You are on page 1of 15

A.

MỞ ĐẦU
Trong quá trình lịch sử lâu dài, loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội đa
dạng, luôn gắn liền với quá trình sản xuất và hoạt động lao động tạo ra của cải vật chất. Lao
động sản xuất là hoạt động cơ bản và quan trọng quyết định sự tồn tại của xã hội loài người.
Nếu ngừng sản xuất, xã hội sẽ không tồn tại. Không nằm ngoài quy luật khách quan của Việt
Nam, phát triển sản xuất của cải vật chất là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng và
phát triển đất nước. Vì vậy, ngay từ năm 1986, Đảng ta sau khi nhận ra những sai lầm về cơ
chế quản lý và sự tụt hậu về kinh tế so với các nước đã chủ trương chuyển nền kinh tế từ kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo hướng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội. sự phát triển. Thực tế chứng minh cho sự thay đổi này.
Sau đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng bên cạnh những thành tựu
đạt được, nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết tật. Nền kinh tế thị trường là
bóc phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường làm cho sự điều tiết hàng hóa
đạt hiệu quả cao, song trong nó còn tồn tại rất nhiều những nhược điểm, mâu thuẫn làm kìm
hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế, nhng những mâu thuẫn đó lại là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển.
Vì vậy, việc tìm ra những mâu thuẫn và cách giải quyết những mâu thuẫn này để phát triển
kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nhiều nước đang phát triển là hết sức cần
thiết trong công cuộc giúp đất nước phát triển đi lên theo con đường XHCN. Đó cũng là lý do
mà em chọn đề tài “Phân tích những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta và phương hướng, biện pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế đó
của Đỗ Quang Đăng MSV 11219047 Lớp EBBA 13.1” cho bài tiểu luận của mình.
Do điều kiện về trình độ và thời gian hạn chế, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những sai
sót nhất định. Em rất mong nhận được sự thông cảm và giúp đỡ từ thầy và các bạn.

B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.Mâu thuẫn biện chứng.
1.1.1. Khái niệm về các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập.
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau.
Những mặt trái ngược nhau này trong phép biện chứng duy vật được gọi là mặt đối lập: Mặt
đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược cùng tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các mặt đối lập có mối quan hệ và tác động lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan và rộng rãi trong tự nhiên, xã hội và tư tưởng. Mâu
thuẫn biện chứng trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn trong thực tế và là nguồn gốc của sự
phát triển nhận thức.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự
thống nhất của các mặt đối lập là phụ thuộc lẫn nhau, các mặt đối lập không thể tách rời và sự
tồn tại của cái này phải giả thiết sự tồn tại của cái kia.
Các mặt đối lập không thể tách rời nên giữa chúng luôn tồn tại yếu tố tương đồng. Những
nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất’’ của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó sự “thống
nhất của các mặt đối lập" còn bao hăm cả sự “đồng nhất’’ của các mặt đó. Chính vì sự “đồng
nhất” đó mà các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau, và các mặt đối lập không những
không đoàn kết, mà luôn “đấu tranh” với nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất
phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất và mối quan hệ qua lại, cũng như điều kiện cụ
thể mà cuộc đấu tranh giữa chúng diễn ra.
1.1.2.Hiện tượng khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
Các nhà siêu hình học nhìn thế giới ở trạng thái tĩnh, cô lập, không thay đổi, không liên
quan. Chính vì vậy, họ đều phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn bên trong các sự
vật, hiện tượng. Theo ho thì bản thân mỗi một sự vật và hiện tượng là sự đồng nhất không hề
có mâu thuẫn. Ho cho rằng nguồn gốc của sự vận động và phát triển là ở sư tác động từ bên
ngoài đối với sự vật. Những người theo quan điểm siêu hình chỉ công nhân có sự tồn tại của
những đối kháng, những xung đột giữa các sự vật và hiện tượng với nhau nhưng đây không
phải là mâu thuẫn.
Mâu thuẫn mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn khách quan vốn có của bất kỳ một sự vật
và hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy con người. Mâu thuẫn biện chứng
không những tồn tại phổ biến trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng mà còn tồn tại phổ biến
trong suốt cả quá trình vận động và phát triển của chúng. Không có một sự vật, hiện tượng
nào tồn tại trên thế giới mà không có mâu thuẫn và không có một giai đoạn nào trong sự phát
triển của mỗi sự vật, hiện tương lai không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác lại hình thành.
1.1.3. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của
các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “đấu tranh”
lẫn sự “thống nhất” của các mặt đối lập. Sư thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
không tách rời nhau trong quá trình vận động và phát triển sự vật.
Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất vừa đấu tranh lẫn nhau, sự thống nhất của
các mặt đối lập là điều kiện, tiền đề để duy trì sự tồn tại của sự vật. Không có sự thống nhất
không tạo thành sự vất, sư thống nhất bị phá hủy thì sư vật sẽ không tồn tại nữa. Sự đấu tranh
để xóa bỏ sự tồn tại, phá vỡ sự thống nhất cũ do đó phải có thống nhất mới có đấu tranh.
Thống nhất làm cho đấu tranh diễn ra không ngừng.
