịch mua bán các đồng tiền khác nhau là giữa
ngân hàng với ngân hàng, 14% giao dịch là giữa ngân hàng với khách hàng, chỉ có 1% giao
dịch là giữa khách hàng với khách hàng, không có sự tham gia của ngân hàng. Từ đó cho
thấy chủ thể tham gia chủ yếu trên thị trường ngoại hối là các ngân hàng thương mại.
Thị trường ngoại hối có 8 đặc điểm chính:
Thứ nhất, thị trường ngoại hối là một thị trường diễn ra trên phạm vi toàn thế
giới, bất kỳ nơi đâu diễn ra các hoạt động trao đổi các đồng tiền khác nhau đều được
coi là thị trường ngoại hối. Vì vậy thị trường ngoại hối không có một vị trí địa lý cụ
thể.
Thứ hai, thị trường ngoại hối là thị trường toàn cầu, thị trường hoạt động liên
tục 24 giờ. Các thị trường ngoại hối trải dài trên các múi giờ nên các thị trường ngoại
hối nối tiếp nhau giao dịch. Khi thị trường ngoại hối ở nơi này nghỉ thì lại có thị
trường ngoại hối ở nơi khác bắt đầu. Cứ liên tục như thế nên bất kỳ thời điểm nào
trong ngày cũng diễn ra các hoạt động giao dịch ngoại hối trên phạm vi toàn thế giới.
Thứ ba, trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng, có tới
85% tổng số giao dịch ngoại hối là giao dịch giữa ngân hàng với ngân hàng.
Thứ tư, các thành viên tham gia thị trường ngoại hối thường xuyên giữ liên lạc
với nhau thông qua những phương tiện công nghệ hiện đại như: điện thoại, máy tính,
máy fax, mạng internet… Do các thành viên ở khắp mọi nơi trên thế giới nên không
thể thường xuyên gặp trực tiếp để giao dịch được nên việc phải thường xuyên sử dụng
các phương tiện công nghệ hiện đại là cần thiết.
Thứ năm, các tỷ giá niêm yết trên các thị trường hầu như thống nhất với nhau.
Có được điều này là do thị trường có tính toàn cầu, thông tin cân xứng, khối lượng
giao dịch rất lớn, công nghệ hiện đại (truyền thông tin rất nhanh, nhanh chóng điều
chỉnh các chênh lệch tỷ giá), hàng hóa đồng chất (không có rủi ro do chất lượng hàng
54
hóa) nên chi phí giao dịch thấp, hoạt động của thị trường trở lên hiệu quả. Nếu một
ngân hàng thương mại niêm yết tỷ giá không thống nhất với các ngân hàng thương mại
khác trên thị trường ngoại hối, điều này sẽ dẫn đến chênh lệch tỷ giá giữa các ngân
hàng thương mại, tạo cơ hội diễn ra hoạt động kinh doanh chênh lệch tỷ giá. Tuy nhiên
các tỷ giá này nhanh chóng được điều chỉnh bởi các ngân hàng thương mại khác nhờ
thông tin được truyền đi nhanh chóng bởi các công nghệ hiện đại được sử dụng trên thị
trường ngoại hối.
Thứ sáu, đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong các giao dịch là đồng USD,
theo BIS (2019) có tới 83% tổng số giao dịch ngoại hối là có sự tham gia của đồng
USD.
Thứ bảy, thị trường ngoại hối rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế, xã
hội… nhất là các chính sách kinh tế của các quốc gia phát triển.
Thứ tám, đây là thị trường lớn nhất và có doanh số cao nhất, năm 2019 tổng giá
trị giao dịch ngoại hối vào khoảng 6,6 nghìn tỷ USD một ngày (BIS, 2019).
1.4.3.2. Các chức năng của thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối bao gồm 5 chức năng chính là:
Thứ nhất, thị trường ngoại hối phục vụ các hoạt động thương mại quốc tế. Các hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu thường lựa chọn thanh toán bằng một trong 3 loại đồng tiền:
đồng tiền của nước xuất khẩu, đồng tiền của nước nhập khẩu, đồng tiền của nước thứ 3
(thông thường là các đồng tiền có tính ổn định cao, được chấp nhận thanh toán ở nhiều quốc
gia). Để có được số lượng ngoại tệ thực hiện thanh toán nhập khẩu, hoặc chuyển đổi số tiền
nhận được từ hoạt động xuất khẩu thành nội tệ các nhà xuất nhập khẩu cần đến thị trường
ngoại hối để giúp họ thực hiện chuyển đổi các đơn vị tiền tệ cần thiết.
Thứ hai, thị trường ngoại hối phục vụ luân chuyển vốn quốc tế. Các nhà đầu tư
muốn thực hiện đầu tư vốn ra nước ngoài thì công việc cần phải làm là chuyển đổi vốn
đầu tư từ đồng tiền của quốc gia đầu tư sang đồng tiền của quốc gia nhận đầu tư từ đó
mới thực hiện triển khai đầu tư tại quốc gia nhận đầu tư được. Thị trường ngoại hối là
nơi thực hiện hoạt động này tốt nhất. Nó giúp cho các nhà đầu tư có thể dễ dàng thực
hiện các hoạt động đầu tư ở nước ngoài hơn do không còn vướng bận vấn đề khác biệt
về tiền tệ giữa các quốc gia khác nhau.
Thứ ba, thị trường ngoại hối là nơi hình thành tỷ giá. Tỷ giá cân bằng được hình
thành trên cơ sở cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Khi có bất kỳ sự thay đổi
nào của cung hay cầu ngoại tệ đều ảnh hưởng lên tỷ giá, làm tỷ giá tăng lên hay giảm
xuống.
Thứ tư, thị trường ngoại hối là nơi ngân hàng trung ương can thiệp lên tỷ giá. Thị
trường ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau nên đây là nơi lý tưởng để ngân
hàng trung ương thực hiện việc can thiệp của mình lên tỷ giá thông qua dùng quỹ dự trữ
55
ngoại hối của mình để bán ra hay mua vào một lượng ngoại tệ nhất định để điều tiết tỷ giá
giảm xuống hay tăng lên theo hướng phục vụ các chính sách tiền tệ của Chính phủ.
Thứ năm, thị trường ngoại hối là nơi kinh doanh và phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Trên thị trường ngoại hối các nhà đầu tư, ngân hàng thương mại có thể thực hiện kinh
doanh ngoại hối thông qua các hình thức như kinh doanh chênh lệch tỷ giá, đầu tư tỷ
giá. Ngoài ra các nhà xuất nhập khẩu còn có thể sử dụng những hợp đồng phái sinh
trên thị trường ngoại hối để bảo hiểm rủi ro tỷ giá như: hợp đồng ngoại hối kỳ hạn,
hợp đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng quyền chọn tiền tệ.
1.4.3.3. Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối
Các thành viên tham gia trên thị trường ngoại hối bao gồm: khách hàng mua
bán lẻ, ngân hàng thương mại, các nhà môi giới, ngân hàng trung ương.
- Khách hàng mua bán lẻ: là các công ty nội địa, công ty đa quốc gia, các nhà
đầu tư quốc tế, các cá nhân, tổ chức có nhu cầu mua bán ngoại hối.
+ Mục đích: chuyển đổi ngoại tệ; phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
+ Phương thức giao dịch: giao dịch chủ yếu với các ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng thương mại:
+ Mục đích: cung cấp dịch vụ mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho các khách hàng mua
bán lẻ; kinh doanh ngoại hối cho chính mình.
+ Phương thức giao dịch: giao dịch trực tiếp (ngân hàng – ngân hàng); giao dịch
gián tiếp (thông qua nhà môi giới trên thị trường liên ngân hàng).
- Nhà môi giới:
+ Mục đích: cung cấp dịch vụ cung cấp tỷ giá nhà môi giới cho các ngân hàng
thương mại trên cơ sở thu thập các lệnh đặt mua, lệnh đặt bán của các ngân hàng thương
mại.
+ Phương thức giao dịch: nhà môi giới thu thập lệnh đặt mua, lệnh đặt bán của
các ngân hàng thương mại từ đó đưa ra tỷ giá nhà môi giới (hay tỷ giá tay trong) tốt
nhất trên thị trường. Từ đó nhà môi giới thu phí dịch vụ của các ngân hàng thương mại
tham gia giao dịch.
- Ngân hàng trung ương:
+ Mục đích: can thiệp lên tỷ giá; mua, bán, chuyển đổi ngoại tệ nhằm bảo toàn và
gia tăng giá trị dự trữ ngoại hối quốc gia; đại lý mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho Chính Phủ.
+ Phương thức giao dịch: giao dịch với các ngân hàng thương mại.
1.4.3.4. Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối
Trên thị trường ngoại hối có các nghiệp vụ sau: nghiệp vụ ngoại hối giao ngay,
nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn, nghiệp vụ ngoại hối hoán đổi, nghiệp vụ tiền tệ tương lại,
nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.

56
- Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay: Giao dịch ngoại hối giao ngay là giao dịch
mua bán một số lượng ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết
thúc thanh toán thường trong vòng 2 ngày làm việc kể từ ngày cam kết mua bán.
- Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn: Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là một giao dịch
trong đó hai bên cam kết sẽ mua bán với nhau một số lượng công cụ tài chính bằng
ngoại tệ theo một tỷ giá xác định tại một thời điểm sau đó hay sau một thời gian xác
định kể từ ngày ký kết giao dịch.
- Nghiệp vụ ngoại hối hoán đổi: Giao dịch ngoại hối hoán đổi là việc đồng thời
mua vào và bán ra cùng một đồng tiền nhất định, trong đó ngày giá trị mua vào và
ngày giá trị bán ra là khác nhau.
- Nghiệp vụ tiền tệ tương lai: Giao dịch tiền tệ tương lai là một thỏa thuận mua
bán một số lượng đồng tiền sẵn có theo một tỷ giá được ấn định vào thời điểm ký kết
hợp đồng, ngày giao hàng được ấn định sẵn trong tương lai và được thực hiện tại sở
giao dịch ngoại hối.
- Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ: Quyền chọn tiền tệ là công cụ tài chính mang
lại cho người sở hữu nó quyền mua hoặc bán (nhưng không bắt buộc) một số lượng
ngoại tệ nhất định với giá ấn định (giá thực hiện) tại một ngày ấn định. Người mua hợp
đồng quyền chọn phải trả cho người bán hợp đồng một số tiền lệ phí cho quyền chọn
này.
Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay, nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn và nghiệp vụ ngoại
hối hoán đổi được thực hiện trên thị trường phi tập trung (OTC).
Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ được thực hiện trên cả thị trường tập trung (Sở
giao dịch) và phi tập trung.
Nghiệp vụ tiền tệ tương lai chỉ thực hiện trên thị trường tập trung.

57
MODULE 2. LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH
2.1. Đại cương tài chính
2.1.1. Khái niệm tài chính
Các nhà kinh tế đã xác định rằng tài chính ra đời do hai điều kiện:
(i) Điều kiện quyết định đến sự ra đời của tài chính là sự ra đời và phát triển của
quá trình sản xuất trao đổi hàng hóa dịch vụ thông qua tiền tệ. Khi nền kinh tế hàng
hóa phát triển, các chủ thể kinh tế đều cần đến các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu,
máy móc thiết bị, các dịch vụ liên quan,… do chủ thể kinh tế khác cung cấp. Do đó,
khi hàng hóa được sản xuất ra, sẽ xuất hiện nhu cầu phân phối giá trị của các hàng hóa
đó cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất. Thay vì trực tiếp phân phối các sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi lấy những hàng hóa mình cần để tiêu dùng, thì các sản
phẩm sản xuất ra trước tiên được đổi thành tiền thông qua quá trình bán hàng, sau đó
tiền mới được phân phối cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất.
(ii) Điều kiện mang tính định hướng cho tài chính phát triển là sự xuất hiện của
nhà nước. Nhà nước với quyền lực chính trị của mình đã buộc các chủ thể trong nền
kinh tế đóng góp một phần thu nhập của mình vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước. Quá trình tạo lập và sử dụng ngân sách nhà
nước làm nảy sinh hoạt động tài chính giữa các chủ thể kinh tế với nhà nước. Ngoài ra,
nhà nước đã thiết lập hành lang pháp lý và góp phần điều tiết sự phát triển của tài
chính.
Tùy theo cách tiếp cận, từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội thì có nhiều quan điểm
khác nhau về tài chính, có thể kể đến một số quan điểm như:
Phạm Ngọc Dũng, Đinh Xuân Hạng (2014) quan niệm rằng “Tài chính là
phương thức huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm (nguồn lực tài chính)
nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của các chủ thể trong phát triển kinh tế - xã hội”.
Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Kim Anh, và Nguyễn Đức Hưởng (2016) quan niệm
rằng “Tài chính là quá trình phân phối các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu
của các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự vận động độc lập
tương đối của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ thông qua việc hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế”.
Lê Thị Tuyết Hoa, Đặng Văn Vần (2017) quan niệm rằng “Tài chính là hệ
thống các quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân
dưới hình thái giá trị, thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định của các chủ thể trong nền kinh tế”.
Như vậy, có thể rút ra quan điểm về tài chính như sau: Tài chính là cách thức
huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng tối ưu nhu cầu của các
chủ thể trong nền kinh tế.
58
Thông thường, tài chính được hiểu là các quyết định liên quan đến tiền. Hoạt
động phân phối trong tài chính là phân phối bằng tiền chứ không phải phân phối bằng
hiện vật. Hoạt động tài chính không chỉ liên quan đến việc hình thành các quỹ tiền tệ
mà cả việc sử dụng các quỹ tiền tệ đó, mà kết quả của việc sử dụng đó lại dẫn đến việc
hình thành một quỹ tiền tệ khác. Sự vận động của các luồng giá trị dưới hình thái tiền
tệ giữa các quỹ tiền tệ do kết quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ này nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu hoặc tích lũy của các chủ thể kinh tế là biểu hiện bề ngoài của tài
chính. Trong tài chính, sự vận động của tiền tệ là độc lập tương đối với sự vận động
của hàng hóa dịch vụ nhờ chức năng phương tiện trao đổi và phương tiện cất trữ giá
trị. Gọi là “độc lập tương đối” vì mặc dù trong tài chính chỉ có sự di chuyển của tiền tệ
giữa các chủ thể kinh tế, nhưng tiền tệ chỉ là phương tiện, còn đối tượng phân phối vẫn
là hàng hóa nên thực chất sự di chuyển tiền tệ trong tài chính là sự di chuyển của giá
trị hàng hóa (hay nói cách khác, tài chính là phân phối sản phẩm tạo ra trong nền kinh
tế dưới hình thái giá trị).
Các quỹ tiền tệ trong thực tế có thể có các tên gọi khác nhau tùy vào từng
trường hợp cụ thể như vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, tiền vốn, vốn tín dụng, vốn ngân
sách,… Quá trình huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ chính là hoạt động
thu, chi bằng tiền của các chủ thể để đạt được mục tiêu mà họ đề ra. Ví dụ đối với hộ
gia đình, mục tiêu đầu tiên là sử dụng thu nhập cho tiêu dùng, sau đó mới dành cho tiết
kiệm và đầu tư. Nhưng mỗi hộ gia đình lại có cách sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau,
có hộ gia đình muốn thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng hiện tại nhiều hơn, có hộ gia đình lại
muốn tiết kiệm nhiều hơn để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong tương lai,… Với mỗi
mục tiêu khác nhau, các hộ gia đình lại có cách huy động (thu), sử dụng (chi) các quỹ
tiền tệ khác nhau. Kết quả huy động và sử dụng các quỹ tiền tệ chính là các quan hệ
phân phối giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế luôn là hữu hạn, nhưng nhu cầu sử
dụng lại là vô hạn. Do đó, để đáp ứng nhu cầu sử dụng thì các chủ thể phải xác định
phương án tối ưu hóa quá trình huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ:
(i) Nhà nước sẽ cân nhắc thu từ nguồn nào, bao nhiêu? Làm thế nào sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả các quỹ tiền tệ của nhà nước? Các quỹ tiền tệ được phân phối cho trung
ương và các địa phương, các lĩnh vực như thế nào?... các hoạt động này hình thành nên
lĩnh vực Tài chính công. Nhà nước sử dụng tài chính không chỉ để quản lý và bảo vệ
xã hội mà còn là công cụ hữu hiệu trong việc ổn định các hoạt động kinh tế xã hội
trước những biến động của thị trường, giúp nền kinh tế xã hội phát triển bền vững,
hiệu quả.
(ii) Các doanh nghiệp sẽ cân nhắc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh từ nguồn nào, cơ cấu ra sao? Sẽ sản xuất kinh doanh, đầu tư vào lĩnh vực nào?
59
Phân phối kết quả sản xuất kinh doanh ra sao?... các hoạt động này hình thành nên lĩnh
vực Tài chính doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sử dụng tài chính để phục vụ quá trình
sản xuất kinh doanh, phòng ngừa rủi ro nhằm tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu.
(iii) Các gia đình cần phân chia nguồn thu nhập như thế nào cho hoạt động chi
tiêu và tiết kiệm? Lựa chọn danh mục đầu tư nào cho khoản tiền tiết kiệm? Lựa chọn
nguồn tài trợ nào cho hoạt động tiêu dùng của hộ gia đình?… các hoạt động này hình
thành nên lĩnh vực Tài chính hộ gia đình. Hộ gia đình sử dụng tài chính để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng và đầu tư của mình.
2.1.2. Chức năng của tài chính
2.1.2.1. Phân phối giá trị dưới hình thái tiền tệ
Sự vận động của tiền là độc lập tương đối với sự vận động của hàng hóa dịch
vụ, và tiền tệ có chức năng làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ
nên thay vì phân phối hàng hóa, ta chỉ cần phân phối bằng tiền tệ rồi khi cần sẽ đổi ra
hàng hóa dịch vụ. Phân phối trong tài chính thực hiện thông qua việc tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ.
Các chủ thể tham gia vào phân phối là những chủ thể có khả năng cung ứng
vốn, hoặc những chủ thể có nhu cầu về vốn, hoặc những chủ thế đóng vai trò quản lý
nhà nước. Hoạt động phân phối tài chính không chỉ liên quan đến việc hình thành các
quỹ tiền tệ mà còn cả việc sử dụng các quỹ tiền tệ đó lại dẫn đến việc hình thành một
quỹ tiền tệ khác. Chức năng phân phối được thể hiện trong hoạt động tín dụng (thể
hiện thông qua quá trình phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời nhàn rỗi sang chủ
thể đang cần vốn và phân phối ngược lại sau một khoảng thời gian); hoạt động bảo
hiểm (thể hiện trong việc vốn góp vào quỹ bảo hiểm được chuyển từ số đông chủ thể
không gặp rủi ro sang số ít chủ thể gặp rủi ro); vốn ngân sách (thể hiện bằng việc phân
phối vốn từ những chủ thể có nghĩa vụ phải đóng góp vào ngân sách nhà nước sang
những chủ thể được hưởng lợi từ ngân sách nhà nước); hoạt động tài chính nội bộ (thể
hiện bằng việc vốn được chia cho các nhu cầu khác nhau một cách hợp lý để thỏa mãn
tối ưu toàn bộ hoạt động của chủ thể kinh tế),…
Phân phối tài chính gồm hai quá trình:
- Phân phối lần đầu: Diễn ra trong khu vực sản xuất kinh doanh, nhằm phân
chia giá trị của hàng hóa dịch vụ được sản xuất ra cho các chủ thể tham gia vào quá
trình sản xuất kinh doanh đó, mục tiêu của phân phối lần đầu là để duy trì hoạt động
sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế diễn ra một cách bình thường. Có thể mô
tả quá trình phân phối lần đầu thông qua việc phân chia doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất như sau:

60
+ Phần bù đắp chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch
vụ như chi phí nguyên vật liệu đầu vào, chi phí cho các dịch vụ mua ngoài,… từ đó
hình thành nên quỹ tiền tệ của các chủ thể cung cấp các yếu tố đầu vào.
+ Phần chi trả cho hao phí sức lao động, phần thu nhập này hình thành nên các
quỹ tiền tệ của người lao động.
+ Phần còn lại sau khi trang trải các khoản chi phí khác là thu nhập của các chủ
thể góp vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Phân phối lại: Là quá trình tiếp tục phân phối các quỹ tiền tệ hình thành từ
quá trình phân phối lần đầu ra các chủ thể không tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Các chủ thể sau khi nhận được phần thu nhập của mình ở quá trình
phân phối lần đầu, tiếp tục phân chia để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu, đầu tư hoặc tích lũy
của mình. Ví dụ, người lao động sau khi nhận được thu nhập tiền lương, tiền công từ
quá trình phân phối lần đầu thì người lao động sử dụng để mua sắm phục vụ nhu cầu
tiêu dùng, gửi tiết kiệm ngân hàng, cho người thân,… Hoặc các doanh nghiệp sử dụng
lợi nhuận của mình để nộp thuế cho nhà nước, chi trả cổ tức, trích lập các quỹ,… Đa
phần các hoạt động phân phối tài chính là phân phối lại. Quá trình phân phối lại diễn
ra không ngừng, qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.1.2.2. Kiểm tra giám sát quá trình huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
Kiểm tra giám sát nhằm đảm bảo quá trình huy động, phân phối và sử dụng các
quỹ tiền tệ diễn ra đúng với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, thông qua
kiểm tra giám sát giúp nhà nước có những giải pháp để kiểm soát tình hình kinh tế xã
hội, tiêu dùng trong phạm vi toàn xã hội; các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát hiện điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của
doanh nghiệp,…
Kiểm tra giám sát tài chính thực hiện thông qua sự phản ánh khách quan của
các chỉ tiêu tài chính, các chỉ tiêu về tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ,…
Ví dụ như để biết rằng thị trường chứng khoán có hoạt động lành mạnh hay không,
thay bằng việc thực hiện nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu tốn kém, các nhà quản lý có
thể nghiên cứu tình hình biến động của các chỉ số thị trường chứng khoán phổ biến
như Dow Jones, Nikkei, NYSE, Hangseng, VNIndex,…
Để tài chính phát huy tốt chức năng kiểm tra giám sát thì phải có hành lang
pháp lý cho các hoạt động tài chính, có hệ thống chỉ tiêu tài chính đo lường đánh giá.
Chủ thể kiểm tra giám sát tài chính cũng chính là chủ thể phân phối – người có quyền
sở hữu vốn. Tùy theo đối tượng kiểm tra giám sát mà các chủ thể có thể sử dụng các
phương pháp kiểm tra khác nhau như kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, kiểm
tra toàn diện hay kiểm tra điển hình,… Dù lựa chọn phương pháp kiểm tra giám sát
nào thì kiểm tra giám sát tài chính cũng phải được thực hiện đảm bảo tính khách quan,
61
trung thực, kịp thời. Kết quả của kiểm tra giám sát tài chính giúp cho các chủ thể liên
quan biết được tính hiệu quả của quá trình phân phối, đảm bảo duy trì kỷ cương, pháp
luật về tài chính, phát hiện, xử lý, ngăn chặn những hiện tượng tham ô, gây lãng phí
cho xã hội, chỉ ra những sai xót, bất hợp lý nhằm đưa ra các giải pháp để chỉnh sửa,
đảm bảo sự lành mạnh của các quan hệ kinh tế, tạo điều kiện phát huy toàn bộ khả
năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.1.3. Hệ thống tài chính
2.1.3.1. Quan niệm về hệ thống tài chính được xem xét theo chủ thể
Theo quan niệm này, hệ thống tài chính bao gồm các chủ thể kinh tế, thị trường
tài chính và các trung gian tài chính có quan hệ tương tác với nhau nhằm thực hiện
việc huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Mỗi chủ thể
kinh tế được gọi là một “khâu” hay một bộ phận của hệ thống tài chính. Trong đó, thị
trường tài chính là “môi trường” cho các chủ thể kinh tế hoạt động, còn trung gian tài
chính là kênh dẫn vốn quan trọng đảm bảo vốn của các chủ thể kinh tế được luân
chuyển nhanh chóng, an toàn.

Tài chính công

Thị trường tài


chính

Trung gian tài


chính

Tài chính Tài chính hộ


doanh nghiệp gia đình

Quan hệ tài chính trực tiếp


Quan hệ tài chính gián tiếp

Sơ đồ 2.1. Quan hệ tài chính giữa các bộ phận trong hệ thống tài chính
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Kim Anh, Nguyễn Đức Hưởng (2016)
Các hoạt động tài chính trong nền kinh tế đều chịu sự chi phối của ba chủ thể cơ
bản là nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình. Sự tác động qua lại giữa các quan hệ tài
chính phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế với nhau và trong nội bộ của từng
chủ thể kinh tế. Thông thường, hệ thống tài chính của một nền kinh tế gồm 3 bộ phận
cơ bản tương ứng với 3 nhóm chủ thể là tài chính công, tài chính doanh nghiệp, và tài
62
chính hộ gia đình. Các bộ phận của hệ thống tài chính có thể quan hệ trực tiếp với
nhau, hoặc phải thông qua thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường
tiền tệ) hoặc các trung gian tài chính (ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm,…). Ví dụ,
doanh nghiệp có thể thu hút vốn đầu tư của các cá nhân thông qua thị trường chứng
khoán, hoặc ngân hàng huy động vốn của các cá nhân rồi cho doanh nghiệp vay vốn,
hoặc doanh nghiệp có thể huy động vốn góp trực tiếp của các cá nhân.
* Thị trường tài chính và trung gian tài chính:
Để huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình một cách hiệu quả
thì các chủ thể kinh tế có thể liên hệ và trao đổi vốn trực tiếp với nhau, nhưng điều này
có thể mất nhiều thời gian, và rủi ro cao, cũng như chỉ xảy ra phần lớn đối với các chủ
thể kinh tế đã am hiểu rất rõ về nhau. Do đó, các chủ thể kinh tế phải huy động và sử
dụng vốn thông qua thị trường tài chính hoặc trung gian tài chính. Như vậy, nếu như
các chủ thể nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình hoạt động hướng đến mục tiêu
riêng của từng chủ thể, thì thị trường tài chính và trung gian tài chính hoạt động nhằm
hỗ trợ cho hoạt động tài chính của nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình.
* Tài chính công:
Tài chính công là bộ phận giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính với vai
trò điều tiết, chi phối và hướng dẫn các bộ phận khác trong hệ thống tài chính. Tài
chính công ngoài việc huy động vốn ngân sách để duy trì hoạt động của bộ máy và
phân phối tối ưu các quỹ tiền tệ của nhà nước cho các mục đích vĩ mô, thì còn phải
đảm bảo thực hiện có hiệu quả vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của mình. Bởi tác động
điều tiết vĩ mô của tài chính công hướng đến điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong
nền kinh tế, nên hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng rất lớn đến tài chính doanh
nghiệp và tài chính hộ gia đình.
* Tài chính doanh nghiệp:
Mọi hoạt động của tài chính doanh nghiệp, từ việc huy động và phân phối các
quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, cho đến phân phối lợi
nhuận của doanh nghiệp,… đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở
hữu. Vì vậy, tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra giá trị
thặng dư mới cho nền kinh tế.
* Tài chính hộ gia đình:
Tài chính hộ gia đình sẽ tập trung vào việc phân phối thu nhập đang có và sẽ có
trong tương lai cho các nhu cầu tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của hộ gia đình sao cho
có hiệu quả nhất. Phần lớn các khoản chi tiêu của hộ gia đình trở thành nguồn thu của
doanh nghiệp, nên có thể coi hộ gia đình là đối tượng phục vụ chính của doanh nghiệp.
2.1.3.2. Quan niệm về hệ thống tài chính được xem xét theo cách thức luân chuyển và
cung ứng vốn cho nền kinh tế
63
Theo quan niệm này, hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm thị trường tài
chính, trung gian tài chính, cơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật về tài chính, và các tổ chức quản
lý, giám sát hệ thống tài chính để tổ chức phân phối hiệu quả vốn trong nền kinh tế.

 Trung gian 
tài chính


Chủ thể cung ứng vốn Chủ thể có nhu cầu vốn
 Thị trường 
(Nhà nước, doanh (Nhà nước, doanh
tài chính
nghiệp, hộ gia đình,…) nghiệp, hộ gia đình,…)

Sơ đồ 2.2. Quá trình luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính
Nguồn: Phạm Ngọc Dũng, Đinh Xuân Hạng (2014)
 Vốn được luân chuyển trực tiếp từ chủ thể thừa vốn sang chủ thể cần vốn.
 Các tổ chức trung gian tài chính huy động vốn từ chủ thể thừa vốn.
 Các tổ chức trung gian tài chính cung cấp vốn cho chủ thể có nhu cầu sử dụng
vốn.
 Các trung gian tài chính cung cấp vốn cho thị trường tài chính. Ngược lại,
các trung gian tài chính cũng nhận vốn từ thị trường tài chính.
 Chủ thể thừa vốn đầu tư vốn trên thị trường tài chính thông qua mua cổ
phiếu, trái phiếu,…
 Các chủ thể thiếu vốn sẽ thông qua thị trường tài chính để phát hành cổ
phiếu, trái phiếu,… để hút vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Vốn được luân chuyển theo các cách thức khác nhau từ chủ thể thừa vốn sang chủ
thể thiếu vốn. Mỗi cách thức luân chuyển vốn mang lại những thuận lợi và khó khăn khác
nhau cho các chủ thể tham gia. Xét trên tổng thể thì sự vận động đa dạng của vốn đã làm
cho vốn trong nền kinh tế được sử dụng một cách triệt để và kích thích vốn được luân
chuyển đến những nơi có hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Các chủ thể kinh tế (nhà nước,
doanh nghiệp, hộ gia đình) không cấu thành trong hệ thống tài chính theo quan niệm này
nhưng lại là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng và hấp thụ vốn trong nền
kinh tế, từ đó tạo điều kiện và thúc đẩy hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh.
* Thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động mua, bán quyền sử dụng vốn. Các
công cụ trên thị trường tài chính bao gồm tín phiếu, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi,

64
chấp phiếu ngân hàng, trái phiếu, cổ phiếu,… Giá cả quyền sử dụng vốn được hình
thành theo quan hệ cung cầu nên vừa có lợi cho chủ thể thừa vốn, vừa có lợi cho chủ
thể thiếu vốn. Tham gia thị trường tài chính gồm có chủ thể phát hành (tham gia thị
trường để huy động vốn); nhà đầu tư (tham gia thị trường với mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận, phân tán rủi ro); nhà môi giới (là trung gian kết nối các chủ thể mua bán với
nhau); và cơ quan quản lý nhà nước (đảm bảo cho thị trường hoạt động đúng pháp luật
và tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định).
* Trung gian tài chính:
Khi vốn được luân chuyển qua trung gian tài chính thì chủ thể thừa vốn và chủ
thể thiếu vốn không gặp nhau trực tiếp mà phải thông qua các trung gian tài chính như
ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm,… Các trung gian tài chính
sẽ sàng lọc bớt rủi ro, giúp cho vốn được luân chuyển hiệu quả. Các trung gian tài
chính xuất hiện trong nền kinh tế không chỉ nhằm giảm chi phí thông tin, giảm chi phí
giao dịch mà còn tạo ra các sản phẩm mới làm gia tăng giá trị cho xã hội.
* Cơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật về tài chính:
Cơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật về tài chính bao gồm hệ thống pháp luật, hệ
thống cung cấp thông tin, hệ thống thanh toán, hệ thống hỗ trợ cho các giao dịch
chứng khoán (hệ thống lưu ký chứng khoán, hệ thống khớp lệnh chứng khoán,…) làm
nền tảng cho các chủ thể trong hệ thống tài chính lập kế hoạch đàm phán và thực hiện
các giao dịch tài chính.
Pháp luật về tài chính được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa
các bên trong quan hệ tài chính. Thông qua pháp luật, nhà nước sẽ thực hiện vai trò
điều tiết nền kinh tế, duy trì trật tự xã hội và đảm bảo an toàn cho các chủ thể trong
nền kinh tế. Ở Việt Nam, các luật để giúp nhà nước quản lý hệ thống tài chính gồm:
Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng;
Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Bảo hiểm tiền gửi; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật
Chứng khoán,…
Hệ thống cung cấp thông tin bao gồm nhiều kênh với mức độ tín nhiệm và chất
lượng khác nhau. Tùy thuộc theo nhu cầu đầu tư mà các chủ thể lựa chọn kênh cung
cấp thông tin phù hợp, đó có thể là thông tin từ các tổ chức xếp hạng tín nhiệm thế giới
có uy tín, thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng, thông tin từ các cơ quan báo chí, từ
các cơ quan kiểm toán, thanh tra,…
Hệ thống thanh toán do các ngân hàng trung gian cung cấp để phục vụ cho các
dịch vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán, với mục tiêu tạo thuận lợi trong
việc đối chiếu, kiểm soát khi thanh toán và giảm thời gian thanh toán cho các giao
dịch.
65
* Các tổ chức quản lý, giám sát hệ thống tài chính:
Các tổ chức quản lý, giám sát hệ thống tài chính có thể là các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền như Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung Ương, Ủy ban Chứng khoán Quốc
gia,… và các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB),… Các tổ chức này có quyền yêu cầu các chủ thể tham gia hệ thống tài
chính phải cung cấp các báo cáo, thông tin về tài sản, kết quả kinh doanh,…. hoặc
kiểm soát rủi ro thông qua hoạt động thanh kiểm tra. Việc quản lý, giám sát hiệu quả
sẽ dẫn đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính.
2.1.3.3. Chức năng của hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính có ba chức năng cơ bản gồm thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn
giữa các chủ thể kinh tế, hạn chế rủi ro khi cấp vốn và đẩy nhanh quá trình thanh toán.
a. Thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn giữa các chủ thể kinh tế
Trong nền kinh tế, luôn tồn tại hai chủ thể có tình trạng vốn đối lập: chủ thể
thừa vốn và chủ thể thiếu vốn. Chủ thể thừa vốn là những chủ thể có nhu cầu chi tiêu ở
hiện tại ít hơn thu nhập, số vốn dư thừa có thể dùng để dự phòng rủi ro, sử dụng cho
tiêu dùng trong tương lai hoặc để đầu tư. Các chủ thể thiếu vốn là chủ thể có nhu cầu
chi tiêu nhiều hơn so với thu nhập hiện có thì sẽ có nhu cầu vay thêm vốn từ những
chủ thể thừa vốn và sẽ hoàn trả khoản vốn vay và lãi (nếu có) trong tương lai. Các chủ
thể thừa vốn vừa mong muốn đồng vốn của mình được an toàn, vừa muốn có khả năng
sinh lời cao nhất có thể; các chủ thể thiếu vốn luôn mong muốn tìm được vốn với chi
phí thấp, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn để đầu tư hoặc tiêu dùng. Đó là mâu
thuẫn lớn nhất cản trở dòng chảy vốn trong nền kinh tế.
Vốn có thể được luân chuyển trực tiếp giữa chủ thể cần vốn và chủ thể thiếu
vốn. Khi đó, do vốn không phải luân chuyển qua trung gian nên sẽ mang lại lợi nhuận
cao cho người thừa vốn và chi phí huy động vốn thấp cho người cần vốn. Tuy nhiên,
vốn luân chuyển trực tiếp có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro, nếu nó xảy ra trên quy mô lớn và
đồng loạt có thể ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Ngoài ra, chủ thể cần vốn và chủ thể
thừa vốn cũng rất khó có thể trao đổi vốn trực tiếp do họ khó có thể trùng khớp về
lượng vốn, thời gian, không gian, cũng như thiếu thông tin về nhau,…
Hệ thống tài chính với sự có mặt của các trung gian tài chính và thị trường tài chính
đã giúp cho vốn được phân phối một cách hiệu quả từ những chủ thể thừa vốn sang chủ thể
cần vốn, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế. Các trung gian tài chính là những tổ chức
huy động vốn chuyên nghiệp, có khả năng huy động vốn nhỏ lẻ trong nền kinh tế để tập
trung một lượng vốn đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể cần vốn. Khi đó, chủ thể
thừa vốn sẽ nhận được một mức sinh lời có thể coi là chắc chắn trong tương lai với độ rủi ro
thấp, nhưng mức sinh lời này có thể sẽ cao hơn nhiều nếu chủ thể đó tự đầu tư và chấp nhập
mức rủi ro cao nhất là mất vốn. Còn các chủ thể thiếu vốn sẽ được các trung gian tài chính
66
cấp vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư và tiêu dùng, nhưng có thể phải trả mức chi phí vay vốn
cao hơn so với vay vốn trực tiếp và thủ tục vay vốn có thể phức tạp hơn do phải trải qua quá
trình thẩm định chặt chẽ của các trung gian tài chính.
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì chức năng luân chuyển vốn của hệ thống
tài chính theo không gian và thời gian ngày càng quan trọng. Nhờ có hệ thống tài
chính mà lượng vốn nhỏ lẻ của một chủ thể, một khu vực, một quốc gia có thể được
huy động và tài trợ cho các nhu cầu vốn lớn của các chủ thể ở các khu vực, các quốc
gia khác. Với tính chất toàn cầu của hệ thống tài chính và sự đa dạng của các sản phẩm
tài chính sẽ cho phép luân chuyển vốn từ nơi có khả năng sinh lời thấp đến những nơi
có khả năng sinh lời cao hơn, từ đó làm tăng hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
b. Hạn chế rủi ro khi cấp vốn
Việc chuyển giao vốn từ chủ thể thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn đã mang lại
thu nhập cho người thừa vốn, nhưng đồng thời cũng mang lại những rủi ro nhất định,
thông thường rủi ro có thể xuất hiện do thông tin bất cân xứng hoặc rủi ro đạo đức.
Tùy theo sự luân chuyển vốn trực tiếp hay gián tiếp, tùy theo thời gian luân chuyển
vốn ngắn hay dài sẽ mang lại cho người thừa vốn rủi ro cao hay thấp. Hệ thống tài
chính với sự quản lý, giám sát, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước, cùng với
hoạt động chuyên nghiệp của trung gian tài chính đã giúp sàng lọc những nghiệp vụ
chuyển giao vốn có rủi ro cao, buộc chủ thể vay vốn và chủ thể cung cấp vốn phải tuân
thủ pháp luật trong quá trình luân chuyển vốn. Đồng thời, với sự đa dạng hóa của các
sản phẩm, các kênh đầu tư vốn, cùng với thông tin ngày càng minh bạch, kịp thời đã
giúp chủ thể thừa vốn dễ dàng lựa chọn được chủ thể vay vốn có rủi ro thấp.
Hệ thống tài chính với khả năng cung cấp thông tin kịp thời đã giúp cho chủ thể
cho vay vốn giám sát được hoạt động của các chủ thể vay vốn, từ đó buộc các chủ thể
vay vốn phải tuân thủ những cam kết đã đưa khi vay vốn, giảm bớt được thông tin bất
cân xứng trong quá trình sử dụng vốn.
Ngoài ra, hệ thống tài chính cũng có những chủ thể quản lý rủi ro chuyên
nghiệp - ví dụ như doanh nghiệp bảo hiểm – giúp cho các chủ thể khác có thể giảm
thiểu hoặc chuyển giao được rủi ro. Bên cạnh đó, các trung gian tài chính cũng cung
cấp nhiều giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro (như các công cụ tài chính phái sinh:
hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn) đã
tạo ra nhiều sự lựa chọn cho các chủ thể kinh tế trong hoạt động đầu tư, quản lý vốn,
quản lý rủi ro.
c. Đẩy nhanh quá trình thanh toán
Hệ thống tài chính với sự có mặt của các trung gian tài chính đã giúp quá trình
thanh toán diễn ra dễ dàng và hiệu quả. Đặc biệt sự phát triển của hệ thống ngân hàng

