You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN


BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH


HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

CHỦ ĐỀ: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY LUẬT THỐNG
NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP. VẬN DỤNG Ý
NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ PHÂN TÍCH VỀ CƠ HỘI VÀ
THÁCH THỨC ĐANG ĐẶT RA VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC
TẾ Ở VIỆT NAM.

Họ tên sinh viên: HOÀNG THỊ HẠNH


Mã sinh viên: A2177203010018
Lớp: D17A1

Nam Định – 2022

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 2
II. NỘI DUNG....................................................................................................................3

1. Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập........................................................3

1.1. Khái niệm.................................................................................................................3

1.1.1.Mâu thuẫn biện chứng.........................................................................................3

1.1.2. Thống nhất giữa các mặt đối lập........................................................................4

1.1.3. Đấu tranh giữa các mặt đối lập...........................................................................4

1.2. Các phạm trù liên quan.............................................................................................4

2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
hiện nay........................................................................................................................... 7

2.1. Khái niệm về hội nhập quốc tế.................................................................................7

2.2. Những nhân tố thúc đẩy hình thành và phát triển việc hội nhập quốc tế..............8

2.3. Thời cơ, thuận lợi.....................................................................................................8

2.4. Thách thức, khó khăn.............................................................................................10

III. KẾT LUẬN................................................................................................................11

IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................12

I. MỞ ĐẦU

2
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực
cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc
và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn
khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Qua thực tiễn lịch sử, con người và xã hội
cũng đã kiểm chứng được quy luật đó. Như Việt Nam ta khi hội nhập quốc tế cũng đã
vướng không ít mâu thuẫn, giữa tính tự phát và tính định hướng, giữa mặt tích cực và tiêu
cực. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động
hội nhập quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang
tính chất sống còn đối với Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi
ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn
nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại
vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập với khu vực và thế
giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt
đối lập. Hội nhập quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng
đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành
mệnh. Hội quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Thấy được sự cần thiết và thú
vị của các vấn đề giữa thống nhất và đối lập vận dụng những kiến thức thu được trong quá
trình học tập nhóm, cho nên nhóm sẽ quyết định chọn đề tài “Quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận để phân tích về cơ hội và
thách thức đang đặt ra với quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam.” Đây là đề tài rất sâu
rộng, mang tính thời sự và do sự hiểu biết còn hạn chế nên bài viết còn có rất nhiều sai
sót, em kính mong thầy giúp đỡ, góp ý để em hoàn thành bài viết sau tốt hơn. Em xin
chân thành cảm ơn.

