You are on page 1of 16

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA TÀI CHÍNH

Môn học: Triết học

Đề tài: VẤN ĐỀ KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT


ĐỐI LẬP VÀ SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO HOẠT ĐỘNG
CHUYÊN MÔN

Giảng viên : Trần Nguyên Ký


Lớp học phần : 22C1PHI61000424
Sinh viên : Phạm Hồng Phượng
Mã số sinh viên : 522202111232
Email : phuongpham.522202111232@st.ueh.edu.vn

TP. Hồ Chí Minh, năm 2023

1
MỤC LỤC
Giới thiệu .............................................................................................................. 3
1. Lý thuyết kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập .......................................... 3
1.1. Bản chất của kết hợp các mặt đối lập - Quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập .......................................................................................... 3
1.2. Cái gì có thể được xem là “mặt đối lập” .................................................... 4
1.3. Tóm tắt nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập 5
1.4. Điều kiện, nguyên tắc của kết hợp các mặt đối lập .................................... 6
1.5.Kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập theo tư tưởng của Mác – Lênin . 8
2. Sự vận dụng kết hợp biện chứng các mặt đối lập............................................ 10
2.1 Sự vận dụng của Lênin trong thực tiễn cách mạng Nga ........................... 10
2.2. Vận dụng của Hồ Chí Minh trong cuộc Cách mạng của Việt Nam......... 12
2.3. Sự vân dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong công cuộc đổi
mới đất nước.................................................................................................... 13
2.4. Vận dụng lý thuyết trong công tác chuyên môn ...................................... 14
Kết luận .............................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ............................................................................... 16

2
Giới thiệu
Mâu thuẫn là cái tất yếu trong đời sống,nó có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên,
xã hội và tư duy con người. Nhất là các hoạt động kinh tế, lĩnh vực mang tính phổ biến,
chẳng hạn như cung – cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch ở từng doanh nghiệp và
tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá … Mâu thuẫn tồn tại song hành
cùng sự vật hiện sự việc từ lúc sự vật sự việc bắt đầu cho tới khi sự vật sự việc đó kết
thúc. Trong mỗi một sự vật, không phải hình thành chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn,
và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu
thuẫn khác lại hình thành… Điều đó đã được V.I.Lênin khẳng định rằng: “Sự phát triển
là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Chính vì vậy, việc nắm được sự kết hợp
giữa các mặt đối lập để vận dụng vào cuộc sống đời thường và công việc chuyên môn
có một ý nghĩa rất quan trọng.
1. Lý thuyết kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập
1.1. Bản chất của kết hợp các mặt đối lập - Quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập
Theo từ điển Bách khoa triết học cho rằng: “Đối lập là một trong hai nhân tố “đang
đấu tranh với nhau” của một thể thống nhất cụ thể, chúng là những mặt của một mâu
thuẫn.”
Theo Wikipedia1: Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ
biến trong thế giới. Bản chất của các mặt đối lập bao giờ cũng được quy định bởi những
thuộc tính và khuynh hướng đối lập.
Theo tài liệu học tập Triết học viết: “Khi nói tới những nhân tố cấu thành mâu thuẫn
biện chứng, “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một

