You are on page 1of 13

I.

BÀI TẬP: BẮT BUỘC

Bài tập 1: Dựa trên cơ sở nào để phân biệt các trường phái triết học khác nhau? Hãy chứng
minh cụ thể
       Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết nghiên cứu về những vấn đề chung
nhất của thế giới tự nhiên, xã hội và con người, nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ của con
người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học phản ánh thế
giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của
chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý luận. Mặt khác về mặt xã hội,
sự phát triển của sản xuất xã hội cũng phải phát triển đến một trình độ nhất định, có sự phân công
lao động trí óc, lao động chân tay thì mới có điều kiện xuất hiện những triết gia, những trường phái
triết học. Ta có thể kể đến như:
       • Chủ nghĩa duy vật
       • Chủ nghĩa duy tâm
       • Thuyết nhị nguyên luận
       • ...
Dựa vào cơ sở nào để phân biệt các trường phái triết học khác nhau?
       Trước hết, khi giải quyết vấn đề cơ bản, mỗi triết học không chỉ xác định nền tảng và điểm
xuất phát của mình để giải quyết các vấn đề khác mà thông qua đó, lập trường, thế giới quan của
các học thuyết và của các triết gia cũng được xác định.
       Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn và cách trả lời hai câu hỏi trên
quy định lập trường của các nhà triết học và của trường phái triết học:
         • Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết
định cái nào? Hay nói cách khác, giữa vật chất và ý thức, cái nào giữ vai trò quyết định cho nguyên
nhân cuối cùng cho sự vật, hiện tượng, hay sự vận động đang cần được giải thích.
         + Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, và vật chất giữ vai trò
quyết định ý thức thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và
không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người; không
thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất. Chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức cơ
bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
         + Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước sản sinh ra giới tự
nhiên, và là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên, của vật chất. Chủ nghĩa duy tâm khẳng định rằng mọi
thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa
nhận sự sáng tạo của một lực siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới.
       + Trường phái nhị nguyên luận thì giải thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất và
tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể cùng quyết định nguồn gốc và sự vận
động của thế giới. Họ cho rằng thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất; thế giới tinh thần
sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Ở trường phái này, trong một trường hợp giải quyết vấn đề nào đó,
sẽ có thời điểm nhất định là người duy vật, song cũng có thời điểm nhất định khác lại là người duy
tâm.
       • Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan hay không?
       + Chủ nghĩa duy vật xuất phát từ chỗ cho rằng, vật chất là nguồn gốc của ý thức và ý thức là
sự phản ánh của thế giới vật chất. Do đó thừa nhận con người có khả năng, có thể nhận thức được
thế giới và các quy luật của thế giới. 
         + Đa số các nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận thế giới là có thể nhận thức được. Nhưng
do xuất phát từ quan niệm cho rằng, ý thức có trước vật chất và vật chất phụ thuộc vào ý thức, cho
nên, theo họ, nhận thức thế giới không phản ánh thế giới mà chỉ là tự nhận thức, phủ nhận cảm
giác, khả năng, ý niệm của con người là cái phản ánh các sự vật và hiện tượng của thế giới khách
quan.
         + Thuyết nhị nguyên của các nhà triết học là sự không thể khẳng định vật chất có trước hay
ý thức có trước, là người đã đứng giữa ranh giới của chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Họ muốn dung
hòa hai trường phái trên để dẫn đến một trường phái duy nhất đó là cùng tồn tại. Quan điểm của họ
đa phần là hoài nghi vì thế mà khi giải quyết tiếp mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học họ đã rơi
vào thuyết bất khả tri và dần dần triết học của họ chuyển sang duy tâm.
 ⇒ Như vậy, việc trả lời cho hai câu hỏi của hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học
chính là căn cứ để phân biệt các trường phái triết học trong lịch sử: Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm; khả tri luận và bất khả tri luận; chủ nghĩa nhị nguyên và chủ nghĩa hoài nghi
luận. Nhưng về căn bản có chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trường phái chính
và lớn nhất, còn về thực chất, chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy tâm,
còn hoài nghi luận thuộc về bất khả tri luận; mặt khác, bất khả tri luận thường có mối liên hệ
mật thiết với chủ nghĩa duy tâm, còn khả tri luận thường gắn với chủ nghĩa duy vật.

Bài tập 2: Anh chị hãy phân loại mâu thuẫn cho ví dụ từng loại.

Mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng
giữa các mặt đối lập, nhân tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là mặt đối lập.

Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng đa dạng. Sự đa dạng đó
phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập, vào điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa
các mặt đối lập triển khai, vào trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn
tại. Mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng.  

Căn cứ vào các yếu tố điều kiện khác nhau mà ta có thể phân loại các mâu thuẫn như sau:
a. Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn bên trong: là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng
một sự vật.
Ví dụ: 
● Khi cơ thể chìm vào giấc ngủ, tay chân nghỉ, cơ quan bài tiết hoạt động.
● Quá trình tiếp nhận và đào thải thức ăn của sinh vật
● Trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối là mâu thuẫn bên trong
● Trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn bên
trong.

- Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự
vật đó với các sự vật khác.
Ví dụ:
● Mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới là mâu thuẫn bên ngoài.
● Mâu thuẫn công việc giữa con người với con người.
● Mâu thuẫn giữa nước Việt Nam và nước Pháp vào thời chống Pháp.

Tóm lại, việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự
tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là
mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để xác định
một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định
phạm vi sự vật được xem xét. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình
vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự
vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn
nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài;
việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
 
b. Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai
đoạn nhất định, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:

- Mâu thuẫn chủ yếu: Đây là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của
sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu
trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
- Mâu thuẫn thứ yếu: Đây là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào
đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết
mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.

Ví dụ:

● Trong giai đoạn tình hình diễn biến dịch bệnh phức tạp như hiện nay, mâu thuẫn chủ
yếu chính là mâu thuẫn giữa con người và dịch bệnh Covid-19; mâu thuẫn thứ yếu là
mâu thuẫn giữa nhà nước và một số người dân (người không tuân thủ quy định về
phòng chống dịch bệnh, quy định 5K,…).
● Trong thời kì kháng Mỹ, mâu thuẫn chủ yếu chính là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế
quốc Mỹ và bọn tay sai Ngụy quyền; đồng thời mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn giữa
các tá điền, công nhân với bọn địa chủ.

 Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu, thứ yếu chỉ là tương đối, tùy theo từng hoàn cảnh
cụ thể, có mâu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ yếu và
ngược lại.
 
c. Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể chia mâu thuẫn trong xã hội thành
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
- Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, lực lượng,
khuynh hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đây là mâu
thuẫn đặc thù chỉ có trong xã hội loài người, trong xã hội có phân chia giai cấp, mà lợi ích
trong giai cấp đó có sự đối kháng nhau dẫn đến xung đột, đấu tranh với nhau.
Ví dụ:
● Trong thế chiến thứ I, mâu thuẫn giữa hai phe Hiệp ước (Liên Xô, Anh, Pháp) và phe
Liên minh (Đức, Áo-Hung, Italia) đây chính là sự mâu thuẫn đối kháng, hai bên có sự
đối kháng về mặt lợi ích rất lớn, lợi ích hai bên bị ảnh hưởng bởi các cuộc phân chia
thuộc địa…=> Chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn.
● Trong xã hội phong kiến, mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, hai giai cấp này có sự
mâu thuẫn về lợi ích quá lớn, địa chủ áp bức, bóc lột quá mức; còn nông dân phải lao
động quá nhiều nhưng lợi ích hưởng về rất ít, hầu hết đã rơi vào tay địa chủ => Mâu
thuẫn đối kháng này ngày càng lớn, dẫn đến các cuộc nổi dậy, đấu tranh tranh giành lợi
ích giữa họ.
- Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoàn người, lực lượng,
khuynh hướng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không
cơ bản, cục bộ, tạm thời.
Ví dụ:
● Mâu thuẫn giữa hai tập đoàn công nghệ lớn là APPLE và ADOBE (hệ điều hành IOS và
Flash) về vấn đề công nghệ, phần mềm của nhau, làm ảnh hưởng đến lợi ích đôi bên,
dẫn đến các cuộc “chiến tranh” ngôn từ của hai tập đoàn. Tuy nhiên cuối cùng đã được
giải quyết bằng các dự định hợp tác trong tương lai.
● Mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị, lao động trí óc với lao động chân tay.
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng
phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp
đối kháng. Giải quyết mâu thuẫn không đối kháng bằng con đường giáo dục, thuyết phục, tự
phê bình. 

d. Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được
chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
- Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả
các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được
giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.
Ví dụ:
● Mâu thuẫn giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản: đây là mâu thuẫn cơ bản bao trùm
và xuyên suốt thời đại quá độ lên Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, được mở đầu bằng
thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga.
● Mâu thuẫn trong quá trình tiến hóa của loài người (từ vượn đi bằng bốn chân trở thành
người tinh khôn đi bằng hai chân)
● Bướm trải qua kiểu biến đổi hoàn toàn gồm 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng
thành. Chúng sẽ lột da nhiều lần để phát triển cơ thể cho đến khi nó sẵn sàng hóa nhộng/tạo
kén. Mỗi quá trình chúng thay đổi đều có tên gọi và thay đổi chất ban đầu.
- Mâu thuẫn không cơ bản: là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật,
nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho
sự vật thay đổi căn bản về chất.
Ví dụ:
● A và B là bạn thân nhưng do bất đồng quan điểm nên không còn chơi với nhau. Mâu thuẫn
giữa A và B không làm thay đổi về mặt tính cách của 2 bạn nên đây có thể được coi là mâu
thuẫn không cơ bản.
● Quá trình tiến hóa của rắn, rắn thay da, không biến thành con vật với tên gọi khác, vẫn tên
gọi là rắn.