67
trên toàn cầu với các công cụ và các phương tiện giao dịch thanh toán hiện đại đã giúp
cho hoạt động thanh toán diễn ra thuận lợi với chi phí thấp.
2.2. Tài chính công
2.2.1. Khái niệm, phân loại, vai trò của tài chính công
2.2.1.1. Khái niệm tài chính công
Nền kinh tế của một quốc gia được chia thành hai khu vực chính: Khu vực công
và khu vực tư. Khu vực công bao gồm khu vực của chính phủ (bao gồm chính phủ
trung ương và các cơ quan thuộc chính phủ trung ương, chính quyền địa phương và
các cơ quan thuộc chính quyền địa phương) và khu vực được chính phủ kiểm soát (bao
gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức mà nhà nước có quyền quyết định hoặc
chịu trách nhiệm về tài chính). Xác định khu vực công để thấy được phạm vi, đối
tượng của tài chính công qua đó thiết lập cơ sở can thiệp của chính phủ đối với các
hoạt động kinh tế xã hội.
Trong hệ thống tài chính, tài chính công là bộ phận đóng vai trò chủ đạo và chi
phối các bộ phận tài chính khác. Tài chính công được hình thành và phát triển gắn liền
với sự ra đời và hoàn thiện của thể chế nhà nước. Nhà nước có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ chính quyền, ổn định chính trị và quản lý, thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội. Để thực hiện được vai trò này thì bằng quyền lực chính trị của mình, nhà nước đã
tập trung một phần thu nhập của xã hội để hình thành nên các quỹ tiền tệ của nhà
nước, nhà nước phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ này để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
theo chức năng của nhà nước.
Có thể khái quát khái niệm tài chính công như sau: Tài chính công là cách thức
huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm cung cấp hàng
hóa công cho xã hội.
2.2.1.2. Phân loại tài chính công
Căn cứ theo nội dung hoạt động và cơ chế quản lý thì phân loại tài chính công
thành ngân sách nhà nước, các quỹ ngoài ngân sách nhà nước.
- Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Về hình
thức, ngân sách nhà nước là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của nhà nước trong một
khoảng thời gian nhất định, giúp nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế xã
hội hướng tới thực hiện các mục tiêu vĩ mô của nhà nước. Ngân sách nhà nước luôn
gắn với quyền lực của nhà nước và được thực hiện trên cơ sở luật pháp ấn định. Ở mỗi
quốc gia thì hệ thống ngân sách nhà nước được tổ chức khác nhau, đa phần được tổ
chức dựa trên mô hình tổ chức hệ thống hành chính quốc gia. Đối với các quốc gia có
mô hình tổ chức hành chính theo thể chế liên bang thì hệ thống ngân sách nhà nước
gồm ngân sách liên bang, ngân sách bang và ngân sách địa phương. Đối với các quốc
gia có mô hình tổ chức hành chính theo thể chế nhà nước thống nhất thì hệ thống ngân
68
sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong hệ thống
ngân sách nhà nước, mỗi cấp ngân sách lại có những nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc
vào nhiệm vụ quản lý hành chính của các cấp chính quyền.
Ở Việt Nam, ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Ngân sách địa phương gồm ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, cụ thể:
(i) Ngân sách tỉnh, bao gồm ngân sách cấp tỉnh và ngân sách huyện.
(ii) Ngân sách huyện, bao gồm ngân sách cấp huyện và ngân sách xã;
(iii) Ngân sách xã.
- Các quỹ ngoài ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ của nhà nước, được sử dụng
nhằm giải quyết những biến động bất thường không dự báo trước trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội, không có trong dự toán ngân sách nhà nước nhưng nhà nước phải
có trách nhiệm xử lý, hoạt động độc lập với ngân sách nhà nước. Tùy thuộc vào thể
chế chính trị và đặc thù của từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia
lại có những quỹ ngoài ngân sách nhà nước khác nhau. Nhìn chung, quỹ ngoài ngân
sách nhà nước ở các quốc gia có thể kể đến như: Quỹ dự trữ quốc gia dùng cho các
trường hợp khẩn cấp và chi tiêu ngoài dự kiến như phòng chống thiên tai, hỏa hoạn,…;
Quỹ phát triển để hỗ trợ cho các chương trình phát triển thường có sự đóng góp của
các nhà tài trợ; Quỹ ổn định dùng để giảm thiểu tác động của các biến động của nền
kinh tế; Quỹ phục vụ các chương trình mục tiêu quốc gia,…
Nhà nước là chủ thể quyết định việc thành lập, huy động nguồn tài chính, sử
dụng và tổ chức bộ máy quản lý quỹ ngoài ngân sách nhà nước. Nguồn tài chính hình
thành các quỹ ngoài ngân sách nhà nước bao gồm một phần trích từ ngân sách nhà
nước, một phần huy động từ các nguồn tài chính trong xã hội, chủ yếu là nguồn tài
chính tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế xã hội, và các tầng lớp dân cư.
2.2.1.3. Vai trò của tài chính công
Thứ nhất, tài chính công nhằm đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Tài chính công sẽ huy động một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân (tự
nguyện hoặc bắt buộc) vào các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của nhà nước, đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ máy nhà
nước, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của nhà nước.
Thứ hai, tài chính công là công cụ để nhà nước điều tiết, thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô.
Tài chính công giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính, có vai trò định
hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, do đó hoạt động thu chi tài chính công
sẽ chi phối hoạt động tài chính của các chủ thể khác. Tài chính công có vai trò thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô như đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế
69
hợp lý và bền vững, hạn chế thất nghiệp, giữ tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải,… thông
qua các biện pháp như tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ quốc gia, quỹ hỗ trợ việc làm,
điều chỉnh chính sách thuế, tăng giảm chi tiêu công,…
Thứ ba, tài chính công góp phần tái phân phối thu nhập, góp phần thực hiện
công bằng xã hội.
Thị trường tài chính không có chức năng tạo ra sự phân phối thu nhập công
bằng, do đó nhà nước cần phải can thiệp để giải quyết sự bất công bằng trong phân
phối thu nhập của thị trường. Công cụ nhà nước sử dụng chủ yếu để tái phân phối thu
nhập xã hội là thuế và chi tiêu công. Thuế là công cụ động viên, tập trung nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, chi tiêu công là công cụ để chuyển giao thu nhập đó đến mọi
đối tượng trong xã hội thông qua chi an sinh xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo,… góp phần thực hiện công bằng xã hội.
2.2.2. Thu tài chính công
2.2.2.1. Khái niệm thu tài chính công
Thu tài chính công là việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để huy động
một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm
đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước, góp phần thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Thu tài chính công thực chất là sự phân chia
tổng sản phẩm quốc dân giữa nhà nước với các chủ thể kinh tế trong xã hội dựa trên
quyền lực của nhà nước nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ.
2.2.2.2. Phân loại thu tài chính công
a. Thu từ thuế
Thu tài chính công chủ yếu từ thuế, thuế là khoản thu bắt buộc được thể chế
bằng luật do các chủ thể trong nền kinh tế đóng góp cho nhà nước. Thuế là công cụ
điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, đồng thời góp
phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Công cụ
thuế với các mức thuế và ưu đãi khác nhau đối với từng sản phẩm, ngành nghề, lĩnh
vực, khu vực,… đã có vai trò trong định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh
tế, kích thích hoặc hạn chế phát triển sản xuất kinh doanh theo những định hướng của
nhà nước.
Mỗi quốc gia lại có những hệ thống thuế khác nhau, mức thu thuế khác nhau.
Hệ thống thuế bao gồm thuế gián thu và thuế trực thu, các sắc thuế này bổ sung cho
nhau trong việc thực hiện công bằng về nghĩa vụ thuế cho các chủ thể trong nền kinh
tế, giúp nhà nước giảm bớt chi phí hành thu và đảm bảo nguồn thu ổn định kịp thời. Ở
Việt Nam hiện nay, hệ thống thuế gồm các sắc thuế là: Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế giá trị gia tăng; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu

70
nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp; thuế bảo vệ môi trường.
b. Thu từ phí và lệ phí
Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm bù đắp một phần hoặc toàn
bộ chi phí phục vụ khi được các cơ quan thuộc khu vực công cung cấp dịch vụ công.
Lệ phí là khoản thu tài chính công gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do
việc cung cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý của nhà nước cho các tổ chức và cá
nhân.
So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn. Phí và lệ phí làm tăng thu
và giảm bớt gánh nặng chi ngân sách cho các dịch vụ công, góp phần thực hiện công
bằng xã hội, nâng cao ý thức cộng đồng của các tầng lớp dân cư, đồng thời cũng giúp
nhà nước thực hiện việc quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động kinh tế của các tổ
chức, cá nhân.
c. Thu từ đóng góp xã hội
Đóng góp xã hội là một khoản thu tài chính công, thông thường nó được để vào các
quỹ ngoài ngân sách nhà nước. Đóng góp xã hội có thể là bắt buộc hoặc tự nguyện, các
khoản đóng góp xã hội có thể được đóng góp bởi người sử dụng lao động, người lao động
hoặc những người làm từ thiện,… Ở Việt Nam, các khoản đóng góp xã hội thể hiện ở các
khoản thu bảo hiểm xã hội, thu quỹ bảo trì đường bộ, các quỹ an sinh xã hội,…
d. Thu từ viện trợ
Viện trợ quốc tế không hoàn lại là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các
tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cấp cho Chính phủ một nước nhằm thực
hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội. Viện trợ không hoàn lại có thể
là song phương hoặc đa phương.
Các hình thức viện trợ không hoàn lại:
- Viện trợ của các chính phủ: Là viện trợ song phương giữa các quốc gia có
thỏa thuận tay đôi với nhau.
- Viện trợ của các tổ chức quốc tế: Là viện trợ đa phương giữa các quốc gia
được thực hiện thông qua một tổ chức quốc tế như Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF), Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ hoạt động dân số
của Liên hợp quốc (UNFPA),…
- Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ. Đặc điểm chung của các tổ chức phi
chính phủ là được thành lập một cách tự nguyện và hợp pháp, không thuộc bộ máy
hành chính nhà nước của bất kỳ quốc gia nào và không nhằm mục đích lợi nhuận.
Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ được thể hiện dưới ba hình thức chủ yếu là viện
trợ thông qua các chương trình, dự án (viện trợ để thực hiện các chương trình/dự án),

71
viện trợ phi dự án (viện trợ bằng tiền hay hiện vật) và viện trợ khẩn cấp trong trường
hợp có thiên tai hoặc tai họa khác.
e. Các khoản thu khác
- Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước: Nhà nước mua hoặc góp vốn cổ phần
vào các doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông. Khi có lợi nhuận các doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nhà nước chia cổ tức cho nhà nước.
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Thu từ bán hoặc cho
thuê tài nguyên thiên nhiên (cho thuê đất chuyên dùng, đất rừng, cho thuê mặt nước,
vùng trời, mặt biển; bán tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản,…); thu từ bán hoặc cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân, cho nước ngoài.
- Thu từ vay nợ trong và ngoài nước; thu từ bán tài sản không có người nhận,
thu phạt, tịch thu,..
2.2.3. Chi tiêu công
2.2.3.1. Khái niệm chi tiêu công
Chi tiêu công là quá trình phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc
nhất định.
Chi tiêu công là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối và sử dụng các quỹ
tiền tệ của nhà nước. Quá trình phân phối là quá trình cấp kinh phí nhà nước để hình
thành các quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi
dùng khoản tiền nhận được từ ngân sách: chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi chương trình
kinh tế mục tiêu,... Chính phủ đóng vai trò là trung tâm trong quá trình tái phân phối
thu nhập, thông qua chi tiêu công thì Chính phủ cung ứng cho xã hội những khoản thu
nhập đã lấy đi của xã hội (như thu thuế) bằng việc cung cấp những hàng hóa công cần
thiết, mà khu vực tư không có khả năng cung cấp hoặc cung cấp không hiệu quả. Với
cơ chế này, chính phủ đã tái phân phối thu nhập của xã hội công bằng hơn, khắc phục
được những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn
định.
Với việc phân phối vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư
cho các ngành then chốt, công trình trọng điểm, hỗ trợ thông qua trợ cấp, trợ giá cho
các chủ thể khác trong các trường hợp cần thiết,… chi tiêu công đã góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản
xuất, cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
2.2.3.2. Phân loại chi tiêu công
Ở nhiều quốc gia, chi tiêu công được phân loại thành chi hoạt động (chi thường
xuyên) và chi đầu tư phát triển.

72
Chi hoạt động là những khoản chi gắn liền với chức năng quản lý và điều hành
xã hội một cách thường xuyên của nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau như quốc
phòng, an ninh, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, khoa học công
nghệ,… Đây là khoản chi mang tính chất tiêu dùng, quy mô và cơ cấu chi hoạt động
phụ thuộc chủ yếu vào bộ máy quản lý nhà nước.
Chi đầu tư phát triển là những khoản chi để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội, đầu tư phát triển sản xuất và dự trữ hàng hóa có tính chiến lược nhằm đảm
bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, trực tiếp làm tăng cơ sở vật
chất của quốc gia, cũng như đóng vai trò “dẫn dắt” hoạt động đầu tư của các chủ thể
kinh tế khác trong nền kinh tế. Chi đầu tư phát triển tập trung vào một số lĩnh vực chủ
yếu sau:
- Chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhằm xây dựng và phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng như cầu cống, đường xá, cảng, sân bay, hệ thống thủy lợi, viễn thông,
các công trình có tính chất chiến lược, trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Việc đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế nhằm tạo điều kiện cho các
chủ thể kinh tế khác mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, có tính chất “mồi” để thu hút các nguồn vốn khác đầu tư cho các
mục tiêu của nhà nước.
- Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, chi góp vốn cổ
phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực cần thiết
cho nền kinh tế. Đây là một hoạt động can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, vừa
đảm bảo đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh then chốt tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế xã hội, vừa đảm bảo sự phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý cho tăng
trưởng kinh tế, dẫn dắt nền kinh tế theo mục tiêu phát triển của nhà nước. Ngoài ra, để
quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì ở những lĩnh vực cần thiết phải có sự tham
gia của nhà nước thì nhà nước tham gia bằng cách góp vốn cổ phần, góp vốn liên
doanh theo một tỷ lệ nhất định, qua đó sẽ kiểm soát hay khống chế các hoạt động của
những doanh nghiệp này.
- Chi dự trữ nhà nước nhằm duy trì sự phát triển cân đối với ổn định của nền
kinh tế. Khoản chi này trước hết được sử dụng để ngăn chặn, hạn chế và bù đắp những
tổn thất bất ngờ xảy ra đối với nền kinh tế như thiên tai, dịch bệnh,… Đồng thời,
khoản chi này cũng sử dụng để điều tiết nền kinh tế trước các thất bại của thị trường
nhằm thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt khi nền kinh tế gặp phải các cú sốc từ
bên ngoài.
2.2.4. Cân đối ngân sách nhà nước
2.2.4.1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước

73
Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ giữa thu và chi ngân sách
nhà nước trong một giai đoạn nhất định (thường là một năm).
Khi thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách, khi đó ngân sách ở trạng thái thặng
dư; khi thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách, khi đó ngân sách ở trạng thái thâm hụt
(hay còn gọi là bội chi ngân sách); khi thu ngân sách bằng chi ngân sách, thì ngân sách
ở trạng thái cân bằng. Tùy theo quan điểm của từng quốc gia, cũng như mục tiêu kinh
tế xã hội trong từng thời kỳ và tùy thuộc vào chu kỳ kinh tế thì ngân sách nhà nước có
thể ở các trạng thái khác nhau. Nhưng xét về dài hạn thì ngân sách cân bằng là trạng
thái chuẩn mực mà các quốc gia hướng tới.
2.2.4.2. Giải pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách thường xuyên xảy ra ở hầu hết các quốc gia với các mức
độ khác nhau do số thu ngân sách luôn là hữu hạn trong khi nhu cầu chi tiêu của nhà
nước không ngừng tăng lên. Thâm hụt ngân sách quy mô lớn, kéo dài là nguyên nhân
trực tiếp gây ra lạm phát, gia tăng nợ công, hạn chế đầu tư của khu vực tư, ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển kinh tế và đời sống dân cư.
Các giải pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách được các quốc gia cân nhắc sử
dụng bao gồm:
- Giảm chi tiêu công.
Giải pháp này được thực hiện trên cơ sở tính toán lại các khoản chi một cách
hợp lý, khoa học nhằm cắt giảm các khoản chi kém hiệu quả và chưa thực sự cần thiết,
ưu tiên thực hiện các khoản chi cấp thiết. Đây được coi là giải pháp hiệu quả nhất, tuy
nhiên lại không thể giảm chi quá nhiều do việc giảm chi có thể ảnh hưởng đến việc
cung cấp hàng hóa công, ảnh hưởng đến lợi ích của công chúng.
- Tăng thu tài chính công từ thuế và các khoản thu khác.
Đây là giải pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ của mình,
tính toán hợp lý để tăng các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí,… Thông thường, giải pháp
này được áp dụng trong dài hạn. Tăng thuế không chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh tăng
mức thuế mà còn hướng đến cải cách các sắc thuế, mở rộng đối tượng chịu thuế, nâng
cao hiệu quả công tác hành thu nhằm chống thất thu thuế, bồi dưỡng nguồn thu trong
tương lai. Mặc dù vậy, nếu nhà nước thu thuế quá cao sẽ hạn chế khả năng đầu tư và
tiêu dùng ở khu vực tư nhân, làm giảm động lực phát triển kinh tế, từ đó làm giảm
nguồn thu trong tương lai.
- Vay nợ trong nước hoặc vay nợ nước ngoài.
Vay nợ trong nước (vay của dân) thường được thực hiện thông qua phát hành
tín phiếu, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư. Giải pháp này có ưu điểm là tận dụng
được vốn nhàn rỗi trong xã hội, hạn chế được sự phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy nhiên
việc tài trợ thâm hụt ngân sách bằng vay nợ trong nước có thể làm tăng áp lực lạm
74
phát trong tương lai và sẽ làm giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận
tín dụng và gây sức ép tăng lãi suất trong nước. Đặc biệt, ở những nước trải qua giai
đoạn lạm phát cao, giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm chúng
trở lên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể
khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này kéo dài có thể gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn
thông qua kênh này trở nên khó khăn vào những năm tiếp theo.
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng vốn vay nước ngoài thông qua
việc nhận viện trợ hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế
tài chính từ WB, IMF, ADB,... Đây là biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách hữu hiệu,
có thể bù đắp được các khoản bội chi mà không gây ra sức ép lạm phát cho nền kinh
tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong
nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, vay nợ nước ngoài có thể
sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ quốc tế tăng lên, giảm khả năng chi
tiêu của Chính phủ. Đồng thời, nó cũng khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào
nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo các điều
khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc vào nước
cho vay.
- Phát hành thêm tiền vào lưu thông.
In tiền trong một thời gian ngắn sẽ là tích cực vì nó khắc phục được những khó khăn
về vốn, chi tiêu công, là giải pháp bù đắp thâm hụt ngân sách một cách nhanh chóng, không
phải trả lãi, không phải gánh chịu thêm các gánh nặng nợ nần. Tuy nhiên, phát hành tiền để
bù đắp bội chi ngân sách nhà nước là việc đưa một lượng tiền khống, lượng tiền không có
đảm bảo ra lưu thông, điều này đã làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên và dẫn đến lạm
phát. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, suy thoái, lạm phát cao, có
khả năng làm suy giảm uy tín của nhà nước đối với công chúng. Vì vậy, giải pháp này chỉ
mang tính tình thế và hiện nay ít được các quốc gia sử dụng.
Ngoài ra, nhà nước có thể sử dụng một số giải pháp khác như sử dụng quỹ dự
trữ ngoại tệ, bán các tài sản công (tư nhân hóa), cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước,… Trên thực tế, sử dụng giải pháp nào để bù đắp thâm hụt ngân sách còn tùy
thuộc vào từng quốc gia, từng thời kỳ.
2.2.5. Nợ công
2.2.5.1. Khái niệm nợ công
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì nợ công là
toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Theo quan niệm này, nợ công gồm nghĩa vụ nợ của các nhóm chủ thể sau: (i) Nợ của
Chính phủ và các Bộ, ban, ngành trung ương; (ii) Nợ của các cấp chính quyền địa
75
phương; (iii) Nợ của Ngân hàng trung ương; (iv) Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính
phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của
Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức
đó vỡ nợ.
Tại mỗi quốc gia, tùy thuộc vào thể chế chính trị mà quan niệm về nợ công lại khác
nhau, điểm khác biệt lớn nhất của các quan điểm này là nợ Chính phủ có hay không bao
gồm nợ của các doanh nghiệp nhà nước. Việc xác định chính xác nợ công sẽ giúp các nhà
quản lý đánh giá đúng những tác động tích cực và tiêu cực của nợ công, từ đó có những
biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.
Tại Việt Nam, nợ công bao gồm:
(1) Nợ Chính phủ: Nợ do Chính phủ phát hành công cụ nợ; nợ do Chính phủ ký
kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài; nợ của ngân sách trung ương vay từ quỹ dự
trữ tài chính của Nhà nước, ngân quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách.
(2) Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo
lãnh; nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.
(3) Nợ chính quyền địa phương: Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương; nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài; nợ của ngân sách địa
phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước, quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân
quỹ nhà nước và vay khác theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
2.2.5.2. Phân loại nợ công
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, nợ công được phân loại thành nhiều loại
khác nhau nhằm thuận tiện cho việc tính toán, đánh giá và quản lý nợ công. Nếu căn
cứ vào kỳ hạn nợ thì nợ công được phân thành nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn; căn
cứ vào nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công được phân thành nợ trong nước và nợ
nước ngoài; căn cứ vào lãi suất cho vay thì nợ công được phân thành nợ có lãi suất cố
định và nợ có lãi suất thả nổi; căn cứ vào loại tiền vay thì nợ công phân thành nợ bằng
đồng nội tệ và nợ bằng ngoại tệ. Trong giáo trình này, phân loại nợ công sẽ được tìm
hiểu sâu hơn về nợ trong nước và nợ nước ngoài, với cách phân loại này sẽ giúp đánh
giá chính xác hơn tác động của việc thay đổi các yếu tố kinh tế trong nước và nước
ngoài đến quy mô, khả năng thanh toán nợ công.
a. Nợ trong nước
Các quốc gia thực hiện vay nợ trong nước bằng các công cụ tài chính khác
nhau, tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia. Các công cụ tài chính có thể sử dụng
như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, công
trái,…Vay nợ trong nước sẽ giúp bù đắp kịp thời nguồn vốn cho ngân sách, thực hiện
đầu tư các công trình trọng điểm quốc gia,…
76
b. Nợ nước ngoài
- Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
ODA là khoản vay nhân danh Nhà nước, Chính phủ từ các nhà tài trợ là chính
phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương (WB, IMF, ADB,…), các tổ chức liên
quốc gia hoặc liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ,… Những khoản vay này
thường dành cho các nước đang phát triển với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn
thanh toán,… Tuy nhiên, vốn vay này thường đi kèm với các điều kiện nhất định như
tham gia gián tiếp vào các dự án dưới các hình thức nhà thầu, chuyên gia,.. và thường
phải đáp ứng những cam kết này khá chặt chẽ. Đối với vốn vay ODA có tỷ lệ nhất
định là không hoàn lại, chính vì vậy việc quản lý những khoản vay này phải hết sức
chặt chẽ, tránh tình trạng vốn vay sử dụng không hiệu quả. Vay ODA thường thực
hiện thông qua các hình thức:
+ Viện trợ song phương: Là viện trợ giữa các nước có thỏa thuận tay đôi với
nhau. Viện trợ song phương thường thực hiện thông qua một tổ chức của Chính phủ,
hoặc các cơ quan quản lý hoạt động viện trợ hay chương trình hợp tác phát triển kinh
tế với nước ngoài của Chính phủ nước cấp viện trợ.
+ Viện trợ đa phương: Là viện trợ giữa các quốc gia được thực hiện thông qua
tổ chức nào đó như các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc (UNICEF, ILO,
UNDP,…), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Cộng đồng chung
châu Âu (EC),… Viện trợ đa phương hiện nay được coi là viện trợ ưu việt hơn các loại
hình khác, không vì mục đích kinh tế hay vì các mục đích khác mà mang tính chất các
nước phát triển tài trợ cho các nước đang phát triển, kém phát triển để thúc đẩy phát
triển lĩnh vực nào đó. Do đó, tránh được những vấn đề nảy sinh từ mối quan hệ tay đôi
trong viện trợ, đặc biệt những vấn đề chính trị.
+ Viện trợ không hoàn lại: Là sự kết hợp giữa viện trợ song phương và viện trợ
đa phương. Đối với hình thức này thì thường các bên tham gia sẽ thành lập quỹ chung
hoặc quỹ ủy thác. Muốn nhận được viện trợ từ các loại quỹ này thì các nước nhận viện
trợ phải xây dựng dự án từ trước và trên cơ sở đó để vận động nguồn tài trợ. Hình thức
tài trợ này ngày càng tăng trong các hình thức viện trợ nước ngoài.
- Vay có tính chất thương mại.
Là những khoản vay dựa trên quan hệ cung cầu về vốn vay trên thị trường, lãi
suất do thị trường quyết định, không chịu sự ràng buộc nào về các điều kiện kinh tế
hay chính trị. Đối với khoản vay này, chủ thể cho vay không tham gia vào hoạt động
sử dụng vốn vay của chủ thể vay vốn mà chỉ thực hiện giám sát quá trình sử dụng vốn
vay.
- Vay ưu đãi.