1
Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_lu%E1%BA%ADt_th%E1%BB%91ng_nh%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C4
%91%E1%BA%A5u_tranh_gi%E1%BB%AFa_c%C3%A1c_m%E1%BA%B7t_%C4%91%E1%BB%91i_l%E
1%BA%ADp#:~:text=M%E1%BA%B7t%20%C4%91%E1%BB%91i%20l%E1%BA%ADp%20l%C3%A0%2
0nh%E1%BB%AFng,ph%E1%BB%95%20bi%E1%BA%BFn%20trong%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB
%9Bi.
3
cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong
sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.”
Sự kết hợp biện chứng của các mặt đối lập là một khái niệm của duy vật biện chứng.
Nó nói rằng tất cả mọi thứ trong vũ trụ được kết nối với nhau và sự thay đổi đó xảy ra
thông qua sự tương tác của các mặt đối lập. Để hiểu được sự kết hợp biện chứng của các
mặt đối lập là nhận thức được rằng các mặt đối lập không loại trừ lẫn nhau. Trên thực
tế, chúng thường phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, cái thiện sẽ không được nhận biết nếu như
cái ác không hiện hữu, ánh sáng không thể tồn tại nếu không có bóng tối, và không thể
cảm nhận được nóng nếu không có lạnh… và ngược lại. Hai mặt đối lập liên tục thay
đổi liên tục và chính dòng thay đổi này thúc đẩy sự phát triển.
Sự kết hợp biện chứng của các mặt đối lập hay quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập có thể được nhìn thấy trong mọi khía cạnh của cuộc sống, trong mọi sự
vật, hiện tượng của vũ trụ, từ các hạt hạ nguyên tử nhỏ nhất đến các thiên hà lớn nhất.
Đó là một quy luật cơ bản của tự nhiên chi phối mọi sự biến đổi và phát triển. Đây cũng
được coi là quy luật “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn gốc, động
lực của sự vận động và phát triển.
1.2. Cái gì có thể được xem là “mặt đối lập”
- “Mặt đối lập” khi thì được xác định như là những thuộc tính, khuynh hướng vận
động trái ngược nhau (thí dụ: lương thiện và độc ác, nóng và lạnh, ánh sáng và bóng
tối…); khi thì được xem như là những mặt trong đó có những thuộc tính, những khuynh
hướng đối lập (thí dụ: mặt phải và mặt trái trong kinh tế thị trường); có khi còn được
xem như là những yếu tố, bộ phận nằm trong một sự vật, hiện tượng hay trong các sự
vật, hiện tượng khác nhau (giai cấp vô sản và giai cấp tư sản); thậm chí có khi bản thân
các sự vật, hiện tượng, hệ thống cũng được xem là những mặt đối lập (thí dụ: hệ thống
xã hội chủ nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa). Trong nhiều trường hợp, mặt đối lập là
những thuộc tính vừa bài trừ lẫn nhau, vừa tồn tại gắn bó, xâm nhập lẫn nhau trong cùng
một sự vật. Chẳng hạn, hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng tồn tại trong cùng một
hàng hóa; cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, v.v., có thể tồn tại
và đấu tranh với nhau trong cùng một con người. Trong trường hợp này, mặt đối lập chỉ
có thể hiểu là những thuộc tính, khuynh hướng đối lập, chứ không phải là những bộ
phận hay sự vật đối lập.
4
Sau đây là một số ví dụ về sự kết hợp biện chứng của các mặt đối lập:
- Sự sống và cái chết: Sự sống và cái chết là đối lập, nhưng chúng cũng phụ thuộc
lẫn nhau. Sự sống không thể tồn tại nếu không có cái chết, và cái chết không thể
tồn tại nếu không có sự sống.
- Chiến tranh và hòa bình: Chiến tranh và hòa bình đối lập nhau nhưng cũng có
mối liên hệ với nhau. Chiến tranh có thể dẫn đến hòa bình, và hòa bình có thể
dẫn đến chiến tranh.
- Biểu tình và đàn áp: Biểu tình và đàn áp đối lập nhau, nhưng chúng cũng cần
thiết cho sự thay đổi xã hội. Phản đối có thể dẫn đến đàn áp, và đàn áp có thể dẫn
đến phản đối.
Sự kết hợp biện chứng của các mặt đối lập là một công cụ mạnh mẽ để hiểu thế giới
xung quanh chúng ta. Nó có thể giúp chúng ta thấy được tính liên kết của vạn vật và
hiểu được sự thay đổi diễn ra như thế nào.
1.3. Tóm tắt nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua
lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của
các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua
lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
Thống nhất giữa các mặt đối lập: Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng
tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa
lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải
lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên
giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó
gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó," sự thống nhất của các mặt
đối lập" còn bao hàm cả sự " đồng nhất" của các mặt đó. Engels đã đưa ra ví dụ:
“Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập, với tính cách như vậy chúng
hợp thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ tư hữu với tư cách là sự giàu có
