You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN THMLN

ĐỀ BÀI:
Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Họ và tên SV: Đinh Thị Quỳnh Trang


Lớp tín chỉ : Kinh tế học Tài chính 63
Mã SV : 11219558

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

HÀ NỘI, NĂM 2021

1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1

NỘI DUNG........................................................................................................... 1

1. Một số vấn đề lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học..................1

1.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng...................................................................1

1.2. Kết cấu, nguồn gốc của mâu thuẫn biện chứng...............................................3

1.3. Ý nghĩa của mâu thuẫn biện chứng.................................................................4

2. Bản chất của sự mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”...................................................................5

2.1. Quan điểm về độc lập, tự chủ..........................................................................5

2.2. Quan điểm về hội nhập quốc tế.......................................................................7

2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế................9

3. Thực trạng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế
quốc tế và phương hướng..................................................................................13

3.1. Thực trạng..................................................................................................... 13

3.2. Phương hướng...............................................................................................14

KẾT LUẬN......................................................................................................... 15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................17

2
MỞ ĐẦU

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế”.

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh và cụ thể hơn là mối quan hệ “giữa độc lập,
tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” 1. Để nhận thức đúng và xử lý tốt mối
quan hệ đó, Đảng đã chỉ rõ nguyên tắc và phương châm: phải xuất phát từ thực tiễn,
bám sát thực tiễn; chú trọng nghiên cứu dự báo xu hướng phát triển của đất nước và
thế giới, những diễn biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta cả thuận lợi và
khó khăn, tích cực và tiêu cực để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách
thức và nguy cơ, tôn trọng quy luật khách quan, “không phiến diện, cực đoan, duy ý
chí”.

Vậy độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mâu thuẫn với nhau không và nếu
có thì sự mâu thuẫn đó như thế nào ? Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin phép
chọn chủ đề: “Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” làm đề
tài cho bài tập lớn của mình.

1
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

3
NỘI DUNG

1. Một số vấn đề lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học

1.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng

Mâu thuẫn biện chứng (A: Dialectical contradiction; Ph: Contradiction


dialectique; N: Диалектическое противоречие) là một phạm trù của phép biện
chứng dùng để chỉ sự liên hệ và tác động giữa hai mặt đối lập. Thuật ngữ “mâu thuẫn”
trong tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác có nghĩa đen là lời nói trái ngược
nhau. Nó gồm 2 từ gốc: diction (lời nói) và contra (tiền tố chỉ khuynh hướng trái
ngược, chống đối). Từ противоречие trong tiếng Nga cũng có kết cấu tương tự như
vậy2.

Lúc đầu, thuật ngữ “mâu thuẫn” được dùng trong Lôgíc học hình thức để chỉ
những phát ngôn, phán đoán trái ngược nhau, một cái khẳng định, một cái phủ định
(có và không có; là và không phải là). Về sau thuật ngữ này được dùng trong phép
biện chứng của Hêghen và của Mác với một nghĩa rộng hơn, thậm chí khác với nghĩa
nguyên thủy của nó; “mâu thuẫn” đã trở thành một phạm trù triết học, nó không chỉ có
trong tư duy, mà cả trong hiện thực khách quan nữa.

“Mâu thuẫn” (từ Hán Việt) có liên quan đến hai loại binh khí - “mâu” là cái
kích để đâm và “thuẫn” là cái khiên để đỡ, có thể được hiểu như là mâu thuẫn khách
quan giữa đâm và đỡ, giữa tác động và phản tác động; đồng thời cũng có thể hiểu như
là một mâu thuẫn lôgíc, tức là mâu thuẫn giữa hai lời quảng cáo phủ định nhau của
anh thợ rèn bán rao về hai loại sản phẩm đó của mình 3.

Để phân biệt mâu thuẫn với tính cách là phạm trù của phép biện chứng với khái
niệm mâu thuẫn trong lôgíc học hình thức, người ta dùng những thuật ngữ khác nhau -
mâu thuẫn biện chứng và mâu thuẫn lôgíc hình thức, gọi tắt là mâu thuẫn lôgíc. Tuy
nhiên, không phải lúc nào cũng có những tính từ biện chứng hay lôgíc hình thức đi
sau danh từ “mâu thuẫn”; do đó tùy theo từng ngữ cảnh mà ta có thể phân biệt thuật
ngữ “mâu thuẫn’’ được dùng với nghĩa như trên.