77
Là những khoản vay mà các điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng
ưu đãi không đạt các tiêu chuẩn chung của vay ODA.
Công cụ vay nợ nước ngoài phổ biến là phát hành trái phiếu quốc tế. Trái phiếu
quốc tế của Chính phủ là chứng chỉ vay nợ do Chính phủ hay chính quyền địa phương
phát hành trên thị trường quốc tế nhằm huy động vốn của các nhà đầu tư trên thế giới.
Đây là hình thức vay trực tiếp từ các nhà đầu tư quốc tế nên tính độc lập về tài chính
của Chính phủ rất cao, tuy nhiên phải tuân thủ các thông lệ quốc tế về trình tự, thủ tục
phát hành và tính bất khả kháng trong thanh toán gốc và phải trả lãi trái phiếu khi đến
hạn.
2.2.5.3. Tác động của nợ công
a. Tác động tích cực
- Nợ công đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển, đảm bảo an ninh xã hội.
Nợ công với mức độ vừa phải thì sự gia tăng nợ công góp phần bù đắp nguồn
vốn thiếu hụt cho đầu tư phát triển. Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Chính phủ để
triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm quốc gia mà cần có vốn đầu tư
công giữ vai trò chủ đạo như hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực
hiện các chương trình an sinh xã hội và thực hiện các mục tiêu phát triển khác. Chính
vì vậy, Chính phủ các quốc gia phải tiến hành vay nợ để có thêm vốn nhằm thúc đẩy
sản xuất trong nước và tạo đòn bẩy cho sự phát triển của các thành phần kinh tế khác,
đồng thời thực hiện các chương trình phúc lợi quốc gia. Bên cạnh đó, nợ công góp
phần tận dụng được vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ các mục tiêu vĩ mô của nhà
nước, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
Thông thường, nợ công không được các quốc gia sử dụng để tài trợ cho các
khoản chi an sinh xã hội, tuy nhiên, trong ngắn hạn tác động từ nợ công làm gia tăng
nguồn lực cho nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng, nâng
cao năng lực sản xuất của nền kinh tế, GDP tăng thì GDP/người tăng, mức sống của
người dân tăng lên. Bên cạnh đó cán cân ngân sách tăng sẽ giúp Chính phủ có thêm
nguồn lực để thực hiện các dự án phúc lợi và an sinh xã hội góp phần tài trợ cho những
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân.
- Nợ công góp phần tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước.
Để bù đắp thâm hụt ngân sách có thể thực hiện các giải pháp như tăng thuế,
giảm chi tiêu của Chính phủ, vay nợ, phát hành tiền,… Trong đó vay nợ là cách được
nhiều quốc gia sử dụng vì có thể đáp ứng kịp thời thiếu hụt ngân sách nhà nước trong
khi các nguồn khác chưa đáp ứng kịp thời, như việc tăng thuế và giảm chi tiêu của
Chính phủ đòi hỏi phải có một khoảng thời gian dài, cũng như phải thực hiện đồng bộ
78
nhiều chính sách, in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách có thể gây ra lạm phát,… Giải
pháp tăng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách do cắt giảm thuế có thể sẽ góp phần
kích thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm, tăng tổng sản phẩm quốc dân trong
ngắn hạn.
- Nợ công tạo nguồn lực để nhà nước điều tiết thị trường tài chính và thực thi
chính sách tiền tệ.
Nợ công sẽ cung cấp nguồn lực cho Chính phủ sử dụng để phân phối cho các
chủ thể quản lý thực hiện các biện pháp điều tiết thị trường tài chính và thực thi các
chính sách tiền tệ theo các mục tiêu vĩ mô đã đặt ra. Để điều tiết thị trường tài chính và
thực thi chính sách tiền tệ, Chính phủ thường tiến hành huy động vốn thông qua các
công vụ vay nợ như phát hành trái phiếu chính phủ để huy động vốn từ các tổ chức tài
chính, cá nhân nước ngoài và trong nước. Bên cạnh đó, sử dụng nợ công để điều tiết
thị trường tài chính nhằm bố trí luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, cung cấp
các phương tiện để quản lý những rủi ro liên quan đến các hoạt động luân chuyển vốn.
Ngoài ra, Chính phủ còn sử dụng các công cụ tài chính nhằm quản lý các rủi ro liên
quan đến các tài sản tài chính. Bên cạnh đó, thông qua nghiệp vụ của ngân hàng trung
ương để thiết lập và thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả nhằm phục vụ yêu
cầu điều tiết kinh tế vĩ mô như hạn chế lạm phát bằng cách điều tiết mức cung tiền
thông qua phát hành các công cụ nợ; tiến hành điều chỉnh, cân đối lại nguồn vốn vay
cho đầu tư phát triển qua các nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay,…
- Góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế.
Khi vay nợ, buộc các quốc gia vay nợ phải tuân thủ các quy tắc, luật lệ quốc tế
đồng thời phải tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thể chế, pháp luật để
phù hợp với thông lệ quốc tế và lợi ích quốc gia. Để vay nợ, Chính phủ nước đi vay
phải tích cực cải thiện niềm tin, hệ số tín nhiệm quốc gia, đồng thời phải tích cực đổi
mới và hoàn thiện để phù hợp với quy định của các quốc gia chủ nợ, các tổ chức tài
chính quốc tế, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và hội nhập. Bên cạnh đó, nợ
công còn giúp các quốc gia thiếu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý có thể tiếp cận
được với nguồn lực bên ngoài phục vụ hiệu quả cho quá trình phát triển mà không làm
giảm đầu tư hay tiêu dùng trong nước. Nợ công không chỉ gia tăng sự ràng buộc giữa
các quốc gia, mà còn mở rộng mối quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, qua đó
quốc gia vay nợ sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để quốc gia vay nợ hội nhập sâu rộng hơn vào
nền kinh tế toàn cầu.
b. Tác động tiêu cực
- Nợ công lớn có thể dẫn đến hiện tượng thoái lui đầu tư tư nhân, tạo áp lực
gây ra lạm phát.
79
Khi Chính phủ vay nợ trong nước, dân chúng thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, thì dân chúng lại sở hữu trái phiếu chính
phủ làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của Chính phủ lại tăng lên, từ đó
đẩy mặt bằng lãi suất tăng, kết quả làm tăng chi phí đầu tư và có thể dẫn đến hiện
tượng “thoái lui đầu tư” khu vực tư nhân.
Nguyên nhân nảy sinh lạm phát là do tổng cầu tăng lên hoặc do chi phí đẩy.
Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm cho tiêu dùng của
Chính phủ tăng lên, mặt khác sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao. Khi Chính phủ tăng
vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành và giá bán sản
phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ trái phiếu chính phủ cảm thấy mình
trở nên giàu có hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân tăng, chi tiêu
công của Chính phủ tăng dẫn đến cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực lạm phát trong
ngắn hạn, từ đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế.
- Nợ công có thể gây ra bất ổn về tỷ giá.
Khi chính phủ vay nợ nước ngoài, tác động thoái lui đầu tư có thể được hạn chế
do giảm bớt căng thẳng về lãi suất, nhưng lại có thể gây ra sự bất ổn về tỷ giá, từ đó
khiến cho hoạt động đầu tư bị sụt giảm, làm suy giảm kinh tế trong nước. Trong ngắn
hạn, khi Chính phủ tăng vay nợ nước ngoài thì một dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào
trong nước có thể sẽ làm tăng giá đồng nội tệ, khi đồng nội tệ tăng giá so với ngoại tệ
sẽ khuyến khích nhập khẩu, có thể dẫn đến tình trạng nhập siêu – đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến thâm hụt thương mại gia tăng. Trong trung và dài hạn, áp lực trả nợ cả
gốc và lãi bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, có thể làm cho đồng nội tệ mất
giá, tỷ giá tăng làm chi phí thanh toán nợ bằng đồng ngoại tệ sẽ hơn, nếu vượt quá sức
chịu đựng của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.
- Nợ công quá lớn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ.
Khi vay nợ nước ngoài thì sẽ phải vay bằng SDR, USD, EUR,… hoặc bằng
chính đồng tiền của quốc gia chủ nợ, do đó Chính phủ quốc gia vay nợ phải có nguồn
ngoại tệ để trả nợ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng cao dẫn đến khả năng mất giá đồng nội tệ.
Còn nếu vay nợ trong nước thì mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng lên cùng với nguy
cơ lạm phát cao cũng là nguyên nhân dẫn đến đồng nội tệ mất giá. Việc mất giá đồng
nội tệ sẽ dẫn đến dự trữ ngoại tệ quốc gia giảm, tình trạng này kéo dài có thể làm
nguồn dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, buộc Chính phủ phải phá giá đồng nội tệ - đây là một
trong các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ. Mặt khác, nợ công cao cũng làm
lòng tin của các chủ nợ đối với khả năng trả nợ của Chính phủ quốc gia vay nợ giảm
sút, dẫn đến việc các nhà đầu tư rút vốn. Khi đó, giá trái phiếu Chính phủ giảm, nguy
cơ các khoản vay nước ngoài mất khả năng thanh toán. Nợ công tăng cao, vượt quá
giới hạn an toàn sẽ khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép từ bên
80
trong lẫn bên ngoài quốc gia. Nguy cơ này không chỉ dừng lại ở cuộc khủng hoảng
tiền tệ hay khủng hoảng tài chính nữa mà còn có khả năng đẩy toàn bộ nền kinh tế rơi
vào khủng hoảng nợ công và những hệ lụy khó lường.
- Nợ công có thể làm tăng gánh nặng trả nợ cho thế hệ tương lai.
Nếu phần lớn nợ công được tài trợ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì không
chỉ tạo ra lợi ích cho thế hệ hiện tại mà còn tạo ra lợi thế cho thế hệ tương lai, đồng
thời tăng trưởng kinh tế cũng mang lại nguồn thu ngân sách để trả nợ gốc và lãi khi
đến hạn. Do đó, nếu vay nợ trong khả năng có thể trả được nợ an toàn và trong mức rủi
ro có thể chấp nhận được thì nợ công ít gây ra các tác động tiêu cực cho thế hệ tương
lai. Gánh nặng của nợ công cũng có thể được bù đắp nếu các khoản vay nợ được sử
dụng để tài trợ cho các dự án có khả năng sinh lời trong tương lai. Như vậy, việc đánh
giá đúng tình trạng của nợ công và sự tác động của nó đến nền kinh tế không chỉ dựa
vào quy mô khoản nợ (nợ công/GDP) mà còn cần phải xét đến cơ cấu nợ; chất lượng,
hiệu quả của các dự án đầu tư công được tài trợ bằng vốn vay; năng lực kinh tế, tài
chính và khả năng trả nợ của quốc gia trong tương lai.
Khi nợ công quá lớn, vượt quá khả năng thanh toán của quốc gia, trong ngắn
hạn Chính phủ phải cơ cấu lại khoản nợ bằng cách vay nợ mới để trả nợ cũ, cùng với
đó Chính phủ phải gia tăng các khoản nợ mới để thực hiện các mục tiêu của mình, hậu
quả là tốc độ tăng nợ công ngày càng nhanh. Đến một thời điểm nhất định trong tương
lai, Chính phủ không thể vay nợ thêm hoặc chi phí vay nợ quá lớn, Chính phủ buộc
phải tăng thuế hoặc cắt giảm chi tiêu. Những chính sách này có thể ảnh hưởng tiêu cực
đến thế hệ sau. Một thực tế là các khoản nợ công thường được chi tiêu cho thế hệ hiện
tại nhưng lại gây hệ lụy cho thế hệ tương lai khi họ có nguy cơ bị sụt giảm về thu
nhập, thế hệ tương lai sẽ phải đóng nhiều thuế hơn để trả lãi thay vì nhận được các
khoản ưu đãi, trợ cấp từ phía Chính phủ, họ cũng sẽ phải chịu sự sụt giảm về chất
lượng cuộc sống do những hệ quả từ nợ công gây ra.
- Những tác động tiêu cực khác.
Bên cạnh những hậu quả về kinh tế thì một quốc gia với khoản nợ công lớn có
thể phải đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như: Làm thay đổi quy trình quản
lý nhà nước do phải thay đổi chính sách tài chính quốc gia để trang trải các khoản nợ;
làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia; nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc
lập về chính trị hoặc khả năng lãnh đạo quốc gia,... Các quốc gia phải chịu sức ép từ
phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế,
giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ
máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế,... Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào
các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan
hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
81
Đối với các chủ nợ trong nước, do chủ yếu vay bằng đồng nội tệ nên sẽ tránh
khỏi rủi ro tỷ giá, tuy nhiên Chính phủ phải đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị
trường và niềm tin của nhà đầu tư trong nước, các khoản vay trong nước cũng tạo ra
rủi ro đảo nợ do kỳ hạn vay không dài. Đối với các khoản vay nước ngoài, sự phụ
thuộc của nước đi vay vào chủ nợ được gia tăng thông qua việc các chủ nợ đưa ra “bẫy
nợ” hoặc các điều khoản cho vay với số lượng lớn, điều khoản cho vay dễ dàng, đồng
thời đưa ra những yêu sách, ràng buộc về mua sắm thiết bị từ quốc gia cho vay; hoặc
vay bằng đồng nội tệ của chủ nợ, mục đích là phá hoại thị trường tài chính, tiền tệ;
hoặc mở đường cho các doanh nghiệp từ quốc gia chủ nợ vào nước vay nợ làm ăn,
kinh doanh. Trường hợp chính phủ mất hoàn toàn khả năng trả nợ (vỡ nợ) sẽ phải đáp
ứng các yêu sách từ phía chủ nợ về chủ quyền, chính trị và các yêu sách khác.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền kinh tế
mọi quốc gia. Bài toán về nợ công vốn phức tạp và hiệu ứng của nó vẫn luôn là khó
lường, chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mô, năng lực của mình
để có thể hấp thụ một luồng vốn tín dụng tương ứng, để từ đó chủ động nhận thức,
kiểm soát, quản lý việc vay và sử dụng nợ một cách hợp lý cả trong ngắn hạn và dài
hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ công một cách
hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững sự ổn định và phát triển nền kinh
tế.
2.3. Tài chính doanh nghiệp
2.3.1. Doanh nghiệp
2.3.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
a. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất, cung
ứng hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng qua thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình kết hợp các yếu tố
đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu… và sức lao động để tạo ra yếu tố
đầu ra là hàng hóa, dịch vụ và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ đó để thu lợi nhuận.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có
nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải các
cá nhân. Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, được đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.
b. Phân loại doanh nghiệp

82
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp 2020, có bốn hình thức pháp lý cơ bản của
doanh nghiệp, gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh.
* Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không
được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh. Doanh nghiệp tư
nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong
công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
* Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông
tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp; cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ các trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó:
thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50; thành
viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; phần vốn góp của thành viên chỉ được
chuyển nhượng theo quy định.
* Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở
hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (thường được gọi là các
thành viên nay là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có
thêm thành viên góp vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2.3.1.2. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
83
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm tất cả những điều kiện bên
trong và bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp.
a. Môi trường kinh tế - tài chính
- Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: Nếu cơ sở hạ tầng phát triển thì sẽ giảm bớt
được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tiết kiệm được chi phí trong kinh doanh.
- Tình trạng của nền kinh tế: Một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng
thì có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư phát triển, từ đó đòi hỏi doanh nghiệp
phải tích cực áp dụng các biện pháp huy động vốn để đáp ứng yêu cầu đầu tư. Ngược
lại, nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái thì doanh nghiệp khó có thể tìm được
cơ hội tốt để đầu tư.
- Lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Lãi suất thị trường ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư, đến chi
phí sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp. Lãi suất thị trường còn ảnh
hưởng gián tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khi lãi suất tăng
cao, người ta có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn tiêu dùng, điều đó hạn chế đến việc tiêu
thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp.
- Lạm phát: Khi nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao thì việc tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp gặp khó khăn khiến cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp
căng thẳng. Nếu doanh nghiệp không áp dụng các biện pháp tích cực thì có thể còn bị
thất thoát vốn kinh doanh. Lạm phát cũng làm cho nhu cầu vốn kinh doanh tăng lên,
chi phí kinh doanh tăng và tình hình tài chính doanh nghiệp không ổn định.
- Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước: Chính sách kinh tế và tài chính
của Nhà nước đối với doanh nghiệp như các chính sách khuyến khích đầu tư, chính
sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định… là yếu
tố tác động lớn đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp.
- Mức độ cạnh tranh: Nếu doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề,
lĩnh vực có mức độ cạnh tranh cao thì đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho
việc đổi mới thiết bị, công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư nhiều cho
quảng cáo, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm…
- Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: Hoạt động của
doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi doanh nghiệp có thể huy động vốn,
đồng thời có thể đầu tư các khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi để gia tăng mức sinh lời
của vốn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm đa dạng hóa các công cụ và các
hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp, ví dụ như sự phát triển các hình thức thuê
tài chính, sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán…

84
Sự phát triển mạnh của các trung gian tài chính sẽ cung cấp các dịch vụ tài
chính ngày càng phong phú, đa dạng hơn cho doanh nghiệp, chẳng hạn sự phát triển
của các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính ngày nay đã làm đa dạng hóa
các hình thức thanh toán cho doanh nghiệp. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trung
gian tài chính tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng nguồn vốn tín
dụng với chi phí thấp hơn.
b. Môi trường chính trị
Chính trị là yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm phân
tích để dự báo mức độ an toàn trong các hoạt động tại các quốc gia, các khu vực nơi
mà doanh nghiệp đang có mối quan hệ mua bán hay đầu tư. Các yếu tố như thể chế
chính trị, sự ổn định hay biến động về chính trị tại quốc gia hay một khu vực là những
tín hiệu ban đầu giúp chủ doanh nghiệp nhận diện đâu là cơ hội hoặc đâu là nguy cơ
của doanh nghiệp để đề ra các quyết định đầu tư, sản xuất kinh doanh trên các khu vực
thị trường thuộc phạm vi quốc gia hay quốc tế. Yếu tố chính trị là yếu tố rất phức tạp,
tuỳ theo điều kiện cụ thể yếu tố này sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế trong phạm vi
quốc gia hay quốc tế. Các doanh nghiệp muốn phát triển thị trường cần phải nhạy cảm
với tình hình chính trị ở mỗi khu vực địa lý, dự báo diễn biến chính trị trên phạm vi
quốc gia, khu vực, thế giới để có các quyết định chiến lược thích hợp và kịp thời.
c. Môi trường luật pháp
Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn
phụ thuộc vào yếu tố pháp luật và quản lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống
luật pháp có chất lượng là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh doanh bình
đẳng cho các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh chân chính, có
trách nhiệm. Tuy nhiên nếu hệ thống pháp luật không hoàn thiện cũng sẽ có ảnh hưởng
không nhỏ tới môi trường kinh doanh gây khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Pháp luật đưa ra những quy định cho phép, không cho phép hoặc những đòi hỏi
buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ trong hệ thống luật pháp
như thuế, đầu tư,... sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải hiểu rõ tinh thần của luật pháp
và chấp hành tốt những quy định của pháp luật, nghiên cứu để tận dụng được các cơ
hội từ các điều khoản của pháp lý mang lại và có những đối sách kịp thời trước những
nguy cơ có thể đến từ những quy định pháp luật tránh được các thiệt hại do sự thiếu
hiểu biết về pháp lý trong kinh doanh.
d. Môi trường công nghệ
Đây là một trong những yếu tố rất năng động chứa đựng nhiều cơ hội và thách
thức đối với các doanh nghiệp:
85
Những thách thức đối với doanh nghiệp từ môi trường công nghệ có thể là:
- Sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh
của các sản phẩm thay thế, đe doạ các sản phẩm truyền thống của ngành hiện hữu.
- Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện hữu bị lỗi thời và tạo ra áp
lực đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh.
- Sự ra đời của công nghệ mới càng tạo điều kiện thuận lợi cho những người
xâm nhập mới và làm tăng thêm áp lực đe dọa các doanh nghiệp hiện hữu trong ngành.
- Sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng rút
ngắn lại, điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn thời gian khấu hao so với trước.
Bên cạnh những thách thức này thì những cơ hội có thể đến từ môi trường công
nghệ đối với các doanh nghiệp có thể là:
- Công nghệ mới có thể tạo điều kiện để sản xuất sản phẩm rẻ hơn với chất
lượng cao hơn, làm cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Thường thì các
doanh nghiệp đến sau có nhiều ưu thế để tận dụng được cơ hội này hơn là các doanh
nghiệp hiện hữu trong ngành.
- Sự ra đời của công nghệ mới có thể làm cho sản phẩm có nhiều tính năng hơn và
qua đó có thể tạo ra những thị trường mới hơn cho các sản phẩm và dịch vụ của công ty.
Ngoài những khía cạnh trên đây, một số điểm mà doanh nghiệp cần lưu ý thêm
khi đề cập đến môi trường công nghệ là:
- Áp lực tác động của sự phát triển công nghệ và mức chi tiêu cho sự phát triển
công nghệ khác nhau theo ngành. Các ngành truyền thông, điện tử, hàng không và
dược phẩm luôn có tốc độ đổi mới công nghệ cao, do đó mức chi tiêu cho sự phát triển
công nghệ thường cao hơn so với ngành dệt, lâm nghiệp và công nghiệp kim loại. Đối
với những doanh nghiệp trong những ngành bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi kỹ thuật
nhanh thì quá trình đánh giá những cơ hội và thách thức mang tính công nghệ trở
thành một vấn đề đặc biệt quan trọng của việc kiểm soát các yếu tố bên ngoài.
- Một số ngành nhất định có thể nhận được sự khuyến khích và tài trợ của
Chính phủ cho việc nghiên cứu phát triển khi có sự phù hợp với các phương hướng và
ưu tiên của Chính phủ. Nếu các doanh nghiệp biết tranh thủ những cơ hội từ sự trợ
giúp này sẽ cặp được những thuận lợi trong quá trình hoạt động kinh doanh.
e. Môi trường văn hóa – xã hội
Môi trường văn hóa – xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị mà những
chuẩn mực và giá trị này được chấp nhận và tôn trọng, bởi một xã hội hoặc một nền
văn hoá cụ thể. Sự thay đổi của các yếu tố văn hoá xã hội một phần là hệ quả của sự
tác động lâu dài của các yếu tố vĩ mô khác, do vậy nó thường xảy ra chậm hơn so với
các yếu tố khác. Một số những đặc điểm mà các doanh nghiệp cần chú ý là sự tác động
của các yếu tố văn hoá xã hội thường có tính dài hạn và tinh tế hơn so với các yếu tố
86
khác, thậm chí nhiều lúc khó mà nhận biết được. Mặt khác, phạm vi tác động của các
yếu tố văn hoá xã hội thường rất rộng, nó xác định cách thức người ta sống làm việc,
sản xuất, và tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ. Như vậy, những hiểu biết về mặt văn
hoá - xã hội sẽ là những cơ sở rất quan trọng cho các doanh nghiệp trong hoạt động
kinh doanh.
Các khía cạnh hình thành môi trường văn hoá xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ tới
các hoạt động kinh doanh như: Những quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, về lối sống, về
nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm và ưu tiên của
xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội,... Bên cạnh đó, dân số cũng là
một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến các yếu tố khác của môi trường vĩ mô, đặc
biệt là yếu tố xã hội và yếu tố kinh tế. Những thay đổi trong môi trường dân số sẽ tác
động trực tiếp đến sự thay đổi của môi trường kinh tế và xã hội, ảnh hưởng đến chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.2. Khái niệm, vai trò của tài chính doanh nghiệp
2.3.2.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là cách thức huy động, phân phối và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tối ưu nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh
tế. Tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa doanh nghiệp
với các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Nhà nước

Thị trường
Thị trường tài chính Doanh hàng hóa, dịch
nghiệp vụ, lao động

Nội bộ doanh nghiệp

Sơ đồ 2.3. Các quan hệ giữa doanh nghiệp và các chủ thể khác
Các quan hệ giữa doanh nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế chủ yếu gồm:
quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường
tài chính, quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động và
quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và
các khoản phải nộp khác cho Nhà nước, khi Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
87
Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp huy động vốn hoặc
thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính. Doanh nghiệp có thể thông qua thị trường tài
chính để vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành trái
phiếu để huy động nợ dài hạn hoặc phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn chủ sở
hữu. Đồng thời, doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ trả lãi vay và vốn vay cho các
chủ nợ, trả lãi cổ phần cho các cổ đông góp vốn vào doanh nghiệp. Trên thị trường tài
chính, doanh nghiệp có thể thực hiện đầu tư tài chính ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua
việc gửi tiền vào ngân hàng hoặc nắm giữ các cổ phiếu, trái phiếu của các doanh
nghiệp khác nhằm mục đích sinh lời.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động
Doanh nghiệp có mối quan hệ với các doanh nghiệp khác thông qua thị trường
hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Trên những thị trường này, doanh nghiệp
có thể mua sắm máy móc thiết bị, vật tư hàng hóa, thuê lao động… Đồng thời, thông
qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu hàng hóa, dịch vụ để có thể
cung ứng. Từ đó, doanh nghiệp xây dựng nguồn lực đầu tư, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, kế hoạch marketing nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Quan hệ về mặt giá trị trong nội bộ doanh nghiệp thể hiện thông qua quan hệ
giữa các bộ phận sản xuất – kinh doanh, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa cổ đông và
người quản lý, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này thể
hiện thông qua hàng hoạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức, chính
sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí….
2.3.2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp thể hiện
qua các mặt chủ yếu sau:
- Huy động vốn đảm bảo cho các hoạt động của doanh nghiệp diễn ra bình
thường và liên tục. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy sinh các
nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh
nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể
hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong thời kỳ và đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh
nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức
mới cho phép các doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài. Do vậy, vai trò của tài
chính doanh nghiệp ngày càng quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình
thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng
và liên tục với chi phí huy động vốn ở mức thấp.

88
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp đóng vai trò
quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng
sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần chọn ra dự án đầu tư tối ưu. Hiệu
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử
dụng vốn. Việc huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh
nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Việc hình thành và sử dụng tốt các
quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng, phạt vật chất hợp
lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy cán bộ công nhân viên gắn liền với doanh nghiệp
từ đó nâng cao năng suất lao động, góp phần cải tiến sản xuất kinh doanh nâng cao
hiệu quả sử dụng tiền vốn.
- Kiểm tra, giám sát một cách toàn diện các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Thông qua các tình hình tài chính và việc thực hiện các chỉ tiêu tài
chính, các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá khái quát và kiểm soát được các
mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện được kịp thời những tồn tại vướng mắc
trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động phù hợp
với diễn biến thực tế kinh doanh.
2.3.3. Tải sản của doanh nghiệp
Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh
tế trong tương lai. Các nguồn lực được dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có thể được biểu hiện dưới hình thái vật chất như nhà xưởng, máy móc
thiết bị, hàng tồn kho hoặc biểu hiện dưới hình thái phi vật chất như phần mềm, bằng
phát minh, sáng chế. Các tài sản này do doanh nghiệp kiểm soát và có thể mang lại lợi
ích kinh tế trong tương lai cho doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp còn bao gồm
các tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp kiểm
soát được và thu được lợi ích kinh tế trong tương lai, như tài sản thuê tài chính; hoặc
có những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và thu được lợi ích kinh tế
trong tương lai nhưng có thể không kiểm soát được về mặt pháp lý, như bí quyết kỹ
thuật thu được từ hoạt động triển khai có thể thỏa mãn các điều kiện trong định nghĩa
về tài sản khi các bí quyết đó còn giữ được bí mật và doanh nghiệp còn thu được lợi
ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn tiền
và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các khoản tiền mà
doanh nghiệp phải chi ra. Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản được thể hiện
trong các trường hợp, như: Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản
khác trong sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng; để bán

89
hoặc trao đổi lấy tài sản khác; để thanh toán các khoản nợ phải trả; để phân phối cho
các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, tài sản được chia thành tài sản cố
định và tài sản lưu động, còn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất,
tài sản bao gồm: tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
2.3.3.1. Tài sản cố định
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn, có thời gian sử dụng lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định hữu hình, tài sản cố
định vô hình và tài sản cố định thuê tài chính.
a. Tài sản cố định hữu hình
* Khái niệm
Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất
thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh
doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc,
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải,... đồng thời giá trị của nó được chuyển dịch
dần từng phần vào giá trị của sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Tư liệu lao động là những tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ
thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay
một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào thì cả hệ thống
không thể hoạt động được. Hiện nay ở Việt Nam, một tài sản nếu thoả mãn đồng thời
cả ba tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là tài sản cố định của doanh nghiệp:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
- Có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên;
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị từ
30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) trở lên.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau,
trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ
phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó
nhưng do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ
phận tài sản thì mỗi bộ phận tài sản đó nếu cùng thoả mãn đồng thời ba tiêu chuẩn của
tài sản cố định được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập.
Đối với súc vật làm việc và/hoặc cho sản phẩm, thì từng con súc vật thoả mãn
đồng thời ba tiêu chuẩn của tài sản cố định được coi là một tài sản cố định hữu hình.
Đối với vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn cây, hoặc cây thoả mãn đồng
thời ba tiêu chuẩn của tài sản cố định được coi là một tài sản cố định hữu hình.
90
* Phân loại
- Nhà cửa, vật kiến trúc: Là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành
sau quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân
bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, đường băng
sân bay, cầu tầu, cầu cảng.
- Máy móc, thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, giàn khoan
trong lĩnh vực dầu khí, cần cẩu, dây chuyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ.
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Là các loại phương tiện vận tải gồm
phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các
thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải.
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: Là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ quản lý, thiết
bị điện tử, thiết bị, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi, chống
mối mọt.
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và/hoặc cho sản phẩm: Là các vườn cây lâu
năm như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh,...;
súc vật làm việc và/ hoặc cho sản phẩm như đàn voi, đàn ngựa, đàn trâu, đàn bò…
- Các loại tài sản cố định khác: Là toàn bộ các tài sản cố định khác chưa liệt kê
vào năm loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật.
* Xác định nguyên giá tài sản cố định hữu hình
Trường hợp 1: Tài sản cố định hữu hình mua sắm.
Nguyên giá tài sản cố định hữu hình mua sắm (kể cả mua mới và cũ): là giá
mua thực tế phải trả cộng (+) các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được
hoàn lại), các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài sản cố
định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: lãi tiền vay phát sinh trong quá trình đầu tư
mua sắm tài sản cố định; chi phí vận chuyển, bốc dỡ; chi phí nâng cấp; chi phí lắp đặt,
chạy thử; lệ phí trước bạ và các chi phí liên quan trực tiếp khác.
Trường hợp 2: Tài sản cố định hữu hình mua theo hình thức trao đổi.
Nguyên giá tài sản cố định mua theo hình thức trao đổi với một tài sản cố định
hữu hình không tương tự hoặc tài sản khác là giá trị hợp lý của tài sản cố định hữu
hình nhận về, hoặc giá trị hợp lý của tài sản cố định đem trao đổi (sau khi cộng thêm
các khoản phải trả thêm hoặc trừ đi các khoản phải thu về) cộng (+) các khoản thuế
(không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại), các chi phí liên quan trực tiếp phải chi
ra đến thời điểm đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như: chi phí vận
chuyển, bốc dỡ; chi phí nâng cấp; chi phí lắp đặt, chạy thử; lệ phí trước bạ (nếu có).

91
Nguyên giá tài sản cố định hữu hình mua theo hình thức trao đổi với một tài sản
cố định hữu hình tương tự, hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở
hữu một tài sản tương tự là giá trị còn lại của tài sản cố định hữu hình đem trao đổi.
Trường hợp 3: Tài sản cố định hữu hình nhận góp vốn, nhận lại vốn góp.
Tài sản cố định nhận góp vốn, nhận lại vốn góp là giá trị do các thành viên, cổ
đông sáng lập định giá nhất trí; hoặc doanh nghiệp và người góp vốn thoả thuận; hoặc
do tổ chức chuyên nghiệp định giá theo quy định của pháp luật và được các thành viên,
cổ đông sáng lập chấp thuận.
b. Tài sản cố định vô hình
* Khái niệm
Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện
một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình,
tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử
dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả,...
* Tiêu chuẩn xác định
Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời cả ba
tiêu chuẩn xác định tài sản cố định hữu hình, mà không hình thành tài sản cố định hữu
hình được coi là tài sản cố định vô hình.
* Phân loại
- Quyền sử dụng đất: Phản ánh giá trị tài sản cố định vô hình là toàn bộ các chi
phí thực tế đã chi ra có liên quan trực tiếp tới đất sử dụng
- Quyền phát hành: Phản ánh giá trị tài sản cố định vô hình là toàn bộ các chi
phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành.
- Bản quyền, bằng sáng chế: Phản ánh giá trị tài sản cố định vô hình là các chi
phí thực tế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế.
- Nhãn hiệu hàng hoá: Phản ánh giá trị tài sản cố định vô hình là các chi phí
thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
- Phần mềm máy vi tính: Phản ánh giá trị tài sản cố định vô hình là toàn bộ các
chi phí thực tế doanh nghiệp phải chi ra để có phần mềm máy vi tính.
- Giấy phép và giấy phép nhượng quyền: Phản ánh giá trị tài sản cố định vô hình là
các khoản chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép hoặc giấy phép nhượng quyền thực
hiện công việc đó, như: Giấy phép khai thác, giấy phép sản xuất loại sản phẩm mới,...
- Tài sản cố định vô hình khác: Phản ánh giá trị các loại tài sản cố định vô hình
khác chưa quy định phản ánh ở các tài khoản trên.
* Xác định nguyên giá tài sản cố định vô hình
Trường hợp 1: Tài sản cố định vô hình mua sắm.

92
Nguyên giá tài sản cố định vô hình mua sắm là giá mua thực tế phải trả cộng
(+) các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên
quan trực tiếp phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài sản vào sử dụng.
Trường hợp 2: Tài sản cố định vô hình mua theo hình thức trao đổi.
Nguyên giá tài sản cố định vô hình mua theo hình thức trao đổi với một tài sản
cố định vô hình không tương tự hoặc tài sản khác là giá trị hợp lý của tài sản cố định
vô hình nhận về, hoặc giá trị hợp lý của tài sản đem trao đổi (sau khi cộng thêm các
khoản phải trả thêm hoặc trừ đi các khoản phải thu về) cộng (+) các khoản thuế (không
bao gồm các khoản thuế được hoàn lại), các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính
đến thời điểm đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
Nguyên giá tài sản cố định vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một tài sản
cố định vô hình tương tự, hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu
một tài sản tương tự là giá trị còn lại của tài sản cố định vô hình đem trao đổi.
Trường hợp 3: Tài sản cố định vô hình được cấp, được biếu, được tặng, được
điều chuyển đến.
Nguyên giá tài sản cố định vô hình được cấp, được biếu, được tặng là giá trị
hợp lý ban đầu cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính đến việc đưa tài
sản vào sử dụng.
Nguyên giá tài sản cố định được điều chuyển đến là nguyên giá ghi trên sổ sách
kế toán của doanh nghiệp có tài sản điều chuyển. Doanh nghiệp tiếp nhận tài sản điều
chuyển có trách nhiệm hạch toán nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại của tài sản
theo quy định.
c. Tài sản cố định thuê tài chính
Tài sản cố định thuê tài chính là những tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê
của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa
chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp
đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài
chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Doanh nghiệp đi thuê phải theo dõi, quản lý, sử dụng tài sản cố định đi thuê như tài
sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã
cam kết trong hợp đồng thuê tài sản cố định.
d. Hao mòn tài sản cố định
Hao mòn tài sản cố định là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố
định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến
bộ kỹ thuật,... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định. Hao mòn tài sản cố định
bao gồm hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.

93
Hao mòn hữu hình là sự giảm dần về giá trị sử dụng và theo đó giá trị của tài
sản cố định giảm dần. Về mặt vật chất sự hao mòn thể hiện ở sự thay đổi trạng thái vật
lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết tài sản cố định dưới tác động của ma sát, tỷ trọng,
nhiệt độ, hóa chất… Về mặt giá trị được thể hiện ở sự giảm dần giá trị của tài sản cố
định cùng với quá trình dịch chuyển phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản
xuất.
Nguyên nhân của hao mòn hữu hình: Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh thì
tài sản cố định bị cọ sát, bị hao mòn dần theo thời gian và cường độ sử dụng của tài
sản cố định; Do tác động của các yếu tố tự nhiên như khí hậu, thời tiết, độ ẩm,… làm
cho tài sản cố định bị mục nát,…
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định, trong
khi giá trị sử dụng của chúng mới bị hao mòn một phần hoặc thậm chí vẫn còn nguyên vẹn.
Nguyên nhân của hao mòn vô hình:
Một là, do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật (nguyên nhân chính) làm cho tài
sản cố định cùng loại mới sản xuất có tính năng, tác dụng cao hơn kỳ trước nhưng giá
bán không thay đổi nhiều, làm cho tài sản cố định cũ bị lạc hậu, bị mất giá.
Hai là, do năng suất lao động xã hội tăng lên làm giá thành sản phẩm giảm và
từ đó giá bán của tài sản cố định giảm, do đó với cùng một tài sản cố định nhưng
doanh nghiệp mua ở thời kỳ sau có giá thấp hơn ở kỳ trước (mặc dù tính năng, tác
dụng của tài sản cố định như nhau).
Ba là, do kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm: chu kỳ sống của một loại sản
phẩm nào đó kết thúc, làm cho tài sản cố định bị dôi thừa, bị mất giá hoàn toàn, hao
mòn vô hình xảy ra đối với cả tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
e. Khấu hao tài sản cố định
Để thu hồi lại giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn trên, cần phải khấu hao
tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ
thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong thời gian
trích khấu hao của tài sản cố định.
* Phương pháp khấu hao đường thẳng
Tài sản cố định trong doanh nghiệp được trích khấu hao theo phương pháp khấu
hao đường thẳng như sau:
- Xác định mức trích khấu hao trung bình hàng năm cho tài sản cố định theo
công thức dưới đây:
Mức trích khấu hao trung bình Nguyên giá của tài sản cố định
=
hàng năm của tài sản cố định Thời gian trích khấu hao
- Mức trích khấu hao trung bình hàng tháng bằng số khấu hao phải trích cả năm
chia cho 12 tháng.
94
Trường hợp thời gian trích khấu hao hay nguyên giá của tài sản cố định thay
đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của tài sản cố định
bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia (:) cho thời gian trích khấu hao xác
định lại hoặc thời gian trích khấu hao còn lại (được xác định là chênh lệch giữa thời
gian trích khấu hao đã đăng ký trừ thời gian đã trích khấu hao) của tài sản cố định.
Giá trị còn lại của tài sản cố định là hiệu số giữa nguyên giá của tài sản cố định
và số khấu hao luỹ kế (hoặc giá trị hao mòn luỹ kế) của tài sản cố định tính đến thời
điểm báo cáo.
Số khấu hao lũy kế của tài sản cố định là tổng cộng số khấu hao đã trích vào chi
phí sản xuất, kinh doanh qua các kỳ kinh doanh của tài sản cố định tính đến thời điểm
báo cáo.
Mức trích khấu hao cho năm cuối cùng của thời gian trích khấu hao tài sản cố
định được xác định là hiệu số giữa nguyên giá tài sản cố định và số khấu hao luỹ kế đã
thực hiện đến năm trước năm cuối cùng của tài sản cố định đó.
* Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh
Nội dung của phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh là đẩy
nhanh mức khấu hao tài sản cố định trong những năm đầu sử dụng và giảm dần mức
khấu hao theo thời gian sử dụng, nhằm nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư ban đầu phục
vụ cho việc đổi mới tài sản cố định.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh được áp dụng đối với các
doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực có công nghệ đòi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh.
Mức trích khấu hao
Giá trị còn lại của Tỷ lệ khấu
hàng năm của tài sản = x
tài sản cố định hao nhanh
cố định

Tỷ lệ khấu Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định Hệ số điều


= x
hao nhanh theo phương pháp đường thẳng chỉnh

Tỷ lệ khấu hao tài sản 1


cố định theo phương = x 100 (%)
pháp đường thẳng Thời gian sử dụng tài sản cố định
Hệ số điều chỉnh này như sau:
Thời gian sử dụng của tài sản cố định Hệ số điều chỉnh (lần)
Đến 4 năm ( t  4 năm) 1,5
Trên 4 đến 6 năm (4 năm < t  6 năm) 2,0
Trên 6 năm (t > 6 năm) 2,5

95
Những năm cuối, khi mức khấu hao năm xác định theo phương pháp số dư
giảm dần bằng (hoặc thấp hơn) mức khấu hao tính bình quân giữa giá trị còn lại và số
năm sử dụng còn lại của tài sản cố định, thì kể từ năm đó mức khấu hao được tính
bằng giá trị còn lại của tài sản cố định chia cho số năm sử dụng còn lại của tài sản cố
định.
Mức khấu hao hàng tháng = Mức khấu hao hàng năm/12
Ví dụ 6.1: Công ty A mua một thiết bị sản xuất các linh kiện điện tử mới với
nguyên giá là 50 triệu đồng. Thời gian trích khấu hao của tài sản cố định là 5 năm.
Lời giải: Xác định mức khấu hao hàng năm như sau:
- Tỷ lệ khấu hao hàng năm của tài sản cố định theo phương pháp khấu hao
đường thẳng là 20%.
- Tỷ lệ khấu hao nhanh theo phương pháp số dư giảm dần: 20% x 2 = 40%
- Mức trích khấu hao hàng năm của tài sản cố định trên được xác định cụ thể
theo bảng dưới đây:
Đơn vị tính: Đồng
Giá trị còn Cách tính số Mức Mức khấu
Khấu hao luỹ
Năm lại của tài khấu hao tài sản khấu hao hao hàng
kế cuối năm
sản cố định cố định hàng năm hàng năm tháng
1 50.000.000 50.000.000 x 40% 20.000.000 1.666.666 20.000.000
2 30.000.000 30.000.000 x 40% 12.000.000 1.000.000 32.000.000
3 18.000.000 18.000.000 x 40% 7.200.000 600.000 39.200.000
4 10.800.000 10.800.000 : 2 5.400.000 450.000 44.600.000
5 10.800.000 10.800.000 : 2 5.400.000 450.000 50.000.000
Trong đó:
+ Mức khấu hao tài sản cố định từ năm thứ nhất đến hết năm thứ 3 được tính
bằng giá trị còn lại của tài sản cố định nhân với tỷ lệ khấu hao nhanh (40%).
+ Từ năm thứ 4 trở đi, mức khấu hao hàng năm bằng giá trị còn lại của tài sản
cố định (đầu năm thứ 4) chia cho số năm sử dụng còn lại của tài sản cố định
(10.800.000 : 2 = 5.400.000). Vì tại năm thứ 4: mức khấu hao theo phương pháp số
dư giảm dần (10.800.000 x 40%= 4.320.000) thấp hơn mức khấu hao tính bình quân
giữa giá trị còn lại và số năm sử dụng còn lại của tài sản cố định (10.800.000 : 2 =
5.400.000).
Ví dụ 6.2: Một tài sản cố định có nguyên giá 500 triệu đồng và thời gian sử
dụng là 10 năm. Hãy tính mức khấu hao của tài sản cố định theo phương pháp khấu
hao nhanh có điều chỉnh?
Lời giải:

96
Tỷ lệ khấu hao bình quân hàng năm là 1/10x100% = 10%.
Theo phương pháp này thì tỷ lệ khấu hao sẽ được nhân với hệ số 2,5 là 10% x
2,5 = 25%.
Mức khấu hao hàng năm được xác định như sau:
Đơn vị tính: triệu đồng
Mức khấu hao
Số Mức khấu hao Giá trị còn lại theo Giá trị
theo phương
năm năm theo phương phương pháp khấu còn lại/số
Năm pháp khấu hao
còn pháp khấu hao hao nhanh (thời năm còn
nhanh có điều
lại nhanh điểm đầu năm) lại
chỉnh
1 10 125,00 500,00 50,00 125,00
2 9 93,75 375,00 41,67 93,75
3 8 70,31 281,25 35,16 70,31
4 7 52,73 210,94 30,13 52,73
5 6 39,55 158,21 26,37 39,55
6 5 29,66 118,66 23,73 29,66
7 4 22,25 89,00 22,25 22,25
8 3 16,69 66,75 22,25 22,25
9 2 12,51 50,06 25,03 22,25
10 1 9,39 37,55 37,54 22,24
Cộng 472 X x 500
* Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo
phương pháp này là các loại máy móc, thiết bị thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
- Trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm;
- Xác định được tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất
thiết kế của tài sản cố định;
- Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp
hơn 50% công suất thiết kế.
Tài sản cố định trong doanh nghiệp được trích khấu hao theo phương pháp khấu
hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm như sau:
- Căn cứ vào hồ sơ kinh tế - kỹ thuật của tài sản cố định, doanh nghiệp xác định
tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của tài sản cố
định, gọi tắt là sản lượng theo công suất thiết kế.