buộc phải duy trì vĩnh viễn ngay cả sự tồn tại của mặt đối lập của nó là giai cấp vô sản”
Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn
đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất của các
mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái
5
vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt
đối lập.
Mọi sự vật (hiện tượng, quá trình) trong thế giới đề có liên hệ lẫn nhau và luôn
vận động, phát triển; vận động, phát triển do các mâu thuẫn gây ra; các mâu thuẫn biện
chứng khác nhau tác động không giống nhau đến quá trình vận động, phát triển của sự
vật;
Mỗi mâu thuẫn biện chứng đều trải qua ba giai đoạn: sinh thành (sự xuất hiện
của các mặt đối lập) – hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) – giải
quyết (sự chuyển hóa của các mặt đối lập);
Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với
những mâu thuẫn biện chứng mới hay thay đổi vai trò tác động của các mâu thuẫn biện
chứng cũ;
Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong
thế giới vật chất. Vận động, phát triển mang tính tự thân.
1.4. Điều kiện, nguyên tắc của kết hợp các mặt đối lập
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đúng sự vật, thấy được nguồn gốc vận động,
phát triển (tức mâu thuẫn) của nó:
- Phân đôi sự vật thành các cặp mặt đối lập, khảo sát sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập để phát hiện ra các mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự vật đó.
- Phân loại và xác định đúng vai trò, giai đoạn tồn tại của từng mâu thuẫn biện
chứng (đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn bên trong,…) đang
chi phối sự vận động, phát triển của bản thân sự vật.
- Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tài của sự vật để xác định đúng quy mô và
phương thức giải quyết của từng mâu thuẫn biện chứng, dự đoán cái mới ra đời sẽ vận
động dưới sự tác động của những mâu thuẫn biện chứng nào.
Trong hoạt động thực tiễn, để đạt được hiệu quả phải:
- Hiểu rõ nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của bản thân sự vật
là những mâu thuẫn biện chứng; xác định đúng những mâu thuẫn biện chứng đang chi
phối sự vật để từ đó xây dựng các đối sách thích hợp.
- Tìm hiểu và sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước
hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ,
6
đúng mức độ và tiến trình vận động, phát triển của bản thân sự vật để lèo lái nó theo
đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta:
+ Muốn sự vật thay đổi nhanh phải đẩy mạnh sự tác động (đấu tranh) của
các mặt đối lập và tạo điều kiện thuận lợi để chúng nhanh chóng chuyển hóa lẫn nhau,
để mâu thuẫn biện chứng sớm được giải quyết; ngược lại, muốn duy trì sự ổn định của
sự vật phải dung hòa sự xung đột của các mặt đối lập trong phạm vi cho phép;
+ Khi điều hiện đã hội đủ và mâu thuẫn biện chứng đã chín muồi, phải cương
quyết giải quyết nó, mà không nên chần chừ, do dự hay thỏa hiệp, tức phải giải quyết
mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ…
Việc kết hợp các mặt đối lập trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ
thể chỉ có thể tiến hành được khi có đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan
cho phép. Tuyệt đối đây không phải là một giải phấp có tính phổ biến, có thể thực hiện
trong mọi trường hợp, với mọi điều kiện.
- Thứ nhất, về mặt khách quan: việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể tiến hành
trong các trường hợp cụ thể sau:
+ Giữa các nhân tố, các lực lượng xã hội, tồn tại với tư cách là những mặt
đối lập của nhau phải có những điểm chung, tương đồng có thể đi tới sự điều hòa, thỏa
hiệp trong một giớ hạn nhất định. Trong trường hợp này, cụ thể hoạt động có thể thực
hiện việc kết hợp các mặt đối lập, trong đó chấp nhận một sự thỏa hiệp nào đó, nhằm
hướng sự giải quyết mâu thuẫn xã hội theo hướng có lợi cho chủ thể. Dĩ nhiên, việc kết
hợp các mặt đối lập, với những thỏa hiệp nhất định ở đây không phải là hoạt động xóa
bỏ nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
+ Việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể thực hiện trong điều kiện hoàn
cảnh thuận lợi (bao gồm cả điều kiện trong nước và Quốc tế). Cụ thể đó phải là những
điều kiện hoàn cảnh cho phép chủ thể thực hiện được việc kết hợp theo mong muốn.
Thậm chí đó còn là những điều kiện hoàn cảnh như một đòi hỏi tất yếu khách quan,
buộc chủ thể phải thiến hành giải quyết mâu thuẫn bằng phương thức kết hợp này. Chẳng
hạn, những biến đổi về kinh tế quốc tế hiện nay, về sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay… là những điều kiện khách quan cho phép
chủ thể hoạt động có thể thực hiện sự kết hợp các mặt đối lập.

