You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC


MARX-LENIN

ĐỀ TÀI: Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu


thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam

Họ và tên SV: Phạm Trà My


Lớp tín chỉ: Kế Toán TT
Mã SV: 11219197

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU


.............................................................................................

HÀ NỘI, NĂM 2020


MỤC LỤC

Phần Nội dung Trang

Mục lục 0

I. Đặt vấn đề 1

II. Nội dung


1. Lí luận về mâu thuẫn

II.1.a Khái niệm về mâu thuẫn 2

II.1.b Các loại mâu thuẫn 3


II.1.c Tính chất chung của mâu thuẫn 5
II.1.d Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển 5
II.1.e Ý nghĩa của phương pháp luận 6

2. Mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế

II.2.a Bản chất cảu nền kinh tế độc lập tự chủ 6


II.2.b Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? 7
Mặt thống nhất của nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
II.2.c 8
kinh tế quốc tế của Việt Nam
Mặt mâu thuẫn nhất của nền kinh tế độc lập tự chủ và hội
II.2.d 9
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Việt Nam trong công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
II.2.e 10
chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế
II.2.f Khuyến nghị một số cách giải quyết trong tương lai 11
III. Kết luận 12
Tài liệu tham khảo 12
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mâu thuẫn luôn xảy ra trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, đó là
mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân sự vật hay mâu thuẫn giữa các sự vật
với nhau. Triết học Mác-Lenin đã chỉ ra mâu thuẫn là một tất yếu khách quan,
mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Việc xác định đúng các
loại mâu thuẫn sẽ giúp con người tìm ra dược những giải pháp phù hợp, tối ưu để
giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển. Từ lí luận mâu
thuẫn, ta phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay, xu
thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc
gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có măt tiêu
cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra cơ hội cho sự phát triển nhưng
cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang
phát triển như Việt Nam. Trong điều kiện thế giới ngày nay, các quốc gia không
thể tẩy chay hay đứng ngoài toàn cầu hoá. Vấn đề đối với các quốc gia là phải có
chiến lược thích ứng khôn ngoan để vượt qua thách thức và chớp lấy thời cơ,
đồng thời phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình ngày càng phát triển. Tức là phải
tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tốt mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế
độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước yêu cầu thực tế đặt ra như vậy, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Vận dụng
lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”.

Kết cấu bài viết gồm hai phần chính:


Phần I: Lí luận về mâu thuẫn, định nghĩa về mâu thuẫn, các loại mâu
thuẫn, mối quan hệ giữa chúng, đặc điểm chung và ý nghĩa của phương pháp
luận.
Phần II: Phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, những khuyến nghị để giải quyết một
cách tốt nhất các mâu thuẫn đó.
1
II.NỘI DUNG
1. Lí luận về mâu thuẫn
i. Khái niệm về mâu thuẫn
Mâu thuẫn của sự vật, của thế giới đã được rất nhiều nhà triết học trong lịch sử
bàn đến. Chẳng hạn, các mâu thuẫn Âm – Dương, Hy mâu thuẫn giữa các yếu tố
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả và Thổ trong thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa.
Nhà triết học Lạp cổ đại Hêraclít cũng nhẫn mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng,
quá trình khách quan. Nói chung, các quan niệm trên đều đã mô tả mâu thuẫn
khách quan nhưng chưa làm rõ được sự chuyển hoá biện chứng của các mặt đối
lập. Vì thế, khái niệm mâu thuẫn còn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội
dung biện chứng của các mặt đối lập.
Cho đến triết học Mác - Lênin đã đưa ra một khái niệm khoa học về mâu thuẫn:
Mâu thuẫn là sự thống nhất của các mặt đối lập.
- Trong phép biện chứng: mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất đấu
tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng, hoặc giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau.
Như vậy, có hai điều kiện để xác định một mâu thuẫn biện chứng: Thứ nhất
là, các xu hướng đối lập nhau. Thứ hai là, các xu hướng là điều kiện tồn tại và
phát triển của nhau (xu hướng thống nhất).
 Xu hướng đối lập nhau: Mâu thuẫn luôn tôn tại mặt đối lập nhau- đó là
những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng trái ngược tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Các mặt đối lập nằm trong sự liện hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thanh mâu thuẫn biện chứng.
Ví dụ: điện tích âm- điện tích dương trong cùng một nguyên tử; đồng hóa- dị hóa
trong một cơ thể sống; chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển nhận thức…
 Xu hướng thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương
tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại
của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề và ở tác động
ngang nhau của chúng. Hai mặt đối lập còn tồn tại trong sự đấu tranh với

