You are on page 1of 7

CHƯƠNG 1: MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG GIỮA SẢN XUẤT VÀ TIÊU

DÙNG
1. Lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng
1.1. Khái niệm chung về phép biện chứng mâu thuẫn
1.1.1. Các khái niệm
Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, chúng có
tác động qua lại với nhau, theo đó mâu thuẫn biện chứng thông thường sẽ được
tồn tại một cách khách quan, phổ biến ở trong xã hội, tư duy và tự nhiên.
Ví dụ: mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa lực hút và lực đẩy
trong thế giới vật lý, giữa đồng hóa và dị hóa trong sinh vật, v.v…

Nguồn gốc của mâu thuẫn biện chứng là do tính phức tạp của thế giới khách
quan và của nhận thức con người. Trong mâu thuẫn biện chứng, vì mỗi tư
tưởng chỉ phản ánh một mặt trong hai mặt đối lập có liên hệ biện chứng với
nhau của sự vật, nên mỗi tư tưởng đều có thể chứa đựng những yếu tố chân lý
nhất định (Ví dụ, với hai phán đoán: “Trong mỗi con người đều có cái thiện” và
“Trong mỗi con người đều có cái ác”, không nhất thiết chỉ có một cái đúng,
một cái sai).

Mâu thuẫn biện chứng có kết cấu gồm hai mặt đối lập và mối quan hệ giữa
chúng được thể hiện trong ba khái niệm: sự thống nhất của các mặt đối lập, sự
đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa của các mặt đối lập. Mối quan
hệ của các mặt đối lập có tính tất yếu, phổ biến, lặp đi lặp lại, được phép biện
chứng coi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng – quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Mâu thuẫn biện chứng phát triển từ thấp đến cao. Lúc đầu chỉ là sự khác nhau
giữa hai mặt, về sau biến thành sự đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập đi
từ chỗ ít gay gắt đến chỗ gay gắt hơn. Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập
cũng gắn liền với sự giải quyết thường xuyên của mâu thuẫn, nhưng đó chỉ là
sự giải quyết cục bộ, tạm thời. Chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến trình độ chín
muồi mới được giải quyết triệt để hoàn toàn. Còn trong những trường hợp
khác, sự giải quyết mâu thuẫn thường là sự kết hợp hài hòa giữa các mặt đối
lập.

Sự giải quyết mâu thuẫn biện chứng là quá trình khách quan phức tạp, không
phụ thuộc ý chí chủ quan của con người và không được quy về việc xóa bỏ
mâu thuẫn hay xóa bỏ một trong hai mặt đối lập, không chỉ phụ thuộc vào trình
độ phát triển mà còn phụ thuộc vào bản chất và điều kiện tồn tại của mâu
thuẫn.

1.1.2. Vị trí và vai trò của mâu thuẫn


Có vai trò quan trọng nhất trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật và được V.I. Lênin coi là “hạt nhân của phép biện chứng”.
Nghiên cứu quy luật này giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của sự tự
thân vận động, tự thân phát triển của thế giới khách quan và của tư duy con
người, khắc phục quan điểm duy tâm, siêu hình về sự phát triển.

1.2. Các tính chất của mâu thuẫn


1.2.1. Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến
Tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa
đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là
do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy đinh.
Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện tượng siêu nhiên
nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều
là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược
chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển
hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi
quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự
vật hiện tương.
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã
hội và tư duy của con người.
1.2.2. Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú
Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu
thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ
thể khác nhau. Chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật.
1.3. Phân loại mâu thuẫn
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Căn cứ vào ý nghĩa với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn
được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Ngoài ra, còn có mâu thuẫn đối kháng (mâu thuẫn giữa các lợi ích không thể
điều hòa được trong đời sống xã hội) và mâu thuẫn không đối kháng.