II. BÀI TẬP KHUYẾN KHÍCH:

Bài tập khuyến khích 1: Hãy làm rõ quan điểm của triết học mác lênin về đứng im của sự
vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.

Trước hết, vận động của sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất là một phạm trù của triết học
Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất; vận động là theo nghĩa chung
nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung của vật chất.
 
Ta khẳng định vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất và vận động tồn
tại vĩnh cửu. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự
đứng im của các sự vật hiện tượng mà thay vào đó, vận động còn bao hàm cả trong nó cả sự đứng
im tương đối.

Theo Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá
hoại sự cân bằng riêng biệt", “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất (bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ) kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy

Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, đứng im là một trạng thái đặc biệt, đó là sự vận động
trong trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. 
 
Ví dụ: 
● Một vận động viên cử tạ đang cố gắng giữ quả tạ và đứng im ở bục thi đấu. Lúc này là ta
chỉ xét vận động viên đó trong hình thức vận động cơ học; ngay lúc đó, những hình thức
vận động khác vẫn đang diễn ra trong cơ thể như vận động hóa, sinh. 

● Trong trường hợp này, vận động viên đó đang đứng im so với bục thi đấu nhưng khi so
với mặt trời thì vận động viên đó đang vận động cùng với sự vận động của trái đất quay
xung quanh mặt trời. 

Đứng im có hai tính chất chính:

Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối vì:

- Chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải mọi quan hệ cùng lúc.
- Chỉ xảy ra với một hình thức vận động chứ không phải mọi hình thức vận động.

Ví dụ: 

● Một chiếc xe ô tô con đang chuyển động trên đường. Lúc này xe ô tô con ấy sẽ chuyển
động so với hàng cây bên đường. Cũng là chiếc xe ô tô con ấy nhưng lại đứng im so với
người ngồi trong xe.
● Một người đang ngồi trên một chiếc thuyền thả trôi theo dòng nước. Lúc này người đó
sẽ chuyển động so với bờ nhưng lại đứng yên so với chiếc thuyền và dòng nước.

Đứng im chỉ là hiện tượng tạm thời vì:


- Chỉ biểu hiện khi sự vật còn là nó chưa biến đổi thành cái khác
- Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật. Vận động nói chung có xu hướng làm sự vật
không ngừng biến đổi.
Ví dụ: 
● Trái đất vận động: quay xung quanh mặt trời; và quay xung quanh trục. Khi con người đứng
trên trái đất, thì con người di chuyển so với vạn vật là vận động nhưng so với trái đất là
đứng yên.

● Ta thấy cục sắt đang đứng im, nhưng thực chất nó đang chịu sự tác động của yếu tố môi
trường, chúng sẽ chuyển hoá và thay đổi theo thời gian, mặc dù mắt ta thấy nó vẫn cứ đứng
im.

Đứng im có vai trò làm “chứng thực” cho hình thức tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự
vận động chuyển hóa của vật chất. Không có đứng im thì không có sự ổn định của sự vật và con
người cũng sẽ không bao giờ nhận thức được chúng; không có đứng yên thì sự vật hiện tượng
không thể thực hiện được sự vận động chuyển hóa tiếp theo. 
Ví dụ: 
● Trong toa tàu bạn đang đứng yên so với toa tàu; nhưng thực tế là con tàu đang chạy thì bạn
vẫn đang vận động. Ngay cả khi tàu vào sân ga thì con tàu chỉ đứng yên với sân ga thôi; còn
sân ga vẫn đang vận động cùng với trái đất quay quanh mặt trời.