2
Từ điển triết học do M.M. Rodentan chủ biên ; Философский энциклопедический словарь;
3
Từ điển Bách khoa Việt Nam

4
Mâu thuẫn biện chứng là những mâu thuẫn tồn tại tất yếu khách quan trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ, mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa
lực hút và lực đẩy trong thế giới vật lý, giữa đồng hóa và dị hóa trong sinh vật, giữa
giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột trong đời sống kinh tế, giữa các quan điểm, học
thuyết chống đối nhau trong triết học và các lý thuyết về tự nhiên, xã hội, v.v.. Còn
mâu thuẫn lôgíc là mâu thuẫn chủ quan và nó chỉ tồn tại trong tư duy.

Tuy nhiên, mâu thuẫn biện chứng khách quan được phản ánh thành mâu thuẫn
biện chứng trong tư duy (khác với mâu thuẫn lôgíc hình thức cũng là mâu thuẫn trong
tư duy). Hai loại mâu thuẫn trong tư duy này có sự khác nhau: Xét về nguồn gốc, mâu
thuẫn lôgíc là do sai lầm trong nhận thức, còn mâu thuẫn biện chứng là do tính phức
tạp của thế giới khách quan và của nhận thức con người. Trong mâu thuẫn lôgíc, khi
đã xác định được mặt mặt (phán đoán) là chân thật (đúng) thì mặt kia chắc chắn là sai
lầm (hoặc có thể cả hai đều sai lầm); còn trong mâu thuẫn biện chứng, vì mỗi tư
tưởng chỉ phản ánh một mặt trong hai mặt đối lập có liên hệ biện chứng với nhau của
sự vật, nên mỗi tư tưởng đều có thể chứa đựng những yếu tố chân lý nhất định (Ví dụ,
với hai phán đoán: “Trong mỗi con người đều có cái thiện” và “Trong mỗi con người
đều có cái ác”, không nhất thiết chỉ có một cái đúng, một cái sai). Giải quyết mâu
thuẫn lôgíc chỉ đơn giản là loại bỏ một hoặc cả hai tư tưởng sai lầm; còn giải quyết
mâu thuẫn biện chứng là một quá trình rất phức tạp 4.

1.2. Kết cấu, nguồn gốc của mâu thuẫn biện chứng

Mâu thuẫn biện chứng có kết cấu gồm hai mặt đối lập và mối quan hệ giữa
chúng được thể hiện trong ba khái niệm: sự thống nhất của các mặt đối lập, sự đấu
tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa của các mặt đối lập. Mối quan hệ của các
mặt đối lập có tính tất yếu, phổ biến, lặp đi lặp lại, được phép biện chứng coi là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng - quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập.

Mỗi sự vật, hiện tượng có thể chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Trong một mâu
thuẫn có thể vừa có những yếu tố tất yếu, khách quan vừa có những yếu tố không tất
yếu, không khách quan; cho nên nhận thức mâu thuẫn, phân biệt giữa mâu thuẫn biện
4
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995

5
chứng với mâu thuẫn không biện chứng là hết sức khó khăn. Mâu thuẫn biện chứng
được phân thành nhiều loại: Mâu thuẫn bên trong (giữa các mặt đối lập trong cùng
một sự vật, hiện tượng) và mâu thuẫn bên ngoài (giữa các mặt đối lập ở các sự vật,
hiện tượng khác nhau); mâu thuẫn cơ bản (quy định bản chất, tồn tại trong suốt qua
trình phát triển của sự vật, hiện tượng và quy định các mâu thuẫn khác) và mâu thuẫn
không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu (mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn
phát triển của sự vật) và mâu thuẫn không chủ yếu; mâu thuẫn đối kháng (mâu thuẫn
giữa các lợi ích không thể điều hòa được trong đời sống xã hội) và mâu thuẫn không
đối kháng.