97
- Căn cứ tình hình thực tế sản xuất, doanh nghiệp xác định số lượng, khối lượng
sản phẩm thực tế sản xuất hàng tháng, hàng năm của tài sản cố định.
- Xác định mức trích khấu hao trong tháng của tài sản cố định theo công thức
dưới đây:
Mức trích khấu hao Số lượng sản
Mức trích khấu hao bình quân
trong tháng của tài = phẩm sản xuất x
tính cho 1 đơn vị sản phẩm
sản cố định trong tháng
Mức trích khấu hao bình quân Nguyên giá tài sản cố định
=
tính cho 1 đơn vị sản phẩm Sản lượng theo công suất thiết kế
Mức trích khấu hao năm của tài sản cố định bằng tổng mức trích khấu hao của
12 tháng trong năm, hoặc tính theo công thức sau:
Mức trích khấu hao Số lượng sản Mức trích khấu hao bình
năm của tài sản cố = phẩm sản xuất x quân tính cho một đơn vị
định trong năm sản phẩm
Ví dụ 6.3: Công ty A mua máy ủi đất (mới 100%) với nguyên giá 450.000.000
đồng. Công suất thiết kế của máy ủi này là 30m3/giờ. Sản lượng theo công suất thiết kế
của máy ủi này là 2.400.000 m3. Khối lượng sản phẩm đạt được trong năm thứ nhất
của máy ủi này là:
Khối lượng sản phẩm Khối lượng sản phẩm
Tháng Tháng
hoàn thành (m3) hoàn thành (m3)
Tháng 1 14.000 Tháng 7 15.000
Tháng 2 15.000 Tháng 8 14.000
Tháng 3 18.000 Tháng 9 16.000
Tháng 4 16.000 Tháng 10 16.000
Tháng 5 15.000 Tháng 11 18.000
Tháng 6 14.000 Tháng 12 18.000
Yêu cầu: Hãy tính mức khấu hao năm của máy ủy theo phương pháp khấu hao
theo sản lượng?

Lời giải:
Mức trích khấu hao theo phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản
phẩm của tài sản cố định này được xác định như sau:
- Mức trích khấu hao bình quân tính cho 1 m3 đất ủi = 450.000.00 đồng:
2.400.000 m3 = 187,5 đồng/m3
- Mức trích khấu hao của máy ủi được tính theo bảng 6.5.

98
Sản lượng thực tế tháng Mức trích khấu hao tháng
Tháng
(m3) (đồng)
1 14.000 14.000 x 187,5 = 2.625.000
2 15.000 15.000 x 187,5 = 2.812.500
3 18.000 18.000 x 187,5 = 3.375.000
4 16.000 16.000 x 187,5 = 3.000.000
5 15.000 15.000 x 187,5 = 2.812.500
6 14.000 14.000 x 187,5 = 2.625.000
7 15.000 15.000 x 187,5 = 2.812.500
8 14.000 14.000 x 187,5 = 2.625.000
9 16.000 16.000 x 187,5 = 3.000.000
10 16.000 16.000 x 187,5 = 3.000.000
11 18.000 18.000 x 187,5 = 3.375.000
12 18.000 18.000 x 187,5 = 3.375.000
Tổng cộng cả năm 35.437.500
2.3.3.2. Tài sản lưu động
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong
quá trình kinh doanh.
Trong mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, tài sản lưu động luôn thay đổi hình
thái biểu hiện theo một vòng khép kín như sau:

Tiền

Các khoản phải thu Nguyên vật liệu

Thành phẩm

Sơ đồ 2.4. Vòng tuần hoàn luân chuyển của tài sản lưu động
Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, doanh nghiệp phải dự
trữ tài sản lưu động ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất như tiền mặt, nguyên vật
liệu, thành phẩm, tài sản dưới dạng các khoản phải thu; và đây cũng là hình thái tồn tại
của tài sản lưu động ở mỗi thời điểm. Đối với doanh nghiệp thương mại vòng tuần
hoàn luân chuyển của tài sản lưu động đơn giản hơn, chỉ tồn tại dưới dạng tiền, hàng
hoá và các khoản phải thu.
a. Tiền và các khoản tương đương tiền
Tiền tồn tại trong doanh nghiệp dưới ba hình thức:

99
- Tiền mặt tại quỹ hình thành do doanh nghiệp sử dụng phương pháp thanh toán
tiền mặt.
- Tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán.
- Tiền đang chuyển: Quá trình chuyển tiền cần có thời gian chờ làm thủ tục tồn
tại hình thức này. Chẳng hạn doanh nghiệp đã làm thủ tục chuyển một khoảng tiền từ
tài khoản thanh toán tại ngân hàng để trả cho đơn vị khác nhưng chưa nhận được giấy
báo Nợ nên vẫn coi là tiền của doanh nghiệp.
Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (dưới 3 tháng) có
tính thanh khoản cao, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác định
và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền. Tính thanh khoản của tài sản là
khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền và ngược lại một cách nhanh chóng, dễ dàng
với chi phí hợp lý.
b. Các khoản phải thu
Các khoản phải thu của doanh nghiệp bao gồm:
- Phải thu của khánh hàng: Là tiền bán hàng, dịnh vụ chưa thu được tiền, nhưng
đã được khánh hàng chấp nhận thanh toán và tính vào doanh thu bán hàng trong kỳ, kẻ
cả trường hợp tín dụng thương mại.
- Ứng trước cho người bán: Là số tiền đã ứng trước cho người bán mà chưa
nhận được hàng hoá tại thời điểm báo cáo. Thường doanh nghiệp ứng trước ba trường
hợp: Nhằm ổn định nguồn nhiên liệu hàng hoá đầu vào; cấp tín dụng cho người bán;
tiền đặt cọc bảo đảm hợp đồng bên mua.
- Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ – thuế phải thu: là số thuế giá trị gia tăng
ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ, và chứng từ nộp thuế giá trị
gia tăng của hàng nhập khẩu.
- Các khoản thuế nộp thừa vào ngân sách Nhà nước: Trong kinh doanh có khi
doanh nghiệp nộp thừa thuế cho Nhà nước như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập
khẩu,… mà tại thời điểm báo cáo doanh nghiệp chưa thực hiện hoàn thuế hoặc bù trừ
vào số thuế phải nộp của kỳ báo cáo kế tiếp.
- Phải thu nội bộ: Phản ánh các khoản nợ (phải thu) của doanh nghiệp đối với cấp
trên hoặc các đơn vị trực thuộc, phụ thuộc trong một doanh nghiệp độc lập; các khoản mà
đơn vị cấp dưới có nghĩa vụ phải nộp cho cấp trên hoặc cấp trên phải cấp cho cấp dưới.
- Các khoản phải thu khác: Như các khoản thu về bồi thường vật chất đã có
quyết định bồi thường, các khoản phải thu về lãi đầu tư tài chính,...
c. Hàng tồn kho
Hàng tồn kho là những tài sản được giữ để bán trong kỳ sản xuất - kinh doanh bình
thường; đang trong quá trình sản xuất - kinh doanh dở dang; nguyên liệu, vật liệu, công cụ,
dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất - kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ.
100
- Hàng mua đang đi trên đường:
+ Hàng hóa, vật tư mua ngoài đã trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán nhưng còn
để ở kho người bán, ở bến cảng, bến bãi hoặc trên đường vận chuyển.
+ Hàng hóa vật tư mua về nhưng chờ kiểm nghiệm, kiểm nhận.
- Nguyên vật liệu: Là những đối tượng lao động doanh nghiệp mua ngoài hoặc
tự sản xuất ra dùng cho mục đích sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp, bao gồm:
Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế; vật liệu và thiết bị
xây dựng cơ bản, phế liệu thu hồi.
- Công cụ, dụng cụ: Là những tư liệu lao động không có đủ tiêu chuẩn về giá trị
và thời gian sử dụng theo qui định đối với tài sản cố định.
- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (giá trị sản phẩm dở dang): Là chi phí
sản xuất bỏ ra nhằm mục đích chế tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh nhưng tại một thời điểm
nhất định (cuối kỳ) chi phí này chưa chế tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh nó bao gồm 4 yếu
tố chi phí: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp; chi phí sử
dụng máy thi công; chi phí sản xuất chung.
- Thành phẩm: Là giá trị những sản phẩm đã kết thúc quá trình sản xuất do các
phân xưởng sản xuất ra hoặc thuê ngoài gia công đã xong được kiểm nghiệm phù hợp
với các tiêu chuẩn kỹ thuật, được nhập kho để tiêu thụ.
- Hàng hóa: Là giá trị các loại vật tư, sản phẩm doanh nghiệp mua về với mục
đích để bán (bán buôn hoặc lẻ).
- Hàng gửi đi bán: Hàng hóa, sản phẩm đã gửi hoặc chuyển đến cho khách hàng
nhưng chưa được chấp nhận thanh toán. (Giá trị thực tế của sản phẩm, hàng hóa nhờ
đại lý bán, ký gửi đã bàn giao cho khách hàng theo hợp đồng nhưng chưa được chấp
nhận thanh toán).
d. Tài sản lưu động khác
Ngoài ba loại tài sản lưu động luôn luôn tồn tại kể trên, tuỳ doanh nghiệp và tuỳ
từng thời kỳ có thể có các loại tài sản lưu động khác, trong đó có các dạng điển hình
là:
- Tạm ứng cho người lao động: Là khoản tiền hoặc vật tư do doanh nghiệp giao
cho người lao động để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hoặc giải quuyết công
việc nào đó được phê duyệt.
- Chi phí trả trước (chi phí đợi phân bổ): Là chi phí thực tế đã được phát sinh có
liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều kỳ hạch toán nên chưa thể tính
hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phát sinh mà được tính cho cả hai hay
nhiều kỳ tiếp theo như chi phí mua các loại bảo hiểm, các loại lệ phí trả một lần trong
năm, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định,...

101
- Các khoản cầm cố, đặt cọc, ký quỹ ngắn hạn: Các tài sản đem cầm cố, đặt cọc,
ký quỹ vẫn thuộc tài sản doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không có quyền sử dụng
và cũng không giữ tài sản này, vì vậy cần tách ra khỏi khối tài sản doanh nghiệp đang
giữ để đánh giá đúng khả năng thanh toán của doanh nghiệp và khả năng thu hồi.
- Tài sản đầu tư tài chính: Căn cứ vào nội dung kinh tế, hoạt động đầu tư tài
chính tồn tại chủ yếu dưới hai hình thức:
+ Đầu tư chứng khoán
+ Góp vốn liên doanh với doanh nghiệp khác để hình thành doanh nghiệp liên
doanh hoặc góp vốn hợp doanh vào một doanh nghiệp khác dưới dạng hợp đồng hợp
tác kinh doanh.
Các hoạt động đầu tư tài chính nhằm làm cho vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh
nghiệp sinh lời; doanh nghiệp có thể phân tán rủi ro bằng sự đa dạng hoá hình thức đầu tư,
nhất là biện pháp liên doanh, đầu tư bất động sản. Đối với đầu tư liên doanh, doanh nghiệp
có thể tận dụng lợi thế trong hoạt động liên doanh; tận dụng các cơ hội liên doanh trong đầu
tư tài chính. Hoạt động đầu tư tài chính còn giúp doanh nghiệp tạo nguồn dự trữ đảm bảo
khả năng thanh toán nợ đến hạn khi tài sản bằng tiền không đủ dưới dạng đầu tư chứng
khoán, khi đó doanh nghiệp không cần dự trữ nhiều vốn bằng tiền gây lãng phí.
2.3.4. Nguồn vốn của doanh nghiệp
Nguồn vốn của doanh nghiệp là nguồn hình thành nên tài sản của doanh nghiệp,
bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Nói cách khác, nguồn vốn là nguồn tài trợ cho
tài sản của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Nguồn vốn có thể được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
Theo thời hạn, nguồn vốn bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
Trong đó, nguồn vốn ngắn hạn gồm nợ ngắn hạn, nguồn vốn dài hạn gồm nợ dài hạn
và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Theo tính chất sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành nguồn vốn
chủ sở hữu và nợ phải trả.
2.3.4.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu mà doanh nghiệp không
phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu
tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó nguồn vốn chủ sở hữu không
phải là một khoản nợ. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn.
Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các nguồn chính sau: lợi nhuận giữ
lại, phát hành cổ phiếu thường, phát hành cổ phiếu ưu đãi.
Lợi nhuận giữ lại

102
Đây là phần vốn được bổ sung từ kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp theo quy định của chính sách tài chính hoặc quyết định của các chủ sở hữu vốn,
của Hội đồng quản trị.
Việc doanh nghiệp tài trợ cho tài sản từ lợi nhuận giữ lại có các ưu, nhược điểm sau:
- Ưu điểm: Quyền sở hữu vốn cổ phần của các chủ sở hữu tăng lên; tăng mức
độ vững chắc về mặt tài chính mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty; trì hoãn
được việc đánh thuế thu nhập cá nhân cho các cổ đông khi công ty không chia cổ tức;
đỡ tốn kém hơn so với phát hành cổ phiếu.
- Nhược điểm: Trong trường hợp doanh nghiệp không có những dự án đầu tư
hứa hẹn mang lại tỷ suất sinh lời mong đợi cho các chủ sở hữu, việc giữ lại lợi nhuận
đi ngược lại lợi ích của các chủ sở hữu và làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường.
Phát hành cổ phiếu thường
Doanh nghiệp có thể bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu thông qua việc phát hành
cổ phiếu thường. Việc huy động vốn từ nguồn này có các ưu, nhược điểm sau:
- Ưu điểm: Phát hành cổ phiếu thường làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty,
giảm hệ số nợ và củng cố sự vững chắc về mặt tài chính cũng như uy tín của công ty.
Phát hành cổ phiếu thường giúp công ty tăng vốn dài hạn nhưng không phải chịu gánh
nặng trả nợ.
- Nhược điểm:
Các cổ đông hiện hữu phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty khi cổ phiếu thường
được phát hành ra bên ngoài; làm giảm tỷ lệ sở hữu công ty của các cổ đông hiện hữu.
Các cổ đông hiện hữu phải chia sẻ quyền phân phối thu nhập cho cổ đông mới. Cổ tức
cổ phiếu thường không được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, không
tạo ra lợi ích về thuế cho doanh nghiệp. Chi phí sử dụng nguồn tài trợ từ phát hành cổ
phiếu thường cao hơn việc đi vay hay phát hành cổ phiếu ưu đãi. Nếu đứng trên
phương diện công chúng đầu tư, việc đầu tư vào cổ phiếu thường là rủi ro hơn so với
đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi, do vậy, họ đòi hỏi ở công ty mức sinh lời cao
hơn mức sinh lời của trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi. Vì thế, chi phí sử dụng nguồn tài
trợ bằng cách phát hành cổ phiếu phổ thông thường là cao hơn cả.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi
Ưu điểm của việc sử dụng nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu ưu đãi đó là: Dù
phải trả lợi tức cố định hàng năm, công ty không nhất thiết phải trả cổ tức đó đúng hạn
hàng năm mà có thể hoãn sang năm sau. Cổ đông thường sẽ có lợi nếu doanh nghiệp
thu được lợi nhuận cao trong kinh doanh, vì thông thường, cổ tức cổ phiếu ưu đãi là cố
định và không dự phần. Phát hành cổ phiếu ưu đãi giúp làm tăng vốn chủ sở hữu, làm
giảm hệ số nợ, củng cố sự vững chắc về mặt tài chính cho doanh nghiệp.

103
Nhược điểm: Cổ tức cổ phiếu ưu đãi không được khấu trừ vào thu nhập chịu
thuế của doanh nghiệp, không tạo ra lợi ích về thuế cho doanh nghiệp. Chi phí sử dụng
nguồn tài trợ từ phát hành cổ phiếu ưu đãi cao hơn chi phí sử dụng trái phiếu và nợ
vay. Các cổ đông thường gặp bất lợi nếu công ty giải thể hoặc phá sản, hoặc trong
trường hợp lợi nhuận sau thuế của công ty giảm sút.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm các thành phần quan trọng khác như các
khoản thặng dư vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu cao hơn mệnh giá; các khoản nhận
biếu, tặng, tài trợ; Các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá hối
đoái phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản và các quỹ hình thành từ lợi
nhuận sau thuế.
2.3.4.2. Nợ phải trả
a. Nợ ngắn hạn
Nợ phải trả ngắn hạn là các khoản nợ có thời gian dưới 1 năm hoặc dưới một
chu kỳ sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp. Khoản nợ này bao gồm:
- Nợ phải trả có tính chất chu kỳ
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thường phát sinh các
khoản nghĩa vụ tài chính nhưng chưa đến kỳ thanh toán ngay đã tạo ra nguồn tài trợ
mà doanh nghiệp có thể sử dụng nhưng không phải trả tiền cho việc sử dụng nguồn tài
trợ đó, như: tiền lương hay tiền công phải trả cho người lao động, tiền thuế phải nộp,
bảo hiểm xã hội phải nộp…
- Tiền lương, tiền công trả cho người lao động nhưng chưa đến kỳ trả: Thông
thường việc chi trả tiền lương, tiền công cho người lao động được doanh nghiệp thực
hiện vào những thời điểm nhất định trong tháng, ví dụ: tạm ứng vào giữa tháng hoặc
thanh toán vào đầu kỳ thanh toán sau. Như vậy, người lao động hàng ngày bỏ hao phí
lao động nhưng ít có doanh nghiệp thực hiện việc chi trả lương hàng ngày như vậy. Do
đó, khoản tiền nợ lương trở thành nguồn tài trợ mà doanh nghiệp có thể tận dụng khi
chưa đến kỳ thanh toán.
- Các khoản thuế, bảo hiểm xã hội phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp: Trong quá
trình kinh doanh, thường xuyên phát sinh các khoản phải nộp thuế gián thu như: thuế
giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu… khi doanh nghiệp xuất bán
hàng hóa. Tuy nhiên, việc nộp thuế theo quy định hiện hành tại Việt Nam là chậm nhất
vào ngày 20 của tháng tiếp theo doanh nghiệp mới phải nộp thuế chứ không phải là
phải nộp ngay lập tức vào ngày phát sinh nghĩa vụ nộp thuế. Tương tự đối với thuế thu
nhập doanh nghiệp, năm trước nộp vào đầu năm sau khi mà quyết toán được duyệt…
hay như khoản bảo hiểm xã hội phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp.
Ngoài những khoản nợ có tính chất thường xuyên trên đây, còn có những khoản
phát sinh cũng mang tính chất như một nguồn tài trợ mà doanh nghiệp tận dụng trước
104
nhưng không phải trả chi phí, là những khoản tiền tạm ứng trước của khách hàng, số
tiền này nhiều hay ít tùy thuộc vào tính chất quan trọng của sản phẩm hàng hóa đó,
tình hình cung cầu trên thị trường, khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất,
yêu cầu và điều kiện thanh toán của đôi bên.
Khi sử dụng các nguồn tài trợ nêu trên đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp cũng cần lưu ý đây là những khoản nợ phải trả thể hiện
nghĩa vụ tài chính phải thanh toán đúng hạn nếu không sẽ bị phạt tiền lãi trả chậm như
tiền thuế bảo hiểm xã hội hoặc làm giảm uy tín của doanh nghiệp khi trả tiền lương
không đúng thời hạn…
- Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các danh nghiệp, được thể hiện
dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Doanh nghiệp có thể sử dụng các khoản phải
trả trên chưa đến kỳ hạn thanh toán với khách hàng như một nguồn vốn bổ sung để tài
trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Điều này cũng có nghĩa như
doanh nghiệp được tài trợ thêm vốn.
Khi nền kinh tế thương mại phát triển, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để sử
dụng vốn bằng cách mua chịu của nhà cung cấp. Đây cũng là một khoản tín dụng
thương mại (khoản phải trả người bán) dưới hình thức kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là
một nguồn vốn tương đối lớn vì do tính linh hoạt của nó mà việc sử dụng cũng linh
hoạt với sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại ngày nay, các ngân hàng của
nhà cung cấp hoàn toàn có thể chiết khấu các thương phiếu để lấy tiền quay vòng khi
thương phiếu chưa đến hạn thanh toán.
- Vay ngắn hạn
Mục đích của các khoản vay ngắn hạn chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn
ngắn hạn phát sinh do dòng tiền vào và dòng tiền ra không khớp nhau về thời gian
hoặc quy mô số tiền.
Khi nhu cầu vốn ngắn hạn gia tăng, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn vay ngắn
hạn ngân hàng như một nguồn tài trợ thêm vốn của mình. Do đặc điểm của vốn ngắn
hạn là luân chuyển nhanh, do đó các doanh nghiệp thường sử dụng các khoản vay
ngắn hạn để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn thiếu. Các nguyên tắc cơ bản các
doanh nghiệp phải tôn trọng khi sử dụng vốn vay là phải sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả, phải có vật tư, hàng hóa đảm bảo, phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả vốn
gốc và lãi vay.
b. Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn trên 1 năm hoặc trên một chu kỳ sản
xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp. Khoản nợ này bao gồm:
- Vay dài hạn
105
Mục đích của các khoản vay dài hạn là đầu tư vào tài sản cố định của doanh
nghiệp và đầu tư một phần vào tài sản lưu động thường xuyên hoặc đầu tư vào dự án
đầu tư. Trong các hình thức vay nợ dài hạn, thì vay ngân hàng cũng có những hạn chế
đối với doanh nghiệp, đó là:
+ Điều kiện tín dụng: Doanh nghiệp phải đáp ứng được về mặt pháp lý của hồ
sơ xin vay, phương án và dự án xin vay, các báo cáo tài chính cho thấy doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh lành mạnh và có lãi. Ngoài ra, doanh nghiệp phải cung cấp
những thông tin cần thiết khác cho ngân hàng.
+ Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Ngân hàng hoạt động trên nguyên tắc “đi vay
để cho vay”, chính vì vậy, bất kỳ khoản cho vay nào ngân hàng cũng phải nắm chắc là
thu hồi được vốn, có như vậy ngân hàng mới trả được nợ vay. Để có nguồn thu dự
phòng trong trường hợp không thu hồi được nợ, thì các ngân hàng đã áp dụng biện
pháp đảm bảo tiền vay. Các biện pháp đảm bảo tiền vay bao gồm: Thế chấp tài sản,
cầm cố tài sản, bảo lãnh bằng bên thứ ba,...
+ Chịu sự kiểm soát của ngân hàng: Để khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục
đích, ngân hàng kiểm soát doanh nghiệp bằng cách yêu cầu doanh nghiệp báo cáo định
kỳ hay đột xuất tình hình sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn,... trong trường hợp cần
thiết, ngân hàng có thể tiến hành kiểm tra việc sử dụng vốn vay ngay tại doanh nghiệp.
+ Lãi suất khoản vay: Lãi suất mà doanh nghiệp trả cho ngân hàng được tính
vào chi phí của doanh nghiệp, nên khi cung cầu vốn căng thẳng, lãi suất tăng cao, làm
cho chi phí doanh nghiệp tăng, làm giảm sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp.
Việc doanh nghiệp huy động nguồn vốn từ vay dài hạn ngân hàng có các ưu,
nhược điểm sau:
Ưu điểm: Lãi vay phải trả được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh
nghiệp, tao ra lợi ích về thuế cho doanh nghiệp. Lãi suất huy động vốn vay thường
thấp hơn chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu. Tiền gốc vay thông thường được trả dần, còn
lãi vay được trả theo dư nợ giảm dần và được trả trong suốt thời hạn vay, do vậy,
không chịu áp lực hoàn trả một số nợ gốc vay quá lớn vào thời điểm đáo hạn.
Nhược điểm: Vay nợ kèm theo thủ tục vay tương đối phức tạp. Doanh nghiệp
phải chịu ràng buộc về các điều kiện tín dụng, chịu sự kiểm soát của người cho vay
trong suốt thời hạn vay. Vay dài hạn làm tăng gánh nặng trả nợ cho doanh nghiệp, làm
tăng hệ số nợ và rủi ro tài chính cho doanh nghiệp.
- Thuê tài chính
Thuê tài sản là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có
được tài sản cần thiết sử dụng vào hoạt động kinh doanh của mình. Thuê tài sản là một
hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên, người thuê và người cho thuê. Trong đó, người thuê
được quyền sử dụng tài sản và phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thời hạn mà
106
hai bên đã thỏa thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản và nhận được tiền cho
thuê tài sản.
+ Thuê hoạt động hay thuê vận hành: Thuê hoạt động là một hợp đồng thuê
ngắn hạn và người cho thuê được quyền kết thúc hợp đồng trước thời hạn. Chi phí thuê
thường bao hàm cả hao mòn tài sản cố định, chi phí bảo dưỡng, bảo hiểm và mức lợi
nhuận của bên cho thuê. Chi phí thuê thường cao vì bên cho thuê chịu nhiều rủi ro đối
với sự lạc hậu và giảm giá trị thị trường của tài sản.
+ Thuê tài chính (thuê vốn): Thuê tài chính là một hình thức vay vốn dài hạn,
ký kết một hợp đồng thuê tài chính giống như đi vay tiền. Người cho thuê cũng phải
cam kết trả các khoản phí thuê được quy định cụ thể trong hợp đồng thuê.
Thuê tài chính có các ưu, nhược điểm đối với doanh nghiệp như sau:
Ưu điểm: Tránh được những rủi ro do sở hữu tài sản; tạo lá chắn thuế cho
doanh nghiệp; khắc phục được những hạn chế khi xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp
thấp.
Nhược điểm của thuê tài chính là chi phí thuê thường cao.
- Phát hành trái phiếu
Các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để huy động nợ dài hạn. Khác với
vay dài hạn, vay nợ bằng cách phát hành trái phiếu doanh nghiệp là việc doanh nghiệp
chia nhỏ khoản tiền vay thành các phần bằng nhau tạo nên mệnh giá và số lượng trái
phiếu của đợt phát hành.
Trái phiếu thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết của doanh nghiệp thanh toán số lợi
tức và tiền vay vào những thời hạn xác định. Việc huy động nguồn vốn từ phát hành
trái phiếu doanh nghiệp có các ưu, nhược điểm sau:
Ưu điểm: Lợi tức trái phiếu được xác định trên cơ sở thỏa thuận trước và
thường cố định, do vậy doanh nghiệp có thể chủ động trong việc xây dựng và thiết lập
các kế hoạch tài chính. Lợi tức trái phiếu được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của
doanh nghiệp, tạo ra lợi ích về thuế cho doanh nghiệp. Chi phí sử dụng nguồn tài trợ từ
phát hành trái phiếu thấp hơn so với phát hành cổ phiếu. Việc phát hành trái phiếu giúp
công ty huy động vốn dài hạn mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty.
Nhược điểm: Doanh nghiệp có nghĩa vụ trả lợi tức đúng kỳ hạn và trả tiền gốc
sau một thời gian xác định, do vậy tạo áp lực trả một khoản nợ lớn vào thời điểm đáo
hạn, gây khó khăn cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Phát hành trái phiếu
làm tăng hệ số nợ, tăng rủi ro tài chính cho doanh nghiệp.
2.3.5. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm
2.3.5.1. Chi phí sản xuất kinh doanh
a. Khái niệm

107
Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm chi phí sản
xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm
- Chi phí sản xuất: Là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao
động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các
chi phí này phát sinh có tính thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm.
- Chi phí tiêu thụ sản phẩm là tất cả những chi phí liên quan đến việc tiêu thụ
sản phẩm.
- Chi phí hoạt động khác như: chi phí liên quan đến liên doanh, liên kết, mua
bán chứng khoán, cho thuê tài sản,...
Thuế gián thu: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập xuất
khẩu,...
Như vậy, chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ các chi phí cho hoạt động kinh
doanh, cho các hoạt động khác và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra
để thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
b. Nội dung chi phí của doanh nghiệp
* Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, động lực
- Tiền lương: Bao gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có
tình chất tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các khoản trích nộp theo quy định: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn, bảo hiểm thất nghiệp,...
- Khấu hao tài sản cố định
- Chi phí dịch vụ mua ngoài
- Chi phí bằng tiền khác
* Chi phí hoạt động khác
- Chi phí hoạt động tài chính: bao gồm các khoản chi phí hoặc các khoản lỗ liên
quan đến các hoạt động đầu tư tài chính, lãi tiền vay, chi phí cho vay và đi vay vốn,
chênh lệch lỗ tỷ giá hối đoái, chi phí góp vốn liên doanh, liên kết, lỗ chuyển nhượng
chứng khoán ngắn hạn, chi phí giao dịch bán chứng khoán,...
- Chi phí khác: bao gồm chi phí cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, chi
phí thu hồi nợ khó đòi, chi nộp phạt,...
c. Phân loại chi phí của doanh nghiệp
* Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế
Theo cách phân loại này, chi phí gồm có 5 loại:
- Chi phí vật tư: Chi phí vật tư bao gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu,
động lực. Chi phí vật tư phụ thuộc vào hai yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư.
108
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương: bao gồm chi phí tiền lương
và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: Chi phí khấu hao tài sản cố định được xác
định dựa vào nguyên giá tài sản cố định cần tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản cố
định. Chi phí khấu hao tài sản cố định còn phụ thuộc vào phương pháp khấu hao tài
sản cố định mà doanh nghiệp áp dụng.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài, gồm: chi phí điện, nước, điện thoại, fax, chi phí
sửa chữa tài sản cố định,...
- Chi phí khác bằng tiền, gồm: chi phí tiếp khách, chi phí tổ chức hội nghị, hội
họp, công tác phí, chi phí kiểm toán,...
* Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí có các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu trực tiếp là những yếu tố tạo nên thành phần chính của sản
phẩm được sản xuất ra. Nguyên vật liệu trực tiếp được nhận diện rõ ràng trong sản
phẩm vì nó tượng trưng cho đặc tính dễ thấy lớn nhất của cái gì đã được sản xuất (Ví
dụ tường được xây từ gạch, xi măng, cát,...).
- Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương
của người lao động biến đổi nguyên vật liệu trực tiếp thành sản phẩm có thể tiêu thụ
được. Thông thường những lao động này xử lý nguyên vật liệu trực tiếp bằng tay hoặc
thông qua việc sử dụng công cụ hoặc máy móc thiết bị.
- Chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm, sau chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí sản xuất chung bao
gồm ba loại chi phí đó là chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp,
chi phí phân xưởng khác.
- Chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng là những chi phí cần thiết để đẩy mạnh quá trình lưu thông
hàng hoá đến tay người tiêu dùng, bao gồm: Chi phí lương nhân viên bán hàng, chi phí
nguyên vật liệu, công cụ phục vụ cho việc tiêu thụ, chi phí quảng cáo, chi phí khấu hao
tài sản cửa hàng, phương tiện vận chuyển hàng hoá, chi phí dịch vụ mua ngoài và các
chi phí khác phục vụ cho bộ phận tiêu thụ.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí chi ra cho việc tổ chức và
quản lý toàn doanh nghiệp, bao gồm: Chi phí lương nhân viên, các cấp quản lý doanh
109
nghiệp, chi phí nguyên vật liệu, công cụ phục vụ cho quản lý doanh nghiệp, chi phí
khấu hao tài sản, phương tiện quản lý doanh nghiệp, chi phí dịch vụ mua ngoài và các
chi phí khác phục vụ cho bộ phận quản lý doanh nghiệp.
* Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh
doanh
- Chi phí cố định: Là chi phí không thay đổi theo sự thay đổi quy mô sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp: Chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương trả
cho nhân viên quản lý, lãi vay phải trả, chi phí thuê tài sản, văn phòng.
- Chi phí biến đổi: là chi phí thay đổi theo sự thay đổi của quy mô sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền luơng công nhân
trực tiếp sản xuất, tiền điện, nước, tiền điện thoại,...
2.3.5.2. Giá thành sản phẩm
a. Khái niệm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp
đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hay một khối
lượng sản phẩm nhất định.
b. Nội dung giá thành sản phẩm và dịch vụ
- Nội dung giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ gồm:
Giá thành sản xuất = Chi phí sản xuất + Chênh lệch sản phẩm dở dang