⮚ Qua đó, vận động và đứng yên tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự
phát sinh tồn tại và phát triển của mọi sự vật hiện tượng với vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn
còn đứng im là tương đối, tạm thời.
III. BÀI KIỂM TRA:
PHẦN 1: CÂU HỎI BẮT BUỘC:
Câu 1: Sự phân biệt các bước nhảy chỉ mang tính tương đối.
Nhận định trên là nhận định đúng.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật hiện tượng do
những thay đổi về lượng trước có gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Khi có
sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới.
Các phân loại bước nhảy:
- Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, ta có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục
bộ. (Quá trình biến đổi về lượng)
- Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước
nhảy đột biến là bước nhảy dần dần. (Quá trình biến đổi về chất)
VD: Trong thời kỳ quan liêu-bao cấp, thời gian nước ta dần thay đổi từ nền kinh tế nhà nước sang
nền kinh tế thị trường đó chính là quá trình thay đổi về lượng để đến một mức độ nhất định sẽ thay
đổi về chất (nước ta chính thức bước vào giai đoạn kinh tế đa thành phần). Đây chính là bước
nhảy.
Giải thích:
- Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay bước nhảy cục bộ chỉ mang tính tương đối, bởi chúng
đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng (bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt,
yếu tố của sự vật hiện tượng thay đổi, bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số mặt, yếu tố
của sự vật hiện tượng.)
- Bước nhảy đột biến làm cho chất của tất cả các bộ phận của sự vật hiện tượng thay đổi một
cách nhanh chóng, bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất bằng cách tích lũy dần
những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần những yếu tố của chất cũ.(chất dần được thay đổi)
Mà sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ là tương đối tuỳ thuộc vào mối liên hệ xác định,
nghĩa là có trong mối quan hệ này là chất thì trong mối quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
VD:Trong quá trình đội ngũ nhân viên y tế thực hiện các phương pháp chữa trị cho bệnh nhân
Covid-19, cũng cùng sử dụng một phương pháp, quy trình điều trị, cùng một loại thuốc nhưng ở
từng bệnh nhân khác nhau thì sức khỏe, tình hình bệnh diễn biến khác nhau; ở bệnh nhân A, do thể
trạng tốt nên tình hình bệnh thay đổi nhanh chóng theo hướng tích cực, sức khỏe phục hồi nhanh
chóng, còn bệnh nhân B cũng cùng phương pháp điều trị đó nhưng cơ thể đã mắc bệnh lý nền nên
tình hình bệnh tiến triển rất chậm và có xu hướng xấu đi; như vậy sự khác nhau về lượng ban đầu
để thay đổi chất trong sự vật hiện tượng để tạo ra một bước nhảy đã cho thấy sự phân biệt các bước
nhảy chỉ mang tính tương đối.
Vậy với những nhận định như trên thì sự phân biệt các bước nhảy cũng chỉ mang tính tương đối.

Câu 2: Mối liên hệ có những tính chất cơ bản giống với sự phát triển.
Theo em, nhận định này là sai. 
Trước hết, “mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một hoặc giữa các đối
tượng với nhau. Ví dụ: Giáo dục và kinh tế là 2 lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ với nhau vì giáo
dục ảnh hưởng lên kinh tế khi nó đào tạo ra nguồn lao động chất lượng để xây dựng nền kinh tế
thêm phát triển. Ngược lại, kinh tế cũng tác dụng lên giáo dục vì khi nền kinh tế phát triển sẽ đầu
tư vào nền giáo dục giúp nó phát triển hơn.
Mối liên hệ có 3 tính chất cơ bản gồm: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú
“Sự phát triển” là quá trình vận động từ thấp đến cao, tử kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ
chức xã hội loài người: Từ hình thức tổ chức xã hội Thị tộc, bộ lạc sơ khai đến những tổ chức xã
hội cao hơn là hình thức tổ chức xã hội là Bộ tộc, dân tộc
Sự phát triển có 4 tính chất cơ bản gồm: tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng và tính
kế thừa.
Qua đó, ta có thể thấy sự phát triển có thêm tính chất kế thừa khi so sánh với hai phạm trù
này với nhau. Tính kế thừa chỉ xuất hiện ở sự phát triển bởi vì sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự
vật, hiện tượng cũ. Các sự vật, hiện tượng mới không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch
trơn đối với sự vật, hiện tượng cũ mà chúng sẽ giữ lại, chọn lọc, cải tạo các yếu tố còn tác dụng,
giá trị và bỏ đi những thành phần đã bị lỗi thời, lạc hậu, tiêu cực, gây ra cản trở cho quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng mới.
Ví dụ cho tính kế thừa, ta có thể kể đến quá trình hình thành và phát triển của điện
thoại di động. Chiếc điện thoại đầu tiên được ra đời vào năm 1973 có chiều dài 25,4 cm và
nặng đến 1kg nhưng chức năng của nó chỉ là nghe và gọi. Thế nhưng, hiện tại nhìn vào
chiếc điện thoại di động mới, ta thấy được rõ sự cải tiến với tính gọn, nhẹ và nhiều tính
năng mới như có thế nhắn tin, giải trí, kết nối internet,… mà vẫn không mất đi tính năng cũ
là nghe và gọi mà chiếc điện thoại đầu tiên có được. Khi đó, chiếc điện thoại di động hiện
tại là sự phủ định của chiếc điện thoại đầu tiên, và mang tính kế thừa của chiếc điện thoại
đầu tiên.
Tóm lại, nhận định trên là sai vì sự phát triển có thêm một tính chất cơ bản là tính kế thừa khi so
sánh với các tính chất cơ bản của mối liên hệ.
Câu 3: Mâu thuẫn, bước nhảy, phủ định biện chứng là những phạm trù triết học giống nhau.
Theo em, nhận định trên là nhận định sai. 
Mâu thuẫn, bước nhảy, phủ định biện chứng là những phạm trù triết học không giống nhau vì:
Về khái niệm: 
- Mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng
giữa các mặt đối lập, nhân tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là mặt đối lập. Ví dụ như sự đồng
biến và nghịch biến của một phương trình toán học.
- Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật hiện tượng
do những thay đổi về lượng trước có gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Khi
có sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát
triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Ví dụ như sự bay hơi của
nước thành hơi nước là một bước nhảy vì khi đó, nước đã có sự thay đổi về nhiệt độ và chạm
ngưỡng 100 độ C.
- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, tự phát triển và tạo tiền đề cho sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ. Ví dụ: cây lúa là sự phủ định biện chứng của
hạt thóc khi gieo trồng; hay con gà con là sự phủ định biện chứng của quả trứng khi chúng nở ra.
Về vai trò trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng:
- Mâu thuẫn đóng vai trò là nguồn gốc, động lực cơ bản của quá trình biến đổi, phát triển.
Ví dụ 1: Quá trình phát triển của các giống loài (thực vật, động vật) là quá trình làm phát
sinh giống loài mới từ giống loài cũ. Đó là kết quả tất yếu của quá trình thống nhất, đấu
tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập: đồng hoá và dị hoá, di truyền và biến dị; giữa các
giống loài vừa nương dựa vào nhau để tồn tại, vừa đấu tranh sinh tồn khốc liệt với nhau và
dẫn đến sự chọn lọc tự nhiên đối với những nhân tố không phù hợp với hoàn cảnh môi
trường.
Ví dụ 2: Thực hiện chế độ dân chủ trong học thuật chính là tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho việc phát huy những trao đổi, tranh luận giữa các ý kiến không chỉ khác nhau mà còn là
đối lập nhau trong việc giải quyết một vấn đề, nhờ đó có thể làm sáng tỏ chân lý.
- Bước nhảy lại có vai trò là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giai
đoạn phát triển mới của sự vật, hiện tượng. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của
sự vật đồng thời là một tiền đề cho một quá trình tích lũy liên tục về lượng tiếp theo.
Ví dụ: Trong xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng
xã hội (bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
- Phủ định biện chứng có vai trò tạo ra những điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật bởi vì nó giúp
sự vật, hiện tượng giữ lại các thành tố tích cực, loại bỏ đi cái tiêu cực đã cấu thành chúng trước đó
và làm cho chất của sự vật, hiện tượng mới giàu có hơn, phát triển cao hơn.
Ví dụ: Hạt thóc được gieo xuống nảy mầm thành cây mạ. Cây mạ phát triển dần lên thành
cây lúa. Cây lúa tiếp tục phát triển tạo ra bông lúa. Như vậy, hai lần phủ định biện chứng đã
tạo ra tiền đề cho sự phát triển cho hạt thóc ban đầu đã được gieo giúp nó phát triển trên một
cơ sở cao hơn.
Tóm lại, theo em nhận định trên là sai vì mâu thuẫn , bước nhảy và phủ định biện chứng là 3 phạm
trù triết học khác nhau nhưng cùng nhau tạo nên tiền đề cho sự phát triển của mọi sự vật hiện
tượng dù trong tự nhiên hay xã hội.  