7
- Thứ hai, về mặt chủ quan: việc kết hợp các mặt đối lập chỉ thực hiện được và đạt
kết quả mong muốn khi chủ thể có đủ năng lực và bản lĩnh chính trị cần thiết đáp ứng
được yêu cầu của sự kết hợp này. Đòi hỏi chủ thể ở đây phải có đủ khả năng sớm nắm
bắt được yêu cầu khách quan cũng như thời cơ thuận lợi của việc kết hợp, từ đó tiến
hành tổ chức kết hợp một cách khéo léo, khoa học nhằm hướng có lợi cho chủ thể. Có
thể khẳng định, trong chừng mực nào đó, vai trò của chủ thể trong việc kết hợp các mặt
đối lập ở đây là có ý nghĩa quyết định.
1.5. Kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập theo tư tưởng của Mác – Lênin
Theo tư tưởng của Mác – Lênin về sự kết hợp giữa các mặt đối lập của sự vật được
tác giả Trần Nguyên Ký phân tích rất sâu sắc trong cuốn “Sự kết hợp các mặt đối lập
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” như sau: Mâu thuẫn
của sự vật, biểu hiện ở cuộc đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, là nguồn gốc,
động lực của sự phát triển sự vật đó. Trong tư tưởng biện chứng của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mâu thuẫn, khi quan niệm nguồn gốc của mọi sự vận động,
phát triển của sự vật khách quan đều bắt nguồn từ mâu thuẫn bên trong, các ông luôn
chú trọng giải quyết những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn, đó là vấn đề thống nhất,
vấn đề đấu tranh và các vấn đề kết hợp các mặt đối lập. Trong đó vấn đề kết hợp các
mặt đối lập được các ông xem xét với tính cách là một biểu hiện hoạt động của chủ thể
con người trong việc giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể nhất định, trên cơ sở
nhận thức sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn này.
Khi đề cập tới vấn đề thống nhất giữa các mặt đối lập trong một mâu thuẫn biện
chứng, cần tiếp cận từ ba góc độ:
- Thứ nhất: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận, tức
sự thống nhất khách quan vốn có của chúng.ở đây đó không phải là sự thống nhất tuyệt
đối , mà là sự thống nhất tương đối, thống nhất trong sự khác biệt, kể cả sự đối lập.
- Thứ hai: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ nhận thức luận.
Điều này rõ ràng là công việc không đơn giải, không chỉ thuộc vào nhân tố chủ quan,
vào chủ thể mà còn phụ thuộc vào chính bản thân mâu thuẫn. bởi vì mâu thuẫn không
tự bộc lộ ra mà nói tồn tại ẩn giấu bên trong cái “ vỏ bọc” thống nhất với những hình
thức cụ thể của nó. Để nhận thức nó, cần phải tiến hành thao tác như Lênin đã chỉ dẫn:
“phân đôi cái thống nhất”. phải phân đôi được cai thống nhất thì mới có thể phát hiện
8
và nắm bắt được các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Cố nhiên sự phân đôi ở đây không
phải là hoạt động chủ quan, tùy tiện mà phải dựa trên cơ sở tôn trọng tính khách quan
của mâu thuẫn biện chứng.
- Thứ ba: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn.Trên cơ
sở nhận thức sự thống nhất ( bao hàm cả sự đấu tranh) giữa các mặt đối lập của một mâu
thuẫn nhất định, chủ thể có thể thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập để từ đó tạo điền
kiện giải quyết tốt các mâu thuẫn. Việc kết hợp các mặt đối lập cũng xuất phát từ nhu
cầu, lợi ích của chủ thể. Một mặt con người với tư cách chủ thể tiến hành hoạt động kết
hợp các mặt đối lập nhằm giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể theo hướng có lợi cho
bản thân, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của bản thân;xong mặt khác nó không phải là
hoạt động chủ quan, tùy tiện mà phải dựa trên cơ sở tôn trọng tính khách quan của mâu
thuẫn biện chứng.
Xét về hình thức có thể chia hoạt động kết hợp các mặt đối lập thành ba loại:
- Thứ nhất: là sự kết hợp khoa học, biện chứng, đúng đắn (kết hợp có nguyên tắc,
đảm bảo nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập).
- Thứ hai là: sự kết hợp mang tính chiết trung (kết hợp trùy tiện, vô nguyên tắc.
Chủ thể kết hợp đã thực hiện sự kết hợp hoàn toàn dựa vào ý chí chủ quan, kết hợp bât
cứ thứ gì trong bất cứ hoàn cảnh nào…).
- Thứ ba là: sự kết hợp mang tính cải lương. ( kết hợp không đảm bảo nguyên tắc
đấu tranh giữa chúng với nhau).
Ta có thể rút ra kết luận sau: “ Kết hợp các mặt đối lập là một hoạt động tự giác,
tích cực của chủ thể thực tiễn trong quá trình giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể
thực tiễn trong quá trình giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể trong những điều
kiện khách quan và chủ quan cụ thể nhằm đem lại lợi ích nhất định cho chủ thể. Đó
chính là hoạt động kết hợp những nhân tố, lực lượng xã hội tồn tại với tư cách là những
mặt đối lập của nhau, dựa trên cơ sở nhận thức về tính thống nhất vốn có giữa những
nhân tố, lực lượng xã hội này, đồng thời tôn trọng sự đấu tranh khách quan của chúng.