Mâu thuẫn biện chứng có quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao. Lúc đầu
chỉ là sự khác nhau giữa hai mặt, về sau biến thành sự đối lập. Sự đấu tranh của các
mặt đối lập đi từ chỗ ít gay gắt đến chỗ gay gắt hơn. Quá trình đấu tranh của các mặt
đối lập cũng gắn liền với sự giải quyết thường xuyên của mâu thuẫn, nhưng đó chỉ là
sự giải quyết cục bộ, tạm thời; mâu thuẫn thường xuyên được giải quyết nhưng cũng
thường xuyên tái lập lại trên cơ sở mới. Chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến trình độ chín
muồi mới được giải quyết triệt để hoàn toàn 5.

1.3. Ý nghĩa của mâu thuẫn biện chứng

Sự giải quyết mâu thuẫn biện chứng không chỉ phụ thuộc vào trình độ phát
triển (mâu thuẫn chưa chín muồi hay đã chín muồi) mà còn phụ thuộc vào bản chất
(mâu thuẫn đối kháng hay không đối kháng; mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn chính trị
hay mâu thuẫn tư tưởng …) và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn (Ví dụ: Trong chế độ
dân chủ hay chế độ độc tài). Ngoài ra, sự giải quyết mâu thuẫn là quá trình khách
quan phức tạp, không phụ thuộc ý chí chủ quan của con người và không được quy về
việc xóa bỏ mâu thuẫn hay xóa bỏ một trong hai mặt đối lập. Mâu thuẫn chỉ được giải
quyết triệt để, chỉ mất đi đã đạt đến chín muồi. Còn trong những trường hợp khác, sự
giải quyết mâu thuẫn thường là sự kết hợp hài hòa giữa các mặt đối lập.

Theo quan điểm của phép biện chứng, mâu thuẫn có vai trò là nguồn gốc, động
lực của sự vận động phát triển. Chính sự tác động, đấu tranh giữa các mặt đối lập bên
trong kết cấu sự vật làm cho sự vật vận động, biến đổi không ngừng. Sự đấu tranh của
5
Đỗ Minh Hợp, Lê Hữu Tầng (dịch) (1998). Lịch sử phép biện chứng. Nxb Chính trị Quốc gia

6
các mặt đối lập dẫn đến giải quyết mâu thuẫn làm cho sự vật phát triển lên một trạng
thái mới. Khi mâu thuẫn cơ bản của sự vật được giải quyết hoàn toàn thì sẽ có sự thay
đổi về chất của sự vật, sự vật mới thay thế sự vật cũ. Trong quá trình đấu tranh của
các mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời bị gạt bỏ nhường chỗ cho sự ra đời của cái
mới, cái tiến bộ.

Quy luật mâu thuẫn biện chứng có vai trò quan trọng nhất trong ba quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật và được V.I. Lênin coi là “hạt nhân của phép biện
chứng”. Nghiên cứu quy luật này giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của sự tự
thân vận động, tự thân phát triển của thế giới khách quan và của tư duy con người,
khắc phục quan điểm duy tâm, siêu hình về sự phát triển 6.

2. Bản chất của sự mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”.

2.1. Quan điểm về độc lập, tự chủ

Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất quán trong toàn bộ hoạt động chính trị
của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Nguyên lý chủ yếu của tư tưởng đó là “muốn
người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” 7. Giữ vững độc lập, tự chủ
vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia – dân
tộc. Đó chính là kết tinh của sự nghiệp đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi,
giáo điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách
nhiệm trước nhân dân, trước đất nước, biết làm chủ bản thân và công việc. Trong
quan hệ quốc tế và đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Độc lập nghĩa
là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở
ngoài vào”8. Trong Lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm Độc lập 2-9-1948, Người khẳng
định: “Độc lập mà không có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân
Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy” 9. Như vậy, không
chỉ dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ mà ngoại

6
Giáo Trình Triết Học Mác – Lênin (Dành Cho Bậc Đại Học Hệ Không Chuyên Lý Luận Chính Trị), tr.132
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 320
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 162
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 602

7
giao, đối ngoại của dân tộc cũng phải độc lập, không bị bất kỳ thế lực, lực lượng nào
chi phối. Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào Cộng sản, công nhân quốc
tế, Người xác định: “Các Đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời
đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”10.