Còn đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự loại trừ, bài xích lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Đấu tranh có nhiều hình thức. Nó phụ thuốc vào bản chất của mâu thuẫn, trình độ phát triển
của mâu thuẫn và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể khi giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh
là sự bài trừ xóa bỏ cái cũ, cái không phù hợp, cái lỗi thời để tạo thành cái mới. Chính vì vẫn,
phải trải qua đấu tranh mới có thống nhất.
Triết học mác xít khẳng định đấu tranh là tuyệt đối nghĩa là nó diễn ra liên tục trong suốt
quá trình vận động kể cả trong trạng thái ổn định, còn thống nhất chỉ là tương đối tạm thời
nghĩa là chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Không có sự phù hợp tuyệt đối hay tuyệt
đối vì sự thoả thuận cũng chỉ là sự thoả thuận của những mặt đối lập. Trong bản sắc, sự khác
biệt được ẩn chứa, trong khi ở các yếu tố “đồng nhất”, “phù hợp”, “hiệu quả bình đẳng” của
các cuộc đấu tranh mới vẫn nảy sinh, hoặc các cuộc đấu tranh được mở rộng. Cạnh tranh với
một hình thức khác dẫn đến một thống nhất mới và do đó, một mâu thuẫn mới. Quá trình này
được lặp đi lặp lại để mọi thứ luôn vận động và phát triển. Đó là nguồn gốc và động lực của
sự phát triển.
1.1.4. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất và đấu tranh với nhau mà chúng còn chuyển hóa lẫn
nhau. Khi sư đấu tranh trở nên quyết liệt và có sự chín muồi sẽ dẫn tới sự chuyển hóa giữa
các mặt đối lập, tức là lúc mâu thuẫn được giải quyết. Nhưng không phải mọi cuộc đấu tranh
của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ khi nào sự đấu tranh của các
mặt đối lập phát triển đến một mức độ nhất định và có đủ những điều kiện cần thiết thì mới
dẫn đến sự chuyển hóa, loại trừ và phủ định lẫn nhau. Trong tự nhiên, sự chuyển hoá của các
mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát. Trong xã hội, sự chuyển hóa của các mặt đối lập
nhất thiết phải thực hiện được thông qua hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, không
nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí đơn thuần,
thông thường các mặt trái ngược nhau chuyển hoá theo hai cách. Trong phương thức thứ
nhất thì mặt đối lập này chuyển hoá thành mắt đối lập kia nhng ở trình độ cao hơn xét về
phương diện chất của sự vật. Trong phương thức thứ hai cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn
nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn
1.2. Kinh tế thị trường.
1.2.1. Khái niệm.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình
sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và
ổn định.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmith (Adam
Smith), với lý thuyết “bàn tay vô hình” thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết,
vận động theo quy luật của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế
thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay hữu
hình” mà đại diện cho thuyết này là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lý thuyết chung về việc làm,
lãi suất và tiền tệ”.
Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng
sản Việt Nam (năm 4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và các văn
kiện của Đảng và Nhà nước. Từ sự phát triển kinh tế trong cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
tập trung bao cấp ban đầu gồm hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
(kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư nhân không được thừa nhận), đến nay, trong Nền kinh tế
Việt Nam, nhiều thành phần kinh tế Sự tồn tại và phát triển của các hình thức sở hữu, đặc biệt
là sự có mặt của các nhà tư bản nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh tại Việt
Nam. Nhà nước Việt Nam khuyến khích và bảo đảm cho các thành phần kinh tế có cơ hội
cùng nhau phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh thông qua hệ thống luật pháp và
chính sách.
1.2.2. Một số ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường
*Ưu điểm:
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng
hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung.
Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn,
cho phép họ tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những
người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất
lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do
đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển
mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường thì
đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của
mình.
Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương
thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện,
đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh
doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang
phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý
từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình.
Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu
chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.
Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp
có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh
tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này tìm ra những thị
trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa phương.
*Nhược điểm:
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong
xã hội và quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng nhiều
của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Cuối cùng sẽ dẫn
tới phân chia giai cấp: thiểu số người giàu nắm quyền lực cai trị xã hội, còn đa số là người
nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch giàu nghèo quá mức sẽ dẫn tới nguy cơ bất ổn xã
hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo loạn, lật đổ) để có cuộc sống tốt hơn.
Sau một thời gian cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé”, các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng
sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có tiềm
lực mạnh, họ sẽ thâu tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do một vài
nhà tài phiệt nắm quyền thao túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế độc quyền chi
phối. Các doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ cạnh tranh nên tùy ý chi phối thị trường,
nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố ý tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm để tăng
thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng.
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm
muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển
sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện
tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hóa bị ứ đọng, giá cả
sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá
sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả
của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của
chính phủ. Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ
nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các
khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng
cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp và lạm
phát.
Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá
đề cao tính thị trường mà không có sự điều tiết của Nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá
nhân, vì lợi ích cá nhân mà vô cảm cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo thì
sẽ có những người vì lòng tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho xã hội. Ví dụ: 1 vùng
xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định mức giá
tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán
thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì
bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc, giải trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản
xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy, gây tổn hại tới đạo đức xã hội.
Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện sau đây
phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không có
các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh, không có
lách luật v.v... Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện
này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực
kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế hoặc khủng hoảng nhân đạo. Khi đó
sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ tiêu biểu là Hoa Kỳ: nền y tế nước này hoàn toàn do tư
nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng
viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu không có bảo hiểm y tế, một bệnh nhân
có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần chữa bệnh, kết quả là những người thu nhập
thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu chữa. Hoạt động xét nghiệm y tế ở Hoa Kỳ không
được kiểm soát trên toàn quốc, nước này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe tập
trung và xét nghiệm y tế tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại
dịch COVID-19 xảy ra, Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng
chục triệu ca nhiễm bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết.
Trong điều kiện Kinh tế chiến tranh thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng kinh tế
kế hoạch. Khi xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn tài
nguyên, năng lực sản xuất vào mục tiêu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi các nhà
sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất các mặt hàng
khan hiếm như thực phẩm, hàng tiêu dùng chứ không ưu tiên sản xuất trang bị cho quân đội).
Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí
mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của nước đối thủ để ngừng sản xuất hàng
hóa thiết yếu cho đất nước. Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh, Chính phủ các nước thường
chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn tình trạng khủng hoảng xã hội, huy động
thêm ngân sách để mở rộng quy mô quân đội, đồng thời tập trung tài nguyên cho sản xuất
quốc phòng và khôi phục trật tự kinh tế và xã hội. Tiêu biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2 nổ
ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị trường để chuyển sang Kinh tế chiến tranh.
Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến
tranh. Chính phủ ưu tiên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất
cả những yếu tố đầu vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh.
Nhiều loại hàng hoá được phân phối cố định theo tem phiếu, giá cả và tiền lương được Chính
phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao
động được Chính phủ Mỹ điều động vào quân đội. Các nước tham chiến khác như Anh, Đức,
Nhật, Ý... cũng thi hành những chính sách tương tự.
Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có
một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị
trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung hoàn toàn (ngay cả kinh tế Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có 1 phần nhỏ
là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn
hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít.
Ví dụ như tại Hoa Kỳ, tuy có nền kinh tế chủ yếu là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn
có Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh
nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết bị được coi là cần thiết với
quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống Mỹ cũng có quyền
quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng giá.
II. NHỮNG MÂU THUẪN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sư quản lý của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
1.2. Sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Do sư nhân thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch và cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Mô hình và cơ chế kinh tế này có những đặc điểm chính
sau:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, chủ yếu là do có hệ
thống nghị định, chỉ tiêu chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp
chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cấp
trên, từ phương hóng sản xuất, nguồn vật tư, đia chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc định giá sắp
xếp bộ máy.
Thứ hai, các bộ phận kinh tế và hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất và
điều hành của các đơn vị kinh tế cơ bản, và sẽ không chịu bất kỳ trách nhiệm nào về việc ra
quyết định của họ trong tương lai. Tổn thất do các quyết định sai lầm sẽ do ngân sách nhà
nước gánh chịu.
Hậu quả của hai điểm nói trên mang lai là cơ quan quản lý nhà nóc làm thay chức năng
quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì
không có quyền tự chủ, vừa ỷ lai vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết
quả sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, trong cơ chế của quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi thường, nhà nước quản lý nền
kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hê hiên vat là chủ
yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Thứ tư. bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng đông, từ đó sinh
ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý. Mô hình kinh tế chỉ huv, mà điển hình là nền
kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp... với những đặc tmg nêu trên có những u điểm là tập
trung được nguồn lực vào các mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm
hãm tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Mô hình kinh tế không có tiêu chí khách quan để đánh giá
hiệu quả kinh tế.
Vì vậy, với việc đổi mới tư duy kinh tế, đảng ta đã đưa ra phương hướng đổi mới kinh tế
là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều yếu tố vận hành theo cơ chế
thị trường và chịu tác động của nền kinh tế, phương hướng của chủ nghĩa xã hội.
1.3. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Bản thân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn nhiều
mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này tồn tại khách quan trong nền kinh tế, chúng luôn tác động
và điều chỉnh lẫn nhau. Giải quyết hợp lý các mâu thuẫn là động lực để phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, những xung đột này diễn ra gay gắt. Việc đưa ra các giải pháp giải quyết những
mâu thuẫn này một cách hợp lý và kịp thời là rất phức tạp và đòi hỏi phải có nghiên cứu khoa
học.
1.4. Những mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Như đã nói ở trên, nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế thị trường quá độ,
không thể tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ, vấn đề là làm thế nào để xác định chính xác
những mặt trái và mặt đối lập của chúng để tìm ra giải pháp phù hợp. Sau đây, tôi xin nêu ra
một số mâu thuẫn cơ bản và giải pháp khắc phục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Một là, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều hàng hoá, vấn đề lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Theo quan điểm triết học, lực lượng sản xuất là nội dung,
quan hệ sản xuất là ý thức, lực lượng sản xuất là nhân tố năng động, biến đổi, quyết định của
quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản
xuất không còn khả năng áp dụng nữa và trở thành nhân tố hạn chế. Để mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển, phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, áp dụng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện
chứng với nhau, nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt
Nam, mặc dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát
triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường thì LLSX luôn tỏ ra mâu thuẫn với QHSX.
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị
trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo
động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
còn làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp
đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản
xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiệm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới
phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy
tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên
doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc.
Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn
yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Các doanh nghiệp nhà nước đã bỏ trống nhiều
chiến trường quan trọng và vẫn chưa đóng vai trò dẫn dắt thị trường. Công tác quản lý xuất
nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, có trường hợp ảnh hưởng xấu đến sản xuất. Hệ thống
phân phối thu nhập còn bất hợp lý, thâm hụt tài khóa và nhập siêu còn lớn. Đây là một số hạn
chế của QHSX đã cản trở sự phát triển của LLSX và làm cho quá trình xây dựng đất nước
của chúng ta gặp nhiều khó khăn.
Một trong những vấn đề bức xúc đổi với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình trạng thất
nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa LLSX - QHSX có sự mất cân
đối, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà còn tạo
tiền để để thúc đẩy bước phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy vấn để cần đặt ra là làm thế
nào để giải quyết được mâu thuẫn này. Ở thời điểm hiện tại, những khó khăn nêu trên đang
dần dần được khắc phục bởi Đảng và nhà nước ta.
Cần cập nhật, hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục
hành chính,..., sử dụng tối đa các nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển sản xuất và
hoạt động của các Sở, ngành. Các nền kinh tế sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp và công
dân đều có quyền đầu tư kinh doanh dưới các hình thức được pháp luật quy định và bảo vệ.
Khuyến khích sự phát triển lâu dài của tất cả các tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu khác
nhau hoặc hỗn hợp, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, cùng có lợi và trở thành một tập thể Bộ
phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh
doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan trọng: xây dựng các
tổng Công ty Nhà nước đủ mạnh để làm cốt cán trong những tập đoàn kinh tế lớn, có tiềm lực
ganh đua trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thay đổi cơ chế quản lý, hiểu rõ sự khác nhau giữa quyền của chủ sở hữu và quy doanh
của doanh nghiệp. Cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước thành hoạt động theo cơ chế Công
ty TNHH hoặc Công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật xoá bỏ bao
cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà Nước không nắm giữ
100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh
nghiệp có hiệu quả.
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác, phát triển hợp tác xã đa ngành, tổng
hợp, chuyên nghiệp lấy sản xuất, hoạt động, dịch vụ là chủ đạo, tạo điều kiện thuận lợi để mở
rộng quy mô sản xuất và hoạt động tương ứng.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển hoàn thiện các loại thị trong đi đôi với việc xây
dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trong hoạt động năng động, có hiệu quå, có trật tự kỷ
cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát
độc quyền kinh doanh.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an toàn hiệu quả thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm. Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, thị trường lao
động. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân từ đó nâng cao đời sống xã hội.
Và việc cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng nhất trong
việc cân bằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Hiện nay ở nước ta đã hình thành một số hình thức sở hữu, một số đang phục hồi hoặc
mới bắt đầu hình thành hệ thống kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, điều này là
hoàn toàn khách quan. Đây đều là những thay đổi xảy ra trong quá trình phát triển kinh tế.
Mức độ năng suất và mức độ xã hội hoá sản xuất trong các thành phần kinh tế quốc doanh
khác nhau. Có những khoảng cách đáng kể trong sự phát triển kinh tế của các ngành khác
nhau, các ngành khác nhau và các vùng khác nhau. Vì vậy cần phải điều chỉnh lại cơ cấu của
quan hệ sản xuất. Trong việc đổi mới quan hệ sở hữu và thiết lập chế độ đa sở hữu, vai trò
chủ đạo của sở hữu nhà nước cần được coi trọng, coi trọng và tăng cường, thông qua cải cách
về vấn đề này: giữ lại doanh nghiệp nào, giải thể doanh nghiệp nào, giải thể như thế nào..., là
một vấn đề cực kỳ phức tạp. Vì vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu quản lý của Nhà nước ngày càng trở nên hợp lý hơn.
Hai là, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, xã hội.
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng trưởng
kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội Trong
nền KTTT, máu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không bị mất đi mà
còn có những diễn biến phức tạp hơn. Trước hết phải kể đến ưu điểm của kinh tế thị trường
tạo điều kiện nâng cao năng lực và trí tuệ của mọi cá nhân, thị trường được tạo ra là thị
trường tự do, có thể tự do mua bán ... Việc quản lý các Nhà nước một mặt bảo đảm sự ổn
định của thị trường, mặt khác lại tạo điều kiện cho một số kẻ lợi dụng tham nhũng, buôn lậu.
Nếu mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội không được giải quyết hợp lý sẽ thể hiện
sự bất công xã hội. Khi đó nạn nhân của bất công chính là cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có thể phá
hoại môi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, để có lợi
cho bản thân, làm thất thoát tài sản của Nhà nước… Trong trường hợp này hậu quả do cá
nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.
Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ cá nhân. Lợi ích chính đáng
của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy, còn
lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, là nguyên nhân đến sự thoái
hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số cá nhân trong bộ máy của Nhà nước. Nếu xã
hội không có những biện pháp tích cực và hiệu quả thì những tệ nạn này không giảm đi mà
còn tăng lên, vì cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của cải xã hội và phúc lợi tập thể sẽ
tăng lên, và những tệ nạn này sẽ được giao trực tiếp cho cá nhân quản lý.
Thực tế cho thấy ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, tình trạng tham nhũng vặt, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống đã dẫn đến tham nhũng, hàng loạt cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Những nguyên
nhân nêu trên là nguyên nhân chủ quan trong việc thực hiện đường lối của Đảng.
Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng vẫn chưa đủ nề
nếp, trật tự. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không
chấp hành chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo,
điều hành ở các cấp, các ngành còn bất cập, thiếu kiểm tra, đôn đốc và cha có sự phối hợp
chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả cha cao. Nhiều cán bộ, Đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ
của Đảng còn cha được xử lý thật kiên quyết.
Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, nhận thức nắm được chưa có sự thống nhất, các
ban ngành các cấp đều chưa thấu đáo. Cải cách hành chính chậm, thiếu quyết liệt, kém hiệu
quả. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn rườm rà, phức tạp, chồng chéo chức năng, nhiều
tầng nấc, thủ tục hành chính rườm rà, thiếu đồng bộ giữa Trung ương và địa phương gây khó
khăn cho phát triển kinh tế, xã hội, giảm động lực phát triển sự phát triển. phát triển, xây
dựng. Một số người hoặc các đơn vị cơ quan, vì lợi ích cá nhân, cục bộ, không muốn đẩy
mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước.
Vừa rồi là những thụ động của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng nó để tiến hành
trục lợi về bản thân, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Còn đối với các chủ thể
sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo lợi nhuận. Hiện tượng làm hàng giả,
hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Vì vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội xuất hiện trong nền kinh tế
thị trường càng khẳng định tầm quan trọng của vai trò quản lý của nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu của tiêu cực xã hội là do quản trị nhà nước còn yếu kém,
chưa đồng bộ. Chính vì lẽ đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lần
thứ IX đã đề ra chủ trương hợp nhất đảng, hình thành sự thống nhất về ý kiến, ý chí và hành
động của toàn đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và hoàn thiện đảng. Trong sạch và
mạnh mẽ. Cần nhìn nhận rằng: "Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới".
Ba là, mâu thuẫn giữa tính tư phát và tính tự giác trong sự phát triển kinh tế xã hội.
Hiện tại nền sản xuất của nước ta vẫn là một nền sản xuất nhỏ, trình độ kỹ thuật vẫn còn
lạc hậu, do đó không thể tránh khỏi tính tự phát tư bản chủ nghĩa, và đặc biệt trong cơ cấu các
thành phần kinh tế vẫn còn các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước do đó tính
tự phát tư bản chủ nghĩa càng cao. Việc định hướng nền kinh tế nước ta theo định hướng xã
hội chủ nghĩa tránh được sự tự phát là một việc rất quan trọng. Nếu để nền kinh tế phát triển
một cách tự phát thì không thể thực hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Ngược lại
với tính tự phát là tính tự giác, là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn các xu thế, các
quy luật khách quan của xã hội. Do vậy việc nhân thức đúng đắn sẽ có tác dụng to lớn, nhưng
nếu sự nhân thức có sai lầm, nhất là trên bình diện quốc gia thì hậu quả thật khôn lường.
Như vậy việc giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự phát và sư tử giác là một nhiệm vụ cấp
bách nhưng cũng đòi hỏi sư thân trọng rất lớn bởi lẽ sư mâu thuẫn này diễn ra rất phức tạp
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Không thể ngay một lúc mà ta có thể xóa bỏ hoàn
toàn mọi hoạt động tự phát của con người và biến mới hoạt động của con người thành hoạt
động tự giác ngày được.
Trước hết, cần từng bóc nâng cao nhân thức của người dân về chủ nghĩa xã hội, về đường
lối cách mạng mà Đảng và Nhà nước ta đang xây dựng, đồng thời cũng cần phải nâng cao
năng lực nhận thức cũng như năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt động trên bình diện xã
hội… Những việc làm trên sẽ làm cho tính tự giác ngày càng được nâng cao và hạn chế dần
tính tự phát của mỗi người trong xã hội.
Bốn là, mâu thuẫn giữa KTTT với việc thực hiện công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những vấn đề gay cấn trong nền KTTT, đặc
biệt là thị trường tự do. Quan niệm và giải quyết mối quan hệ này ở từng nước có khác nhau,
tùy theo mô hình phát triển kinh tế, chế độ chính trị - xã hội, truyền thống văn hoá của nước
đó.
Nhìn chung, trong các nền KTTT ở các nước phương Tây các nhà lý luận chỉ để cao các
nhân tố kinh tế và kỹ thuật của sự tăng trong mà không chú ý thoả đáng đến các nhân tố xã
hội, nhân tố con người Họ ra sức chứng minh: tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là 2
mục tiêu màu thuẫn không thẻ dung hoà. Nếu muốn tăng trưởng nhanh thì phải hy sinh công
bằng xã hội Còn nếu để cao công bằng xã hội thì không tăng trưởng được theo họ, bất bình
đẳng xã hội không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là nguyên nhân của sự tăng
trưởng ấy.
Đất nước ta đã trải qua hơn 15 năm đổi mới. Việc phát triển nền KTTT đã có nhiều tác
dụng tích cực đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Song cơ
chế thị trong cũng tạo ra nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội, trong đó, công bằng xã hội là
một trong những vấn đề gay cấn nhất. Với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung nen kinh tế
và quan liêu bao cấp đối với mọi hoạt động xã hội trước đây đã làm cho chúng ta tự bằng
lòng với mình rằng chúng ta đã có CNXH, và đã lầm tổng "chủ nghĩa bình quân" là công
bằng xã hội, mà thực chất, đó chỉ là sự cao bằng trong phân phối các sản phẩm xã hội. Chúng
ta đã nêu ra và thực hiện nguyên tắc phân phối trong CNXH đó là nguyên tắc phân phối theo
lao động và đó được coi là nguyên tắc duy nhất để thực hiện công bằng xã hội Như vậy, trước
đây chúng ta mới chỉ giải quyết đọc một phần quan hệ giữa cống hiến và hồng thụ. Sự cống
hiến ở đây cũng được hiểu một cách phiến diện - cống hiến vẻ mặt lao động và cũng chủ yếu
ở trình độ cơ bắp.