2
nhau, qua đó, các mặt đối lập có sự qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau.
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ
sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh, vừa đòi hỏi vừa loại
trừ, vừa chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng, hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

ii. Các loại mâu thuẫn


Mâu thuẫn có tính khách quan, phổ biến và đa dạng. Dưới đây là một số loại mâu
thuẫn:
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
 Mâu thuẫn bên trong: là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật
nhất định.
 Mâu thuẫn bên ngoài: là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với
mặt đối lập của sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cần có quan điểm
lịch sử cụ thể, tuỳ phạm vi phân tích.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và
phát triển của sự vật, mâu thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ. Mâu thuẫn bên ngoài
tự nó không thể phát huy được vai trò của mình, mà phải thông qua mâu thuẫn
bên trong để phát huy tác dụng nhất định. Tuy nhiên, giữa mâu thuẫn bên trong
và mâu thuẫn bên ngoài có sự tác động qua lại với nhau. Giải quyết mâu thuẫn
này cũng là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu
thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
 Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định
sự phát triển ở t ất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự
vật từ khi sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc.

3
 Mâu thuẫn không cơ bản: là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào
đó của sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vật, là cơ sở hình
thành và chi phối các mâu thuẫn khác trong quá trình phát triển của sự vật. Khi
mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Mâu thuẫn
không cơ bản tồn tại bao giờ cũng gắn liền với mâu thuẫn cơ bản, và trong quá
trình vận động, mâu thuẫn cơ bản có thể làm nảy sinh mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Dựa vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong
một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và
mâu thuẫn thứ yếu.
 Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát
triển của mọi sự vật. Nó có tác dụng quyết định đến các mâu thuẫn khác
tồn tại trong cùng sự vật ở giai đoạn đó.
 Mâu thuẫn thứ yếu: là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với
quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó,
mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất
định. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu chính là từng bước giải quyết
mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể chuyển hoá cho nhau trong
quá trình phát triển của sự vật.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
 Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn
người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
 Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những lực lượng,
khuynh hướng xã hội mà lợi ích về c ơ bản là nhất trí với nhau. Phân biệt
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.

4
Mâu thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các
cuộc cách mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển
đặc thù của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân
thủ nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hoà bình.
 Tóm lại, hiểu bản chất các loại mâu thuẫn để tìm ra cách giải quyết phù hợp là
điều rất quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay,
trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra ồ ạt, kinh tế Việt Nam muốn không bị
tụt hậu, muốn khởi sắc thì cần phải can đảm hoà mình vào trào lưu kinh tế
chung toàn thế giới, đồng thời phải phát huy nội lực để tự đứng vững trước mọi
tác động tiêu cực từ bên ngoài.
iii. Các tính chất chung của mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến
Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong
của sự vật, hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bát cứ
hiện tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con người.
Mỗi sự vật, hiện tương đang tồn tại đều là một thể thống nhất các khuynh hướng,
các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Mâu thuẫn là một hiện
tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mâu
thuẫn tồn tại từ khi sinh vật mới phát triển cho tới khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn
này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành.
- Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú
Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ mỗi sự vật, hiện tượng, quá td. rình
đều có thể bo hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau với
những điều kiện lịch sử cụ thể, khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau với
sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
iv. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
cũ bị mất đi, sự vật mới xuất hiện. Các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau
với ba hình thức.
- Các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia
và ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật.