3
II. NỘI DUNG
1. Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép
biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện
chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển. Theo VI.
Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các
mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,...”.
 Nội dung của quy luật này cũng được vạch mở thông qua việc làm rõ các khái niệm,
phạm trù liên quan.
1.1. Khái niệm
1.1.1.Mâu thuẫn biện chứng
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên
hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các
mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính... có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau,
nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn
nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Thống nhất giữa các mặt đối lập
Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được
thể hiện ở, thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho
nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia; thứ hai, các mặt đối lập tác động
ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ
chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt
đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất này mà trong nhiều trường
hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động điều kiện phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa
vào nhau. Đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện
tượng vừa là bản thân nó, vừa là sự vật, hiện tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất đã
bao hàm sự khác nhau, đối lập.
1.1.3. Đấu tranh giữa các mặt đối lập
4
 Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng
bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác
nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các
mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là
sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng, còn
đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn
đến sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận
động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng. Về vấn đề này, V.I. Lênin,
khi chú ý nhiều hơn đến tính tuyệt đối của “đấu tranh” đã viết: “Sự phát triển là một cuộc
“đấu tranh” giữa các mặt đối lập” .
1.2. Các phạm trù liên quan
 Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng đa dạng. Sự đa
dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập, vào điều kiện mà trong đó sự tác
động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai, vào trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng
mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng và có vai trò khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
 Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản tác động trong suốt quá trình tồn tại của
sự vật, hiện tượng, nó quy định bản chất, sự phát triển của chúng từ khi hình thành đến
lúc tiêu vong. Mâu thuẫn không cơ bản đặc trưng cho một phương diện nào đó, chỉ quy
định sự vận động, phát triển của một hay một số mặt của sự vật, hiện tượng và chịu sự chi
phối của mâu thuẫn cơ bản.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu mỗi giai đoạn phát triển của sự vật,
hiện tượng, có tác dụng quy định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó của
quá trình phát triển. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết các mâu
thuẫn khác ở cùng giai đoạn, còn sự phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình
thức này sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu
thuần thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển
5
của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu, thứ yếu chỉ là tương
đối, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể, có mâu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song
trong điều kiện khác lại là thứ yếu và ngược lại.
- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt,
các khuynh hướng... đối lập nằm trong chính mỗi sự vật, hiện tượng; có vai trò quy định
trực tiếp quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài
xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, tuy cũng ảnh hưởng đến
sự tồn tại và phát triển của chúng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát
huy tác dụng. Các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu đều là những mâu thuẫn giữa các mặt,
các bộ phận, yếu tố bên trong cấu thành sự vật hiện tượng nên có thể gọi chúng là mâu
thuẫn bên trong. Song các đối tượng còn có những mối liên hệ và quan hệ với các đối
tượng khác thuộc về môi trường tồn tại của nó, những mâu thuẫn loại này được gọi là các
mâu thuẫn bên ngoài. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi
trong quan hệ này hoặc so với một số đối tượng này, nó là bên trong, nhưng trong quan hệ
khác, so với một số đối tượng khác, nó lại là bên ngoài.
- Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các giai
cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn
không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người,
lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được.
Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị... Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực
lượng, xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản không đối lập nhau nên là mâu thuẫn cục bộ,
tạm thời.
Nói về vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển, Ph.Ăngghen nhấn mạnh,
nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng là sự tác động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn
nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động dẫn đến vận
động là tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng (bên ngoài) và sự tác động lẫn nhau

6
giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng (bên trong); nhưng chỉ có sự tác
đông lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối lập
trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận
động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là tự thân. Khái
quát lại, nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập là: Mọi đối tượng
đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành những
mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguyên
nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới
ra đời.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải
quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu
thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng, từ đó tìm ra
phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và
điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề
ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.
- Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt
đối lập, không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu
thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
hiện nay.
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan xen
tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ trở
thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có
tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều
hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực
tế đã chứng tỏ việc hiểu rõ bản chất về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
7
lập, vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống, kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động
hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước
hết là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và
phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành
công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2.1. Khái niệm về hội nhập quốc tế


Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau
thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục
tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh
tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo
đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế
nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
2.2. Những nhân tố thúc đẩy hình thành và phát triển việc hội nhập quốc tế
- Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và  kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc
gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy quá
trình hội nhập quốc tế.
- Quá trình xã hội hóa và phân công lao động ở mức cao đã vượt ra khỏi phạm vi biên
giới quốc gia và được quốc tế hóa ngày càng sâu sắc thể hiện ở việc hợp tác ngày càng
sâu sắc giữa các quốc gia theo hình thức song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu.
- Hội nhập quốc tế đang trở thành xu thế chủ đạo trong sự phát triển của thế giới ngay
nay. Hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ chi phối, quyết định toàn bộ các quan hệ quốc tế và
làm thay đổi cấu trúc toàn cầu, dù cho thế giới vẫn còn tồn tại những bất đồng và chia rẽ.
2.3. Thời cơ, thuận lợi
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới, trước
hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối,
chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với chủ trương chủ động và
8
tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó
đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất
những cơ hội mới đang mở ra. 

Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và
khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng, cho nên các nước đều có
khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ khác nhau. Cùng với dòng chảy khổng lồ về vốn,
hàng loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến
được thực hiện, góp phần hữu hiệu vào sự lan toả rộng rãi của các làn sóng tăng trưởng
hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng
như toàn cầu, nhất là WTO tạo cơ hội tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các
nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các
nước mở cửa theo quy định. Nước ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, từng
bước mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia.

Trên lĩnh vực kinh tế, tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh
bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải
thiện.

Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong
nước, là cơ hội để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền
vững hơn và rút ngắn khoảng cách phát triển. Mặt khác, gia nhập WTO đánh dấu bước
phát triển về chất của tiến trình hội nhập, giúp nước ta có được vị thế bình đẳng như các
thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, tiếng nói được tôn
trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh chấp
thương mại trong khuôn khổ WTO, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của
doanh nghiệp. Đồng thời, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải
cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả
hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền ngày càng vững mạnh.

9
Về khách quan, xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia vào đời
sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng... nhằm thực hiện mục
tiêu chiến lược của mình. Quá trình hội nhập quốc tế làm cho các nước ngày càng phụ
thuộc lẫn nhau. Đây là cơ hội tích cực để có thể loại bỏ các biểu hiện của ý đồ thiết lập
mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc đối với đông
đảo các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế giới
mới với cơ chế sinh hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn.

Thế giới đang bước vào “kỷ nguyên số” với đặc điểm, tính chất và sự tác động sâu rộng
chưa từng có. Các quốc gia trong quan hệ quốc tế cũng đang điều chỉnh chính sách, chiến
lược cho phù hợp với những chuyển động, tác động của kỷ nguyên số, trong đó có những
nội dung về hội nhập quốc tế. Đối với Việt Nam, việc tranh thủ các cơ hội từ kỷ nguyên
số cho hội nhập quốc tế sẽ góp phần thực hiện chủ trương tích cực, chủ động, hội nhập
quốc tế sâu rộng và toàn diện được đề ra trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Do vậy,
việc nghiên cứu cơ hội, thách thức, những vấn đề đặt ra của hội nhập quốc tế kỷ nguyên
số trên thế giới, qua đó đề xuất chính sách tham chiếu cho Việt Nam là rất cần thiết. Thuật
ngữ “kỷ nguyên số” (digital age) đã được hầu hết các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia
trên thế giới sử dụng(1). Kỷ nguyên số có các đặc điểm mới, với tính chất, mức độ tác
động sâu rộng chưa từng có. Thứ nhất, động lực hình thành kỷ nguyên số là quá trình
chuyển đổi số toàn cầu nhằm thay đổi tổng thể và toàn diện phương thức phát triển của xã
hội, lối sống và hoạt động trên nền tảng số. Liên hợp quốc cho rằng, các công nghệ số
đang phát triển nhanh hơn bất kỳ sáng tạo nào trong lịch sử loài người(2). Thứ hai, lần
đầu tiên, một không gian ảo ở quy mô toàn cầu được định hình, tồn tại và ngày càng đan
xen chặt chẽ với không gian thực, với khả năng kết nối mạnh mẽ, vượt ra khỏi giới hạn
địa lý và ít chịu sự kiểm soát của các chính phủ hơn. Dữ liệu được thế giới tạo ra và lưu
trữ trong năm năm trở lại đây được cho là lớn hơn toàn bộ dữ liệu loài người tạo ra trước
đó. Thứ ba, sự phát triển, vận động của thế giới cũng như của từng quốc gia, doanh
nghiệp, người dân trong nhiều thập niên tới, thậm chí thế kỷ tới được dự báo sẽ chịu sự
tác động mạnh mẽ của kỷ nguyên số. Các lĩnh vực bị ảnh hưởng, bao gồm chính trị, an
ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong bối cảnh đó, các quốc gia trên thế giới đang tích
cực, chủ động triển khai chiến lược, chính sách về hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng
10
thúc đẩy kinh tế số và các thỏa thuận, thương mại quốc tế thế hệ mới. Mỹ là quốc gia đi
đầu về đầu tư cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Trung Quốc đặt mục tiêu tham
vọng trở thành cường quốc công nghệ hàng đầu thế giới. Kế hoạch “Chế tạo tại Trung
Quốc 2025” (Made in China 2025) chú trọng hình thành năng lực tự chủ công nghệ - sáng
tạo. Hầu hết các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đều có những chiến lược ở cấp quốc
gia để phát triển kinh tế số, như chiến lược “Wawasan Brunei 2035” của Bru-nây; các
mục tiêu quốc gia về kỷ nguyên số tới năm 2023 của Cam-pu-chia; các kế hoạch, lộ trình
phát triển hạ tầng số, thương mại điện tử và doanh nghiệp số của In-đô-nê-xi-a; Tầm nhìn
công nghệ thông tin 2030 của Lào; chiến lược “Ma-lai-xi-a số” của Ma-lai-xi-a; hoạt động
của Ủy ban phát triển kinh tế số của Mi-an-ma; chiến lược số quốc gia của Phi-líp-pin; kế
hoạch trở thành một quốc gia thông minh đi đầu thế giới về công nghệ thông tin - truyền
thông của Xin-ga-po; kế hoạch phát triển kinh tế số và xã hội số của Thái Lan giai đoạn
2014 - 2034. Ở cấp độ khu vực, hội nhập số cũng từng bước được thúc đẩy. Năm 2019,
ASEAN ban hành một số văn bản liên quan đến hội nhập số, như Chương trình hành động
khung hội nhập số giai đoạn 2019 - 2025 và Chỉ số hội nhập số ASEAN (ADII) theo đề
xuất của Việt Nam năm 2020.

Hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt
động giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và
tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài người, kết tinh cô đọng ở
các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ... được phổ biến rộng rãi toàn thế
giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như nhiều nước khác, tiến trình
hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để chúng ta chia sẻ lợi ích do toàn cầu
hoá đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên
nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá các sinh hoạt quốc tế, tham gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh
tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.

2.4. Thách thức, khó khăn

Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm tới không chỉ có
thời cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách thức lớn. Do đó, chúng ta cũng

11
cần luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp
khắc phục hữu hiệu.

Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước
đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập,
doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách
kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh
tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều
đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn.

Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước
ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư...
chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự
điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh
tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình
đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang
phát triển trong đó có nước ta.

Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra
một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh
tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì
lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền
kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một
bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu
hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Trong tình hình
như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng,
phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.

Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh quốc
gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang
tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch
12
bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế
bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Sự biến động trên thị trường, cũng
như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời
sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng
đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo
cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính
trị- xã hội.

Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị
ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá
phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao giờ văn hoá
nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện
nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm
trọng.  

Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước
thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước... Đã xuất hiện những mưu đồ
lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị
trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia,
áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết
"nhân quyền cao hơn chủ quyền"... Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể
tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối trên nhiều

Trong 35 năm đổi mới và phát triển, tiến trình hội nhập quốc tế trở thành  một quyết sách
chiến lược, phục vụ trực tiếp nhu cầu của đất nước, phù hợp với các xu thế lớn trên thế
giới. Trong giai đoạn 1986 - 2000, Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị khóa VI, ngày 20-5-
1988, về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới, đã có nhận thức ban đầu
khách quan về quá trình quốc tế hóa, từ đó tạo tiền đề cho những nhận thức đầy đủ hơn về
hội nhập quốc tế giai đoạn tiếp theo. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) xác định phương
châm “mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc
giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” (9). Đại hội IX (năm 2001) xác định
chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” (10). Đại hội X (năm 2006)
khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” (11). Đại hội XI (năm 2011) đã mở rộng từ hội nhập
kinh tế quốc tế sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (12) một cách toàn diện. Ngày

13
10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, về hội nhập quốc tế, nêu
ra những định hướng quan trọng, làm rõ và thống nhất nhận thức về hội nhập quốc tế và
là bước phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp
tục đặt ra yêu cầu cao hơn nữa, đó là “triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế” (13). Năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả” (14) và xử lý tốt “mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”(15).

Đến nay, Việt Nam đã có nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước thể hiện chủ trương phát
triển quốc gia trong kỷ nguyên số, như Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của
Bộ Chính trị, về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ
Chính trị, về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây dựng và ban hành các chương trình
hành động và chiến lược quốc gia tương ứng với các lĩnh vực liên quan, như Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, Chương trình chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược quốc gia về
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI.