Có thể nói, lý luận Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan hoàn toàn xa lạ với quan điểm tả khuynh, nóng vội, chủ quan,

9
duy ý chí cũng như sự bảo thư, trì trệ, thụ động trong hoạt động thực tiễn. Ở đây, hoạt
động của con người chỉ tự do trong giới hạn nhận thức và làm theo tất yếu khách quan.

2. Sự vận dụng kết hợp biện chứng các mặt đối lập
2.1 Sự vận dụng của Lênin trong thực tiễn cách mạng Nga

Theo tinh thần của lý luận biện chứng mácxít, khi đề cập đến việc giải quyết mâu
thuẫn biện chứng mácxít nói chung, đương nhiên phải nhận thức được rằng đó là quá
trình tự giải quyết. Tuy nhiên, đối với loại mâu thuẫn biện chứng xã hội lại có những
biểu hiện đặc thù của việc giải quyết mâu thuẫn đó. Do chỗ xã hội, trong đó có cả quy
luật xã hội, mâu thuẫn xã hội: một mặt tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và ý chí
của con người; song mặt khác, xét cho cùng, lại chính do con người tạo ra, thông qua sự
tồn tại của bản thân con người cũng như những hoạt động tự giác của họ. Mà khi đã nói
tới hoạt động của con người mà không thể không nói tới lợi ích, động cơ của hoạt động
đó. Bởi vì, hoạt động của con người (cá nhân, nhóm, giai cấp, nhân loại…) bao giờ cũng
gắn liền với những lợi ích cụ thể. Cũng vì hoạt động của con người luôn gắn liền với lợi
ích cho nên mâu thuẫn xã hội nảy sinh từ hoạt động của con người, suy cho cùng, chính
là mâu thuẫn về mặt lợi ích, giữa những lợi ích nhất định. Vì vậy, việc giải quyết mâu
thuẫn xã hội, rõ ràng không giống với việc giải quyết mâu thuẫn trong tự nhiên. Việc
giải quyết mâu thuẫn xã hội được thực hiện thông qua hoạt động của con người. Việc
giải quyết mâu thuẫn này sẽ tốt hơn, tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển mạnh mẽ
hơn, khi thông qua hoạt động tự giác, tích cực của con người.