5
Ví dụ: Mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản biểu hiện thành cuộc cách mạng vô sản
lật độ giai cấp tư sản.
- Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển hoá thành mặt đối lập mới.
Ví dụ: Giải quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ (chế độ phong kiến) xã
hội lại xuất hiện mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản (Chế độ
TBCN)
- Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau, cải biến lẫn nhau. Vì vậy, mâu thuẫn
là nguồn gốc động lực của mọi quá trình vận động phát triển của sự vật
hiện tượng.
2. Ý nghĩa của phương pháp luận
Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến, nên trong nhận thức và thực
tiễn phải tôn trọng mâu thuẫn, tức là không được lẩn tránh mâu thuẫn cũng như
không được tạo ra mâu thuẫn. Vì mâu thuẫn là động lực của sự phát triển nên
muốn thúc đẩy sự phát triển phải nhận thức được mâu thuẫn và tìm cách giải
quyết mâu thuẫn, phải tạo ra điều kiện thúc đẩy sự đấu tranh của các mặt đối lập
theo chiều hướng phát triển. Vì mọi mâu thuẫn đều có quá trình phát sinh, phát
triển và biến hoá. Vì sự vật khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau, mỗi mâu thuẫn
lại có những đặc điểm riêng của nó. Do đó phải biết phân tích cụ thể một mâu
thuẫn cụ thể và tìm cách giải quyết mâu thuẫn.

3. Mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc
tế
i. Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ.
- Thứ nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng
nội.
Mô hình kinh tế độc lập tự chủ hướng nội là một nền kinh tế có khả năng tự đảm
bảo các nhu cầu của đất nước, càng nhiều càng tốt. Quan điểm cơ cấu ngành của
nền kinh tế độc lập tự chủ theo mô hình này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc tự đảm bảo các nhu cầu trong nước, dù phải chịu những bất lợi về hiệu quả,
và hầu như không tính tới những lợi thế so sánh quốc tế. Ưu tiên hàng đầu là
không phụ thuộc vào bên ngoài.

6
Tuy nhiên, những chính sách này đã gây ra những tác hại to lớn: làm tăng giá các
hàng hoá trong nước gây thiệt hại cho người tiêu dùng; duy trì bảo hộ tình trạng
lạc hậu về công nghệ t ổ chức quản lý; chính sách bảo hộ cao đã làm méo mó
môi trường đầu tư; hạn chế việc mở rộng thị trường.
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng nội có một đặc trưng
quan trọng nhất là tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu trong nước, để không bị lệ
thuộc vào bên ngoài, từ hoạch định chiến lược chính sách đến các hàng hoá, dịch
vụ, cũng không bị tác động từ bên ngoài bởi các chấn động về chính trị, an ninh,
kinh tế, …
Thực tế thế giới cho thấy đã không có một quốc gia nào đi theo mô hình kinh tế
này đạt được những thành công vững chắc, mà hầu hết đều đã hoặc là thất bại,
hoặc là phải trả một cái giá rất đắt, hoặc là lâm vào khủng hoảng, suy thoái, trì trệ
kéo dài.
Vì vậy, buộc các quốc gia phải tìm kiếm một mô hình phát triển khác, một cách
hiểu khác về tính độc lập tự chủ của nền kinh tế.
- Cách hiểu thứ hai là nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Một đất nước độc lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết định
việc lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị của mình, là đất
nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại. Độc lập, tự chủ là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của các nước trên
thế giới; là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta trong suốt lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng là mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày nay.
ii. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì?
Hội nhập quốc tế là sự tham gia của các quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa
đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, để quốc gia trở thành một bộ phận cấu thành,
có vị trí, vai trò nhất định trong các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng các quốc
gia trên thế giới. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị
trường, các tập đoàn kinh tế lớn, các hoạt động kinh tế đã vượt khỏi biên giới các
quốc gia; các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư kinh doanh của nhiều quốc