Với nền tảng lý luận và tư duy đối ngoại về hội nhập quốc tế luôn được cập nhật phù hợp
với thời đại, quá trình triển khai hội nhập quốc tế của Việt Nam thời gian qua đã đạt được
một số thành tựu quan trọng sau: Một là, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế -
xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Trong 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, quy mô nhỏ bé, đến nay GDP của Việt Nam đạt 262 tỷ USD, tăng hơn 18 lần, đứng
thứ 44 trên thế giới. Trong bảng xếp hạng chỉ số quyền lực châu Á (Asia Power Index)
năm 2020 do Viện Lowy - viện nghiên cứu chính sách đối ngoại hàng đầu của Ô-xtrây-li-
a công bố vào ngày 19-10-2020, Việt Nam vượt  Niu Di-lân, xếp thứ 12 về sức mạnh tổng
hợp trong số 26 quốc gia, vùng lãnh thổ được đánh giá (16). Hai là, góp phần vào việc đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ba là, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia, mở rộng và tăng cường quan hệ với các quốc gia, với các nước lớn
và trung tâm quyền lực hàng đầu thế giới. Bốn là, các hoạt động hội nhập toàn diện, sâu
rộng, nhất là đối ngoại đa phương, đã giúp khẳng định và nâng tầm năng lực khởi xướng,
nòng cốt, dẫn dắt và hòa giải của Việt Nam qua đảm nhận thành công nhiều trọng trách,
như tổ chức thành công Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm
2017, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019; đảm nhiệm thành công vai trò
Chủ tịch ASEAN 2020; tiếp tục đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với nhiều sáng kiến và dấu ấn được bạn bè
quốc tế đánh giá cao. Năm là, góp phần tích cực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân cũng như giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường. Các địa

14
phương, doanh nghiệp và người dân ngày càng có điều kiện tham gia, tận dụng các cơ hội
mà hội nhập quốc tế mang lại.

Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên con đường hội
nhập, tranh thủ tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra. Thứ nhất, hòa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là khát vọng và nỗ lực chung của toàn nhân loại. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế dù gặp những trở ngại, thách thức thời gian qua, nhưng vẫn là xu thế khách quan. Với
thế và lực mới, Việt Nam bước vào thời kỳ chiến lược mới, đổi mới toàn diện, chủ động
tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. Thứ
hai, những thành tựu đạt được sau 35 năm đổi mới tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; chủ trương chủ động tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng của Việt Nam, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay”(17). Đây là cơ sở và nền tảng quan trọng cho việc hội nhập quốc tế thời kỳ
kỷ nguyên số trong thời gian tới, nhất là sự hình thành hội nhập kinh tế quốc tế số (18). Thứ
ba, thông qua mạng lưới hơn 30 đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện, Việt Nam có cơ hội thu hút nguồn lực, đầu tư để nâng cao năng lực quốc gia
trong chuyển đổi số, phục vụ phát triển và bảo đảm độc lập, tự chủ và an ninh (19). Thứ
tư, hội nhập quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên số cũng đóng góp vào việc mở ra
những phương thức, không gian mới cho hội nhập quốc tế của khu vực và thế giới, góp
phần tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo, phát triển
nhanh và bền vững. Việc tranh thủ thời cơ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện
nay là thời cơ chiến lược để đất nước bứt phá, vươn lên, thực hiện các mục tiêu phát triển
được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng. Thứ năm, hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số tạo
ra không gian để Việt Nam phát huy hơn nữa “sức mạnh mềm”, nâng cao uy tín và vị thế
của đất nước. Nền tảng mạng lưới và liên kết kinh tế là cơ sở, tạo điều kiện để Việt Nam
tranh thủ hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế, mở rộng và tham gia sâu vào mạng lưới
liên kết kinh tế toàn cầu, góp phần định hình các khuôn khổ luật lệ về kinh tế - thương
mại mới, trong đó có việc nâng cấp, bổ sung các nội dung về liên kết số, ứng dụng công
nghệ để thiết lập các hành lang đi lại an toàn trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19.

Bên cạnh những cơ hội, tiến trình hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số của Việt Nam
cũng phải đối diện với không ít thách thức.

Một là, cục diện thế giới và khu vực biến đổi khó lường, khó đoán định, gây không ít khó
khăn cho công tác dự báo chiến lược. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột
cục bộ, các nguy cơ an ninh được dự báo sẽ tiếp tục diễn ra phức tạp, gay gắt hơn trước.
Nền kinh tế thế giới bước vào thời đại mới về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
đưa tới những thay đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Các thách thức
an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh
mạng... ngày càng gia tăng.