1.4. Nội dung của quy luật mâu thuẫn


Sự thống nhất và đối lập của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh không
tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Quá trình thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa
chúng.
Ví dụ: Trong cơ thể con người luôn có hai mặt đối lập là quá trình đồng hóa và
dị hóa, chúng luôn không ngừng thống nhất và đấu tranh. Mặt khác, quá trình
đồng hóa và dị hóa tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của
con người.
Lúc mâu thuẫn mới xuất hiện, nó thể hiện sự khác biệt và phát triển thành hai
mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và
khi điều kiện đã chín muồi, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau. Mâu thuẫn cũ mất
đi, mâu thuẫn mới được hình thành, quá trình tác động, chuyển hóa giữa các sự
vật được tiếp diễn, làm cho hiện tượng luôn vận động và phát triển.
Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
 Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vât.
 Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành
hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận
Cần phải phải phát hiện và phân loại các mâu thuẫn để nhận thức đúng bản chất
của sự vật, hiện tượng, đồng thời tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng phải tìm ra những mặt đối
lập và vạch ra những mối liên hệ, tác động qua lại (thống nhất và đấu tranh),
chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
Muốn sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm mọi cách đẩy mạnh sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập và tạo ra điều kiện cần thiết để mâu thuẫn sớm được giải
quyết.
Mâu thuẫn khác nhau phải có các phương pháp giải quyết khác nhau. Phải giải
quyết một cách linh hoạt, phù hợp.
2. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam
2.1 Quan điểm về sản xuất và tiêu dùng
2.1.1. Sản xuất hàng hoá
a. Khái niệm
Sản xuất hàng hóa (Commodity production) là một khái niệm được sử dụng
trong kinh tế chính trị Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong
đó sản phẩm được sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. Hay nói một cách khác, sản
xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra là để bán.
b. Điều kiện ra đời

 Phân công lao động xã hội


Phân công lao động xã hội tức là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao
động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Phân công lao
động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã
hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa
dạng hơn.

 Sự tách biệt kinh tế

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất tức là những
người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do
đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi,
mua bán hàng hoá. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất quy định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở
hữu của họ. Cụ thể, sản xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những người
sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa
những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một
mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản
phẩm của nhau.
c. Đặc trưng

 Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán

 Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư
nhân, vừa mang tính xã hội.
 Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ
không phải giá trị sử dụng.
a. Ưu điểm của sản xuất hàng hoá
 Khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng địa phương, từng vùng ở Việt Nam.
 Trình độ tay nghề được nâng lên, công cụ được cải tiến, kỹ thuật mới
được áp. Năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm cải thiện.
 Đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao,
phong phú và đa dạng.
b. Nhược điểm của sản xuất hàng hoá
 Làm phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng
hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực,
tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội
 tàn phá tài nguyên và hủy diệt môi trường ,sinh thái.

 Làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng gây ảnh hưởng đến sức
khỏe người tiêu dùng.
2.1.2. Tiêu dùng
a. Khái niệm
Tiêu dùng (consumption) là việc sử dụng những của cải vật chất
(hàng hóa và dịch vụ) được sáng tạo, sản xuất ra trong quá trình sản
xuất để thoả mãn các nhu cầu của xã hội. Tiêu dùng là giai đoạn
quan trọng của tái sản xuất. Tiêu dùng là một động lực của quá trình
sản xuất, nó kích thích cho sản xuất phát triển.
b. Tầm quan trọng của tiêu dùng
Khởi đầu của mọi hoạt động kinh tế.
Kết thúc các hoạt động kinh tế.
Tiêu dùng thúc đẩy sản xuất.
Các lý thuyết kinh tế.
Các lý thuyết về chính phủ.
Lý thuyết thu nhập và việc làm.
c. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến tiêu dùng
Thu nhập.
Kỳ vọng của người tiêu dung.
Tài sản tiêu dùng và của cải.
Tín dụng tiêu dùng.
Lãi suất.
Quy mô hộ gia đình.
Các nhóm xã hội.
Thị hiếu của người tiêu dùng.
Khu vực.
2.2 Tính thống nhất giữa sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam
 Sản xuất tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho tiêu
dùng. Không có sản xuất tạo ra vật liệu tiêu dùng thì không thể có
tiêu dùng.
 Sản xuất qui định phương thức tiêu dùng.

 Sản xuất tạo ra đối tượng cho tiêu dùng.

 Sản xuất cung cấp sản phẩm cho tiêu dùng tạo ra nhu cầu cho người
tiêu dùng.