7
gia, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã diễn ra trên quy mô toàn cầu, hình thành nên
thị trường toàn cầu, các chuỗi sản xuất toàn cầu, phân công lao động và hợp tác
kinh tế trên quy mô toàn cầu.
Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ của lịch sử. Hội nhập quốc tế trở thành
nhu cầu, phương thức phát triển của các quốc gia, đem lại cho các quốc gia
những nguồn lực, cơ hội để phát triển: đó là thị trường, thành tựu khoa học công
nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị hiện đại cho phát triển kinh tế;
các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phong phú để nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của người dân; để đất nước tiến cùng thời đại.
Hội nhập quốc tế, tăng cường sự liên kết, tạo sự đan xen lợi ích, củng cố, tăng
cường quan hệ hợp tác, hữu nghị, lòng tin giữa các quốc gia là nhân tố rất quan
trọng để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh, duy trì môi trường hòa
bình, ổn định cho sự phát triển chung... Hội nhập quốc tế để phát triển, muốn
phát triển cần phải hội nhập quốc tế. Đây cũng là một xu hướng khách quan, tiến
bộ.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đối với các quốc gia không chỉ có cơ hội, thuận lợi
mà còn có không ít khó khăn thách thức; trong đó, thách thức lớn nhất là phải
bảo vệ, giữ vững được độc lập, tự chủ của đất nước. Mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ với hội nhập quốc tế, do đó, là một trong những mối quan hệ đặc biệt quan
trọng cần được quán triệt và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của nước ta.
iii. Mặt thống nhất của nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan hệ biện chứng, vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước thống nhất với nhau ở mục tiêu
cuối cùng đều là vì lợi ích của đất nước, của quốc gia, dân tộc, đều vì lợi ích của
nhân dân. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là vì lợi ích của đất nước, để phát triển
đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Độc lập, tự chủ cũng vì lợi ích của đất
nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

8
Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện
của nhau. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể
là cho việc xác định chiến lược hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của
hội nhập quốc tế phải phục vụ mục tiêu phát triển, nâng cao sức mạnh tổng hợp
của đất nước, củng cố độc lập, tự chủ của đất nước. Nội dung, bước đi, cách thức
hội nhập trên các lĩnh vực phải xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất
nước, từ tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế trong từng giai đoạn... Đồng thời,
trong thời đại ngày nay, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với cộng
đồng quốc tế. Một quốc gia bảo vệ độc lập, tự chủ của mình bằng cô lập, tách
biệt khỏi cộng đồng quốc tế nhất định sẽ đi đến trì trệ, kém phát triển, do đó, cuối
cùng sẽ nhất định không thể bảo vệ được độc lập, tự chủ của mình.
iv. Mặt mâu thuẫn nhất của nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam
Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế không chỉ có thống nhất, hỗ trợ,
gắn bó với nhau, mà còn có mặt mâu thuẫn, thậm chí xung đột nếu không được
nhận thức và giải quyết đúng đắn.
Trong thời đại toàn cầu hóa, nhưng vẫn còn có nhận thức lo ngại, do dự hội nhập
quốc tế vì sợ mất độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của
đất nước; có những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc
lập, tự chủ của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì một
cách khách quan, những lo ngại về mất độc lập, tự chủ của đất nước không phải
là không có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự tạo ra những thách thức không nhỏ
đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Khi hội nhập quốc tế, đất nước
phải chấp nhận và tuân thủ những “luật chơi” chung; khi tham gia, trở thành
thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư song
phương, đa phương với các nước, các khu vực trên thế giới, đất nước phải điều
chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với các cam kết đã ký.
Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp và
sản phẩm của đất nước, mà cũng phải mở cửa thị trường của đất nước cho doanh
nghiệp và sản phẩm của nước ngoài; các doanh nghiệp, các sản phẩm của đất

