You are on page 1of 8

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING


PHIẾU LÀM BÀI THU HOẠCH
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Ngày kiểm tra: 30/12/ 2022
Họ tên sinh viên: ……Huỳnh Hoàng Phúc…….…… MÃ ĐỀ: 02
Mã số sinh viên : ………2221000645………….
Mã lớp học phần: ……2231101113424………………
Bài làm gồm: ……….. trang
Điểm CB chấm thi
Bằng số Bằng chữ (Ký, ghi rõ họ tên)

BÀI LÀM:
………………
Câu 1 :
Theo phép biện chứng duy vật, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ
những mặt những thuộc tính những quá trình có đặc điểm tính quy định, có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và
tư duy sự khái quát những thuộc tính có xu hướng vận động , loại trừ, bài xích, chống
đối lẫn nhau. Chúng có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau nhưng lại tồn tại
song song trong cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật đó. Sự tồn tại của các
mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật. Theo chủ nghĩa Mác-
lênin, vai trò của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn đối với sự phát
triển sự vật được đánh giá rất cao. Chính cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập đã dẫn
tới việc giải quyết mâu thuẫn và qua đó làm cho sự vật phát triển. Giữa các mặt đối
lập luôn luôn tồn tại cùng nhau chúng có mối liên hệ với nhau và phụ thuộc, ràng
buộc lẫn nhau gọi là sự thống nhất của các mặt đối lập. Đây là khái niệm chỉ sự liên
hệ giữa chúng và được thể hiện ở việc :
 Các mặt đối lập cần đến nhau nương tựa nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau,
không có mặt này sẽ dẫn đến không có sự xuất hiện của mặt kia. Một sự vật
2

không thể tồn tại nếu thiếu đi một trong hai mặt đối lập chính tạo nên sự vật
đó.
 Các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh
giữa cái mới hình thành với cái cũ chưa mất hẳn. Điều đó có nghĩa là sự tồn
tại của bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng không thể thiếu được sự thống
nhất của các mặt đối lập tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng ấy.
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. So với sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
thì thống nhất giữa chúng chỉ mang tính tạm thời, tương đối, nghĩa là sự thống nhất
đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng còn đấu tranh
mang tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đã phá vỡ sự ổn định tương đối dẫn đến
sự chuyển hóa về chất giữa chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn với sự tự
thân vận động phát triễn diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng. Trong mâu
thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng.
Bởi vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển
trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được
chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể
hiện rõ nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau, nghĩa là nó vẫn nằm trong sự thống
nhất. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau ngày
càng quyết liệt đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối
lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau và cuối cùng mâu thuẫn được
giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Trong sự vật mới lại có mâu thuẫn mới
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập lại diễn ra quá trình này lặp đi lặp lại nhiều lần liên
tục làm cho sự vật vận động và phát triển không ngừng.
 Như đoạn văn trên :

Lúc đầu mẫu thuẫn xảy ra ở “giai cấp tư sản” và “giai cấp phong kiến” vì trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Và cách
mạng đã diễn ra khi mà mâu thuẫn đã không thể giải quyết trong lòng xã hội cũ từ
đó sinh ra quan hệ và lực lượng sản xuất mới. Từ đó lại tạo ra mâu thuẫn mới tồn
tại hai mặt đối lập: “giai cấp tư sản” và “giai cấp công nhân”.
Giai cấp tư sản là giai cấp chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội
tư bản và sống bằng sự bóc lột lao động làm thuê của giai cấp công nhân. Giai
cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức quan trọng là xóa bỏ chế độ
bóc lột tư bản chủ nghĩa, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ xã hội tư bản
chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Hai mặt này vừa đối
3

lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Khi mâu thuẫn của hai mặt này trở
nên gay gắt và khi đủ điều kiện chúng sẽ bài trừ, chuyển hóa lẫn nhau. Ta thấy
giai cấp tư sản với bản chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu, giới
chủ tư bản ngày càng tăng cường tích lũy tư bản cao độ phát triển tới một trình độ
nhất định nào đó thì tất cả những cái đó đều biến thành xiềng xích từ đó tạo nên
xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế chính trị xã hội với giai cấp công nhân. Giai cấp
tư sản áp bức, bóc lột giai cấp công nhân tạo động lực cho giai cấp công nhân
đứng lên đấu tranh, tiến hành các cuộc cách mạng vô sản. Và từ đó, khó khăn
được giải quyết : Dần dần đã xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mở
đường cho sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Khi mâu thuẫn cũ mất đi mâu thuẫn mới sẽ được hình thành và quá trình tác động
chuyển hóa giữa các mặt đối lập lại tiếp diễn làm cho sự vật luôn luôn vận động
và phát triển.
Mối liên hệ giữa thống nhất và đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập
của mọi sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau còn được gọi là
mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực và vô cùng đa dạng. Sự đa dạng đó
phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập. Mỗi mâu thuẫn có đặc điểm riêng và có
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng.
 Ví dụ để làm rõ nội dung quy luật:
Trong cuộc sống của em tồn tại hai mâu thuẫn đó là “em không có tiền” và “em
muốn mua quần áo mới”. Mâu thuẫn này lúc đầu chỉ tồn tại rất nhỏ trong em
nhưng dần dần mâu thuẫn phát triển đến một lúc nào đó mà em không mua
quần áo mới em sẽ cảm thấy buồn chán, thất vọng. Để giải quyết mâu thuẫn
này em đã quyết định đi làm thêm để kiếm được nhiều tiền hơn. Và khi kiếm
được nhiều tiền thì mâu thuẫn giữa việc “em không có tiền” và “em muốn mua
quần áo mới” đã được giải quyết. Em từ buồn chán, thất vọng thành vui vẻ,
hạnh phúc hơn. Và cuộc sống của em sau khi giải quyết mâu thuẫn đó đã phát
triển hơn.
 Ý nghĩa :
Ph.Ăngghen viết: “Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật như là đứng im và không
có sinh khí, cái nào riêng cho cái ấy, cái này bên cạnh cái kia và cái này nối tiếp cái
kia, thì chắc chắn là chúng ta không thấy được một mâu thuẫn nào trong các sự vật
cả”.
Giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng, nên cần phải biết phát hiện ra mâu thuẫn, tìm cách tác động, có như vậy
mâu thuẫn mới được giải quyết, sự vật cũ mới mất đi, sự vật mới mới ra đời.
4

Cũng như chúng ta đã nhận thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát
khỏi mâu thuẫn, chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên
trong của con người và sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những người bị hạn
chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng lực nhận thức, mâu
thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với
chúng ta trên thực tiễn cũng là vô tận và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô
tận.
Thông qua sự nghiên cứu về sự phát triển của xã hội đã giúp cho em có nhận thức
đúng đắn bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng giải pháp đúng cho hoạt động
thực tiễn ta phải đi sâu vào nghiên cứu phát hiện ra được mâu thuẫn của sự vật, phải
xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn. Để thúc đẩy sự phát triển
ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn không được điều hòa mâu thuẫn. Nhận
ra đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của tiến bộ phát
triển của xã hội. Kết quả của cuộc đấu tranh đều dẫn tới sự ra đời của phương thức
sản xuất mới. Thấy được tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong xã hội, nhận thức
được bản chất và hình thức biểu hiện của đấu tranh giai cấp, tạo cơ sở lý luận để
xây dựng đường lối chiến lược đấu tranh giai cấp chống lại áp bức bốc lột, xây dựng
chế độ xã hội mới đồng thời là cơ sở để giải quyết mâu thuẫn giai cấp xã hội thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Câu 2:
a) Theo em nội dung trong đoạn văn trên phản ánh cơ sở lý luận mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. ( chọn câu a).
b)
 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, là các
khái niệm chỉ hai mối quan hệ “ song trùng” của nền sản xuất vật chất của xã hội,
nghĩa là chúng tồn tại cùng nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo
thành quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất được hình thành
một cách khách quan cơ bản chủ yếu quyết định đến mọi quan hệ xã hội
Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là :
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên thông qua tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt của phương thức sản xuất có tác động biện chứng trong đó lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với
lực lượng sản xuất. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho yếu tố sản
xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
5