Bước vào nền KTTT, cách hiểu và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động một cách
đơn giản như vậy sẽ không còn phù hợp. Vì khi điều kiện xã hội thay đổi thì những tiêu chí
hay nội dung cơ bản của Công bằng xã hội cũng phải thay đổi theo. Ở nước ta, vấn để kết hợp
tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội đã được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm.
Xuất phát từ quan niệm mới về CNXH, về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế được coi là phương tiện cơ bản nhất để phát triển, bản thân
nó là một tiêu chí của sự tiến bộ xã hội Trong khi đó, công bằng xã hội là lý tổng thúc giục
chúng ta vươn tới. Nếu đi chệch hướng XHCN thì tăng trưởng kinh tế khó có thể song hành
với công bằng xã hội Đảng ta nhấn mạnh: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội trong từng bớc và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở cả khâu phân phối hợp lý t liệu sån xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc
tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình". Tuy
nhiên, ở đáy có vấn để cần phải phan đinh rỡ: phương thức tạo ra sự công bằng xã hội trong
từng bước tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam như thế nào? Chúng ta đang là một nước nghèo,
đời sống nhân dân còn thấp, hậu quả chiến tranh lại rất nặng né, số người thuộc diện "chính
sách", nhóm yếu thế khá lớn, đòi hỏi phải có các hình thức trợ cấp xã hội phù hợp, trong khi
phải giải quyết hợp lý chính sách tiền lương, nếu không thì hạn chế động lực của những
người lao động. Thêm vào đó, chúng ta còn phải tính đến những yếu kém của kết cấu hạ tầng
xã hội, tâm lý ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà Nước trong nhân dân, vấn đề việc làm khó khăn.
Thực tế những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
liền Với tiến bộ, công bằng xã hội là chủ trương đúng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở, điều
kiện thuận lợi cho phát triển xã hội, ngược lại, phát triển xã hội tạo ra động lực phát triển đất
nước, trong đó trước hết là chủ yếu là phát triển kinh tế.
Nh vậy, công bằng xã hội là vấn để rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội... Trong thời gian đó, ở nước ta, để tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, vai trò của Nhà nước phải được tăng
còng trên các mặt.
Thứ nhất: Nhà nước phải tạo ra môi trường, điều kiện cho phát triển sản xuất thu hút lao
động, giải quyết việc làm.
Thứ hai: Nhà nước cần trong cong đầu cho giáo dục - đào tạo, dạy nghề, nhất là ở các vùng
nông thôn, miền núi
Thứ ba: Nhà Nước cần có chính sách bảo trợ xã hội đối với những người tàn tật, cô đơn,
mất sức lao động. Một xã hội công bằng, văn minh là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, con
người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, được tự do, ấm no, hạnh phúc, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, đồng thời, mọi người có sự quan tâm đến nhau. Con người không chỉ là
chủ thể của xã hội, của sự phát triển, mà còn là chủ thể của tương lai vì sự phát triển nhanh,
bền vững, vì sự tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường nhân tính và văn hoá.
Năm là, mâu thuẫn giữa tiềm năng còn lớn với điều kiện khai thác chưa tương xứng.
Việt Nam từ trước đến nay vẫn luôn được đánh giá là một nước có nhiều tiềm năng phát
triển kinh tế. Là một nước có dân số đông, cơ cấu dân số trẻ. Điều đó có nghĩa là nước ta có
một tiềm năng hết sức to lớn về nhân công và nguồn lao động. Thực tế nước ta có một nguồn
lao động dồi dào, có trình độ đào tạo và nhận thức tương đối tốt, có khả năng tiếp thu nhanh
nhạy và sáng tạo các thành tựu khoa học trên thế giới, vận dụng linh hoạt vào thực tiễn.
Ngoài ra, nước ta còn có tiềm năng khoáng sản và động thực thực vật đa dạng, phong phú.
Những tài nguyên thiên nhiên này có tác dụng tích cực đến việc phát triển kinh tế. Nước ta
còn có vị trí địa lý rất thuận lợi, để mở rộng giao lưu với thế giới. Thế nhưng trong thực tế, ta
vẫn chưa sử dụng hết các tiềm năng này mà đôi khi vẫn còn rất lãng khí trong việc khai thác
và sử dụng tài nguyên. Điều này làm cho nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát huy được
những khả năng vốn có của mình. Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập như hiện nay thì việc
phát huy các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên và con người ở nước ta là một việc làm rất
cần thiết.
Để giải quyết được mâu thuẫn trên thì cần phải có những biện pháp đồng bộ, thích hợp,
kịp thời. Cụ thề đó là: đào tạo lại nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu hiện tại, phân bổ
lại nguồn nhân lực để khắc phục tình trạng nơi thì thừa lao động, nơi thì thiếu lao động, đẩy
mạnh xuất khẩu lao động, đồng bộ hóa việc khai thác và bảo vệ tài nguyên.