Đối với loại mâu thuẫn xã hội không đối kháng, thể hiện ở quan hệ giữa những
nhân tố, lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản nhất trí với nhau, chủ thể hoạt động hoàn
toàn có thể tiến hành kết hợp các mặt đối lập. Bởi lẽ, ở đây, giữa các mặt đối lập tạo
thành mâu thuẫn dễ dàng xuất hiện những điểm chung, tương đồng cho phép tiến hành
việc kết hợp này nhằm đạt mục đích mong muốn. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp chủ
thể mắc sai lầm nghiêm trọng và kéo dài; khi chủ thể không còn đủ năng lực trí tuệ và
bản lĩnh chính trị cần thiết để thực hiện sự kết hợp đúng đắn, khoa học; thì khi đó lại
xuất hiện yếu tố khách quan giải quyết mâu thuẫn bằng phương pháp loại trừ các mặt
đối lập.
10
Trong cuốn “Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay” của TS. Trần Nguyên Ký cũng đã đề cập đến sự vận dụng tư
tưởng kết hợp các mặt đối lập của Lê nin khi thực hiện cách mạng Nga: “…Đối với
V.I.Lênin, trong điều kiện trực tiếp lãnh đạo nước Nga tiến lên CNXH, V.I.Lênin chính
là người đầu tiên vận dụng tư tưởng kết hợp các mặt đối lập trong giải quyết mâu thuẫn
xã hội vào thực tiễn của đất nước. Người đã cho thấy vấn đề kết hợp các mặt đối lập là
một yêu cầu tất yếu khách quan đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga lúc bấy
giờ. Theo V.I.Lênin, trong quá trình giải quyết mâu thuẫn xã hội, một tư duy biện chứng
phải thể hiện bằng khả năng biết kết hợp các mặt đối lập.”
Theo đó, V.I.Lênin cho rằng việc kết hợp các măt đối lập không chỉ là biểu hiện
của tư duy biện chứng mà quan trọng hơn đây được coi là chính sách thực tiễn của Đảng
và nhà nước Xô viết lúc bấy giờ, từ đó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn, đẩy nhanh
quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, đó là sự biểu hiện của việc vận dụng
chủ nghĩa Mác, vận dụng phép biện chứng của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng.
Trong tư tưởng của Lê nin về thực hiện kết hợp các mặt đối lập để giải quyết
nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng, tiêu biểu nhất phải kể đến “Chính sách kinh tế mới
(NEP). Đây là sự vận dụng đầy sáng tạo của Lê nin thể hiện rõ nét cho chúng ta thấy
được tính tất yếu của sự kết hợp các mặt đối lập giữa Chủ nghĩa tư bản (CNTB) và Chủ
nghĩa xã hội (CNXH) trong quá trình phát triển xã hội từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã
hội chủ nghĩa. Chính sách này đã cho phép CNTB cũng như sự tự do buôn bán tồn tại
trong nền kinh tế nước Nga sau thời kỳ nội chiến, giúp cho nước Nga non trẻ thoát khỏi
cơn khủng hoảng kinh tế và đạt được những tiến bộ đầu tiên trên con đường đi lên
CNXH.
Theo đó, Lê nin đã chỉ ra 5 luận chứng cho tính tất yếu phải tiến hành kết hợp
mặt đối lập giữa CNXH và CNTB trong hoạt động kinh tế dưới hình thức chủ nghĩa tư
bản nhà nước:
Thứ nhất, việc cho phép tự do trao đổi, tự do buôn bán kinh doanh nhằm khôi
phục tính tích cực sản xuất của người sản xuất đã làm cho việc thực hiện hình thức
CNTB nhà nước trở nên tất yếu.
Thứ hai, nếu không thực hiện kết hợp mặt đối lập giữa CNXH và CNTB trong
hoạt động kinh tế dưới hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước thì sẽ không thể đưa nước
11
Nga tiểu nông lên CNXH được. Theo Người, để có sản phẩm công nghiệp nhằm trao
đổi với người nông dân thì nhà nước phải phát triển công nghiệp.
Thứ ba, việc thực hiện kết hợp mặt đối lập giữa CNXH và CNTB trong hoạt động
kinh tế dưới hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước là tất yếu còn xuất phát từ đặc điểm
của xã hội lạc hậu khi đi vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo Lê nin, tính tự phát tiểu
tư sản là kẻ thù lớn nhất của CNXH.
Thứ tư, Lê nin đã vạch ra lợi ích to lớn của việc thi hành chính sách chủ nghĩa tư
bản nhà nước đó là góp phần đấu tranh chống lại các mặt tiêu cực của xã hội lạc hậu,
dựa trên nền kinh tế tiểu nông.
Thứ năm, việc thực hiện kết hợp mặt đối lập giữa CNXH và CNTB trong hoạt
