Professional Documents
Culture Documents
BTL Triết học
BTL Triết học
-------***-------
CHƯƠNG II: MÂU THUẪN GIỮA NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM............................9
2.3. Mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam...................................................................................10
KẾT LUẬN......................................................................................................13
2.3. Mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
Trước hết, trong mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế tồn tại sự thống nhất giữa chúng, thể hiện ở mục tiêu
cuối cùng của hai mặt: vì lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền
kinh tế quốc gia, từ đó đảm bảo đời sống của nhân dân. Hội nhập kinh tế quốc
tế cũng nhằm phát huy tối đa nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, từ đó phát
triển kinh tế quốc gia, đem lại lợi ích cho dân tộc.
Không chỉ vậy, giữa hai mặt này còn có mối quan hệ biện chứng: Độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của
nhau. Nền kinh tế độc lập, tự chủ tạo tiền đề, điều kiện cho hội nhập kinh tế
quốc tế, quyết định chiến lược, chính sách phát triển trong quá trình hội nhập
để đạt hiệu quả cao nhất. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế phải phục vụ mục
tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nhằm củng cố tiềm lực kinh tế quốc
gia, bảo đảm độc lập tự chủ của quốc gia. Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu
hoá đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế
đã trở thành quá trình tất yếu trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nếu
không hội nhập mà xây dựng nền kinh tế tách bạch với thế giới, quốc gia đó sẽ
trì trệ, kinh tế khó phát triển, từ đó khó đảm bảo được độc lập tự chủ.
Mặt khác, giữa hai mặt cũng tồn tại những chiều hướng trái ngược, mâu
thuẫn lẫn nhau. Khi tham gia giao thương, ký kết các hiệp định song phương,
đa phương, quan hệ rộng rãi với các quốc gia khác, nước ta đồng thời phải điều
chỉnh chính sách, chiến lược phát triển sao cho phù hợp với hoàn cảnh; sự lưu
chuyển của các nguồn vốn cũng từ đó gia tăng, khó kiểm soát, đặt ra thách thức
cho duy trì, đảm bảo độc lập tự chủ.
Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cơ hội mở rộng thị trường
cho doanh nghiệp và sản phẩm trong nước, nhưng cũng đòi hỏi mở cửa thị
trường trong nước cho doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài. Tác động lan tỏa
về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt Nam còn yếu, sức cạnh tranh
của các mặt hàng chủ lực, của doanh nghiệp trong nước còn chưa cao, gây nên
sức ép cho nền kinh tế ngay trong thị trường nội địa. Những biến động trên thị
trường quốc tế cũng sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt
khi công tác xử lý, ứng phó trước rủi ro khi hội nhập còn chưa đồng bộ, bị
động. Chẳng hạn, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã gây tác động lớn tới
sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu và gây ra sự gia tăng trong chủ nghĩa bảo hộ
thương mại, từ đó gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế mở của Việt Nam. Những
nguy cơ như đất nước trở thành “bãi thải” công nghệ, bị ô nhiễm môi trường,
phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài... đều rất lớn, nếu như không có chiến
lược phát triển kinh tế đúng đắn, hiệu quả.