Câu 4: Phủ định Biện chứng có những tính chất cơ bản giống với mâu thuẫn.
Đây là một nhận định sai vì:
- Phủ định biện chứng là khái niệm dùng địa chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho
sự phát triển.
- Phủ định biện chứng thông thường chỉ là sự phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến
lên và lực lượng phủ định được đưa ra từ bên ngoài vào kết cấu của sự vật. VD : xay nát
những hạt gạo, giết chết một con sâu, bào một khúc gỗ,...
- Phủ định biện chứng tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển
tiếp theo cho cái mới ra đời thay cái cũ. VD: sự tiến hoá của con người :vượn -> vượn
người -> Người
- Mâu thuẫn là một chỉnh thể được tạo bởi hai mặt đối lập, trong đó hai mặt đối lập vừa
thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau,...
Ví dụ: Nông dân và địa chủ khi nước ta ở chế độ phong kiến, đây là hai chủ thể đối lập nhau
nhưng đồng thời cũng có sự thống nhất, đấu tranh với nhau.
Giải thích:
- Phủ định biện chứng mang tính khách quan và tính kế thừa.
+ Tính khách quan: sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do chính mâu thuẫn bên trong của
nó gây ra. Đó là kết quả chuyển hoá của các mặt đối lập nhằm giải quyết những mâu
thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng và của quá trình tích lũy về lượng dẫn đến
nhảy vọt về chất. Quá trình đó hoàn toàn không phụ thuộc vào ý thức của con người.
+ Tính kế thừa: loại bỏ những yếu tố không phù hợp, và cải tạo những yếu tố của sự vật,
hiện tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện tượng mới. Tính chất này thể hiện
phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát
triển, lưu giữ cái tích cực và lặp lại một số đặc điểm của cái ban đầu trên cơ sở mới cao
hơn.
Ví dụ: Trong thời gian diễn biến của dịch Covid-19 thì quá trình vận động, phát triển biến đổi
không ngừng của virus corona, trải qua nhiều biến chủng khác nhau từ corona cho đến biến
chủng mới được phát hiện gần đây nhất là Omicron, đây là một sự phủ định trong quá trình vận
động, phát triển của virus corona. Quá trình này có sự thay đổi hình thái tồn tại, khả năng ủ
bệnh, triệu chứng gây ra khi mắc bệnh (Ở các biến chứng ban đầu thì hình thái khác nhau, và
dần về các biến chủng sau Thì thời gian hủ bướm bệnh nhanh hơn, triệu chứng bệnh không rõ
ràng hơn).=>Sự biến đổi này không do con người quyết định, và nó đã lặp lại những yếu tố ban
đầu trên cơ sở cao hơn…