Độc lập, tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh
nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự mình phải suy nghĩ, tìm tòi, định ra những chủ
trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước, không chịu
một sức ép nào từ bên ngoài, không để “biến thành một con bài trong tay người khác”.
Độc lập, tự chủ là đặc trưng của bản lĩnh chính trị, đối ngoại của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng các giá trị ấy, vạch ra đường lối đối ngoại phù hợp
với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh thời đại mới.

Để tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế, trước hết phải phát huy độc lập, tự
chủ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập”11; từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tích cực,
chủ động đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau; thực
hiện phương châm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với
một ai”12, “thêm bạn, bớt thù” và “giúp bạn là tự giúp mình”. Theo Hồ Chí Minh, Việt
Nam đoàn kết, hợp tác quốc tế không những để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ mà còn
có trách nhiệm ủng hộ, giúp đỡ các nước khác, thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Vì lẽ đó, ta
vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới; đồng thời,
Người chủ trương hợp tác phải đi đôi với đấu tranh: mục đích của ta là vì đoàn kết, vì
đoàn kết mà phải tranh đấu; tranh đấu để đi đến đoàn kết, chứ không nói xấu ai.

Thực tế, trong Đại hội XIII của Đảng cũng đã thể hiện tư duy mới cũng như nội
hàm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Đó là hướng tiếp cận mới
của Đại hội XIII về xây dựng nền kinh tế Việt Nam. Trong Văn kiện Đại hội XIII,
việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ chính thức được nhấn mạnh như
một nhiệm vụ kinh tế để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam trong bối
cảnh mới.

10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 732
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 256

8
2.2. Quan điểm về hội nhập quốc tế

Độc lập, tự chủ nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc chính đáng, thực hiện
các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện lợi ích của các dân tộc đan xen, chồng chéo.
Nhưng độc lập, tự chủ và tự lực, tự cường hoàn toàn đối lập với sự biệt lập và chủ
nghĩa biệt phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần, Hồ Chí
Minh luôn chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp tác quốc tế, coi đây là
vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu
của đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều
kiện làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu
tranh kiên quyết và khôn khéo để thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền
lợi quốc gia. Đó là một nguyên lý cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, là “sợi chỉ đỏ”
xuyên suốt toàn bộ hoạt động quốc tế và ngoại giao Việt Nam, được Đảng ta nâng lên
thành đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế 13.

Thực tế, trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta, một mặt, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tiến trình cách mạng. Trong đó,
vấn đề khát vọng độc lập dân tộc và phát triển luôn là nguồn mạch trong tư duy cũng
như trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, khía cạnh phát triển
càng trở nên nổi bật trong suốt hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng ta. Mặc dù
vậy, để nhất quán về mặt tư duy và cách tiếp cận, coi việc xây dựng nền kinh tế Việt
Nam độc lập, tự chủ như một nội hàm chính thức của quá trình hiện thực hóa khát
vọng phát triển, để Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc thì
đến Đại hội XIII mới được diễn đạt cụ thể và rõ hơn cả 14.

Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nội dung trong ba nội dung
cốt lõi của hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (bao gồm: 1- Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể
13
Trần Vi Dân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong
tình hình hiện nay, Tạp Chí Cộng Sản, 07.2021
14
Ngô Tuấn Nghĩa, Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng, Tạp Chí Cộng Sản, 09/2021

9
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ những điểm
nghẽn và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; 3- Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế). Điều này vừa thể hiện cách tiếp cận mới phù hợp với quy luật khách quan
của nền kinh tế thị trường, vừa thể hiện tư duy mới trong việc xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ đòi hỏi thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế; không tách rời việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với tầm nhìn về bảo vệ lợi ích
quốc gia - dân tộc là cao nhất, song lại không trái với các nguyên tắc phát triển phù
hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đang ký kết. Đồng
thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế khép kín, mà là
nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập. Đây là sự nhất quán trong cách tiếp cận của
Đại hội XIII, là điểm mới so với các văn kiện tại các kỳ đại hội trước của Đảng ta.