động kinh tế dưới hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước còn góp phần khôi phục và phát
triển giai cấp công nhân Nga đang trong tình trạng mất tính giai cấp nghiêm trọng.
Xuất phát từ những điều tất yếu như vậy, NEP đã được Lê nin chính thức đưa
vào Đại hội X của Đảng cộng sản Nga vào tháng 8/1921.
2.2. Vận dụng của Hồ Chí Minh trong cuộc Cách mạng của Việt Nam
Hồ Chí Minh trong công cuộc bôn ba tìm đường cứu nước, năm 1920, sau khi
Cách mạng tháng 10 Nga thành công. Người đã đọc, nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin được đăng trên báo
Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp và Người đã tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân
tộc. Hồ Chí Minh đã học được cách làm thế nào và khi nào có thể và cần phải kết hợp
các mặt đối lập trong công cuộc Cách mạng của Việt Nam.
Khi thực dân Pháp rồi phátxít Nhật xâm chiếm nước ta, mâu thuẫn dân tộc bao
trùm lên xã hội Việt Nam, khi mà quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, Hồ Chí
Minh với bản lĩnh phi thường và trí tuệ sáng suốt, trong văn kiện thành lập Đảng tháng
2-1930, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía
giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung”. Rõ
ràng, Hồ Chí Minh luôn đặt trung tâm chú ý vào việc phát hiện ra sự đồng nhất, sự nhất
trí, sự tương đồng giữa các tầng lớp, các giai cấp xã hội nhằm làm cho họ ngày càng
xích lại gần nhau để đấu tranh vì quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong lúc thù trong giặc ngoài đang
rình rập thôn tính nước ta, đất nước đang ở trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Hồ Chí
12
Minh và Đảngta đã thực hiện một loạt kết hợp các mặt đối lập, để đưa con thuyền cách
mạng đến bến bờ vinh quang. Nhiều chủ trương, biện pháp nêu cao chữ “đồng” (tức là
đồng nhất hay là kết hợp các mặt đối lập) mà Hồ Chí Minh đề xuất đã phát huy tác dụng
đoàn kết dân tộc, thu phục người tài, sử dụng nhân sĩ, trí thức phục vụ công cuộc kháng
chiến, kiến quốc.
Trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh biết phân biệt lúc nào thì có
thể, khi nào thì không thể kết hợp các mặt đối lập, vì đó là sự kết hợp không thể dung
thứ được, sự kết hợp mà hiện thân của nó là chủ nghĩa cơ hội nguy hại. Nhưng, ngay
trong những trường hợp không tránh được sự kết hợp các mặt đối lập, thì Hồ Chí Minh
bao giờ cũng trung thành với lời dặn của Lênin rằng, phải biết xuyên qua mọi sự kết hợp
ấy mà giữ lấy thái độ trung thành với những nguyên tắc của mình, với giai cấp của mình,
với nhiệm vụ cách mạng của mình, với sự nghiệp của mình là chuẩn bị cuộc cách mạng
và giáo dục quần chúng để đi đến cách mạng thành công. Phép biện chứng chỉ rõ kết
hợp các mặt đối lập mà không xa rời nguyên tắc, vẫn giữ được bản lĩnh và thanh danh
chính trị của mình, đó là một sự kết hợp đúng đắn, có nguyên tắc.
Với trí tuệ minh triết, tài năng hiếm thấy, đức độ cao cả, nhân cách tuyệt với của
mình, Hồ Chí Minh thật sự đã thu hút được sự mến mộ, tôn vinh của đồng bào các tôn
giáo. Người đã được các tín đồ Phật giáo Việt Nam tôn vinh như một Bồ Tát sống. Bác
Hồ không những là vị anh hùng giải phóng dân tộc, là nhà văn hóa lớn mà Bác Hồ còn
là hiện thân của Đạo Phật và là một Bồ Tát hóa thân”.
2.3. Sự vân dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong công cuộc đổi mới
đất nước
Sự kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tế cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong
thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ luận điểm có tính phương pháp luận hết sức
sâu sắc của V.I. Lê-nin về mối quan hệ biện chứng giữa “tính phổ biến” và “tính đặc
thù” của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa
xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa
xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của
mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại

13
khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”
Trong thời kỳ đổi mới, luận điểm của V.I. Lê-nin đã luôn được Đảng ta quán triệt
như một nguyên lý phương pháp luận khoa học và cách mạng của Đảng trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII đã nêu những mối quan hệ lớn cần phải được
quán triệt và xử lý. Chúng ta hiểu quán triệt nghĩa là hiểu thấu vai trò, lý do tồn tại của
từng mặt và mối quan hệ tác động, bổ sung lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau giữa chúng.
Xử lý nghĩa là tìm ra phương pháp tối ưu để giải quyết mâu thuẫn giữa chúng, bởi vì
trong các mối quan hệ, có những mặt không chỉ có tác động cùng chiều, bổ sung, thúc
đẩy lẫn nhau, mà còn có tác động ngược chiều, nghĩa là mâu thuẫn với nhau. Trong
trường hợp những mặt có mâu thuẫn với nhau thì vấn đề không phải là xóa bỏ một mặt,
giữ lại mặt kia mà là phải biết “kết hợp các mặt đối lập”. Theo đó:
Một là, mối quan hệ “giữa việc tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là sự cụ thể hóa mối quan hệ có mâu thuẫn giữa kinh tế
với chính trị - xã hộitrong điều kiện xây dựng CNXH. Kinh tế và quan hệ sản xuất là
lĩnh vực vật chấtcủa xã hội - nó chỉ quan tâm đến “năng suất, chất lượng, hiệu quả”, vấn
đề tình cảm, lương tâm trở thành thứ yếu.
Hai là, mối quan hệ giữa “Nhà nước và thị trường”. Đây là mối quan hệ chủ quan
và khách quan giữa vai trò quản lý của Nhà nước XHCN với bảo đảm tự do trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế
mở, tự do. Nếu không có tự do trong sản xuất kinh doanh thì không thể có kinh tế thị
trường. Nhà kinh doanh sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, tổ chức dịch vụ gì, đặt cơ
sở sản xuất và dịch vụ ở đâu, đầu tư bao nhiêu vốn, thuê bao nhiêu nhân công là do họ
hoàn toàn quyết định theo quy luật thị trường. Như vậy, tự do là điều kiện không thể
thiếu của thị trường.
2.4. Vận dụng trong công tác chuyên môn
Mâu thuẫn tồn tại ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Bản thân tôi đang
công tác trong lĩnh vực nhân sự tại một công ty tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá
trình thực hiện công tác chuyên môn của mình, tôi đã gặp rất nhiều những mâu thuẫn,
nắm được lý thuyết về việc kết hợp biện chứng các mặt đối lập và cách thức để vận dụng
lý thuyết vào thực tiễn công việc, tôi đã vận dụng nó trong một số tình huống như sau:
14
Tôi tốt nghiệp là một cử nhân Tài chính, chuyên ngành Tài chính doanh nghiệp,
khi trở thành một chuyên viên phòng Tài chính – Kế hoạch, tôi kết hợp giữa các mặt đối
lập trong điều kiện khách quan và chủ quan giúp tôi hài hòa bản thân, để đảm nhiệm tốt
công việc của mình. Tôi kết hợp những kiến thức chuyên môn về Tài chính, kỹ năng
mềm, nỗ lực của bản thân cùng với những lần gặp sai sót trong công việc để đúc kết
kinh nghiệm. Khi bản thân có những vấn đề vướng mắc về kiến thức chuyên môn với
các đồng nghiệp khác trong phòng ban, những người giàu kinh nghiệm sẽ giúp tôi hoàn
thiện kỹ năng của mình hơn. Quá trình giải quyết những mâu thuẫn như vậy đã dần dần
giúp tôi hoàn thiện mình hơn trong công việc chuyên môn.
- Cũng như tôi, các đồng nghiệp khác cũng có những điểm mạnh, điểm yếu trong
mỗi công việc khác nhau. Có người giỏi công việc này nhưng lại không tốt công việc
khác. Và ngay trong một môi trường làm việc, cũng sẽ có phần hiểu sâu, có phần chưa
nắm vững. Điều này cũng giống như hai mặt đối lập trong một sự việc. Để có thể cải
thiện năng suất công việc, tôi thường chia sẻ ý kiến và tìm kiếm công việc mà tôi có thể
giúp cho các đồng nghiệp khác. Quá trình làm việc như vậy sẽ giúp cải thiện năng suất
làm việc cũng như môi trường làm việc.
Kết luận
Tóm lại, trong quá trình làm việc, chúng ta sẽ luôn gặp phải những mâu thuẫn
phát sinh. Việc nắm vững lý thuyết kết hợp biện chứng các mặt đối lập giúp ta biết được
cách thức để giải quyết những mâu thuẫn này một cách hợp lý nhất. Từ đó thấy được có
những mặt đối lập nào hiện đang tồn tại trong sự việc, có sự mâu thuẫn nào và tìm cách
kết hợp các mặt đối lập lại với nhau để có thể giải quyết được những mâu thuẫn, giúp
bản thân nói riêng và môi trường xung quanh ngày càng phát triển hơn.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
+ Lịch sử Triết học của Khoa Lý luận Chính trị, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh.
+ Triết học của Khoa lý luận Chính trị, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh.
+ Ts. Trần Nguyên Ký. (2020).“Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay”. NXB Kinh tế TP.HCM.
+ Wikipedia về Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
+ Tạp chí điện tử Lý luận chính trị: Sự kết hợp các mặt đối lập trong tư tưởng biện chứng
Hồ Chí Minh (lyluanchinhtri.vn)
+ Tạp chí cộng sản: PGS.TS. Nguyễn Chí Hiếu, ngày 17-04-2020: Đảng Cộng sản Việt
Nam kiên định vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lê-nin vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
+ Tạp chí Lý luận chính trị: Vận dụng lý luận của V.I.Lênin về sự kết hợp các mặt đối
lập để giải quyết các mối quan hệ lớn hiện nay

16

You might also like