Sáu là, mâu thuẫn giữa trình độ và năng lực thấp kém với yêu cầu đòi hỏi ngày càng
cao của thị trường.
Nhìn chung, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển, trình
độ sản xuất vẫn còn thấp kém, nhỏ bé. sản phẩm làm ra chưa đủ sức cạnh tranh với các sản
phẩm nước ngoài. Trong khi đó nước ta lại là một nước có dân số đông và nhu cầu về vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng cao dẫn đến cung không thể đáp ứng đầy đủ cầu.
Hơn nữa trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, thị trường thế giới rất rộng lớn, nhu cầu đa
dạng và phong phú. Tuy vậy, khả năng chiếm lĩnh thị trong của các doanh nghiệp Việt Nam
còn rất hạn chế, chúng ta cha có những sản phẩm chủ lực để xâm nhập vào các thị trường thế
giới. chưa có nhiều kinh nghiệm làm ăn với các bạn hàng nước ngoài. Điều đó dẫn đến mâu
thuẫn trên là tất yếu khách quan, để giải quyết mâu thuẫn này thì theo tôi, trước hết Nhà nước
phải có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm đầu ra. đắc biết là
việc thâm nhập vào thị trờng nớc ngoài. Đối với bản thân các doanh nghiệp không nên trông
chờ ỷ lại, mà phải linh hoạt trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới
của thế giới vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và đặc biết ứng dụng công nghệ
thông tin trong các hoạt động quản lý, tìm hiểu thị trường, giới thiệu sản phẩm…
Bảy là, mâu thuẫn giữa con người và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những
con người xã hội chủ nghĩa. Nhân tố con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sự sáng tạo, là nguồn gốc của mọi của
cải vật chất và văn hóa. Con người có trí tuệ cao, thể lực cường tráng, chí khí, đạo đức trong
sáng là động lực xây dựng sự nghiệp xã hội mới và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thì phải lấy
trẻ em làm điểm xuất phát.
Đất nước bước vào thời kỳ phục hưng. Nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ một cơ chế quan liêu, bao cấp giờ đã lạc hậu và không còn phù
hợp. Cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
KTTT là môi trường kinh tế thuận lợi cho việc xác lập, địa vị chủ thể của cá nhân, phát
huy năng lực cá nhân, hình thành tính tích cực tự giác của cá nhân người lao động, giải phóng
cá nhân hoạt động kinh tế khôi phục thuộc vào kế hoạch độc đoán, lôi cuốn họ vào thị trong
trao đổi và trở thành chủ thể của sự vận hành kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi con
người phải quan tâm đến giá trị của sản phẩm lao động, tức là phải quan tâm đến hiệu quả
kinh tế trong nhận thức và hoạt động của con người. Tư lợi là động lực của sản xuất. Nền
kinh tế tri thức đã làm thay đổi tiêu chuẩn đánh giá năng lực và phẩm chất của con người,
làm thay đổi định hướng giá trị xã hội.
Bản chất của KTTT là đấu chọi nhau, không bao giờ thiếu đi năng động và sáng tạo. Nó
đòi hỏi mọi người phải nỗ lực, độc lập và sáng tạo trong hoạt động của mình để có thể vượt
lên thực tại, đứng vững và khẳng định mình trong thử thách. Kinh tế thị trường là loại hình
kinh tế trong đó quan hệ kinh tế giữa người với người được thể hiện thông qua thị trường, tức
là thông qua việc mua bán hàng hóa, tiền tệ trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường,
quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển, mở rộng, bao trùm các lĩnh vực, có ý nghĩa chung đối
với người sản xuất và người tiêu dùng. Kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh
và phát triển của xã hội, là nhân tố để phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, KTTT cũng có những khuyết tật nh: sự cạnh tranh lạnh lùng, tính
tự phát mù quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ…
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đời mới ở nước ta hiện nay,
không thể xây dựng con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Do trải qua nhiều năm chiến tranh,
nền kinh tế kém phát triển và mô hình kinh tế chưa hợp lý, đất nước tôi đã bị tụt hậu nghiêm
trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là
điều kiện quan trọng để nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, đi vào phục hồi, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp tiến độ của thời đại.
Trong những năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hồng ứng rộng rãi, và đi vào
cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng và
cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội Quá
trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô
toàn xã hội.
Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng, không phải cứ xây dựng được KTTT là những phẩm
chất tốt đẹp của con người duoc hinh thành. KTTT luôn luôn tác động hai mặt. Bên cạnh
nhiều yếu tố tích cực, KTTT đang làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã
hội Việc tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân, chỉ chú trọng đến lợi ích vật chất mà chà đạp lên
những giá trị tinh thần truyền thống đang làm tha hoá và biến chất một lớp người trong xã hội
KTTT làm cho con người phụ thuộc vào vật (hàng hóa), tiền tệ, giá trị trao đổi và quan hệ
trao đổi hàng hoá. Trong quan niệm của họ "tiền là điều kiện cao nhất" tâm lý sùng bái đồng
tiền lan tràn trở thành thứ"bái vật giáo tiền tệ". Tiền tệ là giá trị trao đổi ai có tiền là có quyền
lực xã hội và dựa vào quyền lực này mà chiếm đoạt tất cả những thứ mà người đó cần. Họ
quyết tâm làm giàu bằng bất cứ giá nào, bằng mọi cách và bằng mọi con đường với đủ
phương kế. Đó là một nguyên nhân sinh ra các tệ nạn xã hội nh tham nhũng, buôn lậu, chiếm
đoạt tài sản của Nhà nước và của công dân...