Chênh lệch sản Sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang


= -
phẩm dở dang đầu kỳ cuối kỳ
- Nội dung giá thành toàn bộ của sản phẩm dịch vụ tiêu thụ
Giá thành Giá thành Chi phí quản lý
= + Chi phí bán hàng +
toàn bộ sản xuất doanh nghiệp
2.3.6. Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
2.3.6.1. Doanh thu của doanh nghiệp
a. Khái niệm doanh thu
Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được coi là hoạt động xuất bán sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ cho đơn vị mua để nhận được số tiền về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
đó. Khi hoàn thành việc tiêu thụ thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp có doanh thu tiêu
thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là toàn bộ số tiền bán sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng
hóa bị trả lại (nếu có) và đã được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
b. Nội dung doanh thu của doanh nghiệp
Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm:
110
- Doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ: Là toàn bộ số tiền thu được hoặc
sẽ thu được từ các giao dịch và các nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm,
hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho khách hàng bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu
thêm ngoài giá bán (nếu có).
- Doanh thu hoạt động tài chính: Là tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức, lợi nhuận
được chia và doanh thu hoạt động tài chính khác của doanh nghiệp.
+ Tiền lãi: Là số tiền thu được phát sinh từ việc cho người khác sử dụng tiền,
các khoản tương đương tiền hoặc các khoản còn nợ doanh nghiệp, như: Lãi cho vay,
lãi tiền gửi, lãi đầu tư trái phiếu, tín phiếu, chiết khấu thanh toán mua hàng được
hưởng.
+ Tiền bản quyền: Là số tiền thu được phát sinh từ việc cho người khác sử dụng
tài sản như: Bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, phần mềm máy
vi tính,...
+ Cổ tức và lợi nhuận được chia: Là số tiền lợi nhuận được chia từ việc nắm giữ
cổ phiếu hoặc góp vốn.
- Thu nhập khác: Là khoản thu góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu từ hoạt động
ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu, gồm: Thu về thanh lý tài sản cố định, nhượng
bán tài sản cố định; thu tiền bảo hiểm được bồi thường; thu tiền phạt khách hàng do vi
phạm hợp đồng; thu được các khoản nợ phải thu đã xóa sổ tính vào chi phí kỳ trước;
khoản nợ phải trả nay mất chủ được ghi tăng thu nhập; các khoản thu nhập khác.
2.3.6.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
a. Khái niệm
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí
trong một thời kỳ (thường là quý, nửa năm, năm). Nếu chênh lệch là dương thì kết quả
kinh doanh đó gọi là lãi, nếu âm gọi là lỗ.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Có lợi nhuận chứng tỏ hoạt động kinh doanh đã bù đắp được chi phí đã bỏ ra
và có tích lũy. Lợi nhuận kỳ sau cao hơn kỳ trước biểu hiện hàng hóa được tiêu thụ
nhiều hơn hoặc giá thành sản phẩm giảm, doanh thu tăng hoặc các hoạt động đầu tư tài
chính có hiệu quả,... Mục tiêu kinh doanh là thu lợi nhuận, có lợi nhuận mới trả lãi
được cho người góp vốn và mở rộng quy mô kinh doanh, hiện đại hóa thiết bị, đẩy
mạnh nghiên cứu phát triển.
b. Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh bao gồm:

111
+ Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường: Chênh lệch giữa
doanh thu từ việc bán sản phẩm hàng hóa, cung cấp dịch vụ với tổng giá thành toàn bộ
sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ hoặc chi phí dịch vụ tiêu thụ trong kỳ.
+ Lợi nhuận hoạt động tài chính: Chênh lệch giữa doanh thu hoạt động tài chính
và chi phí hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ.
- Lợi nhuận khác: chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động khác với chi phí hoạt
động khác phát sinh trong kỳ.
2.4. Tài chính hộ gia đình
2.4.1. Khái niệm tài chính hộ gia đình
Hộ gia đình được hiểu là tập hợp một số người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng cùng cư trú trong một ngôi nhà, gắn bó chặt chẽ với nhau về sở
hữu các tài sản, quan hệ phân phối sản phẩm và quan hệ pháp lý. Hộ gia đình cũng có
thể chỉ có một người, hoặc nhiều người,… Đại diện gia đình là chủ hộ. Ở Việt Nam,
một hộ gia đình bao gồm toàn bộ các thành viên có tên trong sổ hộ khẩu. Hộ gia đình
có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, hoặc cũng có thể không tiến hành sản xuất kinh
doanh mà chỉ cung cấp sức lao động của mình cho các tổ chức, cá nhân khác hoặc chỉ
hưởng các chế độ trợ cấp xã hội,…
Nghiên cứu về tài chính hộ gia đình sẽ cho phép hiểu rõ hơn về hành vi của
doanh nghiệp cũng như nhà nước trong nền kinh tế, vì hộ gia đình là đối tượng hướng
tới của nhà nước và doanh nghiệp. Phần lớn vốn của doanh nghiệp là do cá nhân/hộ
gia đình đóng góp, đồng thời hộ gia đình cũng là đối tượng nộp thuế cho nhà nước.
Mỗi cá nhân, gia đình đều phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến thu nhập,
chi tiêu, đầu tư và có các mục tiêu trong ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các vấn đề
trên. Tuy nhiên, mỗi cá nhân, gia đình sẽ có phương thức và kết quả thực hiện khác
nhau. Có cá nhân, gia đình rất quan tâm đến việc quản lý tài chính nhưng trái lại, nhiều
người không để tâm. Do đó, tài sản của họ có thể được duy trì và sinh lời hoặc giá trị
tài sản bị giảm dần và rơi vào trạng thái túng thiếu, cuộc sống trở nên nghèo khó. Vì
vậy, việc nhận thức đúng đắn về tài chính hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với
mỗi thành viên trong gia đình và xã hội.
Tài chính hộ gia đình là cách thức huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền
tệ của hộ gia đình nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu chi tiêu, tiết kiệm và đầu tư.
Xét về bản chất, tài chính hộ gia đình là ứng dụng những nguyên tắc tài chính
vào những quyết định về tiền bạc của một gia đình hay tài chính hộ gia đình là những
hoạt động có liên quan đến tiền của hộ gia đình để giúp hộ gia đình đạt được các mục
tiêu đã xác định. Nó chỉ ra phương thức để hộ gia đình hoạch định ngân sách, tiết
kiệm, kiếm tiền và tiêu tiền theo thời gian, có tính toán đến những rủi ro về tài chính
và những kế hoạch trong cuộc sống tương lai.
112
Nội dung quản lý tài chính hộ gia đình bao gồm xác định tình hình tài chính,
xác định mục tiêu tài chính, lập kế hoạch tài chính và thực hiện kế hoạch, kiểm soát
chi tiêu. Như vậy, các hoạt động liên quan tới tài chính hộ gia đình khá rộng bao gồm
lập ngân sách, tiết kiệm, bảo hiểm, đầu tư, hưu trí,... Các quyết định tài chính mà hộ
gia đình phải thực hiện đó là:
- Phân chia giữa tiêu dùng và tiết kiệm.
- Lựa chọn danh mục đầu tư khoản tiền tiết kiệm.
- Quyết định cách thức tài trợ cho chi tiêu.
- Quản lý rủi ro gắn liền với các hoạt động tài chính của hộ gia đình.
2.4.2. Đặc trưng tài chính hộ gia đình
Thứ nhất, sự hiểu biết về tài chính là yếu tố quan trọng nhất giúp gia đình tối ưu
hóa được mục tiêu của mình, cải thiện đời sống cho gia đình, phòng ngừa được rủi ro
tài chính, tránh được những cú sốc của nền kinh tế, đồng thời đóng góp chung vào sự
phát triển kinh tế xã hội.
Hiểu biết về tài chính của hộ gia đình là sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng và
thái độ để đưa ra các quyết định tài chính đúng đắn và đạt được sự an toàn về tài chính
cho hộ gia đình. Hiểu biết tài chính giúp hộ gia đình hoạch định ngân sách, phân bổ
hợp lý để chi tiêu, tiết kiệm, đề phòng cho những rủi ro và lập kế hoạch tương lai cho
cuộc sống. Đồng thời, hiểu biết tài chính còn mang ý nghĩa quan trọng góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính và sự phát triển bền vững của toàn xã
hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Với sự hiểu biết về tài chính, thay vì gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thì người
dân có thể lựa chọn đầu tư vào thị trường chứng khoán, bất động sản,… Khi đó, các
doanh nghiệp có thể huy động được vốn cần thiết để phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh, góp phần đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế góp phần gia tăng tỷ lệ tăng trưởng
quốc gia.
Cá nhân có kiến thức về tài chính sẽ nhận thức rõ hơn về các sản phẩm và dịch
vụ tài chính, những rủi ro đi kèm, qua đó sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài
chính góp phần đa dạng hóa các sản phẩm tài chính cho hộ gia đình (như tiết kiệm,
tiêu dùng, bảo hiểm, và các sản phẩm đầu tư tài chính khác,…). Thiếu kiến thức về tài
chính và những rủi ro đi kèm có thể làm người dân phải gánh chịu rất nhiều rủi ro. Với
trình độ quản lý tài chính cao sẽ giúp hộ gia đình giảm nguy cơ đưa ra các quyết định
tài chính sai lầm như đi vay với lãi suất cao, không biết phân bổ vốn, không biết tiết
kiệm, không có kế hoạch chi tiêu và không có kế hoạch tài chính cho tương lai.
Thứ hai, tài chính hộ gia đình chịu sự chi phối của yếu tố tâm lý và sở thích cá nhân.
Tài chính hộ gia đình bị chi phối bởi yếu tố tâm lý và sở thích của cá nhân,
nhưng các yếu tố này lại phụ thuộc vào văn hóa, lứa tuổi, nghề nghiệp,… Điều này
113
ảnh hưởng rất lớn đến sự lựa chọn tiêu dùng, tiết kiệm hay đầu tư của hộ gia đình. Ví
dụ, có những người sẵn sàng từ bỏ lợi ích trong hiện tại để hy vọng nhận được lợi ích
cao trong tương lai thì sẽ thực hiện tăng tiết kiệm và đầu tư, hạn chế tiêu dùng trong
hiện tại; ngược lại có những người muốn nhận được lợi ích ngay trong hiện tại và sẵn
sàng trả giá cho lợi ích đó trong tương lai thì họ sẽ mua nhà, mua xe,… trong hiện tại
bằng cách đi vay để đáp ứng yêu cầu đó.
Tài chính hộ gia đình hướng đến mục tiêu cao nhất là phân bổ vốn đang có và sẽ có
cho nhu cầu tiêu dùng trong hiện tại và tương lai một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, do quy
mô vốn khác nhau, lại chịu sự ảnh hưởng của yếu tố nghề nghiệp, trình độ học vấn, cách
thức phân bổ vốn mà các quyết định tài chính của mỗi hộ gia đình sẽ khác nhau.
2.4.3. Thu nhập của hộ gia đình
Thu nhập của hộ gia đình là tổng tiền lương, tiền lãi, lợi nhuận và những khoản
thu nhập khác mà tất cả các thành viên trong hộ gia đình nhận được trong khoảng thời
gian nhất định. Các khoản thu nhập sẽ hình thành nên quỹ tiền tệ của hộ gia đình. Tất
cả kế hoạch chi tiêu, đầu tư của hộ gia đình đều phụ thuộc vào thu nhập và quy mô của
quỹ tiền tệ đó. Trong giới hạn về khả năng tài chính cũng như mong muốn của mỗi hộ
gia đình và mức độ rủi ro trong quá trình sử dụng vốn, các hộ gia đình phải quyết định
lựa chọn phân bổ quỹ tiền tệ của mình cho các hoạt động tiêu dùng và đầu tư theo các
tỷ lệ phù hợp.
2.4.3.1. Thu nhập từ tiền lương và các khoản có tính chất tiền lương
Tiền lương là tổng thù lao, bằng tiền hay hiện vật, mà các thành viên trong gia
đình nhận được khi cung cấp sức lao động cho các chủ thể kinh tế khác, có tích chất là
khoản bồi hoàn cho công sức đã bỏ ra để hoàn thành công việc mà người lao động đã
làm cho người sử dụng lao động trong khoảng thời gian nhất định. Thu nhập từ lao
động trả bằng hiện vật có thể là các bữa ăn, nước uống, đồng phục, các chuyến du
lịch,...
Tiền lương đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định trong việc ổn định và
phát triển kinh tế gia đình, đây là thu nhập chủ yếu của hầu hết các hộ gia đình dùng
để đảm bảo tiêu dùng của gia đình. Tiền lương của các thành viên trong hộ gia đình là
kết quả của quá trình phân phối lần đầu của tài chính - phân phối cho những chủ thể
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Thu nhập mà người sử sụng lao động trả cho người lao động chính là giá trị sức
lao động được người sử dụng lao động tính bằng tiền để trả cho người lao động – đây
còn gọi là tiền lương danh nghĩa. Tiền lương danh nghĩa không phản ánh rõ mức sống
của người lao động và gia đình của họ. Tiền lương thực tế là tổng giá trị hàng hóa,
dịch vụ (biểu hiện bằng tiền) mà gia đình người lao động mua được bằng tiền lương
danh nghĩa. Tiền lương thực tế luôn phản ánh chính xác mức sống của gia đình. Nếu
114
thị trường ổn định không có lạm phát thì tiền lương thực tế chính là tiền lương danh
nghĩa. Còn khi nền kinh tế có lạm phát thì tiền lương thực tế nhỏ hơn tiền lương danh
nghĩa.
Bên cạnh tiền lương, người lao động còn có các khoản thu nhập có tính chất
tiền lương như các khoản phụ cấp, tiền chiết khấu, tiền hoa hồng, tiền thưởng; thuế thu
nhập cá nhân và các khoản đóng góp cho an sinh xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế - dù các khoản này là do người sử dụng lao động đóng thay thì vẫn là thu
nhập của người lao động. Về bản chất, các khoản thu nhập có tính chất tiền lương là
các khoản tiền bổ sung vào tiền lương và nhằm khuyến khích người lao động nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm và tiết kiệm nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất.
Cùng với tiền lương, các khoản thu nhập có tính chất tiền lương góp phần thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng cho người lao động và gia đình họ.
2.4.3.2. Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Hộ gia đình có thể thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như sản xuất
nông nghiệp, sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ, buôn bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ,…
Quy mô sản xuất kinh doanh của hộ gia đình thường nhỏ lẻ, lao động tham gia chủ yếu
là người thân trong gia đình. Tùy vào quy định của mỗi quốc gia mà hoạt động sản
xuất kinh doanh của hộ gia đình được phân biệt với hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Ví dụ ở Việt Nam thì hộ gia đình có hoạt động sản xuất kinh doanh
sử dụng từ trên 10 lao động thì sẽ chuyển sang hình thức doanh nghiệp.
Thu nhập từ sản xuất kinh doanh của hộ gia đình được xác định bằng cách lấy
tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí phát sinh trong một thời kỳ nhất định. Nếu doanh
thu lớn hơn chi phí thì kết quả sản xuất kinh doanh của gia đình có lãi, ngược lại thì
kết quả sản xuất kinh doanh của gia đình ở trạng thái thua lỗ.
2.4.3.3. Thu nhập khác
Các khoản thu khác của hộ gia đình bao gồm: Thu nhập từ hoạt động đầu tư;
các khoản thu nhập nhận được do các chủ thể kinh tế khác cho, biếu, mừng, giúp,…;
lãi tiền gửi ngân hàng; các khoản nhận được từ các tổ chức nhân đạo, từ thiện, hiệp
hội, các doanh nghiệp ủng hộ; thu nhập từ trúng thưởng, thừa kế,…
2.4.4. Chi tiêu của hộ gia đình
2.4.4.1. Chi tiêu dùng
Chi tiêu dùng là tổng mức chi để mua sắm hàng hóa dịch vụ nhằm thỏa mãn
nhu cầu hiện tại của hộ gia đình. Các hộ gia đình có thể mua sắm quần, áo, giày, lương
thực, thực phẩm,... hay là những hàng hóa lâu bền như tủ lạnh, tivi, máy vi tính,... hoặc
là chi cho dịch vụ như học tập, đi lại, khám chữa bệnh, chi cho nhu cầu nghỉ ngơi, giải
trí; hoặc chi cho nhu cầu giao tiếp xã hội như chi thăm viếng, sinh nhật, đám cưới,…

115
Ngoài ra, hộ gia đình có thể có các khoản chi tiêu không thường xuyên khác
như chi mua hoặc xây dựng nhà ở, chi mua ô tô, xe máy,… Đây là những khoản chi
tiêu đòi hỏi quỹ tiền tệ phải lớn, thông thường các gia đình sẽ thực hiện tiết kiệm trong
một khoảng thời gian nhất định hoặc thực hiện vay mượn để đáp ứng nhu cầu mua sắm
những tài sản có giá trị.
2.4.4.2. Chi đầu tư
Đầu tư của hộ gia đình được hiểu là việc phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
của hộ gia đình vào một lĩnh vực nhất định với hy vọng gia tăng được lượng vốn đã bỏ
ra. Các hình thức đầu tư chủ yếu của hộ gia đình bao gồm: đầu tư bất động sản, đầu tư
chứng khoán, hoặc lãi từ các hình thức cho vay, góp vốn khác,…
Đầu tư bất động sản là việc bỏ tiền vốn mua sắm bất động sản như đất đai, nhà
cửa,... nhằm phục vụ cho mục đích cất trữ giá trị và cho mục đích kinh doanh của hộ
gia đình như cho thuê nhà, đất, tài sản,... hoặc kinh doanh chênh lệch giá mua thấp,
bán cao.
Các thành viên trong hộ gia đình cũng có thể trở thành những nhà đầu tư cá nhân trên
thị trường chứng khoán. Họ có thể lựa chọn đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu. Đầu tư
chứng khoán có thể theo 2 hướng đầu tư dài hạn hoặc đầu tư ngắn hạn. Đầu tư chứng
khoán ngắn hạn, còn gọi là hoạt động kinh doanh chứng khoán, là hoạt động mua và
bán chứng khoán trong thời gian ngắn, lợi nhuận của kinh doanh chứng khoán đến từ
chênh lệch giá chứng khoán mua thấp bán cao. Đầu tư chứng khoán dài hạn là hoạt
động mua và giữ chứng khoán của các công ty để trở thành nhà đầu tư của các công ty,
lợi nhuận của nhà đầu tư chứng khoán đến từ chênh lệch giữa giá mua cổ phiếu với giá
trị cổ tức và tiền lời chênh lệch giữa giá bán lại cổ phiếu.
2.4.4.3. Chi tài trợ rủi ro
Đối với hộ gia đình, rủi ro có thể làm giảm hoặc mất thu nhập. Các rủi ro mà hộ
gia đình có thể gặp phải là những rủi ro về tài sản, rủi ro về con người (sức khỏe, tuổi
thọ, bệnh tật),... Khi thành viên trong gia đình gặp phải rủi ro thì nhu cầu tài chính sẽ
gia tăng, vì thế hộ gia đình sẽ có động cơ giữ tiền để dự phòng nhiều hơn. Có nhiều
hình thức dự phòng cho rủi ro của hộ gia đình như hình thức tự bảo hiểm bằng cách
tích cóp tiền của giữ tại gia đình, gửi tiền tiết kiệm ở ngân hàng, tham gia bảo hiểm
hưu trí, bảo hiểm y tế hay các hình thức bảo hiểm khác.
Bảo hiểm là hình thức quản lý rủi ro, là phương pháp bảo vệ cá nhân hoặc hộ
gia đình trước các tổn thất ngẫu nhiên về tài chính do tài sản bị cháy, trộm cắp,… các
tổn thất về sinh mạng, các tai nạn lao động, giao thông,...
Các hộ gia đình có thể lựa chọn rất nhiều dịch vụ bảo hiểm, tùy theo yếu tố rủi
ro cũng như theo nhu cầu và thu nhập của mình. Thông thường, các hộ gia đình có thể
lựa chọn mua các dịch vụ bảo hiểm như sau:
116
- Bảo hiểm tài sản. Đây là dịch vụ bảo hiểm cho các thiệt hại về tài sản. Hình
thức này có ý nghĩa đối với các tài sản có giá trị lớn. Thông thường đây là nghiệp vụ
bảo hiểm ngắn hạn nên các hộ gia đình cần căn cứ vào giới hạn ngân sách của mình và
nhu cầu được bảo đảm trước các rủi ro liên quan đến tài sản để xác định giá trị bảo
hiểm mà mình tham gia.
- Bảo hiểm con người. Bao gồm các dịch vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là
tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động và tuổi thọ của con người. Bảo hiểm con
người được chia thành bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người phi nhân thọ. Bảo
hiểm phi nhân thọ có các dạng như: Bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm
sinh mạng,... Bảo hiểm nhân thọ gồm các dạng như bảo hiểm cho sự kiện tử vong của
người được bảo hiểm, bảo hiểm cho sự kiện còn sống của người được bảo hiểm và bảo
hiểm nhân thọ hỗn hợp. Bảo hiểm nhân thọ là sự kết hợp của hoạt động bảo hiểm và
tiết kiệm. Trong trường hợp không có rủi ro xảy ra, số tiền tham gia bảo hiểm nhân thọ
được coi như một khoản tiết kiệm đầu tư của hộ gia đình. Còn trong trường hợp rủi ro
xảy ra thì đây là một biện pháp bảo hiểm rất có ý nghĩa.
- Bảo hiểm hưu trí. Đối với hộ gia đình, đây vừa là một hình thức bảo hiểm vừa
là một hình thức tiết kiệm. Mang tính chất của một hình thức bảo hiểm xã hội tự
nguyện, hình thức này sẽ đảm bảo cho các hộ gia đình có nguồn thu nhập nhất định khi
hết tuổi lao động. Đồng thời, do đây là hình thức bảo hiểm dài hạn nên cũng giúp hộ
gia đình vừa để phòng ngừa rủi ro, vừa tiết kiệm cho chính mình.
2.4.5. Cân đối thu chi trong gia đình
2.4.5.1. Khái niệm cân đối thu chi trong gia đình
Cân đối thu chi phản ánh mối quan hệ giữa thu và chi của một gia đình trong
một giai đoạn nhất định (thường là một tháng). Với giới hạn thu nhập, các hộ gia đình
sẽ cân nhắc lựa chọn, phân phối quỹ tiền tệ dành cho các hoạt động chi tiêu, tiết kiệm
hoặc đầu tư. Xét về bản chất, đó là sự lựa chọn tiêu dùng trong hiện tại hay tiêu dùng
trong tương lai. Những hộ gia đình muốn tiết kiệm trong hiện tại để thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng trong tương lai thì họ sẽ có phần tiền dôi ra từ cân đối thu chi của hộ gia
đình, phần dôi ra được gọi là khoản tiền tiết kiệm; ngược lại có những hộ gia đình lại
muốn thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong hiện tại mặc dù họ không có đủ thu nhập đáp
ứng nhu cầu chi tiêu đó thì hộ gia đình phải thực hiện vay nợ để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của mình.
* Tiết kiệm
Tiết kiệm của hộ gia đình là một hoạt động tài chính theo đó số chênh lệch giữa
thu và chi của hộ gia đình được đưa vào tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định.
Mục đích chủ yếu của hoạt động tiết kiệm của hộ gia đình là hình thành giá trị tích lũy

117
nhất định hoặc bảo đảm cho tiêu dùng trong tương lai như đảm bảo cho học hành của
con cái hoặc nhu cầu chi tiêu khi về hưu,...
Gắn với các mục đích như vậy, tiết kiệm của hộ gia đình có thể được thực hiện với
nhiều hình thức khác nhau: cất trữ tài sản hoặc gửi vào tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng,…
Mỗi hình thức tiết kiệm đều có ưu, nhược điểm khác nhau: Tiết kiệm bằng cách cất trữ tiền
thì thực hiện khá đơn giản, dễ dàng, phù hợp trong trường hợp hệ thống các tổ chức tín
dụng chưa phát triển, dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu. Hình thức tiết kiệm này không đem
lại cho hộ gia đình lợi tức mà còn phải chịu các rủi ro như lạm phát, mất cắp, hỏa hoạn,...;
Gửi tiền tiết kiệm ngân hàng là hình thức tiết kiệm khá phổ biến, dễ thực hiện, rất an toàn,
cho phép bảo toàn và sinh lời đồng vốn. Hình thức này mang lại cho hộ gia đình mức lợi
tức tiết kiệm nhất định, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản.
* Vay nợ
Các hình thức vay nợ chủ yếu của hộ gia đình gồm mua chịu hàng hóa dịch vụ,
vay vốn tín dụng không chính thức và chính thức.
- Các hộ gia đình có thể thực hiện việc mua bán chịu hàng hóa dịch vụ để đáp
ứng nhu cầu hiện tại của mình. Chủ thể bán chịu có thể là doanh nghiệp hoặc các hộ
gia đình khác. Hộ gia đình có nghĩa vụ hoàn trả số tiền hoặc giá trị hàng hóa đã mua
chịu khi đến hạn trả nợ, có kèm hoặc không kèm theo một khoản lãi.
- Vay vốn tín dụng không chính thức là cách thức tài trợ nhu cầu vốn khá phổ
biến của các hộ gia đình. Hộ gia đình có thể vay vốn từ người thân, họ hàng, người
quen, vay từ các nhóm hụi họ,… Khoản vay này có ưu điểm là thỏa mãn nhu cầu vốn
của hộ gia đình nhanh chóng, thủ tục tiến hành đơn giản. Nhược điểm là quy mô vốn
vay nhỏ lẻ, thời gian vay vốn ngắn cũng như thời điểm phải trả nợ có thể không cố
định, đặc biệt hộ gia đình có thể phải vay vốn với mức lãi suất cao (hay còn gọi là vay
nặng lãi) để đáp ứng nhu cầu vốn bức thiết của mình, điều này làm chi phí sử dụng vốn
quá lớn có thể làm hộ gia đình lâm vào cảnh nợ nần trong trong lai.
- Vay vốn tín dụng chính thức. Để vay vốn ngân hàng, hộ gia đình phải có tài
sản thế chấp hoặc có nguồn thu nhập ổn định để vay tín chấp hoặc được một tổ chức
đứng ra bảo lãnh vay vốn. Yêu cầu vay ngân hàng chỉ được chấp nhận nếu mục đích
vay vốn là đầu tư tài sản như mua nhà, mua ô tô hoặc đầu tư vào vốn nhân lực. Ưu
điểm của nguồn tài trợ này là rất dễ tìm kiếm, và có các quy định pháp lý để bảo đảm
cho các quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên. Chỉ cần đến ngân hàng và hoàn tất các thủ
tục cần thiết là hộ gia đình có thể có được số vốn nhất định. Tuy nhiên, nguồn tài trợ
sẽ bị giới hạn bởi thu nhập của hộ gia đình cũng như bởi chính kế hoạch đầu tư của hộ
gia đình nên trong nhiều trường hợp nguồn tài trợ này không thỏa mãn nhu cầu vay
vốn của hộ gia đình.
2.4.5.2. Giải pháp cân đối thu chi của hộ gia đình
118
Cân đối thu chi sẽ giúp chúng ta nắm rõ tình hình thu nhập và chi tiêu của hộ
gia đình, từ đó xác định những khoản chi ưu tiên, loại bỏ những khoản chi không cần
thiết để có thể tiết kiệm nhiều hơn, qua đó bảo vệ gia đình tránh khỏi các rủi ro tài
chính do tác động bên ngoài. Các giải pháp cân đối thu chi trong hộ gia đình gồm:
Thứ nhất, ghi chép chi tiết thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình để cân đối thu
chi trong những khoảng thời gian nhất định.
Bước căn bản và cần thiết nhất của kỹ năng quản lý tài chính hộ gia đình đó là
ghi chép lại số tiền các thành viên trong gia đình làm ra và chi tiêu trong một khoảng
thời gian nhất định (có thể là một ngày, một tuần hoặc một tháng,…). Sau khi đã có cái
nhìn tổng quát về thu nhập và chi tiêu của gia đình, chúng ta sẽ biết được mình nên cắt
giảm những khoản chi nào nếu muốn tiết kiệm hơn hoặc ngược lại, được phép chi
những khoản nào trong ngưỡng cho phép. Qua đó sẽ có thể điều chỉnh hành vi tiêu
dùng của các thành viên trong gia đình một cách hợp lý, vừa không bị mua sắm dư
thừa, vừa tiết kiệm những khoản cần dùng trong tương lai.
Thứ hai, luôn lên kế hoạch cho tương lai của hộ gia đình.
Để an toàn, tài chính của hộ gia đình cần được tính toán không chỉ dừng lại ở ngày
tháng hiện tại mà còn phải ước lượng, tính toán cho nhiều tháng sắp tới. Kế hoạch tiết kiệm
khi về hưu phải được hoạch định từ khi còn trẻ. Những khoản dự phòng dùng trong trường
hợp khẩn cấp như hư hỏng phương tiện đi lại, chi phí y tế,... cũng nên được tính toán phù
hợp vì cần thời gian để tích góp mà không ảnh hưởng đến chi tiêu hằng ngày.
Mỗi gia đình cần xây dựng hai tài khoản tiết kiệm là tài khoản tiết kiệm ngắn
hạn và tài khoản tiết kiệm dài hạn. Tài khoản tiết kiệm ngắn hạn cho phép gia đình có
quỹ dự phòng trong trường hợp khẩn cấp hoặc các tiêu dùng sắm sửa lớn như mua xe,
mua nhà,... Tài khoản tiết kiệm dài hạn là khoản sử dụng sau khi nghỉ hưu, khi thu
nhập đã không còn như trước.
Thứ ba, thực hiện nguyên tắc chi tiêu ít hơn thu nhập.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, nếu chi tiêu đúng hoặc nhiều hơn số tiền mà các
thành viên trong gia đình kiếm được có thể dẫn đến tình trạng gia đình không chống
đỡ được những tình huống rủi ro hay những thay đổi tài chính bất ngờ xảy ra trong
cuộc sống. Chi tiêu ít và tiết kiệm nhiều hơn sẽ giúp chúng ta yên tâm về chính cuộc
sống của bản thân và gia đình mình, có khả năng thích nghi, chuẩn bị cho tương lai tốt
đẹp hơn. Khoảng cách giữa thu nhập và chi tiêu càng lớn, sự đảm bảo càng nhiều.
Đồng thời, cần chi tiêu dưới khả năng cho phép, có nghĩa là chúng ta hãy mặc
định khả năng của mình thấp hơn khả năng thực tế rồi thay đổi lối sống phù hợp với
định mức đó. Ví dụ chúng ra sẽ tìm kiếm những món đồ phù hợp chứ không phải một
món đồ làm thỏa mãn bản thân, chẳng hạn chọn một ngôi nhà nhỏ hơn, mua quần áo
trong các đợt giảm giá,…
119
Thứ tư, áp dụng các phương pháp quản lý tài chính cá nhân phù hợp.
- Phương pháp JARS. Thực hiện phương pháp này, thu nhập của hộ gia đình sẽ
chia làm 6 quỹ tiền tệ có tỷ trọng tương ứng gồm:
(1) Quỹ chi tiêu cần thiết (chiếm 55%). Đây là phần thu nhập để gia đình chi
tiêu cho cuộc sống hằng ngày hay các nhu cầu thiết yếu khác như ăn uống, sinh hoạt,
chi tiêu quần áo, trang phục,... Tác dụng của quỹ này là để chúng ta biết được giới hạn
chi tiêu của gia đình là bao nhiêu, từ đó mỗi thành viên trong gia đình sẽ thay đổi lối
sống cho phù hợp với điều kiện của mình và gia đình. Còn nếu gia đình không kế
hoạch chi tiêu rõ ràng thì có thể dẫn đến tình trạng chi tiêu sang phần thu nhập của quỹ
khác. Tùy thuộc vào thu nhập của gia đình mà tỷ trọng của quỹ này có thể điều chỉnh
lại làm sao để đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu hằng ngày của gia đình được đầy đủ
nhất.
(2) Quỹ tiêu dùng cho tương lai (chiếm 10%). Quỹ này hình thành trong một
khoảng thời gian dài nhờ hoạt động tiết kiệm của hộ gia đình, để dành cho những
khoản mục chi tiêu lớn như là mua xe ô tô, mua nhà,… Tác dụng của quỹ này là để
chúng ta thấy rõ được mục đích gia đình đang hướng tới là gì, và sẽ tiết kiệm tiền từ
những khoản chi tiêu nào cho việc đó. Ngoài ra, quỹ tiêu dùng cho tương lai cũng có
thể sử dụng và đề phòng trong những trường hợp xấu hay rủi ro xảy ra như bệnh tật
nếu gia đình không có bảo hiểm.
(3) Quỹ giáo dục (chiếm 10%). Quỹ này có thể được chi tiêu vào các khoản như
tham gia các khoá học nâng cao trình độ của các thành viên trong gia đình, mua sách
hoặc tài liệu học tập,... Tác dụng của quỹ này là bắt chúng ta phải liên tục đầu tư vào
chính bản thân và gia đình mình, bởi đây chắc chắn sẽ là khoản đầu tư sinh lời cho
tương lai tốt và đảm bảo nhất. Vì kiến thức và hiểu biết của bản thân càng nhiều, khả
năng lao động và đạt được thành công trong tương lai sẽ ngày càng cao hơn. Việc nâng
cao tri thức sẽ giúp chúng ta nâng cao kiến thức bản thân, phát triển năng lực và tạo
dựng được nhiều mối quan hệ và cơ hội phát triển hơn.
(4) Quỹ tự do tài chính (chiếm 10%). Đây là tài khoản dùng để đầu tư sinh lợi
nhuận, ví dụ chúng ra có thể dùng để chơi chứng khoán, hoặc tiết kiệm để có thể hùn
vốn làm ăn với bạn bè, hay mở một cửa hàng nhỏ, thậm chí là mở công ty,… Tác dụng
của quỹ này là để cho chúng ta lúc nào cũng có sẵn một số tiền cho những mục đích
đầu tư trong tương lai.
(5) Quỹ hưởng thụ (chiếm 10%). Đây là quỹ tiền tệ để gia đình thỏa mãn nhu
cầu giải trí, du lịch,… Tác dụng của quỹ này là để cho chúng ta tự thưởng cho bản
thân từ đó có nhiều động lực hơn nữa để kiếm thêm nhiều tiền. Mục đích cuối cùng
của việc kiếm tiền hay quản lý tài chính vẫn là để cuộc sống thêm hạnh phúc, vui vẻ.