- Mâu thuẫn của sự vật hiện tượng mang tính khách quan,tính phổ biến và tính phong phú
và đa dạng.
+ Mâu thuẫn có tính khách quan vì mâu thuẫn là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất
chung của mọi sự vật, hiện tượng.
+ Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá
trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Tính đa dạng, phong phú của mâu thuẫn: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm
nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác
nhau; giữ vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật.
VD: Trong tình hình học tập của học sinh trên cả nước ta bị ảnh hưởng do dịch bệnh như hiện tại thì xảy
những mâu thuẫn cơ bản đối lập nhau như sau: nếu cho học sinh đến trường thì tình hình dịch bệnh khó
kiểm soát, số ca bệnh có thể tăng lên; Đồng thời nếu cho học sinh học online (phải chịu một số bất cập
trong vấn đề học tập và thi cử qua mạng) thì tình hình dịch bệnh dễ kiểm soát hơn, và số ca bệnh có
không tăng đột ngột.=> Đây là 2 mặt đối lập nhau nhưng lại không thể tách rời nhau và đấu tranh với
nhau.

Như vậy, với những nhận định và ví dụ cụ thể như trên thì phủ định biện chứng có những tính chất cơ
bản giống với mâu thuẫn là một nhận định sai.

PHẦN 2: CÂU HỎI TỰ CHỌN:


Câu 6: Sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ mang tính khách quan và phổ biến. 
Nhận định này là sai
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng
đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Mọi quá trình phát triển đều có bốn tính chất cơ bản là: tính khách quan, tính phổ biến, tính kế thừa
và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển: Thể hiện ở chỗ nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự
vật, hiện tượng, quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong bản thân sự vật, hiện tượng…
chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ
quan của con người.
Ví dụ: 
● Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật
tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận
thức và làm theo quy luật đó.
● Quá trình biến hóa loài bướm. Bướm trải qua kiểu biến đổi hoàn toàn gồm 4 giai đoạn:
trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. 
- Tính phổ biến của sự phát triển: Sự phát triển diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ: 
● Trong tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ vật chất chưa có
năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu
sự sống phức tạp hơn- sự tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống loài thực vật
và động vật mới đến mức có thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội
từ đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng với quá trình đó cũng là quá trình không
ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao… 
● Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ hình thái công xã nguyên thủy-> hình thái
chiếm hữu nô lệ-> hình thái phong kiến->hình thái tư bản chủ nghĩa->hình thái cộng sản
chủ nghĩa.
● Sự phát triển của các giống loài từ bậc thấp lên đến bậc cao “chi, họ, bộ, lớp, ngành,..”
● Quá trình phát triển của một con người, từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành, con người
ngày càng hoàn thiện về mặt thể chất và phát triển mạnh mẽ về mặt tư duy nhận thức của
mình.
- Tính kế thừa của sự phát triển: Tính kế thừa sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ
định tuyệt đối, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự vật, hiện tượng mới
ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô. Vì vậy trong sự vật, hiện tượng
mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi
gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật, hiện tượng
mới tiếp tục phát biển.
Ví dụ: 
● Quá trình phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng có nhiều loại công nghệ hiện đại ra
đời thay thế cho những công nghệ đã dần lạc hậu. 
● Sự ra đời học thuyết Mác kế thừa 3 tiền đề lý luận: Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị
học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp thì Mác và Ăngghen
xây dựng chủ nghĩa Mác với 3 bộ phận cấu thành đó là triết học Mác, kinh tế chính trị Mác
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
● Để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa phương Đông và phương
Tây 
● Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội kế thừa thành tựu của các chế độ xã hội đã có từ trước mà
trực tiếp là của chủ nghĩa tư bản.
● Việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay kế thừa điểm tích cực văn hóa truyền thống,
đồng thời tiếp thu giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển: Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên
xã hội và tư duy nhưng mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau, tính đa
dạng phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố điều
kiện tác động đến sự phát triển đó.
Ví dụ: 
● Sự phát triển của thực vật khác động vật
● Cây đặt trong bóng tối sự phát triển khác với cây để ngoài trời 
● Bạn A và bạn B học cùng lớp, bạn A thì chăm học, có bạn bè tốt, còn bạn B thì lêu lỏng,
chơi với các bạn xấu. Hai người học cùng 1 chương trình, 1 giáo viên nhưng kết quả học tập
lại khác nhau.
Vậy nên, sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ mang tính khách quan và phổ biến là chưa đúng,
còn thiếu tính kế thừa và tính đa dạng, phong phú.
Câu 7: Chân lý chỉ mang tính khách quan 
Nhận định trên sai. 
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, chân lý là tri thức (lý luận, lý thuyết,...) phù hợp với hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Ngoài tính khách quan, chân lý còn có tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.
● Tính khách quan của chân lý là chân lý có tính phù hợp với tri thức và thực tại khách quan;
chân lý không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. V.I.Lenin nhấn mạnh: “Thừa
nhận chân lý khách quan, tức là chân lý không phụ thuộc vào con người và loài người”.
o Ví dụ về tính khách quan: Sự phù hợp giữa quan niệm “Trái Đất không phải hình cầu
hoàn hảo mà có dạng ellipsoid, dẹt ở hai cực và phình ra tại khu vực xích đạo”. là
phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã
từng có từ trước.
● Tính tuyệt đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý phản ánh đầy đủ, toàn
diện hiện thực khách quan ở một giai đoạn lịch sử xác định.
● Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đúng nhưng chưa hoàn
toàn đầy đủ, mới phản ánh đúng một mặt, một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan
trong những điều kiện giới hạn xác định.
o Ví dụ về tính tương đối, tuyệt đối: 
● Trong giới hạn mặt phẳng có độ cong bằng 0 thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt đối
bằng 2 vuông (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi có độ cong khác 0 thì định
lý đó không còn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới (sự
phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn - tức chân lý tuyệt đối).
● Đỉnh núi cao nhất ở Việt Nam là đỉnh Fansipan - 3443m (tính tuyệt đối), nhưng nếu ta thay
đổi không gian đỉnh núi cao nhất trên thế giới chân lý trên không còn đúng nữa (tính tương
đối), cần phải chỉnh sửa bằng chân lý mới là “Đỉnh núi cao nhất trên thế giới là đỉnh Everest
- 8848m”.
● Tính cụ thể là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện
xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,...).
o Ví dụ về tính cụ thể: Mọi nhà khoa học khi phát biểu định lý đều kèm theo các điều
kiện xác định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong 1 tam giác vuông bình
phương cạnh huyền (cạnh đối diện với góc vuông) bằng tổng bình phương của hai
cạnh góc vuông” (Định lý Pytago)
Vì vậy, chân lý chỉ có tính khách quan là nhận định sai. Chân lý có tính khách quan, tính tuyệt đối,
tính tương đối và tính cụ thể.