2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế

Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế là mối quan
hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình chúng ta đổi mới, phát
triển đất nước và mở cửa, hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ mâu thuẫn biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu được xử lý tốt sẽ tạo tiền đề, điều kiện cho
nhau, phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất vừa thúc đẩy nhau trong việc bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia, dân tộc. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt, hai mặt của mối
quan hệ này sẽ hạn chế, cản trở lẫn nhau. Để giải quyết thật tốt mối quan hệ này,
trước hết cần thấy rõ bản chất và nội hàm của nó thể hiện rõ trên những điểm cơ bản
sau:

a) Độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài,
không đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ thể hiện chủ quyền, quyền tự
quyết, tự lựa chọn con đường phát triển, tự quyết định mô hình phát triển của quốc
gia, dân tộc. Tự chủ là năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết
dân tộc trên thực tế. Độc lập, tự chủ bao gồm độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn

10
hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,v.v. Do đó, không có độc lập, tự chủ thì không
thể nói tới hội nhập quốc tế chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. 

Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với
hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định
lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực… hội nhập quốc tế.
Qua gần 35 năm đổi mới cho thấy, đường lối độc lập, tự chủ của Đảng đã định hướng
đúng cho tiến trình hội nhập từ việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, xác định lộ trình hội
nhập phù hợp... Ban đầu, chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sau đó cùng với
hội nhập kinh tế, đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và quốc tế. Do vậy,
quan hệ đối ngoại của nước ta được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần
tạo ra thế và lực mới của đất nước. Quan điểm và chính sách kiên trì độc lập, tự chủ
của Đảng ta luôn luôn được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của
tình hình trong nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp bảo
vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. 15

Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong lựa chọn, đề xuất các giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực trong
quá trình hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích,
xử lý thông tin để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi
mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực, mới chủ động, tích cực trong hội nhập quốc
tế. 

Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn
chế tối đa những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, đang phát
triển như Việt Nam do quá trình toàn cầu hóa gây ra. Để thích ứng với tiến trình toàn
cầu hóa, tận dụng được những cơ hội vàng do toàn cầu hóa đem lại, ngăn ngừa và
khắc phục những thách thức do toàn cầu hóa gây ra thì các quốc gia phải chủ động,
độc lập, tự chủ và nỗ lực cùng nhau hợp tác không phân biệt giàu nghèo, to nhỏ.
Nhưng sự hợp tác đó phải trên tinh thần bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng luật pháp

15
Vũ Văn Hiền, Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Tạp Chí Tuyên Giáo,
09/2020

11
quốc tế. Do vậy, các quốc gia, dân tộc chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở độc lập,
tự chủ thì mới có hiệu quả. 

Năm là, độc lập, tự chủ sẽ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy
được lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát
triển. Chẳng hạn, chúng ta có lợi thế về các sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm
nghiệp, may mặc, giày da… Chúng ta chỉ có thể xuất khẩu được những mặt hàng có
lợi thế so sánh này khi hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Nhưng nếu
không độc lập, tự chủ thì lợi thế so sánh trong hội nhập sẽ bị các nước lớn mạnh lái
theo ý họ. Có độc lập, tự chủ thì mới cân đối được, làm chủ được quan hệ giữa xuất
khẩu và nhập khẩu, tránh nhập siêu quá giới hạn cho phép của nền kinh tế. Có độc
lập, tự chủ chúng ta mới thúc đẩy cho kinh tế du lịch phát triển, lôi cuốn, kêu gọi được
khách quốc tế đến tham quan, du lịch, làm ăn tại nước ta. Đây cũng là một nhân tố
quan trọng thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển. 

b) Hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của quốc
gia, dân tộc
Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững
độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa,
quốc phòng, an ninh. Thực tiễn gần 35 năm mở cửa, hội nhập, dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của Nhà nước, hội nhập quốc tế đã trở
thành một trong các nguồn lực quan trọng để chúng ta củng cố độc lập, tự chủ. Chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là một giải pháp vừa là một động lực để giữ vững
độc lập, tự chủ. 

Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để huy
động nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Để phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, tự chủ, chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, xem
đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy
phải coi trọng huy động các nguồn lực bên ngoài. Muốn phát huy được các nguồn lực
bên ngoài thì phải thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế. Chính hội nhập quốc tế cho
chúng ta những điều kiện để tận dụng được lợi thế của các nguồn lực bên ngoài như
nguồn lực vốn, nguồn lực kỹ thuật, nguồn lực quản lý. Chúng ta đều rõ, toàn cầu hóa

12
tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, hàng rào thuế quan ngày càng thu hẹp, làm cho các
luồng chuyển giao vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc, tạo ra nhiều hình thức
đầu tư, hợp tác sản xuất. Tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực bên
ngoài chỉ được phát huy có hiệu quả thông qua nội lực. Do vậy, phải chủ động, tích
cực trong hội nhập quốc tế.16 

Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành công
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chính quá trình toàn
cầu hóa đang làm thay đổi phân công lao động trên từng khu vực và trên toàn thế giới.
Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân công lao động này để phát huy mặt mạnh và lợi
thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ cho chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập kinh
tế trong điều kiện toàn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng
những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình phát triển. 

Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, môi trường hòa
bình, ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc
lập, tự chủ. Là một dân tộc đã trải qua nhiều năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt
Nam hiểu rõ và khát khao hơn bất cứ quốc gia, dân tộc nào sự hòa bình, ổn định để
chấn hưng đất nước. Chúng ta đều rõ, hiện nay trên bình diện an ninh, đang nổi lên
nhiều vấn đề an ninh đáng lo ngại như chủ nghĩa khủng bố, xung đột tôn giáo, xung
đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai, nguy cơ bất ổn chính trị. 17

Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ,
sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực, như
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)... Trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế và giữ vững độc lập, tự chủ. Để phát triển kinh tế, chúng ta không thể
không hội nhập quốc tế để hội nhập đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng
như thể chế kinh tế khu vực. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: "Triển khai mạnh mẽ

16
Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Hội đồng Lý luận Trung Ương,
12/2019
17
Vũ Văn Hiền, Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,Tạp Chí Quốc Phòng Toàn Dân, 03/2019

13
định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc
tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở
phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng
hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong
các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa
hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không thể rơi
vào thế bị động, đối đầu bất lợi"18. 

3. Thực trạng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế
quốc tế và phương hướng

3.1. Thực trạng

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, hội nhập
quốc tế của đất nước ta đã được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến
nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 184 nước thuộc tất cả các châu lục, có quan
hệ với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc;
có quan hệ kinh tế, thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp
định thương mại song phương, đa phương, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới; gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam là thành
viên Liên Hiệp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thành viên
ASEAN, APEC, ASEM... Hội nhập quốc tế được mở rộng, phát triển tất cả trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập kinh tế quốc tế đã
giúp mở rộng thị trường, thu hút được lượng lớn vốn đầu tư, thành tựu khoa học, công
nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ của nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân.

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc nhận thức và giải quyết
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế vẫn còn những hạn chế. Nhận
thức về mối quan hệ này chưa đầy đủ, chưa thành ý thức thường trực ở các cấp, các
ngành, các lĩnh vực; vẫn còn biểu hiện chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt, còn không

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
18

H.2016, tr.154-155.

14
thấy về lâu dài sẽ ảnh hưởng độc lập, tự chủ của đất nước. Chất lượng, hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế chưa cao, chưa tận dụng và khai thác có hiệu quả các tiềm năng,
cơ hội do hội nhập đem lại để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tình trạng xuất
khẩu một số sản phẩm tập trung quá nhiều vào một thị trường; nhất là tình trạng nhập
siêu, thâm hụt thương mại lớn, kéo dài với một đối tác, không được khắc phục mà vẫn
tiếp tục gia tăng. Tình trạng thiếu chủ động, kịp thời sử dụng các biện pháp phòng vệ
không trái với cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước sự
xâm nhập của các lực lượng kinh tế hùng mạnh từ các nước trên thế giới; để ngăn
ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế đất nước do những biến động, cú
sốc từ bên ngoài. Tình trạng không phải các doanh nghiệp trong nước là lực lượng
nòng cốt, chủ lực mà doanh nghiệp FDI mới là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh
tế của đất nước (đã chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, gần 70% giá trị sản
xuất công nghiệp), trong khi doanh nghiệp FDI hầu như tách biệt với các doanh
nghiệp trong nước, trở thành khu vực kinh tế biệt lập 19...