Nhưng tác dụng của sản xuất đối với tiêu dùng không là tuyệt đối. Tiêu
dùng không là tiêu cực bị động, nó có tác dụng ngược lại rất lớn đối
với sản xuất, như C.Max đã nêu lên: “Không có tiêu dùng cũng không
có sản xuất”. Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là biện chứng. Tiêu
dùng là báo hiệu cho việc sản xuất tiếp theo.
 Tiêu dùng trực tiếp cũng là sản xuất, tức là tái sản xuất sức lao
động.
 Tiêu dùng tạo ra nhu cầu của sản xuất mới.

 Tiêu dùng là mục đích, là điểm cuối của sản xuất vì chỉ trong tiêu
dùng thì sản phẩm mới thực sự trở thành sản phẩm.
2.3 Tính mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam
Thực chất trong quá trình sản xuất và tiêu dùng thì người tiêu dùng và các
nhà sản xuất tác động lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ thống giá
cả thị trường, lợi nhuận thu nhập…. Các doanh nghiệp sẽ sản xuất những
mặt hàng đem lại lợi nhuận cao nhất bằng những kỹ thuật sản xuất rẻ nhất
và tiêu dùng của các hộ gia đình được xác định bởi số lượng tiền công có
được nhờ vào lao động và lợi tức thu được nhờ sở hữu tài sản của mình. Họ
có ảnh hưởng rất lớn đối với quyết định về việc sản xuất cái gì trong nền
kinh tế vì họ mua và tiêu dùng phần lớn sản phẩm. Và họ muốn được thoả
mãn tối đa nhu cầu với số thu nhập có hạn. Điều đó giải thích tại sao khi
đứng trước một hàng hoá bán ra với giá cả khác nhau, chắc chắn người tiêu
dùng sẽ mua hàng hoá với mức giá thấp hơn nên có thu nhập để thoả mãn
các nhu cầu khác. Vì thế mà thông thường người ta thấy rằng giá cao thì
lượng mua càng ít và ngược lại khi giá cả của mặt hàng giảm thì số người
mua sẽ tăng.
Tuy nhiên, hàng hoá không chỉ phụ thuộc vào giá cả mà còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố này có ảnh hưởng đến tiêu dùng như
thu nhập trung bình, thói quen, sở thích của người tiêu dùng. Giá cả hàng
hoá khác nhau đặc biệt là những hàng thay thế và quy mô của hàng hoá và
quy mô thị trường. Suy rộng ra, điều đó có nghĩa là: nếu một hàng hoá phù
hợp với yêu cầu và nhu cầu của người tiêu dùng thì nó sẽ được chấp nhận
với mức giá có thể cao hơn. Ví dụ khi ta mua một bộ quần áo trong các cửa
hàng thời trang sẽ đắt hơn nhiều so với việc đi mua món hàng đó ở chợ.
Nhưng do tâm lý muốn được đảm bảo chất lượng hàng và thoả mãn nhu cầu
riêng của mình nên họ chấp nhận giá cao. Xét trong năm 2002 theo thời báo
kinh tế Việt Nam giá nông sản tăng, giá nguyên liệu giảm: giá gạo tăng từ
9%-16%, giá cà phê tăng nhanh trong bốn tháng cuối năm, cao su thiên
nhiên tăng do cung thấp hơn cầu. Và một số mặt hàng về kim loại cũng có
tốc độ giảm giá nhanh. Điều này càng khẳng định một cách rõ ràng và chặt
chẽ của quy luật cung cầu về sản xuất hàng hoá hay chính là mâu thuẫn biện
chứng giữa sản xuất và tiêu dùng: đối lập nhưng vô cùng thống nhất, cái
này làm tiền đề cho cái kia phát triển và là nhân tố quan trọng để thị trường
tồn tại.

KẾT LUẬN
Từ những nhận định và lý luận trong mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng
hàng hoá, ta thấy rằng: nắm bắt và hiểu rõ bản chất vần đề này sẽ giúp chúng ta
có một sự tổ chức và điều hành một nền kinh tế phát triển hơn, đa dạng hơn về
chủng loại và phong phú hơn về chất lượng.

You might also like