Câu 10: Ý thức con người vừa mang bản chất tự nhiên, vừa mang bản chất xã hội
Theo em, đây là nhận định đúng vì:
Trước hết, ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con người. Ý thức là sự
phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua lại với thế
giới khách quan. 
Các bản chất của ý thức gồm:
Bản chất tự nhiên: ý thức có trong đầu óc con người, được nảy sinh một cách tự nhiên, mỗi
người sẽ có một ý thức riêng.
Ví dụ: Mỗi học sinh, sinh viên sẽ tự hiểu chính bản thân mình, từ tìm tòi những thứ mình
thích và có khả năng làm, hiểu được ngành học và định hướng ngành nghề phù hợp cho riêng
mình, không sinh viên nào giống sinh viên nào.
Bản chất xã hội: ý thức sẽ được xây dựng nuôi dưỡng bởi những mối quan hệ xung quanh
mỗi người. Mối quan hệ xã hội xung quanh của mỗi người sẽ tác động đến một phần nhất định về ý
thức của người đó.
Ví dụ:
● Khi chúng ta tiếp xúc với mọi người xung quanh thì ta sẽ tự hoàn thiện bản thân mình theo
yêu cầu của xã hội.
● Khi chúng ta giao tiếp với mọi người xung quanh thông qua ngôn ngữ ta sẽ hình thành nên
ý thức để từ đó ứng xử và trao đổi với nhau một cách đúng đắn.
Tóm lại, nhận định trên là đúng vì ý thức con người mang cả hai bản chất là bản chất tự nhiên và
bản chất xã hội.
Câu 13: Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm tra nhận thức của con người. 
Nhận định trên là nhận định đúng 
Theo quan niệm của Mác: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, cảm tính có mục đích, mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Ví dụ: Hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động chính trị – xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học,..
Nhận thức là sự hiểu biết của con người đối với hiện thực khách quan, là quá trình tạo thành tri
thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan, bản chất nhận thức là quá trình phản ánh biện
chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào óc con người trên cơ sở thực tiễn. Ví
dụ: nhận thức: “Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, mọi người dân nhận thức được
tầm quan trọng của Pháp luật, nếu vi phạm sẽ bị Nhà nước trừng phạt. Do đó, người dân sẽ luôn
sống và làm việc tuân theo pháp luật của nhà nước.”
● Muốn kiểm tra nhận thức của con người phải dựa vào thực tiễn, chứ không phải dựa vào lập
luận chủ quan, số đông, lợi ích hay nhận thức để kiểm tra nhận thức.
● Ngoài thực tiễn ra không còn cái nào khác có thể kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức của
con người. Muốn biết nhận thức đó đúng hay sai phải dựa vào thực tiễn.