120
Đây chính là phần thưởng cho sự nỗ lực cũng như những động lực để cố gắng hơn
trong tương lai.
(6) Quỹ từ thiện (chiếm 5%). Đây là quỹ tiền tệ để chúng ta đem cho người
khác, có thể là đi quyên góp từ thiện, giúp các trẻ em nghèo,... Tác dụng của quỹ này
là khi cho đi, chúng ta sẽ được nhận về nhiều hơn. Cho đi cũng là một cách để chúng
ta có những niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Ngoài ra nguồn quỹ này cũng được dùng để
chúng ta giúp đỡ người thân, bạn bè những lúc khó khăn.
- Phương pháp 50/30/20. Phương pháp này sẽ chia thu nhập của gia đình thành
ba quỹ tiền tệ riêng biệt như sau:
(1) Quỹ chi tiêu thiết yếu (chiếm 50%), gồm các khoản cần chi tiêu hằng ngày, hằng
tháng như tiền ăn, tiền ở, tiền đi lại, tiền điện nước,… Chi phí thiết yếu là những chi phí
chúng ra nhất định phải bỏ ra. Chúng ta không nên chi quá 50% số thu nhập cho những chi
phí này, nhưng nếu đã lỡ vượt quá con số trên, hãy giảm bớt chi phí bằng cách nấu ăn tại
nhà, di chuyển bằng phương tiện công cộng, tiết kiệm điện,... Trong trường hợp bất khả
kháng, bạn sẽ phải cắt bớt những khoản khác để bù vào chi phí thiết yếu.
(2) Quỹ chi tiêu linh hoạt (chiếm 30%), gồm khoản chi tiêu hưởng thụ, mua
sắm, du lịch, giải trí hoặc các chi phí bất ngờ khác. Nhìn chung, quỹ chi tiêu này linh
hoạt là bởi trong cuộc sống hiện đại, chúng ta có rất nhiều khoản phải chi dùng mà khó
có thể nằm trong kế hoạch từ trước.
(3) Quỹ tiền tệ tích lũy (chiếm 20%), gồm các khoản tiền tích lũy để đầu tư cho
tương lai, hay dự phòng cho những việc bất ngờ xảy đến, và cũng có thể là khoản tiền
tích lũy để trả nợ nếu có.
2.5. Tài chính quốc tế
2.5.1. Khái niệm tài chính quốc tế
2.5.1.1. Cơ sở hình thành tài chính quốc tế
Tài chính quốc tế được hình thành dựa trên 2 cơ sở sau:
- Thứ nhất, sự phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Kể từ khi nền kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển, sự hợp tác và phân
công lao động quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc. Ban đầu phân công lao động diễn ra
tự phát chủ yếu dựa trên sự khác biệt về điều kiện tự nhiên sẵn có của từng nước. Tuy
nhiên ở thế kỷ thứ XIX các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1820-1870), lần
thứ hai (1870-1913), lần thứ ba (1913-1950) ở các nước tư bản chủ nghĩa tạo nên
những sự phát triển nhanh chóng về giao thông vận tải (đường sắt và đường thủy),
công nghiệp được mở rộng, khoa học kỹ thuật phát triển ở các nước tư bản. Nó đã phá
vỡ sự sản xuất thủ công mỹ nghệ quy mô nhỏ ở các nước kém phát triển ở châu Á,
châu Phi, châu Mỹ, nơi mà không thể chịu được sự cạnh tranh của hàng hóa giá rẻ ở
Tây Âu. Do đó các nước kém phát triển trở thành nhà cung cấp hàng nông sản và
121
nguyên vật liệu cho các nước tư bản. Từ đó việc phân công lao động chuyển dần sang
tự giác trên cơ sở tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng và
dịch vụ có lợi thế so sánh của từng nước. Hệ quả tất yếu của sự phân công và hợp tác
quốc tế không những làm cho sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước gia tăng mà
còn làm cho trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ quốc tế phát triển.
Cùng với sự phát triển phân công lao động xã hội, sự hợp tác quốc tế cũng ngày
càng đa dạng và phong phú, ngoài thương mại quốc tế còn có các hợp tác ở lĩnh vực
sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa, chính trị,…
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thương mại và dịch vụ quốc tế
trở thành một hoạt động tất yếu và hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tăng cường
mở rộng các quan hệ kinh tế song phương cũng như đa phương nhằm khai thác tối đa
những lợi ích trong các mối quan hệ kinh tế này.
Trên cơ sở phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế làm nảy sinh những quyền
lợi và nghĩa vụ tiền tệ của nước này đối với nước khác. Từ đó tạo ra nguồn chảy tài
chính đa phương và hình thành nên cán cân thanh toán quốc tế giữa các quốc gia.
Đồng thời, gắn liền với sự vận động của tiền tệ trong mối tương quan so sánh sức mua
của chúng, phạm trù tỷ giá hối đoái đã hình thành trong hệ thống tài chính quốc tế.
Trong năm 2020, Việt Nam và Liên minh châu Âu đã hoàn tất việc ký kết hiệp
định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA). Hiệp định này đã
giúp tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu trong đó
có hợp tác kinh tế. Trong nội dung hiệp định hai bên đã cam kết giảm thuế xuất nhập
khẩu đối với một số hàng hóa như: ô tô, phụ tùng ô tô xe máy, rượu, bia, thịt lợn, thịt
gà… Điều này thúc đẩy hai bên tăng cường xuất khẩu các mặt hàng này. Từ đó tăng
các nghĩa vụ thanh toán xuất nhập khẩu cả về số lượng lẫn giá trị khoản thanh toán,
dòng tiền di chuyển giữa Việt Nam – Liên minh châu Âu ngày ngày nhiều hơn, giá trị
lớn hơn. Do đó góp phần làm cho tài chính quốc tế ngày càng sôi động hơn, lớn mạnh
hơn.
- Thứ hai, sự phát triển các hoạt động đầu tư quốc tế.
Bước vào đầu thế kỷ XX, cùng với việc tạo ra các mối quan hệ kinh tế quốc tế,
các nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa do nguồn tiết kiệm trong nước thấp
không đáp ứng đủ nhu cầu vốn, do đó cần phải thu hút nguồn vốn nước ngoài để tạo ra
cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong khi đó, các quốc gia thừa vốn cũng
làm nhiều nỗ lực đẩy mạnh chính sách xuất khẩu vốn (đầu tư vốn) nhằm mở rộng thị
trường đầu tư và thu lợi nhuận tối đa.
Đồng thời, hoạt động lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia với nhau
luôn kèm theo chi phí vận chuyển và những chi phí khác có liên quan, nếu quãng
đường vận chuyển càng dài, phức tạp, nhiều rủi ro thì loại chi phí này càng có nguy cơ
122
tăng cao, điều đó làm giảm hiệu quả kinh doanh của các nhà xuất khẩu, làm tăng giá
thành tại quốc gia nhập khẩu. Để giảm những loại chi phí này, các nhà xuất khẩu thực
hiện phương thức chu chuyển vốn quốc tế thay cho di chuyển hàng hóa, dịch vụ, tức là
đầu tư sản xuất tại quốc gia (thị trường) nhập khẩu. Phương thức này còn tạo thêm lợi
thế là các nhà xuất khẩu tận dụng nguồn tài nguyên con người cũng như tài nguyên
thiên nhiên của nước nhập khẩu.
Trong xu hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế,
các lường đầu tư quốc tế đã và đang phát triển theo một hệ thống bao gồm các hình
thức đầu tư: đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Dieect Investment – FDI); vốn đầu tư
qua thị trường chứng khoán; vốn cho vay của các định chế kinh tế quốc tế và ngân
hàng nước ngoài; nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (Official Development
Assistance – ODA),…
Các hoạt động đầu tư ngày càng đa dạng về hình thức, tăng về giá trị các khoản
đầu tư đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tài chính quốc tế.
Từ những phân tích trên, có thể tóm tắt cơ sở hình thành và phát triển tài chính
quốc tế qua sơ đồ sau:

Các hoạt động


kinh tế quốc tế

Hoạt động thương Hoạt động đầu tư


mại, chính trị, quốc tế
ngoại giao,…
Các luồng vốn quốc
tế dịch chuyển

Hoạt động thu chi


thanh toán quốc tế

Tài chính quốc tế

Sơ đồ 2.5. Cơ sở hình thành tài chính quốc tế


2.5.1.2. Khái niệm tài chính quốc tế
Hiện nay có 2 quan điểm về tài chính quốc tế:
Nếu phân loại theo phạm vi hoạt động thì hoạt động tài chính bao gồm: hoạt
động tài chính đối nội (giữa các chủ thể kinh tế trong một quốc gia), tài chính đối

123
ngoại (giữa chủ thể kinh tế trong nước với chủ thể kinh tế ở quốc gia khác), hoạt động
tài chính giữa các tổ chức quốc tế, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.
Thứ nhất, nếu đứng trên giác độ một quốc gia, hoạt động tài chính quốc tế bao
gồm hoạt động tài chính đối ngoại và hoạt động tài chính giữa các tổ chức quốc tế, các
công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Quan điểm này phù hợp với các quốc gia có mức
độ hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao.
Thứ hai, nếu đứng trên giác độ toàn cầu, hoạt động tài chính quốc tế chỉ bao
gồm các hoạt động tài chính giữa các tổ chức quốc tế, các công ty đa quốc gia, xuyên
quốc gia. Quan điểm này phù hợp với các quốc gia có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
cao.
Trong phạm vi giáo trình này, tài chính quốc tế được hiểu theo quan điểm thứ
nhất bao gồm: hoạt động tài chính đối ngoại và hoạt động tài chính giữa các tổ chức
quốc tế, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.
Từ đó, ta có khái niệm chung nhất về tài chính quốc tế như sau:
Tài chính quốc tế là cách thức huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
nhằm đáp ứng tối ưu nhu cầu của các chủ thể giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế,
các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.
2.5.2. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh
tế - xã hội nhất định.
Căn cứ vào tính chất sử dụng vốn đầu tư quốc tế được phân loại thành: đầu tư
trực tiếp quốc tế và đầu tư gián tiếp quốc tế.
2.5.2.1. Đầu tư trực tiếp quốc tế (FDI)
Đầu tư trực tiếp quốc tế là hình thức chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay
một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm giành quyền điều hành và trực tiếp điều
hành đối tượng mà họ bỏ vốn.
Hoạt động đầu tư quốc tế mang lại rất nhiều lợi ích đối với nước đầu tư và nước
nhận đầu tư. Cụ thể:
* Đối với nước đầu tư:
- Giúp chủ đầu tư tận dụng lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư, giảm chi phí sản
xuất, tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định.
- Giúp chủ đầu tư có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới
và nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Giúp các chủ đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín, mở rộng
thị trường tiêu thụ và tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
* Đối với nước nhận đầu tư:
124
- Đối với các nước có nền kinh tế phát triển:
+ Góp phần giải quyết các khó khăn về kinh tế- xã hội như thất nghiệp, lạm
phát, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
+ Tăng nguồn thu và tạo điều kiện cải thiện tình hình ngân sách nhà nước, tạo
ra môi trường cạnh tranh tích cực.
+ Giúp người lao động và các nhà quản lý học hỏi và nâng cao trình độ.
- Đối với các nước đang phát triển:
+ Là nguồn vốn quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển với thế giới.
+ Góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại.
+ Góp phần phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ cao, tạo thêm việc
làm cho người lao động.
+ Là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước nhỏ bé của các nước đang
phát triển.
+ Giúp các doanh nghiệp trong nước mở cửa thị trường hàng hóa thế giới.
+ Có điều kiện tiếp thu khoa học- công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến và tác phong làm việc công nghiệp.
Các hình thức đầu tư trực tiếp quốc tế rất đa dạng bao gồm các hình thức: Hợp
đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài,…
- Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là thỏa thuận giữa một chủ đầu tư
nước ngoài và một chủ đầu tư nước chủ nhà để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh
doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
- Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Là một tổ chức kinh doanh quốc tế của
các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng kinh doanh,
nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp liên
doanh, phù hợp với khuôn khổ luật pháp nước nhận đầu tư.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là một thực thể kinh doanh quốc tế, có
tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư ở nước ngoài góp 100% vốn pháp định, tự chịu
trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Ngoài ra tùy từng quốc gia có thể có các hình thức đầu tư trực tiếp khác như:
+ Hình thức BOT (Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao): là hình thức đầu tư
được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh
công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu từ
chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước

125
+ Hình thức BTO (Xây dựng – Chuyển giao – Vận hành): là hình thức đầu tư
được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà
nước; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời
hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
+ Hình thức BT (Xây dựng – Chuyển giao): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng;
sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước; Chính
phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Hình thức cho thuê- bán thiết bị, công ty cổ phần, công ty quản lý vốn…
2.5.2.2. Đầu tư gián tiếp quốc tế
Đầu tư quốc tế gián tiếp của các tổ chức kinh tế là hình thức chủ đầu tư nước
ngoài góp một phần vốn dưới hình thức đầu tư chứng khoán hoặc cho vay để thu lợi
nhuận và không trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn.
Hiện nay có 2 hình thức đầu tư gián tiếp quốc tế chính:
- Hình thức đầu tư chứng khoán: Là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư
thực hiện đầu tư bằng hình thức mua chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của các công
ty nước ngoài để thu lợi nhuận mà không trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ
bỏ vốn.
Việc đầu tư bằng hình thức đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm sau:
+ Nhà đầu tư nước ngoài chỉ mua được một tỷ lệ % vốn cổ phần nhất định của
mỗi một công ty, tùy theo quy định pháp luật của quốc gia đó.
+ Nhà đầu tư tham gia đầu tư bằng hình thức này không tham gia trực tiếp điều
hành công ty mà chỉ đầu tư và nhận cổ tức dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh của
công ty đó.
+ Nước nhận đầu tư sẽ không có cơ hội tiếp cận với công nghệ hiện đại, kỹ
năng kinh doanh và quản lý của nước đầu tư như đối với đầu tư bằng hình thức trực
tiếp.
- Hình thức tín dụng quốc tế: Là hình thức đầu tư quốc tế gián tiếp dưới dạng
các doanh nghiệp cho vay vốn quốc tế và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay.
Hình thức tín dụng quốc tế có một số đặc điểm sau:
+ Hình thức tín dụng quốc tế được sử dụng phổ biến trong các trường hợp nhập
khẩu hàng hóa trả chậm có bảo lãnh của ngân hàng, có phải trả lãi hoặc đối với công ty
mẹ và công ty con của công ty đa quốc gia cho vay vốn lẫn nhau.

126
+ Người cho vay không tham gia quản lý mà chỉ cho vay và nhận số tiền lãi
theo mức lãi suất và giá trị khoản vay, khoản tiền lãi này không phục thuộc vào tình
hình hoạt động kinh doanh của công ty.
2.5.3. Tài trợ quốc tế
Tài trợ quốc tế của Chính phủ bao gồm: Chính phủ nhận tài trợ quốc tế và
Chính phủ thực hiện tài trợ quốc tế.
2.5.3.1. Nội dung các khoản tài trợ quốc tế cho Chính phủ
- Vay thương mại quốc tế của Chính phủ: là các khoản vay nước ngoài của
Chính phủ theo các điều kiện thị trường, không có ưu đãi gì.
- Vay ưu đãi quốc tế của Chính phủ: là các khoản vay nước ngoài của Chính
phủ được hưởng các điều kiện ưu đãi về lãi suất, hoặc ưu đãi về thời hạn vay, hoặc ưu
đãi về điều kiện vay vốn.
- Các khoản viện trợ không hoàn lại: là các khoản tài trợ với mục đích nhân
đạo, phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực nghiên
cứu và triển khai khoa học, công nghệ, tăng cường năng lực cơ quan quản lý, nghiên
cứu chuẩn bị các chương trình dự án phát triển, trợ giúp các khó khăn đột xuất.
2.5.3.2. Ý nghĩa các khoản tài trợ quốc tế cho Chính phủ
a. Tác động tích cực
- Là một nguồn thu quan trọng đối với Chính phủ các nước đang phát triển và chậm
phát triển, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết của Chính phủ mà không gây ra lạm phát.
- Tăng thêm nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội, phát huy
được các tiềm năng sẵn có trong nước.
b. Tác động tiêu cực
- Phải trả lãi cho nước ngoài: Các khoản vay nói chung đều kèm theo lãi suất,
kể cả vay ưu đãi. Vì vậy hàng năm Chính phủ đều phải thực hiện trả nợ lãi và một
phần nợ gốc nên sẽ làm giảm một phần thu nhập quốc dân. Chính phủ nên xem xét huy
động các nguồn vốn trong nước trước khi thực hiện huy động các nguồn vốn nước
ngoài. Điều này sẽ giúp Chính phủ giảm thiểu áp lực trả nợ nước ngoài.
- Có thể để lại gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai: Các khoản vay nợ nước
ngoài nếu Chính phủ không sử dụng hợp lý, có hiệu quả sẽ dẫn đến không tăng trưởng
kinh tế, không có nguồn thu để trả nợ nước ngoài tạo ra thêm nhiều khoản nợ phải trả
hơn cho các thế hệ tương lai.
- Có thể dẫn tới vợ nợ Chính phủ: Nếu Chính phủ không sử dụng tốt các khoản
nợ vay có thể dẫn đến việc Chính phủ không có khả năng trả nợ, phải tuyên bố vỡ nợ.
Điều này sẽ tạo ra nhiều hậu quả không tốt như: bị ngăn cấm tham gia vào hoạt động
kinh tế quốc tế, bị tịch biên tài sản nước ngoài, bị cắt các khoản tài trợ quốc tế.

127
Hoạt động tài trợ quốc tế cho Chính phủ có cả những mặt tích cực, tiêu cực nên
Chính phủ xem xét, cân nhắc kỹ càng trước khi thực hiện tài trợ quốc tế cho Chính
phủ.

128
MODULE 3. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
3.1. Thị trường tài chính
3.1.1. Khái niệm thị trường tài chính
Trong xã hội, xét bất kỳ một thời điểm nào đó, luôn xảy ra đồng thời hiện
tượng: Có những người có vốn tạm thời nhàn rỗi vì thu nhập lớn hơn chi tiêu. Họ
muốn làm sinh sôi nảy nở đồng vốn dư thừa của mình nhưng có thể chưa có cơ hội tự
đầu tư kinh doanh hoặc không muốn tự bỏ vốn đầu tư vì không có kinh nghiệm và lo
sợ gặp rủi ro dẫn đến nguy cơ mất vốn. Những người dư thừa vốn có thể là hộ gia
đình, cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ. Trong đó hộ gia đình và cá nhân là những
người có vốn dư thừa do tiết kiệm là nhiều nhất. Doanh nghiệp cũng có thể có vốn dư
thừa do thu nhập lớn hơn chi phí hoặc doanh nghiệp tích lũy vốn nhưng chưa có kế
hoạch sử dụng. Còn chính phủ cũng có lúc tạm thời thừa vốn do thu nhập lớn hơn chi
tiêu của chính phủ.
Bên cạnh những người có vốn tạm thời dư thừa lại xuất hiện những người cần
vốn do nhu cầu chi tiêu lớn hơn khả năng thu nhập của họ. Nhu cầu vốn chi tiêu của số
người này có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng khác. Số người cần
vốn cũng có thể là hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ. Trong đó, doanh
nghiệp là những người luôn luôn cần vốn do nhu cầu vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh
của họ thường lớn hơn thu nhập. Chính phủ cũng có lúc thiếu vốn đầu tư vào dự án,
chương trình và kế hoạch của mình nhưng nguồn thu chưa đáp ứng. Hộ gia đình và cá
nhân cũng cần vốn để lập doanh nghiệp tư nhân, sản xuất cá thể và mua sắm tiêu dùng
khác nhưng khả năng thu nhập chưa đáp ứng.
Hiện tượng nói trên đòi hỏi phải điều hòa cung – cầu vốn để đồng vốn được
chuyển từ nơi dư thừa sang nơi cần vốn. Những người thiếu vốn huy động vốn bằng
cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu,… Những người có
vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng
hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi
những người cần huy động vốn. Người có vốn dư thừa không phải ngẫu nhiên chuyển
vốn của mình cho người khác sử dụng, mà mục đích việc chuyển của họ là tạo cho
đồng vốn đó phải lớn hơn, nghĩa là có lợi tức và phải đảm bảo an toàn. Điều này đòi
hỏi người cần vốn khi sử dụng vốn phải trả cho người có vốn một khoản chi phí. Chi
phí này được gọi là giá mua của vốn.
Đặc thù của việc mua bán vốn nói trên đã đòi hỏi thị trường mua bán vốn phải
khác thị trường thông thường mới đảm bảo cho cung và cầu vốn gặp nhau. Hay nói
cách khác, do tính đặc biệt của quá trình mua bán vốn đòi hỏi thị trường - nơi mua bán
vốn, phải tổ chức và hoạt động trên một số nguyên tắc nhất định. Người ta gọi đó là thị
trường tài chính.
129
Như vậy, thị trường tài chính là nơi mua bán vốn giữa các chủ thể thiếu vốn và
chủ thể thừa vốn theo những nguyên tắc nhất định của thị trường. Trên thị trường tài
chính, vốn được chuyển từ những người hiện có vốn dư thừa muốn sinh lời sang người
cần vốn, đáp ứng nhu cầu của cả hai bên.
3.1.2. Chức năng, phân loại thị trường tài chính
3.1.2.1. Chức năng thị trường tài chính
Thị trường tài chính là bộ phận quan trọng bậc nhất, chi phối toàn bộ hoạt động
của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia.
Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là chuyển vốn từ người có tiền nhàn
rỗi sang những người cần vốn. Dòng vốn này có thể qua 2 con đường như sau: Tài
chính trực tiếp hoặc tài chính gián tiếp.
Tài chính gián tiếp

Vốn Các trung gian tài chính


Vốn

Người cho vay Người đi vay


1. Hộ gia đình 1. Doanh nghiệp
2. Doanh nghiệp 2. Chính phủ
3. Chính phủ Thị trường tài chính 3. Hộ gia đình
4. Nước ngoài 4. Nước ngoài
Tài chính trực tiếp

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ luân chuyển vốn


- Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn: Với những người dư
thừa vốn, thu nhập của họ lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các
tổ chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, Chính phủ, các tổ
chức và cá nhân khác lại thiếu hụt và cần vốn. Thị trường tài chính có chức năng kết
nối người dư thừa vốn và người thiếu vốn gặp nhau và đáp ứng nhu cầu về vốn của cả
hai bên. Khi đó người có vốn có thể đầu tư sinh lãi từ đồng vốn của mình, còn người
thiếu vốn sẽ huy động được vốn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của họ.
- Xác định giá cả của các tài sản tài chính (biểu hiện của vốn): Thông qua quan
hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu trên thị trường) giá cả của các tài
sản tài chính được xác định, hay nói cách khác, lợi tức yêu cầu của tài sản tài chính
được xác định. Thực chất đó chính là tỷ lệ sinh lời mà người cung cấp vốn yêu cầu
người sử dụng vốn phải trả để được sử dụng vốn của họ.

130
- Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính: Tính thanh khoản là khả năng có
thể chuyển đổi thành tiền của tài sản, một tài sản được coi là có tính thanh khoản cao
khi nó được chuyển sang tiền một cách nhanh chóng và với mức chi phí thấp. Thị
trường tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao đổi, mua bán các tài
sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, do đó các tài sản này có thể dễ dàng
chuyển đổi thành tiền, như vậy thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản cho các tài
sản tài chính.
- Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường: Nhờ tính tập
trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung cấp đầy đủ, chính xác và
nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi phí đối với
các bên tham gia giao dịch và góp phần tăng hiệu quả đối với các chủ thể trên thị
trường cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh: Thị trường tài chính là thị
trường định giá các công cụ tài chính, vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một
cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho
các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
- Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ: Thị trường tài chính có một chức năng
quan trọng là ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh
của nền kinh tế. Vốn được chuyển từ người có vốn dư thừa, nhàn rỗi sang người có
nhu cầu sử dụng vốn để đầu tư cho kinh doanh hoặc tiêu dùng, do đó, tiền tệ được lưu
thông, các hoạt động kinh doanh được cung cấp vốn kịp thời để triển khai thực hiện,
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
3.1.2.2. Phân loại thị trường tài chính
a. Căn cứ vào phương thức vận động của luồng tài chính
- Thị trường tài chính gián tiếp
Là thị trường tài chính mà ở đó, người có vốn dư thừa và người cần vốn không
trực tiếp giao dịch với nhau mà họ đều giao dịch thông qua các trung gian tài chính
như các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm,... Chẳng hạn,
người có vốn dư thừa có thể mang tiền của mình đến ngân hàng thương mại để gửi tiết
kiệm và hưởng lãi tiết kiệm. Người có nhu cầu về vốn để kinh doanh hoặc tiêu dùng
như mua nhà, mua xe ô tô,... có thể đến ngân hàng để vay tiền và trả lãi vay cho ngân
hàng theo mức lãi suất quy định. Như vậy, nhu cầu của cả người có vốn và người cần
vốn đều được đáp ứng thông qua sử dụng dịch vụ của các trung gian tài chính mà họ
không cần phải giao dịch trực tiếp với nhau.
- Thị trường tài chính trực tiếp
Là thị trường tài chính mà ở đó, người có vốn dư thừa và người cần huy động
vốn giao dịch trực tiếp với nhau để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình. Người cần vốn
131
huy động vốn bằng cách phát hành các giấy tờ chứng nhận số vốn góp hoặc vốn cho
vay của người dư thừa vốn đối với người huy động vốn, như: cổ phiếu, trái phiếu, tín
phiếu, hợp đồng tín dụng,... Người có vốn dư thừa mua các chứng khoán này nhằm
sinh lời từ lợi tức do các chứng khoán này mang lại hoặc đầu tư để bán hưởng chênh
lệch giá.
b. Căn cứ vào phương thức huy động
Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành, thị trường tài
chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần.
- Thị trường nợ là nơi diễn ra việc mua bán các công cụ nợ. Các công cụ nợ có
thời hạn xác định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Người phát hành công cụ
nợ nhằm mục đích vay vốn còn người mua công cụ nợ là người có vốn nhàn rỗi sẽ cho
vay thông qua việc nắm giữ chứng khoán nợ nhằm thu lãi. Người phát hành có nghĩa
vụ trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn cho người nắm giữ các công cụ nợ này. Tín phiếu và
trái phiếu là hai ví dụ điển hình của các công cụ nợ.
- Khác với thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ phiếu,
giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là người nắm giữ cổ phiếu, là
chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình và
được hưởng những quyền lợi của một chủ sở hữu. Công ty không có nghĩa vụ chi trả
vốn gốc nhưng có trách nhiệm trả cổ tức cho cổ đông theo quy định của công ty.
c. Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn, thị trường tài chính được chia thành
thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Thị trường tiền tệ là thị trường mà ở đó các công cụ ngắn hạn (có kỳ hạn dưới
một năm) được mua bán. Vốn ngắn hạn chủ yếu do các ngân hàng cung cấp. Các hàng
hoá trên thị trường tiền tệ có đặc điểm là thời gian đáo hạn ngắn hạn nên có tính lỏng
cao, độ rủi ro thấp và ổn định.
- Thị trường vốn là thị trường giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và
dài hạn (gồm các công cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu). Thị trường chứng khoán là bộ
phận chủ yếu của thị trường vốn.
d. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức
- Thị trường sơ cấp là nơi các giấy tờ có giá được phát hành và bán cho người
mua đầu tiên, nói cách khác, đây là thị trường cung ứng các công cụ tham gia trên thị
trường tài chính.
Đây là nơi mua bán những chứng khoán mới phát hành. Vì thế, trong thực tế
người ta còn gọi thị trường phát hành chứng khoán. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường
này là nguồn tiền tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính. Như
vậy, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng của thị trường chứng khoán đó
132
là mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa tiền tiết kiệm vào công
cuộc đầu tư. Với đặc tính thị trường sơ cấp là nơi phát hành lần đầu tiên chứng khoán
ra công chúng cho nên nó được xem là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và chỉ
tạo ra phương tiện huy động vốn. Vì thế, vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra công cụ
cho thị trường giao dịch và là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Trong thị trường sơ cấp, nhà phát hành (người bán chứng khoán) là người huy
động vốn và người đầu tư mua chứng khoán là nhà đầu tư. Việc phát hành lần đầu tiên
chứng khoán ra công chúng là giai đoạn gay go nhất, vì nếu không đạt được kết quả thì
chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành.
Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành
nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và
người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứng khoán. Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới
chỉ khi những chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau
đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không
làm ảnh hưởng đến số vốn của người phát hành.
- Thị trường thứ cấp là nơi mua – bán những giấy tờ có giá đang lưu hành, đáp
ứng cho nhu cầu chuyển nhượng vốn đầu tư, từ đó, tạo nên tính thanh khoản cho các
công cụ trên thị trường góp phần tăng sức thu hút đối với công chúng tham gia trên thị
trường này.
Đây còn được gọi là thị trường cấp hai, là nơi mua bán các chứng khoán đã
được phát hành trên thị trường sơ cấp. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị
trường tài chính và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị
trường sơ cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Chứng khoán giao dịch trên thị
trường này có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau với tác
động của quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác. Nhờ có thị trường thứ cấp, những
người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào chứng khoán, vì khi cần tiền
họ có thể bán lại các chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường.
Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau:
Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức là
tạo cho các công cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản; kiếm lời từ việc nắm giữ
chứng khoán; xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá; giá hợp lý trên thị
trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp.
* Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp:
Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt
động, nó tạo các công cụ để mua bán trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, nếu không có
133
thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được:
thị trường thứ cấp sẽ tạo tính lỏng cho các công cụ tài chính được cung cấp từ thị
trường sơ cấp (qua đó làm tăng tính hấp dẫn và tạo sự thuận lợi cho các chứng khoán
được phát hành trên thị trường sơ cấp; thị trường thứ cấp cũng góp phần xác định giá
các chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý
thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng ta không thể chỉ rõ
ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động
của thị trường chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứng khoán vừa diễn ra việc
mua đi bán lại chứng khoán.
3.1.3. Công cụ thị trường tài chính
3.1.3.1. Các công cụ trên thị trường tiền tệ
Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ của Chính phủ có thời hạn từ 3 tháng đến
dưới 1 năm (364 ngày). Tín phiếu kho bạc là chứng nhận nợ ngắn hạn của Chính phủ
do Kho bạc Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà
nước và thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc có hình thức phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc ghi sổ dưới
dạng tín phiếu vô danh, thường được phát hành với kỳ hạn thanh toán 3, 6, 9 tháng
hoặc 1 năm.
Tín phiếu kho bạc là công cụ có tính lỏng nhất trong các công cụ trên thị trường
tiền tệ, đồng thời cũng là công cụ an toàn nhất vì Chính phủ có thể đảm bảo trả nợ vốn
và lãi khi đến hạn thanh toán. Tín phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng nắm giữ,
một phần nhỏ do các doanh nghiệp hoặc các trung gian tài chính khác nắm giữ. Tín
phiếu vừa là đối tượng giao dịch vừa là tài sản thế chấp trong quan hệ vay mượn giữa
các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng trung
ương.
Thương phiếu
Thương phiếu là giấy nhận nợ không đảm bảo do công ty hoặc doanh nghiệp
phát hành để tài trợ nhu cầu vốn tạm thời của doanh nghiệp (thường là loại thương
phiếu do công ty, doanh nghiệp lớn, được sự tin tưởng phát hành thì được giao dịch
trên thị trường tiền tệ). Thương phiếu có đặc điểm là không có đảm bảo và thường do
các tổ chức định mức tín nhiệm xếp hạng. Thời hạn thanh toán của thương phiếu
thường ngắn: 20, 40, 270 ngày. Thương phiếu có thể được dùng để cầm cố hoặc chiết
khấu tại ngân hàng để các doanh nghiệp có thể vay vốn tức thời. Thương phiếu bao
gồm:

134
- Lệnh phiếu: Là một giấy nhận nợ do người mua ký phát trao cho người bán,
trong đó người mua cam kết trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng lệnh phiếu
khi đến hạn thanh toán.
- Hối phiếu: Là một giấy nhận nợ do người bán ký phát trao cho người mua, trong
đó người bán yêu cầu người mua phải trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng hối
phiếu (có thể là người bán hoặc bất kỳ người thụ hưởng nào khác) khi đến hạn thanh toán.
Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng
Là giấy chứng nhận về việc gửi tiền và là một công cụ vay nợ của ngân hàng
đối với người gửi tiền. Trên chứng chỉ quy định người sở hữu nó sẽ nhận được một
khoản tiền lãi định kỳ và nhận đủ số vốn khi đáo hạn.
Chứng chỉ tiền gửi có đặc điểm:
- Có thể không ghi danh nên gốc và lãi do ngân hàng phát hành thanh toán khi
hết hạn.
- Lãi suất do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận.
- Thời hạn ngắn thường từ 1 – 3 tháng hoặc 6 tháng.
Chấp phiếu ngân hàng
Là giấy do một công ty phát hành, được ngân hàng đóng dấu “đã chấp nhận”,
bảo đảm rằng ngân hàng sẽ thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định vào một
thời điểm nhất định trong tương lai cho người nắm giữ giấy này. Công ty phát hành
chấp phiếu phải gửi một khoản tiền bắt buộc theo thỏa thuận vào tài khoản của mình
tại ngân hàng đủ để trả cho khoản nợ ghi trên chấp phiếu. Nếu công ty không có khả
năng thanh toán, ngân hàng buộc phải trả cho người thụ hưởng số tiền ghi trên chấp
phiếu khi đến hạn thanh toán.
Chấp phiếu được sử dụng trong giao dịch xuất nhập khẩu khi mà nhà xuất khẩu
chưa biết rõ vị thế tín dụng của nhà nhập khẩu, tình hình chính trị của quốc gia có nhà
nhập khẩu thì nhà xuất khẩu dựa vào giấy chấp nhận của ngân hàng trong nước hoặc
ngân hàng nước ngoài có uy tín để đảm bảo nhằm giảm thiểu rủi ro cho họ.
Hợp đồng mua lại và hợp đồng mua lại ngược
Hợp đồng mua lại là hợp đồng mua chứng khoán đồng thời kèm lời hứa bán lại
chứng khoán vào một ngày cụ thể trong tương lai với mức giá đã thỏa thuận. Người
cam kết trả cho người mua một lãi suất nhất định.
Hợp đồng mua lại ngược là hợp đồng mua bán chứng khoán trong đó nhà kinh
doanh mua chứng khoán cam kết sẽ bán lại cho nhà đầu tư với cùng một mức giá tại
một thời điểm nào đó trong tương lai.
Hợp đồng loại này có đặc điểm:
- Thường có thời hạn ngắn: 3 ngày, 14 ngày, 3 tháng.
- Thường được các nhà giao dịch sử dụng để mua bán chứng khoán chính phủ.
135
- Ngân hàng Trung ương sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ.