Hai là, hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số cũng đặt ra những yêu cầu mới, như đổi mới
tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ

15
động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác” và
việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với công nghệ số. Ngoài ra, vấn đề luật hóa và
thực hiện các cam kết FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, cùng với vấn đề mới trong bổ
sung, nâng cấp những điều khoản liên quan đến kinh tế số và công nghệ số cũng là một
trong những thách thức đối với Việt Nam(20).

Ba là, việc nắm bắt cơ hội, triển khai đồng bộ ở các cấp về thực hiện cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, quá trình số hóa, chuyển đổi số sâu rộng trong bối cảnh năng lực
chuyển đổi của Việt Nam còn hạn chế. Nếu không kịp chuyển đổi kịp thời về tư duy và
hành động, nguy cơ tụt hậu của đất nước càng nghiêm trọng(21).

Bốn là, những yêu cầu cao hơn về công tác hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số nhằm
phát huy “sức mạnh mềm”, vị thế mới về địa - chiến lược, địa - kinh tế, vươn lên đóng vai
trò khởi xướng, nòng cốt, hòa giải trong các vấn đề có ý nghĩa chiến lược với Việt Nam.
Việc hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số cũng đặt ra những vấn đề mới, như việc bắt
nhịp với xu hướng phát triển, phương thức sản xuất mới của thế giới, cân bằng giữa bảo
đảm an ninh mạng và phát triển kinh tế số, giữa chuyển đổi số và duy trì an sinh và ổn
định xã hội, giữa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) về công nghệ và hỗ trợ các
doanh nghiệp công nghệ trong nước.

Năm là, các nguy cơ đối với an ninh, trật tự xã hội và chủ quyền không gian mạng, bảo vệ
chế độ trong bối cảnh không gian mạng có nhiều diễn biến phức tạp. Với sự phổ biến của
các phương tiện truyền thông xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh
vi, phức tạp và nguy cơ phát sinh các bất ổn xã hội cũng khó khăn, phức tạp hơn trước.
Bên cạnh đó là thách thức về bảo đảm việc làm, đào tạo lại lực lượng lao động (22).

III. KẾT LUẬN


Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập luôn tồn tại trong mọi mặt đời sống
và là động lực, là nguồn gốc cho sự phát triển. Hiểu được các quy luật đấu tranh và thống
nhất trong các mặt đối lập giúp chúng ta nhìn nhận một cách khách quan và khoa học nhất
đối với các mặt của đời sống xã hội. Tóm lại, bài tiểu luận về chủ đề “Phân tích nội dung
cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Vận dụng ý nghĩa của
phương pháp luận để phân tích về cơ hội và thách thức đang đặt ra với quá trình hội nhập
quốc tế.” đã nêu rõ về nội dung cũng như ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh

16
giữa các mặc đối lập và cách ta vận dụng nó để làm động lực phát triển trong thực tiễn cụ
thể là giải quyết những mâu thuẫn thường gặp cuộc sống cũng như trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam”. Hội nhập quốc tế là một vấn đề quan trọng và xuyên suốt
cuộc sống của con người, của mỗi quốc gia đưa đất nước phát triển, nâng cao đời sống
nhân dân nếu không muốn tụt hậu. Tuy nhiên, trong quá trình này muốn phát triển đi lên
không thể tránh khỏi việc nãy sinh những vấn đề mâu thuẫn bởi mọi lĩnh vực trong cuộc
sống đều có mâu thuẫn, có thống nhất, có đấu tranh. Nếu không thể hiểu giải quyết được
những mâu thuẫn phát sinh đấy thì không thể vận dụng vào thực tế, cũng như Đảng và
nhà nước cũng không thể đưa ra các chính sách chủ trương hợp lý, hiệu quả. Chính việc
làm sáng tỏ quan điểm trên của triết học Mác – Lênin cùng với việc kế thừa, vận dụng và
phát huy trong các lĩnh vực đời sống đặc biệt là đưa đất nước hội nhập quốc thế. Điều đó
có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.

Nam định, ngày 01 tháng 04 năm 2022


Sinh viên

Hoàng Thị Hạnh


IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội)

2. Triết học Mác – Lênin (NXB giáo dục)

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), giáo trình cao cấp lý luận chính trị -
Triết học Mác – Lênin, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà nội.

17

You might also like