đòi hỏi khách quan của nền sản xuất là tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản
xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất mới ra đời.
Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất như sau:
+ Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mãnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò giữa
chúng được thể hiện thông qua sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó
trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả
của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất
khi nó không phù hợp.
 Vì sao lại chọn cơ sở lý luận trên :
Để mà làm rõ cho câu trả lời trên ta cần phải xem xét những thay đổi mà chuyển đổi
số mang lại. Nếu trước đây chúng ta ở trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần
thứ 3 với sự ra đời của kĩ thuật số thì ngày nay loài người đã có được những thành
tự của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0 mở ra kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo.
Khi mà việc chuyển đổi số chưa được đề cập hay biết tới thì con người là lực lượng
sản xuất chính tham gia vào việc quá trình sản xuất chủ yếu sử dụng tư liệu sản xuất
là tài nguyên thiên nhiên. Nhưng khi việc chuyển đổi số diễn ra sẽ làm thay đổi cách
vận hành sản xuất máy móc sẽ tự động tham gia vào quá trình sản xuất.
 Đối với đối tượng lao động :
Nhờ có công nghệ hiện đại mà vấn đề tài nguyên thiên nhiên đã được giải quyết khi
mà nền kinh tế công nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chính thì dẫn đến
nguồn lực tự nhiên đang càng khan hiếm thì với khoa học công nghệ hiện đại đã tối
ưu hóa được nguồn lợi ích mà thiên nhiên mang lại phát hiện ra nhiều thuộc tính mới
của tự nhiên.
 Đối với tư liệu lao động:
Tạo ra nhiều công cụ lao động mới đưa đến sự thay thế các tư liệu lao động truyền
thống bằng tư liệu tiên tiến hiện đại tạo ra phương thức sản xuất mới với những máy
móc tiết kiệm năng lượng và ít chất thải ra môi trường.
 Đối với người lao động:
Cách mạng công nghiệp đã tác động mãnh mẽ đến người lao động dần biến con
người từ yếu tố trực tiếp của sản xuất trở thành điều chỉnh quá trình sản xuất. Người
lao động giờ đây không chỉ giải phóng về lao động chân tay mà còn giải phóng về trí
óc và đặt ra những bài toán mới về lực lượng lao động phổ thông sẽ bị dư thừa và
6

nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định cho sự phát triển. Chuyển đổi số
nó tác động trực tiếp đến người lao động hay nói cách khác nó tác động trực tiếp lên
lực lượng sản xuất, làm thay đổi cơ cấu việc làm, đòi hỏi người lao động phải thay
đổi phương thức làm việc để thích nghi và nắm bắt cơ hội. Khi lực lượng sản xuất
thay đổi như vậy sẽ tác động lên quan hệ sản xuất yêu cầu phải cho ra đời một
phương thức sản xuất mới phù hợp với xã hội hiện tại làm thay đổi đến cách thức
sản xuất và có tác động mãnh mẽ đến yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất

Khi quan hệ sản xuất mới hình thành nó sẽ tác động ngược lại lưc lượng sản xuất.
Trong trường hợp này lấy ví dụ như nếu việc chuyển đổi số thành công thì cơ cấu
chuyển dich của nền kinh tế sẽ thay đổi yêu cầu đặt ra cho người lao động cũng cao
hơn, cơ hội việc làm sẽ cao nhưng mức dộ đào thải đi kèm cũng rất lớn. Yêu cầu
trình độ lao dộng phải được cải tiến và nâng cao, tỉ lệ người lao động có trình độ học
vấn cũng sẽ được nâng cao. Trước những cơ hội như vậy thì vẫn tồn tại những
thách thức trong việc chuyển đổi số như nếu việc chuyển đổi không phù hợp với tình
hình của người lao động hiện tại thì nó sẽ là con dao hai lưỡi. Lực lượng sản xuất
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, nó không chỉ được xã hội hóa như
trước kia, mà nó ngày càng được toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Toàn cầu hoá kinh tế
trước hết là toàn cầu hoá lực lượng sản xuất, cái mà thời C.Mác gọi là quá trình tư
bản hóa.
Muốn việc chuyển đổi số và việc phát triển sản xuất ở nước ta diễn ra thành công,
chúng ta cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất mà trước hết là người lao động
vì lực lượng sản xuất có vai trò là chức năng tạo ra của cải vật chất. Và sau đó xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức phải từng bước xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó. Hai
mặt đó không tách rời nhau, mà liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau trong
cái gọi là phương thức sản xuất. Không thể nào cải thiện tốt mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nếu không đông thời hoàn thiện kiến trúc
thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. Cần tuân thủ yếu tố khác quan của các quy
luật trong nền kinh tế thị trường để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
c)
Trách nhiệm của bản thân với việc chuyển đổi số của quốc gia :
Trước khi đề cập đến trách nhiệm của bản thân mình thì chúng ta phải hiểu được
tầm quan trọng của việc chuyển đổi số. Chuyển đổi số mang đến cho đất nước ta rất
nhiều cơ hội, như hiện nay có thể thấy rõ nhất là ở việc khám chữa bệnh ,bảo hiểm y
tế điện tử đây là một trong những bước đầu thay đổi của việc chuyển đổi số. Rồi việc
chuyển đổi số đêm lại cho các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội cạnh tranh sòng
phẳng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.Trong hai năm đại dịch chúng
ta có thế thấy rát rõ tầm quan trọng của chuyển đổi số đặc biệt trong giáo dục, nhờ
vào chuyển đổi số chúng ta đã ứng phó và thích nghi một cách rất hiệu quả ở công
7

tác giảng dạy. Bên cạnh những lợi ích mà chuyển đổi số mang lại thì đâu đó vẫn đặt
ra những thách thức cho đất nước ta như yêu cầu về trình độ lao động ngày càng
khắc khe hơn, rồi việc bảo vệ những giá trị văn hóa của dân tộc cũng là một vấn đề
nang giải mà sự thay đổi của chuyển đổi số mang lại.
Đi kèm với những cơ hội và thách thì bản thân chúng ta cũng cần phải có trách
nhiệm. Để việc chuyển đổi số diễn ra một cách tốt nhất thì trước tiên bản thân chúng
ta phải biết được mình là một phần quan trọng không thế thiếu trong công cuộc
chuyển đổi số .Chúng ta cần phải trao dồi kiến thức để không bị bỏ lùi phía sau khi
việc chuyển đổi số hoàn thành. Chuyển đổi số cũng yêu cầu đặt ra cần lượng lớn
người lao động tri thức tham gia vào vận hành, và chúng ta là một trong số những đối
tượng mà chuển đổi số hướng tới cho nên chúng ta phải nắm bắt thời cơ.Ngoài ra
trách nhiệm chúng ta cũng cần phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tránh chạy theo
những thứ mà chuyển đổi số mang lại dánh mất bản sắc dân tộc. Đặc biệt là thế hệ
trẻ, bản thân em phải là những người tiên phong trong công cuộc chuyển đổi số của
quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình Triết học MÁC-LÊNIN


[2] Tạp chí tuyên giáo ban tuyên giáo trung ương (Tư tưởng của Ph, Ăngghen về mâu thuẫn).
[3] Học thuyết của Marx: Đấu tranh giai cấp.
[4] Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập – LuatDuongGia.
[5] Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong cách mạng
công nghệ 4.0 – Khoitrithucso.
8

You might also like