136
3.1.3.2. Các công cụ trên thị trường vốn
Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và công cụ vốn với kỳ hạn
thanh toán trên một năm hoặc vô hạn. Các công cụ trên thị trường vốn có mức độ biến
động giá mạnh hơn và tính thanh khoản thấp hơn so với các công cụ trên thị trường
tiền tệ, do vậy các công cụ này có mức độ rủi ro lớn hơn và lợi tức thường cao hơn.
Cổ phiếu
Cổ phiếu là trái quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công ty
cổ phần, nó chứng thực quyền sở hữu một phần của công ty và quyền được chia cổ
tức. Cổ phiếu lưu hành trên thị trường có nhiều loại:
- Căn cứ vào hình thức, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu ký danh.
Lúc mới ra đời, cổ phiếu tồn tại dưới dạng ký danh có ghi tên người sở hữu nó,
sau này khi thị trường cổ phiếu phát triển, loại cổ phiếu ký danh gây trở ngại cho việc
lưu thông và chuyển nhượng cổ phiếu. Do đó, loại cổ phiếu vô danh, không ghi tên
người sở hữu ra đời và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, ở một số nước vẫn quy định cổ
phiếu của những thành viên trong hội đồng quản trị của công ty, của những cổ đông
góp vốn bằng hiện vật hoặc mua cổ phiếu bằng cách góp vốn nhiều lần sẽ phải mua
loại cổ phiếu ký danh. Ngoài ra, đối với một số công ty – đa số thuộc loại công ty của
một dòng họ hay gia đình không muốn có sự can thiệp bởi thế lực tài chính khác sẽ
phát hành loại cổ phiếu ký danh để nắm rõ được danh sách cụ thể của cổ đông trong
công ty.
- Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu gồm hai loại phổ biến là cổ phiếu
ưu đãi và cổ phiếu thường.
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ
lãi nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tính ưu đãi của cổ phiếu ưu đãi
còn được thể hiện ở một số điểm như: chia lãi cổ tức trước cổ phiếu thường, trường hợp tài
sản công ty bị thanh lý, phần tài sản còn lại sau khi thanh toán hết các khoản nợ của công ty
sẽ hoàn vốn cho các cổ đông giữ cổ phiếu ưu đãi. Loại cổ phiếu ưu đãi còn được phát hành
dưới nhiều hình thức như cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường, cổ
phiếu ưu đãi có lãi cổ phần gộp, cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn…
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, lợi tức biến động tùy
theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Trên thị trường, giá của loại cổ phiếu này biến
động nhiều hơn so với loại cổ phiếu ưu đãi. Thị giá cổ phiếu thường không chỉ phụ thuộc
vào lợi nhuận công ty mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố khác như: môi trường
kinh tế, tăng trưởng kinh tế nói chung, và sự thay đổi lãi suất trái phiếu chính phủ, các công
cụ vay nợ dài hạn có lãi suất cố định, lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng.
Trái phiếu

137
Trái phiếu là một chứng khoán xác nhận một khoản vốn cho vay và quyền được
hưởng mức thu nhập theo định kỳ. Người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát
hành và sẽ được hoàn lại vốn khi đến hạn.
Căn cứ vào khả năng chuyển nhượng, trái phiếu gồm có trái phiếu vô danh và
trái phiếu ghi danh. Trái phiếu vô danh là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên
chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Trái phiếu ghi danh là loại trái
phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành.
Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh
toàn bộ, cả gốc lẫn lãi.
Căn cứ vào phương thức trả lãi, có 2 loại trái phiếu là trái phiếu Coupon và trái
phiếu Zero – Coupon. Trái phiếu Coupon là trái phiếu có cuống lãi đính kèm và trên
đó ghi rõ lãi suất và kỳ hạn trả lãi. Trái phiếu Zero – Coupon là loại trái phiếu không
có phiếu lãi (tem lãi) đính kèm, gồm 2 loại: Trái phiếu chiết khấu và trái phiếu gộp.
Trái phiếu chiết khấu là loại trái phiếu được bán với giá thấp hơn mệnh giá (thực chất
là lãi của trái phiếu được trả ngay khi phát hành dưới hình thức khấu trừ vào vốn). Trái
phiếu gộp là loại trái phiếu được hoàn trả vốn và lãi khi đáo hạn (trái phiếu hưởng lãi
sau).
Căn cứ vào chủ thể phát hành, trên thị trường vốn có các loại trái phiếu sau:
- Trái phiếu doanh nghiệp: Đây là loại trái phiếu do công ty phát hành với mục
đích bổ sung vốn kinh doanh. Người sở hữu trái phiếu chỉ là chủ nợ của công ty, do đó
chủ sở hữu trái phiếu không được tham dự và can thiệp vào hoạt động của công ty.
Tuy nhiên đầu tư vào trái phiếu vẫn có mức độ an toàn cao hơn so với đầu tư vào cổ
phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp có các loại như sau:
+ Trái phiếu có bảo đảm bằng tài sản của công ty hoặc được bảo lãnh bằng uy
tín của một doanh nghiệp khác (thường là ngân hàng đầu tư hoặc công ty chứng
khoán,…)
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu của công ty. Đây là loại trái
phiếu mà khi phát hành, công ty có kèm điều khoản cho phép người chủ sở hữu trái
phiếu được chuyển đổi trái phiếu của mình thành một số lượng cổ phiếu thường của
cùng một công ty phát hành, nếu như đáp ứng được những điều kiện chuyển đổi về tỷ
lệ, thời gian và hình thức chuyển đổi. Đây là cơ hội kiếm lời cho những người mua trái
phiếu khi giá cổ phiếu gia tăng trên thị trường.
+ Trái phiếu bảo lãnh: Đây là loại trái phiếu được đảm bảo khả năng thanh toán
về vốn và lãi bởi một doanh nghiệp khác. Người bảo lãnh thường là ngân hàng, công
ty tài chính, công ty bảo hiểm hay các công ty chứng khoán. Nếu sự bảo lãnh được
thực hiện bởi nhiều người bảo lãnh thì trái phiếu bảo lãnh còn được gọi là trái phiếu
liên đới.
138
- Trái phiếu Chính phủ: Do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương phát hành
với mục đích bù đắp những khoản chi của ngân sách Nhà nước. Nói cách khác, trái
phiếu Nhà nước là chứng thư xác nhận khoản nợ của Nhà nước. Đặc điểm của trái
phiếu Chính phủ là độ tin cậy về khả năng thanh toán rất cao trong điều kiện kinh tế
bình thường, không có chiến tranh, đảo chính quân sự… Trái phiếu Chính phủ có tính
thanh khoản cao, số lượng lớn, vì vậy các nhà đầu tư thường thích đầu tư vào trái
phiếu Chính phủ hơn là trái phiếu công ty, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trái
phiếu Chính phủ bao gồm nhiều loại như:
+ Tín phiếu kho bạc trung hạn: Là phiếu nợ trung hạn, thường có thời hạn từ 1
năm, do kho bạc phát hành khi huy động vốn để bổ sung quỹ ngân sách.
+ Trái phiếu kho bạc: Tương tự như tín phiếu kho bạc nhưng có thời hạn
thường trên 10 năm.
+ Trái phiếu đô thị: Do chính quyền địa phương phát hành nhằm huy động
nguồn vốn tài trợ cho các dự án đầu tư hạ tầng như xây dựng trường học, tu bổ đường
giao thông, sân bay, cầu cảng,... ở địa phương. Thời hạn trái phiếu đô thị thường từ 10
năm đến 30 năm.
Các khoản tín dụng cầm cố
Là các khoản cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp hoặc các hộ gia đình để mua
nhà ở, đất đai, bất động sản và dùng chính các tài sản này làm thế chấp cho khoản vốn vay.
Các khoản tín dụng trung, dài hạn
Là các khoản cấp tín dụng trung, dài hạn của các ngân hàng thương mại hoặc
các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn.
Các khoản tín dụng này thường không được giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp
nên tính thanh khoản rất thấp.
Chứng chỉ quỹ đầu tư
Là một loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ đại diện cho một quỹ đầu tư
chứng khoán phát hành, xác nhận quyền hưởng lợi của người đầu tư đối với quỹ.
3.1.4. Thị trường tiền tệ
3.1.4.1. Khái niệm thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ
có giá, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi
và các giấy tờ có giá khác.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong
việc huy động vốn, luân chuyển vốn, đảm bảo tính thanh khoản cho các tài khoản có
giá và do đó góp phần phát triển kinh tế. Thị trường tài chính bao gồm hai bộ phận là
thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán, trong đó thị trường tiền tệ ra đời trước,
giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động.
139
Thị trường tiền tệ là nơi giao dịch ngắn hạn về vốn hay nói cách khác thị trường
tiền tệ là nơi trao đổi mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn (hoạt động vay và cho
vay ngắn hạn chính là nghiệp vụ cơ bản của thị trường tiền tệ). Theo thông lệ, một
công cụ tài chính có thời hạn thanh toán dưới 1 năm là công cụ của thị trường tiền tệ
(lâu nhất là 364 ngày và ngắn nhất là 1 đêm hay 24 giờ).
3.1.4.2. Đặc điểm thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ có những đặc điểm sau:
Do thị trường tiền tệ là nơi giao dịch ngắn hạn về vốn, nên các giao dịch trên thị
trường tiền tệ không diễn ra tại một địa điểm riêng biệt mà được giao dịch thống nhất
qua hệ thống điện thoại, mạng điện tử.
Các công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ có tính lỏng cao, được giao dịch
chủ yếu trên thị trường thứ cấp. Sau khi các chứng khoán ngắn hạn được bán lần đầu,
nó dễ dàng tìm được người mua. Một thị trường thứ cấp sôi động tạo cho các công cụ
của thị trường tiền tệ tính linh hoạt và được dùng để đáp ứng các nhu cầu tài trợ ngắn
hạn.
Một đặc điểm khác của thị trường tiền tệ là thị trường tiền tệ bán buôn, khối lượng
giao dịch vốn thường là lớn (các cá nhân, tổ chức giao dịch nhỏ lẻ thường phải thông qua
một tổ chức gọi là quỹ tương hỗ). Các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng
thương mại thường là các tác nhân tham gia mua bán chủ yếu trên thị trường này.
3.1.4.3. Phân loại thị trường tiền tệ
Căn cứ vào loại tiền giao dịch
Căn cứ vào loại tiền giao dịch trên thị trường, thị trường tiền tệ gồm:
+ Thị trường nội tệ: Là nơi diễn ra hoạt động mua bán nội tệ.
+ Thị trường ngoại tệ: Là nơi diễn ra hoạt động mua bán các loại ngoại tệ. Thị
trường ngoại tệ của Việt Nam bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường
ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng.
Căn cứ vào hình thức giao dịch
Căn cứ vào hình thức giao dịch, thị trường tiền tệ gồm:
+ Thị trường trao ngay: Là thị trường mà mỗi giao dịch được thực hiện trong
thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày giao dịch của các ngân hàng thương mại (t+2).
+ Thị trường có kỳ hạn: Các hợp đồng giao dịch được thực hiện với một mức
giá ấn định (tỷ giá hoặc lãi suất) tại một thời điểm xác định trong tương lai.
+ Thị trường hoán đổi: Thị trường hoán đổi ngoại hối là thị trường mà ở đó các
giao dịch ngoại hối đồng thời mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định, trong đó
ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau.
+ Thị trường tương lai: Giá tương lai được thoả thuận từ ngày giao dịch, hợp
đồng có thể chấm dứt trước thời hạn.
140
Căn cứ vào phương thức tổ chức thị trường
+ Thị trường tiền tệ sơ cấp: Là nơi diễn ra việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn
hạn mới phát hành. Việc mua bán chứng khoán ngắn hạn trên thị trường này thường
được tiến hành thông qua trung gian đó là ngân hàng.
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp: Là thị trường mua bán lại các chứng khoán ngắn
hạn đã được phát hành.
3.1.4.4. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
a. Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương tham gia thị trường tiền tệ với mục đích quản lý hệ
thống tín dụng và điều tiết cung ứng tiền tệ: Khi ngân hàng Trung ương mua là cung
tiền, bán là hấp thụ tiền. Ngân hàng Trung ương là thành viên không thể thiếu được và
có vai trò đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến điều tiết trên thị trường tiền tệ để tác
động làm thay đổi tiền dự trữ và điều tiết lãi suất.
b. Các ngân hàng trung gian
Ngân hàng trung gian (chủ yếu là ngân hàng thương mại) là một đơn vị kinh
doanh có tư cách pháp nhân, hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ bằng việc nhận các
khoản tiền gửi có trả lãi để hút vốn nhàn rỗi, rồi dùng chính các khoản đó để cho vay
lại đối với nền kinh tế.
Do tính chất kinh doanh tiền tệ nên các ngân hàng thương mại thường nắm giữ
các chứng khoán, đặc biệt là tín phiếu kho bạc thường chiếm tỷ lệ cao, mặt khác các
ngân hàng trung gian còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, chấp phiếu ngân hàng, các hợp
đồng mua lại và các khoản vay liên ngân hàng,... Việc sử dụng các chứng khoán nhằm
mục đích thanh khoản thì nhiều ngân hàng còn giao dịch thay mặt cho khách hàng.
Mục đích tham gia thị trường tiền tệ của ngân hàng thương mại là để huy động
vốn ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, thu lời với chi phí thấp, rủi ro thấp trong
kinh doanh.
c. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
- Các công ty đầu tư và các công ty chứng khoán: Là các nhà giao dịch lớn trên
thị trường tiền tệ bằng cách luôn duy trì một lượng tiền dự trữ để sẵn sàng mua – bán
chứng khoán và đảm bảo tính thanh khoản trên thị trường.
- Các công ty tài chính: Công ty tài chính được hiểu là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ, là các hội thương mại mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là: Thu hút vốn
bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu, không nhận tiền gửi của các tổ chức kinh
tế và dân chúng; cho vay các món tiền nhỏ đặc biệt thích hợp với nhu cầu của các
doanh nghiệp nhỏ và người tiêu dùng; cho vay dài hạn; thực hiện các nghiệp vụ cho
thuê và thuê mua; cầm cố các loại hàng hóa, vật tư, ngoại tệ,...

141
- Công ty bảo hiểm: Là một tổ chức tài chính mà hoạt động chủ yếu là nhằm
bảo vệ tài chính cho những người có hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro
về tử vong, thương tật, tài sản và các rủi ro khác. Với tổ chức kinh doanh bảo hiểm do
yêu cầu phải thanh khoản mà không dự báo trước được thị trường nên các công ty bảo
hiểm phải tham gia thị trường tiền tệ khi cần chuyển hóa các chứng khoán thành tiền
mặt để chi trả khi xảy ra các sự cố phải bảo hiểm.
d. Nhà môi giới
Lợi dụng chênh lệch giá để kiếm lời với các lý do không phải lúc nào những đối
tượng cần mua cũng có thể gặp các đối tượng cần bán, cũng như không phải người
muốn đầu tư một loại chứng khoán nào đó cũng có thể nhanh chóng có những hiểu
biết, có những luồng thông tin để mà tìm được cho mình để mua được chứng khoán
phù hợp với lượng tiền mình có, vừa có lãi và thời gian đáo hạn theo ý mình.
Đồng thời với việc tạo điều kiện thuận lợi cho bên mua và bên bán nên trên thị
trường tiền tệ đã xuất hiện nhà môi giới với nhiệm vụ chính là cung cấp thông tin để 2
bên mua bán gặp nhau theo đúng nguyện vọng của họ.
e. Cá nhân, hộ gia đình
Các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thường tham gia thị trường với tư cách là
nhà đầu tư – chủ thể cho vay. Do họ trực tiếp mua các giấy tờ có giá của ngân hàng
hoặc gửi tiền vào ngân hàng để rồi nó trở thành nguồn vốn của các ngân hàng, ngân
hàng thương mại lại cho họ vay lại thì đó cũng là hoạt động cho vay của các loại chủ
thể này.
3.1.4.5. Cấu trúc của thị trường tiền tệ
Cấu trúc của thị trường tiền tệ gồm: Thị trường tín dụng; thị trường liên ngân
hàng; thị trường chứng khoán ngắn hạn; thị trường ngoại hối.
Thị trường tín dụng hoạt động dựa vào hoạt động của các tổ chức tài chính
trung gian. Các tổ chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh
tế, cá nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức kinh tế,
cá nhân khác vay lại nếu cần. Ví dụ như thông qua các trung gian tài chính như ngân
hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu
tư ở nước ta tồn tại các tổ chức tín dụng như: các tổ chức tín dụng Nhà nước, các ngân
hàng thương mại cổ phần đô thị, các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh, các công ty tài chính, các
công ty cho thuê tài chính, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100%
vốn đầu tư nước ngoài,...
Thị trường liên ngân hàng là thị trường hoạt động phục vụ cho các giao dịch về
vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả ngân hàng Trung ương). Không phải lúc nào
ngân hàng cũng luôn có đủ tiền để cho vay, không phải lúc nào ngân hàng cũng tìm
142
được khách hàng để cho vay hết khoản tiền mà mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu
vay và cho vay giữa các ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động chính của mình là
huy động vốn và cho vay vốn.
Thị trường chứng khoán ngắn hạn (thị trường mở) là nơi thực hiện các giao
dịch mua bán, chuyển nhượng và trao đổi các giấy tờ có giá ngắn hạn như: tín phiếu
kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác.
Thị trường ngoại hối: Thị trường này là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch,
mua bán, chuyển nhượng, vay và cho vay bằng ngoại tệ và các phương tiện thanh toán
ghi bằng ngoại tệ. Các công cụ của thị trường ngoại hối gồm có: hợp đồng giao ngay
(Spot), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng quyền chọn
(Option), Nhờ công cụ này mà thị trường ngoại hối có thể đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
cho các tổ chức kinh tế, đồng thời tạo cho thị trường ngoại hối hoạt động ổn định.
Khác với các loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị
trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt nữa của thị
trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào người dân ở các khu
vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau thì thị trường ngoại hối tồn tại là
cần thiết.
3.1.5. Thị trường vốn
3.1.5.1. Khái niệm thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn trên 1
năm, là thị trường cung ứng vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế.
Trên góc độ bao quát về những hình thức giao dịch vốn trong nền kinh tế, thị
trường vốn được thể hiện thông qua thị trường chứng khoán. Có sự khác biệt giữa thị
trường vốn và thị trường chứng khoán. Thị trường vốn bao gồm thị trường tín dụng dài
hạn và thị trường giao dịch chứng khoán dài hạn (gồm thị trường cổ phiếu và thị
trường trái phiếu). Thị trường chứng khoán bao gồm cả thị trường giao dịch các chứng
khoán ngắn hạn và thị trường vốn nơi mua bán các chứng khoán trung và dài hạn.
3.1.5.2. Phân loại thị trường vốn
a. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức thị trường
- Thị trường sơ cấp: Đây là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát
hành. Thị trường sơ cấp tạo điều kiện tăng quy mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng
chứng khoán vào lưu thông.
- Thị trường thứ cấp: Là thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu các loại chứng
khoán đã phát hành và đang lưu thông trên thị trường. Thị trường thứ cấp không làm
thay đổi quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế. Thị trường thứ cấp là điều kiện để thị
trường sơ cấp phát triển, ngược lại thị trường sơ cấp là cơ sở của thị trường thứ cấp.
143
Riêng đối với thị trường thứ cấp, trong thực tế thường được tổ chức theo hai cách đó
là thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Thị trường tập trung, nơi mà các hoạt
động giao dịch được thực hiện tại các sở giao dịch, chứng khoán được mua bán tại đây phải
thoả mãn các tiêu chuẩn niêm yết. Khác với thị trường tập trung có địa điểm cố định để tiến
hành giao dịch thì thị trường phi tập trung được thực hiện ở mọi nơi, việc mua bán được
thông qua điện thoại, mạng Internet,… Tại đây thực hiện phương thức mua bán thẳng cho
bất kỳ ai chấp nhận giá được đưa ra nên còn gọi là thị trường trao tay (OTC). Các chứng
khoán được phép phát hành là có thể giao dịch tại thị trường phi tập trung, vì vậy, hầu như
tất cả các chứng khoán không được niêm yết tại thị trường tập trung thì đều giao dịch tại
đây, thậm chí một số chứng khoán không muốn đăng ký niêm yết tại sở giao dịch chứng
khoán cũng tham gia mua bán tại thị trường này. Do nằm rải rác ở nhiều nơi nên khối lượng
giao dịch trên thị trường phi tập trung lớn hơn tại sở giao dịch. Mặc dù vậy, độ tín nhiệm
của những mặt hàng trên thị trường tập trung vẫn cao hơn.
b. Căn cứ vào các công cụ tham gia trên thị trường vốn
- Thị trường trái phiếu: Đây là thị trường phát hành và mua đi bán lại các trái
phiếu đã được phát hành, bao gồm thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường trái
phiếu chính phủ.
- Thị trường cổ phiếu: Đây là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán.
Vì cổ phiếu là loại chứng khoán có lãi suất thường phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động
của công ty, do đó nhân tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tình hình hoạt động
của công ty như khủng hoảng giá dầu, giá USD, lạm phát, đình công, thất nghiệp,
chiến tranh… đều ảnh hưởng đến giá cả của thị trường cổ phiếu. Có thể nói, thị trường
cổ phiếu là bức tranh toàn cảnh phản ánh mọi cung bậc thăng trầm trong đời sống kinh
tế, chính trị và xã hội. Vì vậy, khi đề cấp đến thị trường chứng khoán có nghĩa là muốn
nói đến hạt nhân cơ bản của nó - thị trường cổ phiếu.
3.1.5.3. Các chủ thể tham gia thị trường vốn
Các chủ thể tham gia trên thị trường vốn bao gồm:
- Chủ thể phát hành chứng khoán: Đây là chủ thể có nhu cầu về vốn đầu tư
hoặc được Nhà nước cho phép phát hành chứng khoán để huy động vốn. Họ đại diện
cho nguồn cung ứng chứng khoán vào lưu thông và đó là các công ty, xí nghiệp, các tổ
chức tài chính và Nhà nước,…
- Người đầu tư: Đó là những người có vốn nhàn rỗi và họ muốn mua chứng
khoán trên thị trường để kiếm lời. Với mục đích đầu tư lâu dài họ thường nắm giữ
chứng khoán của những công ty lớn có uy tín. Những người đầu tư trên thị trường là
những pháp nhân kinh tế và các thể nhân.
- Người môi giới chứng khoán: Nguyên tắc cơ bản của hoạt động giao dịch trên thị
trường chứng khoán là nguồn cung - cầu về chứng khoán thường được kết nối thông qua
144
trung gian môi giới chứng khoán. Vì vậy, người môi giới chứng khoán có vị trí quan trọng
nhất định đối với sự tồn tại và nhịp sống sôi động của thị trường chứng khoán. Nhà môi giới
có thể hoạt động với tư cách là thể nhân hoặc pháp nhân (công ty môi giới). Để hành nghề
môi giới phải được Nhà nước cấp giấy phép và phải hội đủ các điều kiện mà quy chế về
nghề môi giới theo luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán quy định.
Hoạt động môi giới theo đúng nghĩa là chỉ nhận lệnh mua hoặc bán hộ chứng
khoán cho khách hàng để được nhận hoa hồng, nghĩa là họ không được mua bán
chứng khoán cho chính mình nhằm đảm bảo tính khách quan trong nghề môi giới. Do
đó, người môi giới giống như một đại lý trung gian.
- Người kinh doanh chứng khoán: Người kinh doanh chứng khoán chỉ mua bán
chứng khoán cho bản thân nhằm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt động của họ cũng có
ý nghĩa nhất định khi luật chứng khoán các nước quy định người kinh doanh chứng
khoán phải dành một tỷ lệ % trong giao dịch của mình vào mục đích điều tiết giá
chứng khoán trên thị trường. Họ chỉ được mua vào khi giá của đợt bán ra trước đó
giảm và chỉ được bán ra khi giá của đợt bán ra trước đó tăng.
- Người tổ chức thị trường: Đó là ban điều hành của các Sở giao dịch giữ nhiệm
vụ tổ chức các khâu hoạt động trên thị trường, là người chuyển tải những luật lệ của
Nhà nước vào thực tiễn quản lý thị trường.
- Người điều hoà thị trường: Đây là cơ quan Nhà nước được thành lập như Uỷ
ban điều hành thị trường chứng khoán, Hội đồng chứng khoán quốc gia… giữ nhiệm
vụ ban hành các luật lệ, tổ chức giám sát hoạt động giao dịch và mua bán chứng khoán
trên thị trường.
3.1.5.4. Cấu trúc của thị trường vốn
Cấu trúc thị trường vốn gồm: Thị trường tín dụng dài hạn và Thị trường chứng
khoán. Trong đó: Thị trường tín dụng dài hạn gồm thị trường cho vay thế chấp và thị
trường cho thuê tài chính.
Thị trường cho vay thế chấp là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài hạn
dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá trị của các
món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần
có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn
có của những người đi vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó.
Thị trường cho thuê tài chính (tín dụng thuê mua) là hình thức tín dụng trung và
dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người
thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê là người sử dụng tài sản
và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài sản trong một khoảng thời gian đã
được thảo thuận trước. Trong suốt thời gian thuê, người thuê không được quyền huỷ

145
bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể chuyển
quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê như đã thoả thuận trong hợp đồng.
Thị trường chứng khoán: Đây là thị trường được hình thành dùng để giao dịch
mua bán chứng khoán. Gồm bộ phận thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu dài hạn
của các công ty.

3.1.5.5. Thị trường chứng khoán


a. Bản chất của thị trường chứng khoán
Về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao
đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm
giữ chứng khoán.
Xét về mặt bản chất: Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các
nguồn vốn tiết kiệm. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường
chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp: cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia
vào thị trường một cách trực tiếp.
Thị trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ. Các
chứng khoán mua bán trên thị trường chứng khoán có thể đem lại thu nhập cho người
nắm giữ nó sau một thời gian nhất định và được lưu thông trên thị trường chứng khoán
theo giá cả thị trường, do đó bề ngoài nó được coi như là một tư bản hàng hoá.
b. Chức năng của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có các chức năng sau:
Một là, huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản
xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị trường chứng
khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hai là, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành
mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Thị trường chứng khoán góp phần đáng kể
làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Ba là, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng
khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Đây là
yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư.
Bốn là, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp.

146
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ảnh
một cách tổng hợp và chính xác. Ngược lại, hoạt động của doanh nghiệp sẽ tác động
mạnh đến giá chứng khoán.
Năm là, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một
cách nhạy bén và chính xác. Thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền
kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.

c. Các nguyên tắc trên thị trường chứng khoán


- Nguyên tắc công khai. Việc công khai thông tin về thị trường chứng khoán
phải thoả mãn các yêu cầu:
+ Chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy
có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới
quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên thị trường chứng
khoán.
+ Kịp thời: nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu
thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
+ Dễ tiếp cận: nghĩa là công khai thông tin thị trường chứng khoán nhưng phải
dễ dàng tiếp cận dối với các nhà đầu tư.
- Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện
thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các
nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh
phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các
công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng.
- Nguyên tắc đấu giá
+ Căn cứ vào các hình thức đấu giá có các loại đấu giá: Đấu giá trực tiếp; Đấu
giá gián tiếp; Đấu giá tự động.
+ Căn cứ vào phương thức đấu giá có hình thức đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục.
d. Phân loại thị trường chứng khoán
Căn cứ vào sự luân chuyển vốn, thị trường chứng khoán gồm: Thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp
+ Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà dầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.

147
+ Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán
đã phát hành.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, Thị trường chứng khoán
bao gồm sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung), và thị trường OTC (thị
trường phi tập trung).
+ Tại sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tật trung tại một địa điểm;
các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình
thành nên giá giao dịch.
+ Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến hành qua
mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng
mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.
Căn cứ vào hàng hóa, thị trường chứng khoán gồm:
+ Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
+ Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty,
trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
+ Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Bên cạnh các giao dịch truyền
thống về cổ phiếu và trái phiếu, các giao dịch mua bán chứng từ tài chính khác như:
quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện.
e. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán
Các hàng hóa chủ yếu trên thị trường chứng khoán bao gồm cổ phiếu và trái
phiếu, chứng chỉ quỹ, và chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh là các chứng
từ nhận các quyền lợi bổ sung phát sinh từ chứng khoán, được ra đời từ các giao dịch
chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Các chứng
khoán phái sinh bao gồm:
Quyền mua cổ phần
- Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước dành
cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần
trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có
của họ trong công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công
chúng và trong một thời hạn nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.
- Đặc điểm của quyền mua cổ phần:
+ Mức giá đăng ký trong tất cả các dạng quyền mua cổ phần thấp hơn mức giá
hiện hành của cổ phiếu vào thời điểm quyền được phát hành.