3.2. Phương hướng

Trong  những năm tới, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh và kinh tế thế
giới, khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, cơ hội và thách thức đối với
đất nước ta đều rất lớn. Hội nhập quốc tế phải tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả; độc lập tự chủ của đất nước phải tiếp tục được giữ vững, tăng cường. Trong bối
cảnh đó, việc quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế cùng có ý nghĩa quan trọng. Để bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước trong bối
cảnh tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi:

Phải giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến
lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải không ngừng củng cố,
tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh
tế, quốc phòng, an ninh; nâng cao uy tín quốc tế; không ngừng củng cố, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phải bảo đảm an ninh, giữ vững ổn định chính trị, kinh
tế, xã hội của đất nước, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thực
sự là nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế.
19
Báo cáo số 499/BC-CP, ngày 16-10-2019, của Chính phủ “Hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại
doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc”.

15
Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cần phải theo một chiến lược hội nhập tổng
thể với nhiều hình thức đa dạng, lộ trình, bước đi phải phù hợp với chiến lược, mục
tiêu, năng lực của đất nước trong từng giai đoạn. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, nhất là với các đối tác lớn, có vai trò và ý nghĩa chiến lược, tránh lệ thuộc vào
một đối tác, một thị trường. Đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Có
những giải pháp hiệu quả ngăn ngừa, làm thất bại những âm mưu, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền
kinh tế, doanh nghiệp và thị trường trong nước trước những biến động phức tạp, tác
động tiêu cực từ thị trường và kinh tế thế giới, không trái với các cam kết quốc tế đã
ký kết20...

KẾT LUẬN

Sự tác động, đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong kết cấu sự vật làm cho sự
vật vận động, biến đổi không ngừng. Đó cũng chính là mối quan hệ của việc xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan hệ biện chứng, vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước thống
nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng đều là vì lợi ích của đất nước, của quốc gia, dân
tộc, đều vì lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là vì lợi ích của đất
nước, để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Độc lập, tự chủ cũng vì lợi
ích của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”, Người cũng đã từng nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta trong những
ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945: “Dù có phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng
phải giành cho được độc lập, tự do”. Đồng thời, Bác cũng từng nói nước được độc lập
mà nhân dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của nhau.
Độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể là cho việc xác

20
Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Hội đồng Lý luận Trung Ương,
12/2019

16
định chiến lược hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập quốc tế trên các lĩnh
vực để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011)
2. Từ điển triết học do M.M. Rodentan chủ biên ; Философский
энциклопедический словарь;
3. Từ điển Bách khoa Việt Nam
4. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
5. Đỗ Minh Hợp, Lê Hữu Tầng (dịch) (1998). Lịch sử phép biện chứng. Nxb
Chính trị Quốc gia
6. Giáo Trình Triết Học Mác – Lênin (Dành Cho Bậc Đại Học Hệ Không Chuyên
Lý Luận Chính Trị), tr.132
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr.
320
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 162
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 732
10.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
11.Trần Vi Dân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn
kết quốc tế và việc vận dụng trong tình hình hiện nay, Tạp Chí Cộng Sản,
07.2021
12.Ngô Tuấn Nghĩa, Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập,
tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tạp Chí Cộng Sản, 09/2021
13.Vũ Văn Hiền, Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế, Tạp Chí Tuyên Giáo, 09/2020
14.Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,
Hội đồng Lý luận Trung Ương, 12/2019
15.Vũ Văn Hiền, Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,Tạp Chí Quốc
Phòng Toàn Dân, 03/2019

17
16.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.154-155.
17.Báo cáo số 499/BC-CP, ngày 16-10-2019, của Chính phủ “Hoạt động đầu tư,
quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc”.
18.Nguyễn Văn Thạo, Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,
Hội đồng Lý luận Trung Ương, 12/2019

18

You might also like