9
nước đứng trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp và sản phẩm
của nước ngoài, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong
nước. Những biến động, bất ổn trên thị trường thế giới, của kinh tế thế giới sẽ
trực tiếp, nhanh chóng tác động, gây ra những bất lợi cho kinh tế đất nước.
Những nguy cơ như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác động từ bên ngoài;
đất nước trở thành “bãi thải” công nghệ, bị ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào
doanh nghiệp nước ngoài... đều rất lớn. Những nguy cơ này sẽ trở thành hiện
thực khi đất nước không có một chiến lược hội nhập quốc tế đúng đắn, hiệu quả
phù hợp với điều kiện của mình. Đây là điều đã và đang xảy ra trên thế giới, ở
nhiều nước với các mức độ khác nhau.
v. Việt Nam trong công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế
Ở nước ta, trong khi quan điểm về bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước
luôn là quan điểm lớn, nhất quán, bất biến, được khẳng định trong các văn kiện của
Đảng, Nhà nước ta ở các giai đoạn, thì quan điểm về hội nhập quốc tế được hình
thành, phát triển trong hơn 30 năm đổi mới, là một trong những nội dung lớn của
đường lối đổi mới đất nước của Đảng, Nhà nước ta.
Đại hội VI của Đảng (1986), Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, xác định
“nước ta phải tham gia vào phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là với
các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế và
khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”.
Xuyên suốt các kì Đại hội tiếp theo của Đảng (1991-2006), quan điểm này vẫn luôn
được giữ vững và ngày càng hoàn thiện, theo đúng chủ trương được đề ra từ ban
đầu.
Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã đưa nhận thức, quan điểm về hội nhập quốc tế
lên một bước phát triển mới khi đưa vào Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, tức là không chỉ hội nhập kinh
tế mà hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực và
khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng

10
đồng quốc tế, (…). Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở
những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế”.
Từ các quan điểm, chủ trương của Đảng phát triển qua các kỳ Đại hội, đến nay, có
thể khẳng định: Độc lập, tự chủ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của đất nước.
Hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, tất yếu để phát triển đất nước trong thời đại
toàn cầu hóa.
Mục tiêu của hội nhập quốc tế là để tận dụng, phát huy sức mạnh của thời đại vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước ta; nâng
cao vị thế, uy tín, vai trò của đất nước tham gia vào giải quyết các vấn đề của khu
vực và thế giới, đóng góp vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Phương châm hội nhập là chủ động lựa chọn nội dung, bước đi, lĩnh vực, đối tác phù
hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển, với khả năng của đất nước và bối cảnh quốc
tế; việc thực hiện phải tích cực để đạt hiệu quả cao.
vi. Khuyến nghị một số cách giải quyết trong tương lai:
Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc nhận thức và giải quyết mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế vẫn còn những hạn chế:
- Chất lượng, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao, chưa tận dụng và
khai thác có hiệu quả các tiềm năng, cơ hội do hội nhập đem lại để phát
triển đất nước nhanh, bền vững.
- Tình trạng xuất khẩu một số sản phẩm tập trung quá nhiều vào một thị
trường; nhất là tình trạng nhập siêu, thâm hụt thương mại lớn, kéo dài với
một đối tác, không được khắc phục mà vẫn tiếp tục gia tăng.
- Tình trạng thiếu chủ động, kịp thời sử dụng các biện pháp phòng vệ không
trái với cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước
sự xâm nhập của các lực lượng kinh tế hùng mạnh từ các nước trên thế
giới; để ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế đất
nước do những biến động, cú sốc từ bên ngoài.
- Tình trạng không phải các doanh nghiệp trong nước là lực lượng nòng cốt,
chủ lực mà doanh nghiệp FDI mới là lực lượng chủ lực trong hội nhập
kinh tế của đất nước (đã chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, gần