148
+ Mỗi cổ phần đang lưu hành được đi kèm một quyền. Số lượng quyền cần thiết
để mua một cổ phần mới sẽ được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành. Các công ty
thường sử dụng một phương pháp đơn giản để xác định số lượng quyền cần để mua
một cổ phần mới.
Chứng quyền
- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được
mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường,
với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định.
- Quyền này được phát hành khi tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty nhằm
mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu
đãi có những điều kiện kém thuận lợi.
Hợp đồng kỳ hạn
- Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người bán
chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một thời
điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
- Điểm khác biệt giữa một hợp đồng kỳ hạn và giao dịch giao ngay là thời điểm
thanh toán giao dịch.
- Trong hợp đồng kỳ hạn chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai
bên tự thỏa thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân.
Hợp đồng tương lai
- Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua
hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một mức
giá dã định trước.
- Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp
một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến
động giá bất lợi.
- Trong khi có nhiều hợp đồng tương lai được chấp thuận cho giao dịch thì
không phải tất cả đều thành công nếu không được sự quan tâm của người đầu tư.
Quyền lựa chọn
- Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu
là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định
hàng hóa tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định.
- Một hợp đồng quyền lựa chọn bất kỳ đều bao gồm 4 đặc điểm cơ bản sau:
Loại quyền (quyền chọn bán hoặc chọn mua); Tên hàng hóa cơ sở và khối lượng được
mua hoặc bán theo quyền; Ngày hết hạn; Giá thực hiện.
Chứng chỉ quỹ
Quỹ đầu tư chứng khoán
149
- Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư để
đầu tư vào các chứng khoán.
- Người đầu tư không trực tiếp đầu tư vào chứng khoán mà chỉ đầu tư vào quỹ
bằng cách mua cổ phần hay chửng chỉ. Việc đầu tư vào chứng khoán do một tổ chức
khác được thuê hay được uỷ thác tiến hành.
- Người đầu tư sẽ được hưởng lợi từ kết quả đầu tư của quỹ, theo số lượng cổ
phần hay chứng chỉ mà mình nắm giữ. Xét về lợi suất đầu tư, tất cả những người đầu
tư trong cùng một quỹ đều đạt được kết quả như nhau.
Ưu điểm và lợi tức tiềm năng của chứng chỉ - cổ phần quỹ đầu tư
- Các nhà đầu tư cá nhân, nhất là những người có ít vốn, khi tiến hành đầu tư
vào các chứng khoán riêng lẻ thường hay gặp phải những bất lợi sau:
+ Do hạn chế về vốn, họ khó có thể thực hiện đa dạng hoá đầu tư để giảm thiểu
được tổng rủi ro của đầu tư.
+ Với những giao dịch có khối lương nhỏ, phí giao dịch sẽ chiếm tỷ trọng lớn
trong giá trị giao dịch.
+ Đầu tư có hiệu quả đòi hỏi phải có kiến thức về đầu tư, phải có thời gian dành
cho việc phân tích thị trường và phân tích sản phẩm. Đại đa số các nhà đầu tư cá nhân
không đáp ứng được những yêu cầu đó.
- Những bất lợi trên hoàn toàn có thể giải quyết được bằng cách sử dụng quỹ
đầu tư. Khi mua cổ phần quỹ hoặc chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư, dù chỉ với một lượng
vốn đầu tư khiêm tốn, đương nhiên sở hữu một phần trong một danh mục đầu tư da
dạng hoá.
Phân loại quỹ
- Trong quỹ đóng, các chứng chỉ hay cổ phần quỹ chỉ được phát hành một lần, với
một số lượng xác định. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, quỹ không mua lại những
chứng chỉ - cổ phần khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại cũng không phát hành bổ sung.
- Trái lại, quỹ đầu tư dạng mở liên tục phát hành cổ phiếu hay chứng chỉ ra
công chúng, số lượng cổ phần hay chứng chỉ có thể không hạn chế; và quỹ sẵn sàng
mua lại cổ phiếu hay chứng chỉ mỗi khi người đầu tư có nhu cầu bán.
3.2. Trung gian tài chính
3.2.1. Khái niệm trung gian tài chính
Các trung gian tài chính đã xuất hiện từ khoảng 3500 năm trước công nguyên
bắt nguồn từ sự ra đời của một số ngân hàng sơ khai. Khi nền kinh tế ngày càng phát
triển, tính thiếu hoàn hảo của thị trường tài chính càng bộc lộ rõ. Kênh dẫn vốn trực
tiếp đã không còn đáp ứng được đủ nhu cầu vốn khổng lồ cho nền kinh tế, chính vì thế
các trung gian tài chính ra đời đã giúp khắc phục hạn chế này. Các trung gian tài chính
ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành kênh dẫn vốn gián tiếp quan trọng
150
trong hệ thống tài chính. Đây được coi là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống
tài chính, góp phần phân phối, điều hoà hợp lý các nguồn tài chính nhằm làm thoả mãn
cao nhất nhu cầu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế.
Có thể hiểu trung gian tài chính là các tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh
trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là thông qua
việc cung cấp các dịch vụ tài chính - tiền tệ nhằm huy động vốn của các chủ thể thừa
vốn rồi cung ứng cho các chủ thể có nhu cầu vay vốn.
Như vậy các trung gian tài chính đóng vai trò là một trung gian, cầu nối giữa
những chủ thể thừa vốn với những chủ thể thiếu vốn, giúp cho việc luân chuyển vốn
được thuận lợi hơn.
Các trung gian tài chính bao gồm: Các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công
ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,… Hoạt động thường xuyên của các trung gian tài
chính này là huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế dưới nhiều hình thức như: tiền
gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, thu phí từ các hợp đồng bảo hiểm, phát hành các loại
chứng khoán,... sau đó sử dụng số vốn đã huy động được để đáp ứng nhu cầu vốn cho
các chủ thể thiếu vốn trong nền kinh tế.
3.3.2. Đặc điểm của trung gian tài chính
Các trung gian tài chính là các cơ sở kinh doanh tiền tệ và phát hành giấy tờ có
giá được tổ chức và hoạt động nhằm đạt được những mục đích sinh lời nhất định.
Chính vì vậy các trung gian tài chính đều có những đặc điểm sau:
- Một là, các trung gian tài chính là cầu nối giữa các chủ thể cung cầu vốn trên
thị trường.
Các trung gian tài chính đều có chung một đặc điểm là huy động vốn bằng cách
phát hành các công cụ tài chính như: trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi hay mở
các tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm,… để huy động vốn trên thị trường, sau
đó lại sử dụng chính số vốn này để đầu tư hay cho vay dưới hình thức mua lại các
chứng khoán hoặc cho vay các cá nhân, các tổ chức kinh tế. Nhìn từ góc độ tài chính,
có thể thấy quá trình dịch chuyển dòng vốn qua các trung gian tài chính cơ bản dựa
trên nguyên tắc có hoàn trả trong một thời gian nhất định.
- Hai là, thu nhập mà các trung gian tài chính nhận được chính là khoản chênh
lệch giữa lãi suất cho vay, đầu tư và lãi suất huy động.
Các trung gian tài chính là một đơn vị kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Họ đặt ra
mức lãi suất cho vay hay lợi nhuận đầu tư cao hơn so với lãi suất huy động mà các
trung gian tài chính phải thanh toán cho người gửi tiết kiệm. Điều này sẽ tạo ra một
khoản chênh lệch, khoản chênh lệch thu được này sau khi trừ đi các khoản chi phí
khác chính là lợi nhuận của các trung gian tài chính. Như vậy thông qua các nghiệp vụ
và hoạt động kinh doanh của mình, các trung gian tài chính đã mang đến lợi nhuận và
151
cơ hội sinh lời cho những người có món tiết kiệm nhỏ lẻ bằng việc trả một khoản tiền
lãi cho họ, bên cạnh đó có thể giúp cho người đi vay có cơ hội tiếp cận với những món
vay lớn mà vẫn tạo ra lợi nhuận cho chính tổ chức mình.
3.3.3. Vai trò của trung gian tài chính
Với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là tập hợp các khoản vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế để tiến hành cung ứng cho những nơi có nhu cầu về vốn, các trung
gian tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí giao dịch và chi phí
thông tin, thúc đẩy kinh tế phát triển và kích thích luân chuyển vốn đầu tư.
Thứ nhất, giảm chi phí giao dịch và chi phí thông tin.
- Giảm chi phí giao dịch.
Chi phí giao dịch là một trong những cản trở chính trong quá trình lưu thông
vốn trên thị trường tài chính. Đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, khi tham gia đầu tư họ sẽ
phải đối mặt với các khoản chi phí như chi phí môi giới, chi phí quản lý danh mục đầu
tư,… Khoản chi phí này có thể tăng lên nếu các nhà đầu tư muốn phân tán rủi ro bằng
cách đầu tư đa dạng vào nhiều chứng khoán khác nhau. Mặt khác do quy mô đầu tư
nhỏ nên những khoản chi phí giao dịch như vậy sẽ làm giảm lợi ích đầu tư của họ.
Với lợi thế về quy mô và tính chuyên nghiệp, các trung gian tài chính có thể
giúp tiết kiệm chi phí như sau:
+ Tiết kiệm nhờ lợi thế quy mô: Bằng cách tập hợp vốn từ nhiều nhà đầu tư nhỏ
lẻ và tập trung vào những cơ hội đầu tư sinh lời qua các quỹ đầu tư, các định chế tài
chính trung gian đã góp phần làm giảm chi phí cho mỗi nhà đầu tư riêng lẻ, qua đó tạo
cơ hội kiếm thu nhập cho những người có vốn nhàn rỗi.
Giả sử bạn có 10 triệu đồng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Vì bạn chỉ có 10
triệu đồng nên bạn chỉ mua được một lượng nhỏ chứng khoán nhất định, mặt khác do
nguyên tắc trung gian của thị trường chứng khoán, bạn phải thông qua các công ty chứng
khoán và phải trả một khoản phí môi giới và phí giao dịch cho các công ty này. Khoản chi
phí này chiếm một tỷ lệ không nhỏ trên tổng giá trị giao dịch sẽ làm giảm thu nhập từ đầu tư
chứng khoán của bạn. Trong khi đó, nếu bạn bỏ tiền vào các quỹ đầu tư, vốn của bạn sẽ
được đầu tư vào danh mục, bạn không phả trả nhiều lần phí môi giới và phí giao dịch để
mua được nhiều loại chứng khoán khác nhau cho danh mục đầu tư của mình.
Bên cạnh đó quy luật tiết kiệm nhờ lợi thế quy mô còn có ý nghĩa trong việc
giảm được chi phí cho các trang thiết bị như hệ thống máy tính, điện thoại, máy fax,...
Nghĩa là với hệ thống trang thiết bị nhất định, thì khi giá trị giao dịch tăng, làm cho chi
phí trên mỗi đồng vốn giao dịch giảm.
+ Tiết kiệm nhờ tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh: Khả năng
giảm thiểu chi phí còn bắt nguồn từ việc chuyên môn hóa và những kinh nghiệm tích
lũy trong quá trình hoạt động của các trung gian tài chính. Chuyên môn hóa giúp nâng
152
cao năng suất lao động, hiệu suất sử dụng vốn, tài sản… và do đó tiết kiệm được chi
phí. Mặt khác, quá trình chuyên môn hóa cộng với kinh nghiệm tích lũy cho phép các
trung gian tài chính có thể xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho các giao dịch cùng loại
với chi phí rẻ, đồng thời cung cấp thêm những tiện ích khác cho các khách hàng. Tính
chuyên nghiệp trong ứng dụng công nghệ thông tin để cung cấp sản phẩm dịch vụ của
các ngân hàng thương mại giúp cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tiện ích như
truy vấn thông tin về tài khoản tiền gửi tiết kiệm hay đầu tư và thực hiện các giao dịch
thanh toán, chuyển khoản qua điện thoại di động hoặc internet.
+ Tiết kiệm nhờ cung cấp dịch vụ và đa dạng hóa đầu tư:
Các định chế tài chính trung gian thường có danh mục dịch vụ đa dạng và các dịch
vụ cung ứng hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, khách hàng của các định chế tài chính trung gian sẽ
được cung cấp kết hợp các dịch vụ liên quan, nhờ vậy tiết kiệm chi phí cho khách hàng.
Nhiều người không đủ mạnh về tài chính để đầu tư vào nhiều cổ phiếu, trái
phiếu và các tài sản khác cùng một lúc. Hơn nữa, họ cũng không có nhiều thời gian và
kiến thức tài chính chuyên sâu để phân tích và theo dõi thị trường thường xuyên. Đối
với những nhà đầu tư này, họ có thể đầu tư vào các quỹ mở. Một quỹ mở có thể nắm
giữ các cổ phiếu của hàng trăm công ty và nhiều loại trái phiếu khác nhau, nghĩa là
vốn của các nhà đầu tư được đầu tư vào danh mục và được phân tích bởi các chuyên
gia đầu tư đầy kinh nghiệm. Điều này sẽ giúp các khách hàng đa dạng hóa đầu tư. Mặt
khác, các định chế trung gian tài chính này còn cung cấp thêm các dịch vụ khác như
dịch vụ hỗ trợ vốn, dịch vụ ký quỹ hay quản lý tài khoản, dịch vụ tra cứu thông tin.
- Giảm chi phí thông tin.
Chi phí thông tin trên thị trường tài chính phát sinh từ vấn đề thông tin bất cân
xứng trong nền kinh tế. Thông tin bất cân xứng thể hiện một trong hai bên có ít thông
tin hơn bên đối tác về đối tượng của giao dịch khiến cho việc ra quyết định không đảm
bảo chính xác. Do đó vấn đề thông tin bất cân xứng sẽ dẫn đến nguy cơ lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tính hiệu quả trong luân chuyển
vốn trên thị trường tài chính.
Các trung gian tài chính giúp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng như sau:
Đối với vấn đề lựa chọn đối nghịch:
+ Sự chuyên nghiệp trong thu thập và phân tích thông tin giúp các trung gian tài
chính lựa chọn được cơ hội đầu tư tốt hơn so với những người tiết kiệm nhỏ, riêng lẻ,
nhờ vậy giảm thiểu lựa chọn đối nghịch, bảo đảm đồng vốn của người tiết kiệm được
an toàn.
+ Các trung gian tài chính nắm giữ một tỷ lệ lớn các món cho vay riêng lẻ
không mua bán được trên thị trường nên các thông tin mà các định chế này có là các
thông tin độc quyền, giá của món cho vay này (tức lãi suất) do đó cũng ít bị dao động.
153
Đối với vấn đề rủi ro đạo đức:
+ Nhờ kinh nghiệm tích lũy và sự chuyên môn hóa trong việc theo dõi, kiểm
tra, giám sát những khoản vay, khoản đầu tư, các định chế tài chính trung gian đã có
những biện pháp phòng ngừa hay nhận diện sớm rủi ro từ đó có thể giảm thiểu rủi ro
đạo đức.
+ Sự chuyên nghiệp của các định chế tài chính trung gian được thể hiện rõ
thông qua các điều khoản hạn chế đối với các hợp đồng nợ nhằm loại trừ những hành
vi không mong muốn.
+ Bên cạnh đó các trung gian tài chính giúp giảm thiểu hậu quả của vấn đề
“người đại lý - người ủy thác”. Đây là vấn đề nảy sinh trong nhiều trường hợp khi có
sự tách biệt giữa một bên là người ủy thác với một bên là người nhận sự ủy thác mà lợi
ích của hai bên có sự không đồng nhất.
Thứ hai, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn luôn là mối quan tâm hàng đầu khi
các doanh nghiệp muốn duy trì và mở rộng quy mô sản xuất. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thì nhu cầu về vốn cũng phát triển theo. Các doanh nghiệp khó lòng
chỉ dựa vào vốn tự có và vốn bổ sung từ kết quả kinh doanh mà phải khai thác và huy
động vốn khác trên thị trường. Nhờ lợi thế quy mô và tính chuyên môn hóa, các trung
gian tài chính đã tập trung được lượng vốn lớn đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu của
cung - cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế. Có thể nói hoạt động của các trung gian tài
chính đã giúp cho các chủ thể tiết kiệm rút ngắn được thời gian tích lũy vốn, chuyển
vốn từ nhàn rỗi sang đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, kích thích quá trình tập
trung vốn cho phát triển kinh tế.
Thứ ba, giúp thực thi các chính sách kinh tế và điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Trung gian tài chính còn là kênh gián tiếp để Nhà nước thực hiện chính sách
tiền tệ nhằm để ổn định và điều tiết nền kinh tế khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn (suy
thoái, lạm phát,...). Chẳng hạn khi nền kinh tế phát triển chậm, sản xuất đình trệ, chính
phủ thực hiện chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Thông qua các ngân hàng thương mại, các
ngân hàng trung ương thực hiện “bơm tiền” vào lưu thông qua việc mua lại và chiết
khấu các giấy tờ có giá nắm giữ bởi ngân hàng thương mại và dân chúng đầu tư. Đồng
thời tạo áp lực giảm lãi suất lên các ngân hàng thương mại, từ đó giảm chi phí vay
vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và ngược lại. Mặt khác, với sự tham gia của trung gian tài chính thông qua dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt đã giảm chi phí lưu thông và an toàn trong thanh toán.
Thứ tư, góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Hoạt động của các trung gian tài chính không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của
một quốc gia, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế mở,
154
việc thực hiện các hợp đồng bảo hiểm, đáp ứng các nhu cầu thanh toán trong giao lưu
kinh tế quốc tế, việc vay, trả nợ nước ngoài ngày nay trở thành một nhu cầu khách
quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết hơn đối với các
nước đang phát triển. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác, phần tích
lũy trong nước còn hạn chế, trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế là rất
lớn. Nhờ trung gian tài chính mà nhu cầu này được đáp ứng, các nước có thể mua hàng
hoá, nhập khẩu máy móc thiết bị một cách an toàn và hiệu quả, tiếp cận nhanh chóng
với những thành tựu khoa học kỹ thuật mới, cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên
thế giới. Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và phát triển quan hệ
ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế ở các nước nhập khẩu.
Trung gian tài chính đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế trực tiếp - một
hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.
3.3.4. Phân loại trung gian tài chính
- Căn cứ vào chức năng của các trung gian tài chính.
Trong nền kinh tế có nhiều loại tổ chức trung gian tài chính khác nhau, nhưng nếu căn
cứ vào chức năng, nhiệm vụ; các định chế tài chính trung gian được chia thành ba loại
cơ bản:
+ Trung gian tài chính nhận tiền gửi: đây là những trung gian tài chính mà
trong hoạt động kinh doanh chủ yếu và thường xuyên nhận tiền gửi của các chủ thể
khác nhau trong xã hội, sau đó sử dụng để cấp tín dụng nhằm mục đích sinh lời và
thực hiện trung gian thanh toán cho khách hàng, thuộc loại này phải kể đến các ngân
hàng thương mại, ngân hàng chính sách, các quỹ tín dụng…
+ Các trung gian tài chính tiết kiệm theo hợp đồng: Các trung gian tài chính
này thực hiện huy động vốn trên cơ sở các hợp đồng, có thể bắt buộc hoặc có thể tự
nguyện, nguồn tài chính huy động được sẽ sử dụng để thực hiện các trách nhiệm tài
chính với khách hàng. Nguồn tài chính nhàn rỗi có thể sử dụng để đầu tư chứng khoán
và thực hiện các đầu tư khác, nhằm mục tiêu sinh lời và mục tiêu xã hội của từng tổ
chức. Thuộc loại này phải kể đến các công ty bảo hiểm (Bảo hiểm kinh doanh), Bảo
hiểm xã hội.
+ Các trung gian đầu tư: Các trung gian đầu tư thực hiện huy động vốn trung
dài hạn qua phát hành các loại chứng từ có giá như trái phiếu, cổ phiếu… và sử dụng
vốn để đầu tư vào các lĩnh vực chuyên môn hoá mà họ có lợi thế; thuộc loại này có thể
kể đến các công ty tài chính, các quỹ đầu tư.
- Căn cứ vào mục đích hoạt động.
Căn cứ vào mục đích hoạt động, các trung gian tài chính có thể chia thành hai loại:
+ Các trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu sinh lời: Loại trung gian tài chính
này thực hiện huy động vốn và đầu tư, sử dụng vốn dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế, hoạt động
155
của các tổ chức này bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh khắt khe của cơ chế thị trường. Vì
vậy, họ không chỉ chú ý tới chất lượng dịch vụ cung cấp, tới thị hiếu nhu cầu của khách
hàng, mà còn phải chú ý tới yếu tố giá cả của sản phẩm cung cấp. Thuộc loại này có thể đến
các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư…
+ Các trung gian tài chính thực hiện các chính sách xã hội: Như ngân hàng
chính sách, bảo hiểm xã hội, các quỹ hỗ trợ phát triển ngành nghề truyền thống,… Các
tổ chức này hoạt động không lấy mục tiêu chính là lợi nhuận, mà phục vụ cho các
chính sách xã hội như xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách thương bệnh binh,
chính sách dân số, việc làm, công bằng xã hội… Tuy không đặt ra mục tiêu lợi nhuận,
nhưng trong hoạt động tổ chức quản lý quỹ phải tuân thủ nguyên tắc cân đối thu, chi
và phát triển vốn góp của các thành viên.
3.3.5. Một số trung gian tài chính
3.3.5.1. Ngân hàng thương mại
a. Khái niệm và chức năng của ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển của nền kinh tế đòi hỏi sự phát triển tất
yếu của hệ thống ngân hàng và ngược lại, sự phát triển của hệ thống ngân hàng lại trở
thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Có thể hiểu ngân hàng thương mại là các trung gian tài chính thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để
cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Xem xét quá trình dẫn vốn của hệ thống tài chính có thể thấy các ngân hàng
thương mại đóng vai trò quan trọng nhất trong các trung gian tài chính. Vai trò của các
ngân hàng thương mại trong hệ thống tài chính được thể hiện qua hai biểu hiện chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính làm cầu nối giúp
người đi vay và người cho vay gặp nhau. Các ngân hàng thương mại chuyển hóa
những khoản tiền tiết kiệm, tài sản chưa sử dụng của một bộ phận khách hàng này đến
tay những bộ phận khách hàng khác đang cần vay để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng.
Thứ hai, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đầy
đủ lợi ích của hệ thống tài chính. Các ngân hàng thương mại giúp tiết kiệm thời gian
và chi phí trong quá trình xử lý thông tin cho những người cho vay cũng như những
người đi vay, từ đó hạ thấp được chi phí sử dụng vốn.
Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại thực hiện các
chức năng cơ bản như sau:
156
- Chức năng trung gian tài chính
Khi thực hiện chức năng này các ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung
gian khi thực hiện các nghiệp vụ bao gồm: nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh
toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi
giới khác. Thuật ngữ “trung gian” ở đây được biểu hiện thông qua hai mối quan hệ cơ
bản: Một là trung gian giữa các khách hàng với nhau, hai là trung gian giữa ngân hàng
trung ương và công chúng.
- Chức năng trung gian tín dụng
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò “cầu
nối” giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua huy động vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại hình thành nên
quỹ tiền tệ để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng
thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay, góp
phần tạo lợi ích cho cả người gửi tiền, người đi vay, bản thân ngân hàng và thúc đẩy
phát triển nền kinh tế.
- Chức năng trung gian thanh toán
Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng để quản lý tiền thu từ bán hàng hóa dịch vụ và thực hiện thanh toán tiền
mua hàng hóa dịch vụ theo lệnh của họ. Việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng
mang lại lợi ích xã hội to lớn, nhằm hạn chế rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí
thanh toán lớn, đặc biệt khi các khách hàng ở quá xa nhau. Mặt khác, bằng việc cung
cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy
nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,… các khách hàng có thể lựa chọn
cho mình các phương thức thanh toán phù hợp, tiết kiệm được chi phí, thời gian, đảm
bảo an toàn trong thanh toán.
- Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền được nảy sinh từ việc ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán. Từ tài khoản dự trữ ban đầu, thông
qua việc cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có thể tạo nên số tiền gửi
gấp nhiều lần số dự trữ ban đầu. Mức mở rộng tiền phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền
gửi, trong đó hệ số này chịu tác động bởi các yếu tố tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ
vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng. Với chức
năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
Như vậy có thể thấy các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ
mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là
chức năng cơ bản, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Còn khi ngân
157
hàng thực hiện tốt chức năng thanh toán sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng giúp
mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
b. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
* Nghiệp vụ huy động vốn (Tài sản Nợ)
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân
ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại được phép
sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các
nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm các loại vốn: (1) Vốn điều lệ và
các quỹ; (2) Vốn huy động; (3) Vốn đi vay; (4) Vốn tiếp nhận; (5) Vốn khác.
* Nghiệp vụ sử dụng vốn (Tài sản Có)
Nghiệp vụ tài sản Có bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng các
khoản vốn mà ngân hàng huy động được từ nghiệp vụ tài sản Nợ như: nghiệp vụ cấp
tín dụng, nghiệp vụ đầu tư và các nghiệp vụ tài sản Có khác.
(1) Cấp tín dụng: Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời,
song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có
được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán: đáp
ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành một
phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn
để dành này gọi là dự trữ. Ngân hàng nhà nước được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt
buộc theo từng thời kỳ nhất định, việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc do chính phủ
quy định. Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các ngân hàng
thương mại có thể dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân, bao gồm các nghiệp
vụ:
- Cho vay: là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng xã hội. Đây là nghiệp vụ sử dụng lượng vốn lớn nhất và
cũng tạo lợi nhuận nhiều nhất.
- Chiết khấu: Đây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung ứng
vốn tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng.
Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ
có giá khác.
- Cho thuê tài chính: Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các ngân
hàng dùng vốn của mình để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến
hành cho thuê trong một thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho ngân
hàng theo định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng thuê người đi thuê được quyền mua hoặc
kéo dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị cho bên cho thuê.

158
- Bảo lãnh ngân hàng: Trong loại hình nghiệp vụ này khách hàng được ngân
hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó khách hàng sẽ được vay vốn ở ngân hàng
khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết,…
- Các hình thức khác: bao thanh toán, tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu,…
(2) Đầu tư: Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho
vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong
nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn
định khác để đầu tư dưới các hình thức như: (i) Hùn vốn mua cổ phiếu của các Công
ty; (ii) Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…Tất cả
hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác nhờ
hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán.
(3) Nghiệp vụ sử dụng vốn khác: ngoài ra ngân hàng còn sử dụng nguồn vốn
của mình nhằm trang bị cho tài sản cố định khác như: Xây dựng hoặc mua thêm nhà
cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển, xây
dựng hệ thống kho quỹ…
* Nghiệp vụ trung gian
Các dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho
nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho
ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí… có vị trí xứng đáng trong giai đoạn
phát triển hiện nay của ngân hàng thương mại.
Các hoạt động này gồm:
- Các dịch vụ thanh toán thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc,
dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,...)
- Nhận bảo quản các tài sản quí giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng của công
chúng.
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của khách hàng.
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc đá quí.
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu…
3.3.5.2. Quỹ tín dụng
Quỹ tín dụng là định chế tài chính thuộc sở hữu tập thể, thành lập trên cơ sở
đóng góp vốn cổ phần của các thành viên và chủ yếu cho các thành viên vay nhằm
mục đích tương trợ phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Đặc điểm của của quỹ tín dụng:
- Quỹ hoạt động theo nguyên tắc tập thể, các thành viên của quỹ tự nguyện
tham gia đóng góp tiền để thành lập quỹ và được công nhận là cổ đông của quỹ.
- Những người sở hữu vốn góp được quyền vay tiền của quỹ khi có nhu cầu. Số
lượng tiền được vay phụ thuộc vào số lượng vốn góp của thành viên.
159
- Khi cần mở rộng quy mô vốn, quỹ tín dụng sẽ phát hành thêm cổ phiếu hoặc
kết nạp thêm thành viên mới.
- Ngoài các nghiệp vụ như huy động vốn và cấp tín dụng, quỹ còn có thể đầu tư
vào chứng khoán.
Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng (Credit Unions) cũng có mô hình tương tự như
quỹ tín dụng. Đây là các tổ chức cho vay có quy mô nhỏ, có tính chất hợp tác xã, được
tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các nhân viên của công ty). Mục
đích của các liên hiệp này là cho các thành viên vay với mức lãi suất thấp nhất có thể.
Họ thu nhận vốn bằng cách bán cổ phần cho các thành viên và các thành viên ngoài
việc được cho vay ưu đãi còn được hưởng cả lãi từ cổ phần mà họ mua. Các khoản vay
từ quỹ chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hóa tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau
năm 1980 các liên hiệp tín dụng này cũng được phép phát hành các tài khoản tiền gửi
thanh toán và có thể thực hiện các khoản cho vay bất động sản ngoài các khoản cho
vay tiêu dùng.
Ở Việt Nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới hình thức các tổ chức tín dụng hợp tác.
Theo Luật Tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng là hợp tác xã là loại hình tổ chức tín
dụng được tổ chức theo mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhằm
mục đích chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên thực hiện có hiệu quả các hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống. Tổ chức tín dụng là hợp tác
xã gồm ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân”.
Đây là các tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức,
cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng theo Luật Tổ chức
tín dụng và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản
xuất, kinh doanh và đời sống.
3.3.5.3. Công ty tài chính
Công ty tài chính là doanh nghiệp thuộc loại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng được thành lập dưới dạng một công ty phụ thuộc hay công ty cổ phần. Khác với
các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính không được phép nhận tiền gửi
thường xuyên dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng và những khoản tiền
gửi có thời hạn dưới một năm, đồng thời cũng không được phép thực hiện các nghiệp
vụ trung gian thanh toán.
Nguồn vốn hoạt động của các công ty này hình thành chủ yếu từ việc phát hành
cổ phiếu, trái phiếu hay thương phiếu hay huy động tiền gửi có kỳ hạn trên một năm.
Nguồn vốn huy động được sau đó sẽ được sử dụng để cho vay ngắn, trung và dài hạn,
nhưng chủ yếu là các loại tín dụng trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu sản
xuất hoặc tiêu dùng. Ngoài ra công ty còn thực hiện các dịch vụ như cầm, giữ hộ, quản
lý chứng khoán hay các kim loại quý,…
160
Trong nền kinh tế có nhiều loại hình công ty tài chính, tuy nhiên có thể chia
thành ba loại chính như sau:
(i) Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company): đây là loại hình mà các
công ty tài chính gián tiếp cấp tín dụng cho người tiêu dùng nhằm mua sắm hàng hóa
từ một doanh nghiệp sản xuất hay nhà bán lẻ. Các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho
khách hàng theo hợp đồng mẫu do công ty tài chính loại này cung cấp, sau đó hợp
đồng được bán lại cho công ty tài chính. Như vậy khoản nợ của khách hàng với nhà
sản xuất hoặc nhà bán lẻ đã chuyển thành khoản nợ của khách hàng đối với công ty tài
chính. Các công ty tài chính loại này thường do các công ty sản xuất hay các nhà phân
phối bán lẻ thành lập nên nhằm hỗ trợ cho hoạt động tiêu thụ hàng hoá của mình.
(ii) Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company): công ty tài chính
loại này cung ứng phần lớn nguồn vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào
mục đích mua sắm hàng hoá tiêu dùng như các đồ đạc nội thất (giường, tủ…) và các
đồ gia dụng (tủ lạnh, máy giặt…) hoặc sửa chữa nhà cửa. Hầu hết các khoản cho vay
đều được trả góp định kỳ. Một cách cho vay khác là cấp thẻ tín dụng cho khách hàng
để họ mua sắm ở hệ thống cửa hàng bán lẻ. Do các khoản vay của loại công ty tài
chính này khá rủi ro nên công ty thường chỉ cho vay những khoản tiền nhỏ và với lãi
suất cao hơn lãi suất thị trường. Khách hàng của các công ty tài chính tiêu dùng vì vậy
cũng thường là những người không thể tìm được khoản tín dụng từ những nguồn khác
và do vậy họ thường phải chịu lãi suất cao hơn thông thường. Các công ty tài chính
loại này có thể do các ngân hàng thành lập nên hoặc hoạt động độc lập dưới hình thức
công ty cổ phần.
(iii) Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company): Công ty tài
chính loại này cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới các hình thức như bao thanh
toán hay cho thuê tài chính:
- Bao thanh toán: công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua lại các khoản phải
thu của doanh nghiệp. Các khoản phải thu thường là tiền bán trả chậm hàng hoá hay
dịch vụ. Do cần tiền ngay, các doanh nghiệp ký kết trước với công ty tài chính một
hợp đồng trong đó công ty tài chính sẽ mua lại với giá chiết khấu tất cả các khoản thu
chưa đến hạn thanh toán của mình phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho thuê tài chính: công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua các máy móc
thiết bị mà khách hàng yêu cầu rồi cho khách hàng thuê. Đây chính là hình thức cấp tín
dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là công ty
tài chính thuê mua với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua
lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Trong
nghiệp vụ cho thuê tài chính, bên cho thuê sẽ mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê.
161
Bên thuê có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê và không
được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ
tài chính nào.
Do nhu cầu chuyên môn hoá, trên thực tế còn xuất hiện các công ty tài chính chuyên
hoạt động trong lĩnh vực bao thanh toán hay cho thuê tài chính.
3.3.5.4. Công ty bảo hiểm
a. Bản chất và các loại hình bảo hiểm
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, con người luôn có nguy cơ gặp phải
rủi ro với nhiều nguyên nhân khác nhau. Những rủi ro này khi xảy ra thường gây nên
những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống, đến quá trình sản xuất và đến
cả sức khỏe của con người. Khi đó con người mới tìm cách bảo vệ bản thân và tài sản
của mình trước những rủi ro và từ đó mà nhu cầu được bảo hiểm hình thành và phát
triển cho đến tận ngày nay. Bảo hiểm ra đời là một nhu cầu, hay một đòi hỏi khách
quan của con người đối với cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh
thì hoạt động bảo hiểm càng phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, tổ
chức và các quốc gia.
Về bản chất bảo hiểm chính là sự chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện người bảo
hiểm đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê cho người được bảo
hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro, với điều kiện người được bảo hiểm phải trả phí bảo
hiểm.
Như vậy có hiểu chung về về các công ty bảo hiểm là: Công ty bảo hiểm là một
tổ chức tài chính mà hoạt động chủ yếu là nhằm bảo vệ tài chính cho những người có
hợp đồng bảo hiểm về những rủi ro thuộc trách nhiệm bảo hiểm trên cơ sở người tham
gia bảo hiểm phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục vụ
cho mục đích bồi thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước
khi bồi thường nên công ty bảo hiểm có một khoảng thời gian từ dưới một năm cho tới
hàng chục năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ bảo hiểm khi chưa được
dùng để bồi thường sẽ được đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản hoặc thực
hiện các hoạt động đầu tư tài chính khác như góp vốn liên doanh, cung cấp các khoản
tín dụng trực tiếp,...
Các loại hình bảo hiểm
Xét theo mục đích hoạt động, bảo hiểm được chia thành hai loại hình là bảo
hiểm do nhà nước thực hiện bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp và loại hình thứ hai là bảo hiểm thương mại. Tuy nhiên xét theo chức năng
trung gian tài chính thì chúng ta chỉ xét đến loại hình bảo hiểm thương mại.
- Căn cứ vào đối tượng, bảo hiểm thương mại chia ra thành:
162
+ Bảo hiểm tài sản: bao gồm bảo hiểm tai nạn xe cơ giới, bảo hiểm trộm cắp tài
sản, bảo hiểm cháy nổ, thiên tai, nông nghiệp,...
+ Bảo hiểm con người: bao gồm bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm nhân
thọ, bảo hiểm tai nạn học sinh sinh viên,..
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: là loại bảo hiểm cam kết thực hiện trách nhiệm
dân sự về những hành vi của người được bảo hiểm và người khác, trong trường hợp
những hành vi là ngẫu nhiên hoặc không cố ý gây thiệt hại cho người khác về thân thể,
sức khỏe hoặc tài sản, như bảo hiểm trách nhiệm xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân
sự chủ tàu,...
- Căn cứ vào phương thức hoạt động, bảo hiểm thương mại chia thành:
+ Bảo hiểm bắt buộc: là loại bảo hiểm mà chính quyền bắt mọi thể nhân và
pháp nhân phải tham gia mua bảo hiểm được ghi trong điều khoản luật, như bảo hiểm
trách nhiệm xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ thầu xây dựng,...
+ Bảo hiểm tự nguyện: Là loại bảo hiểm hình thành dựa trên nhu cầu và khả năng
của người được bảo hiểm. Người mua bảo hiểm phải thực sự có rủi ro cần được bảo hiểm
và có đủ khả năng tài chính để tham gia như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe,...
b. Nguồn vốn hoạt động của các công ty bảo hiểm
Trong nền kinh tế thị trường có các loại hình công ty bảo hiểm như: công ty bảo
hiểm nhân thọ, công ty bảo hiểm phi nhân thọ, Nguồn vốn hoạt động của các công ty
bảo hiểm này gồm:
- Nguồn vốn tự có: Là bộ phận vốn chủ sở hữu của các công ty bảo hiểm, nó là
phần vốn cơ sở ban đầu đăng đăng ký khi mới hoạt động.
- Phí bảo hiểm từ các hợp đồng: Các công ty bảo hiểm bán ra các sản phẩm bảo
hiểm qua việc ký kết các hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của khách hàng. Đối với các
công ty bảo hiểm thì nguồn thu từ phí bảo hiểm là lớn nhất, chi phối và quyết định
hoạt động cơ bản của công ty bảo hiểm.
- Thu nhập từ đầu tư: Lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư là nguồn vốn
bổ sung quan trọng. Những công ty lớn hoạt động lâu năm, có vị thế trên thị trường thì
nguồn thu này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty bảo hiểm.
- Nguồn vốn khác: Là các nguồn vốn được hình thành từ các hoạt động khác
của công ty bảo hiểm như nghiệp vụ bảo lãnh, bảo hiểm tiền gửi và các nguồn vốn ủy
thác quản lý khác.
Trong hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm sử dụng vốn vào các mục
đích sau đây:
- Thanh toán tiền bồi thường: khi có rủi ro bất thường xảy ra trong phạm vi bảo
hiểm của hợp đồng, các công ty bảo hiểm phải bảo hiểm cho khách hàng hoặc trả tiền

163
bảo hiểm khi kết thúc hợp đồng theo những thỏa thuận khi ký kết ban đầu. Đây là
khoản chi chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động của các công ty bảo hiểm.
- Bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm qua đầu tư: bên cạnh việc chi trả bồi
thường theo hợp đồng, các công ty bảo hiểm cũng quan tâm đến việc làm sao để có thể
bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo thời gian. Bởi thực tế các khoản bồi thường chỉ thực
hiện khi các rủi ro xảy ra, và khoảng thời gian từ lúc đóng phí bảo hiểm đến lúc chi trả
là quãng thời gian chờ. Do đó các công ty bảo hiểm thường tiên liệu mức bồi thường
cho từng hợp đồng bảo hiểm theo thời gian. Ngoại trừ khoản phí bồi thường đã tiên
liệu cùng với một số khoản chi thường xuyên khác, các công ty sử dụng nguồn vốn tồn
tích dài hạn của mình mang đi đầu tư. Lợi nhuận từ các khoản đầu tư vừa có thể giúp
các công ty bảo hiểm bảo toàn vốn lại tăng thu nhập theo thời gian. Các loại hình đầu
tư mà công ty bảo hiểm thường quan tâm bao gồm: chứng khoán chính phủ, trái phiếu
công ty, cổ phiếu, đầu tư trực tiếp vào bất động sản, thực hiện các hoạt động đầu tư tài
chính khác như góp vốn liên doanh, thành lập công ty chứng khoán, các hoạt động tín
dụng thương mại,...
Tóm lại, các công ty bảo hiểm không chỉ đóng vai trò là một trung gian tài
chính mà còn là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ
thống tài chính.
3.3.5.5. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh
chứng khoán, là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập.
Tại Việt Nam, theo quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán quy
định: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thành
lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện
một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán như: môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán”.
Hoạt động của các công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với
các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì công ty chứng khoán là
một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh
doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau. Ở các nước mô hình tổ chức kinh doanh
của công ty chứng khoán đều có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào hệ thống tài
chính và quy định của nhà nước. Tuy nhiên, có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản
hiện nay là:
(i) Mô hình công ty chuyên kinh doanh chứng khoán: theo mô hình này, hoạt
động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn
hóa trong các lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được phép tham

164
gia vào kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như: Nhật,
Hàn Quốc, Canada,..
(ii) Mô hình công ty đa năng: Có 2 loại công ty đa năng
- Công ty đa năng một phần: tức là các ngân hàng muốn kinh doanh chứng
khoán thì phải thành lập công ty con kinh doanh độc lập.
- Công ty đa năng hoàn toàn: các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh
tổng hợp (chứng khoán, bảo hiểm, tiền tệ).
Mô hình này có ưu điểm là sự kết hợp đa năng rất cao, do đó có thể giảm bớt
được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung, có khả năng chịu đựng được
các biến động của thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên nếu như thị trường có biến động mạnh thì hoạt động kinh doanh sẽ
ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các nghiệp vụ kinh doanh. Các nước Châu Âu,
Anh, Úc thường áp dụng mô hình công ty đa năng này. Do bộc lộ một số hạn chế nhất
định nên nhiều nước đã chuyển sang mô hình chuyên kinh doanh chứng khoán, chỉ có
Đức là vẫn duy trì mô hình này cho đến ngày nay.
Trên thị trường các công ty chứng khoán hoạt động theo hai hướng kinh doanh
chuyên nghiệp là môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán.
- Công ty môi giới chứng khoán: Sự hiện diện của các công ty môi giới chứng
khoán đã giúp cho hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường được tiến hành
thông suốt, quyền lợi của nhà đầu tư được bảo vệ, thực hiện vai trò kiểm tra, kiểm soát
các thương vụ giao dịch chứng khoán, duy trì sự sôi động của thị trường. Qua đó, một
lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn nhỏ, phân tán trong dân
chúng tập hợp lại.
Khi các doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán,
do không chuyên nghiệp hóa cho nên chi phí huy động vốn có thể rất cao và theo quy
định họ cũng không phải tự bán chứng khoán trên thị trường. Do đó, cần một nhà
chuyên nghiệp chuyên mua bán chứng khoán cho họ. Công ty chứng khoán với nghiệp
vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, bộ máy tổ chức thích hợp, hoàn toàn có khả
năng thực hiện tốt trung gian tài chính cho các nhà đầu tư.
- Công ty kinh doanh chứng khoán: Khác với hoạt động môi giới, các công ty
kinh doanh chứng khoán ngoài việc môi giới chứng khoán còn trực tiếp thực hiện mua
bán các loại chứng khoán để hưởng chênh lệch.

165

You might also like