Tác động tự phát của cơ chế thị trường biểu hiện đa dạng, nhiều hình, nhiều vẻ, song nó
tập trung ở lối sống thực dụng không tình người. Đồng tiền làm băng hoại đạo đức và chi
phối ngay cả những quan hệ vốn là thiêng liêng nh quan hệ giữa cha mẹ với con cái, quan hệ
vợ chồng, quan hệ thầy trò, thậm chí ngay cả trong tình yêu..
Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT và mục tiêu con người XHCN là một mâu
thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây thực chất là 2 mặt đối lập của mâu
thuẫn xã hội Giữa KTTT và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự
đấu tranh. Kinh tế thị trường tồn tại thuận lợi để tạo ra và phát huy con người, đồng thời cũng
tạo ra chất độc hoặc hủy diệt con người.
Để giải quyết xung đột này là một chuyện không dễ dàng. Đối với nước ta, mâu thuẫn
giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết do Đảng lãnh đạo, do Nhà nước
quản lý theo định hướng XHCN mà Đảng ta xác định "sản xuất hàng hóa không đối lập với
CNXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH được xây dựng". Như vậy, Đảng vạch rõ sự
thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người CNXH Việc áp dụng cơ chế thị trong
đòi hỏi phải nàng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ
chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được
những tác động tích cực to lớn, cũng nh ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm
khuyết của nền KTTT. Hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng tới phục vụ xây dựng
nguồn nhân lực, thực hiện các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm xóa bỏ tâm lý tôn sùng
đồng tiền, coi thường đạo lý, coi thường giá trị con người. Chúng ta phải phát huy đầy đủ giá
trị đạo đức và thẩm mỹ của di sản văn hóa nghệ thuật dân tộc. Đây chính là công cụ, phương
tiện quan trọng để tác động góp phần giải quyết những mâu thuẫn nếu trên.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Với mong muốn nền kinh tế thị trường được phát triển, các giải pháp phải được chúng ta
kết hợp lại với nhau. Dưới đây là một vài giải pháp em thấy hiệu quả nhất:
Thứ nhất, phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần: khi chuyển sang
kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trong, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng
cách đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Thứ hai, thúc đẩy ứng dụng nhanh chóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến bộ của
khoa học và công nghệ. Trên cơ sở đó, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội. Phân công lao
động xã hội là nền tảng chung của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, để phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhung sự phát triển
của phân công lao động xã hội do trình độ của lực long sản xuất quyết định, cho nên muốn
mở rộng phân công lao động xã hội, cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại.
Thứ ba, hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường: trong nền kinh tế thị trên, hầu
hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà đọc phân bố vào các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trường.
Thứ tư, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Hiện nay, chỉ có mở cửa nền kinh
tế, hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu thì vốn và công nghệ mới khai thác được tiềm năng,
thế mạnh của đất nước để phát triển kinh tế, mới có thể thu hút được công nghệ.
Thứ năm, giữ vững và ổn định chính trị đi kèm với hoàn thiện hệ thống pháp luật: ổn định
chính trị luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu để phát triển. Đây là điều kiện để các nhà sản
xuất kinh doanh trong nóc và ngói ngoài yên tâm đầu tư. Để giữ vững ổn định chính trị của
nước ta hiện nay, cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nâng cao hiệu lực quản lý quốc gia, phát huy quyền tự chủ của nhân dân.
Thứ sáu, xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế của nhà nước. Việc xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành
đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trong có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Đế nâng cao năng lực và
hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao năng lực của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Nhà nóc thực hiện định hướng sự phát
triển của kinh tế; có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi
cho hoạt động kinh tế; hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.

C. KẾT LUẬN
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính
bên trong vốn có từ thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan.
Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự phát triển, là động lực cho sư phát triển. Có giải quyết
được những mâu thuẫn đó mới có thể phát triển kinh tế. Do vậy trong mọi hoạt động thực
tiễn ta phải luôn luôn nhận thức và phân tích đọc các mặt đối lập trong một mâu thuẫn để từ
đó tìm ra khuynh hướng vận động và sự phát triển của chúng làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách từ tầm vĩ mô cho đến tâm vi mô.
Nhìn nhận những mâu thuẫn là một vấn đề rất quan trọng. Song đồng thời, việc giải quyết
các tranh chấp này lại càng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển thành công
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Vì vậy, cần nắm vững các
nguyên tắc giải quyết các mâu thuẫn này. Đó là một cuộc đấu tranh giữa hai đối lập. Mọi
mâu thuẫn, mọi giai đoạn của mâu thuẫn, mâu thuẫn chỉ được giải quyết thông qua đấu tranh
giữa các mâu thuẫn.
Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá là mục tiêu trước mắt
và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta để ra. Để đạt được mục tiêu thì chúng ta phải luôn luôn
nhìn nhận một cách đúng đắn những mâu thuẫn để đưa ra những giải pháp tốt nhất, tạo đà
cho sự phát triển kinh tế đất nước.

You might also like