11
70% giá trị sản xuất công nghiệp), trong khi doanh nghiệp FDI hầu như
tách biệt với các doanh nghiệp trong nước, trở thành khu vực kinh tế biệt
lập ...
Để bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước trong bối cảnh tiếp tục chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế đòi hỏi:
- Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến
lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không ngừng củng
cố, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về
chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; nâng cao uy tín quốc tế; không
ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo đảm an
ninh, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, phát triển
lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thực sự là nòng cốt trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cần phải theo một chiến lược hội nhập
tổng thể với nhiều hình thức đa dạng, lộ trình, bước đi phải phù hợp với
chiến lược, mục tiêu, năng lực của đất nước trong từng giai đoạn. Đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, nhất là với các đối tác lớn, có
vai trò và ý nghĩa chiến lược, tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị
trường. Đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Có những
giải pháp hiệu quả ngăn ngừa, làm thất bại những âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng hệ thống phòng vệ
để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường trong nước trước những
biến động phức tạp, tác động tiêu cực từ thị trường và kinh tế thế giới,
không trái với các cam kết quốc tế đã ký kết...
III. KẾT LUẬN
Phép biện chứng về mâu thuẫn đóng một vai trò to lớn trong các hoạt động nhận
thức cũng như thực tiễn. Nhưng để vận dụng được phép biện chứng về mâu
thuẫn cần tìm hiểu, phân tích các mặt đối lập để nắm rõ nguồn gốc, bản chất và
đặc điểm của nó; phân biệt được các loại mâu thuẫn từ đó xác định phương thức
giải quyết mâu thuẫn. Hơn nữa ta cũng cần phải nắm rõ nguyên lý của các
phương pháp giải quyết các mâu thuẫn, đó chính là “sự đấu tranh giữa các mặt

12
đối lập diễn ra theo quy luật cạnh tranh, cái cũ mất đi làm tiền đề để cái mới xuất
hiện tiến bộ hơn”. Rõ rang, những mâu thuẫn này cạnh tranh chân chính để phục
vụ cho sựu phát triển ngày càng tiến bộ của cộng đồng.
Trong chiều dài lịch sử của nước Việt Nam ta, đã trải qua hang nghìn năm gian
khổ để đấu tranh, giành lại độc lập, thống nhất nước nhà. Từ năm 1975 đến nay,
chúng ta đã không ngừng nỗ lực vượt qua bao khó khan, trở ngại vừa hồi phục
đất nước sau chiến tranh vừa đưa nước ta đi theo con đường XHCN, xây dựng
một nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ định hướng XHCN nhằm xây
dựng và đưa Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Từ một đất nước kinh tế
lạc hậu, nghèo nàn, kinh tế theo chế độ bao cấp quan liêu; từ năm 1986 dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chúng ta xây dựng Chính Sách Đổi Mới. Đó là
một bước ngoặt quan trọng của đất nước, đã có nhiều chuyển biến tích cực đối
với nền kinh tế lạc hậu của nước ta lúc bấy giờ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thử
thách trong tương lai, trong đó là sự tồn tại của mâu thuẫn trong các mặt đối lập
kìm hãm phát triển của đất nước. Nhưng song song đó, chính sự mâu thuẫn này
kích thích các chủ thể cạnh tranh, từ đó làm nền kinh tế phát triển theo hướng mở
rộng và sáng tạo hơn. Nhưng chúng ta không được chủ quan vì điều đó, vì những
rủi ro là rất lớn; vì vậy, vấn đề đặt ra cho cả Nhà nước và nhân dân ta là phải tìm
ra những biện pháp hợp lí để giải quyết các mâu thuẫn đó. Chọn ra những biện
pháp tối ưu nhất phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN; nâng
cao vai trò lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước; hoàn thiện chính sách
phát triển kinh tế; thúc đẩy, tạo điều kiện cho nhiều thành phần kinh tế trong và
ngoài nước cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển, hòa nhập vào sự phát triển
chcung của cộng đồng thế giới.
Với tính cấp thiết như trên và mong muốn tìm hiểu sâu về sự phát triển của nền
kinh tế nước nhà, quan điểm lý luận cũng như giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt
đối lập trên nhận thức và thực tiền nên em đã chọn đề tài “Vận dụng lý luận về
mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” để viết tiểu luận Triết học Mác-Lê
nin. Với kiến thức và sự tìm hiểu còn hạn chế, bài tiểu luận của em không tránh

13
khỏi sai sót. Mong thầy có thể đóng góp them ý kiến để bài tiểu luận cũng như
kiến thức hiểu biết của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO


- Giáo trình Triết học Mác-Lenin (trường ĐH Kinh tế quốc dân)
- http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-moi-quan-he-giua-doc-lap-tu-chu-va-
hoi-nhap-quoc-te.html
- https://tailieu.vn/doc/ly-luan-ve-mau-thuan-967607.html
- Wikipedia, bách khoa toàn thư mở
---------HẾT--------

14

You might also like