Ví dụ: Khi đợt dịch thứ 4, cũng như là thời điểm dịch bệnh COVID-19 mạnh mẽ nhất ập tới,
không chỉ là bạn bè quốc tế mà gần như không người Việt Nam nào dám tin rằng nước ta có thể có
đủ vaccine để tiêm chủng vì bấy giờ mua vaccine ở thời điểm này rất khó và trên thế giới đang
khan hiếm vô cùng. Ngoài ra, kinh phí của nước ta còn rất eo hẹp khó lòng mà mua đủ lượng
vaccine. 
Nhưng khi kiểm tra nhận thức trên bằng thực tiễn thì trên thực tế Việt Nam chỉ mất 8 tháng
để phủ tới gần 60% tỷ lệ tiêm chủng toàn quốc. Việt Nam đã là 1 trong 20 nước trên thế giới có số
liều vaccine tiêm chủng nhiều nhất, tỷ lệ tiêm cũng nhanh chóng đạt được những con số đáng ghi
nhận. Nhờ những nỗ lực của các vị lãnh đạo đứng đầu nhà nước, của Chính phủ, của ngành y tế, và
cả người dân, cộng đồng doanh nghiệp. Cụ thể, với số liệu được cập nhật ngày 24/12/2021 từ
nguồn của Bộ y tế, thì 67,2% dân số đã tiêm đủ liều và 81,6% dân số đã tiêm, trong đó 14,4% dân
số chưa tiêm đủ liều. 
Vì vậy, chúng ta không nên dựa vào những lập luận chủ quan, số đông hay nhận thức để
kiểm tra nhận thức. Chỉ có thực tiễn mới có thể kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức.
Ví dụ 1: Trong tình hình dịch bệnh COVID - 19 diễn biến phức tạp, vaccine ngừa COVID-19 đang
được sử dụng trong các chiến dịch tiêm chủng nhằm đem lại hy vọng về một cuộc sống bình
thường. Nhưng có một số đông lại tin vào những thông tin nhận thức rằng “Vaccine ngừa COVID-
19 không đem lại hiệu quả”
Tuy nhiên, khi nhìn vào thực tiễn vaccine COVID-19 đang bảo vệ mọi người trong điều
kiện thực tế, nghiên cứu tính hiệu quả của vaccine cung cấp bằng chứng mạnh mẽ chứng minh
vaccine COVID-19 bảo vệ cả trong điều kiện thực tế lẫn trong các thử nghiệm lâm sàng. Những
nghiên cứu này cho thấy vaccine giảm nguy cơ mắc COVID-19, đặc biệt là các bệnh nghiêm trọng
ở những người đã được tiêm chủng đầy đủ. Theo nguồn: Trung Tâm Quốc Gia về Chủng Ngừa và
Bệnh Hô Hấp (NCIRD), Phân Ban Bệnh Do Vi-rút: vaccine ngừa COVID-19 bảo vệ mọi người từ
5 tuổi trở lên khỏi bị lây nhiễm và bị bệnh nặng, đồng thời giúp giảm đáng kể trường hợp phải
nhập viện và tử vong. Tiêm chủng là cách tốt nhất để làm chậm sự lây lan của COVID-19 và
phòng tránh lây nhiễm do biến thể Delta hoặc biến thể khác.
Dựa vào thực tiễn trên cho thấy “Vaccine ngừa COVID-19 không đem lại hiệu quả” là một
nhận thức sai.
Ví dụ 2: Nhận thức rằng: “Tuyến tàu điện Cát Linh - Hà Đông là tuyến tàu điện được đi vào hoạt
động đầu tiên ở Việt Nam.” 
Xét trong thực tiễn cho thấy, tuyến tàu điện Cát Linh - Hà Đông đã cho vận hành 15 ngày
miễn phí và bắt đầu chuyển sang giai đoạn khai thác thương mại, vận chuyển hành khách có thu
tiền từ ngày hôm nay 21/11. Tính từ thời điểm này, thì thực tế trước đó chưa từng có một tuyến tàu
điện nào xuất hiện ở Việt Nam.
Dựa vào thực tiễn cho thấy nhận thấy trước thời điểm trên Việt Nam chưa có một tuyến tàu
điện nào hoạt động. Vì vậy, nhận thức “Tuyến tàu điện Cát Linh - Hà Đông” là tuyến tàu điện
được đi vào hoạt động đầu tiên ở Việt Nam.” là một nhận thức đúng.
❖ Vì vậy, phải coi trọng thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Mọi nhận thức lý luận phải xuất
phát từ thực tiễn và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức. Và phê phán mọi
biểu hiện xem nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn. Do đó, nhận định “Thực tiễn là
tiêu chuẩn duy nhất để kiểm tra nhận thức của con người” là nhận định đúng.
 

You might also like