You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu

thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội
nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam”.

Họ và tên SV: Vũ Hồng Hải


Lớp tín chỉ: Quản trị Marketing CLC 64B
Mã SV: 11222039

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

0|Page
HÀ NỘI, NĂM 2023

Mục lục

Lời mở đầu...........................................................................................................................2

Nội dung chính....................................................................................................................3

I. Lý luận về mâu thuẫn.................................................................................................3

1. Tổng quan về quy luật mâu thuẫn.............................................................................3

1.1. Khái niệm............................................................................................................3

1.2. Phân loại mâu thuẫn...........................................................................................4

2. Nội dung quy luật mâu thuẫn....................................................................................5

3. Ý nghĩa phương pháp luận........................................................................................6

II. Mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế Việt Nam................................................................................................................7

1. Bản chất của nền kinh tế độc lập, tự chủ...................................................................7

2. Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam...............................................................7

3. Cách giải quyết mâu thuẫn........................................................................................9

3.1. Kết hợp ngoại lực và nội lực...............................................................................9

3.2. Xây dựng vững vàng nội lực.............................................................................11

Kết luận..............................................................................................................................12

Tài liệu tham khảo.............................................................................................................13

1|Page
Lời mở đầu
Trong Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ 4, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ: Định
hướng “độc lập, tự chủ gắn với hội nhập” xuất phát từ tư tưởng xuyên suốt của Đảng ta
và tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi thành lập nước đến nay. Trong đó, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả
là hết sức cần thiết, là tất yếu khách quan. Qua đó nâng cao vị thế đất nước; nâng cao sức
mạnh nội lực; xử lý hiệu quả các vấn đề nội tại và các thách thức nổi lên.

Độc lập, tự chủ là năng lực của quốc gia trong giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về
đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang
tính cưỡng bức, áp đặt từ bên ngoài. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
không có nghĩa là khép kín, tách bạch với khu vực và thế giới mà được thực hiện thông
qua việc phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực, phù hợp với yêu cầu trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định. Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn nhất quán, vận dụng sáng tạo, phù
hợp chủ trương: giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với
tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
thế giới.

Như vậy, mâu thuẫn xảy ra giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam là điều tất yếu. Có thể nói, cách để “phát huy” sự mâu thuẫn này
là việc Đảng và Nhà nước xây dựng những thể chế vững vàng để phát triển trong nước
đồng thời có những chính sách kịp thời, cụ thể, hợp lí trong những vấn đề hội nhập quốc
tế. Do đó, em đã làm bài tiểu luận với đề tài: “Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân
tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam”.

2|Page
Nội dung chính
I. Lý luận về mâu thuẫn
1. Tổng quan về quy luật mâu thuẫn
1.1. Khái niệm
- Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu
tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc
tính… có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan
trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi mâu thuẫn,
các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhua tạo nên một trạng
thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Mặt đối lập dùng để chỉ những mặt,
những yếu tố, những thuộc tính khác nhau có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau cùng tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng
và mẫu thuẫn biện chứng quy định sự biến đổi của các mặt đối lập nói riêng và của
sự vật, hiện tượng nói chung.
- Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm chỉ sự liên hệ giữa chúng và được
thể hiện ở các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau
tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia. Không chỉ vậy, các mặt đối lập tác
động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình
thành với cái cũ chưa mất hẳn và giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng
nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định
lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống
nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. Về vấn đề tương đối và tuyệt đối
của đấu tranh, V.I. Lênin, khi chú ý nhiều hơn đã viết: “Sự phát triển là một cuộc
“đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.

3|Page
1.2. Phân loại mâu thuẫn
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu.
a. Mâu thuẫn chủ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật,
hiện tượng, có tác dụng quy định đối với các mâu thuẫn khác tròn cùng giai đoạn
đó của quá trình phát triển. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải
quyết các mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn, còn sự phát triển, chuyển hóa của sự
vật, hiện tượng từ hình thức này sang hình thức khác phụ thuộc vào giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu.
b. Mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và
thứ yếu chỉ là tương đối, trong một số hoàn cảnh mâu thuẫn này là chủ yếu song
trong một điều kiện cụ thể khác mâu thuẫn ấy lại là thứ yếu.

Căn cứ vào các quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.

a. Mâu thuẫn bên trong


Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng… đối
lập nằm trong chính mỗi sự vật, hiện tượng; có vai trò quy định trực tiếp quá trình
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
b. Mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng, nhưng phải thông
qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.

4|Page
Căn cứ vào tính chất của các lợi ích cơ bản là đối lập nhau của các giai cấp, ở một giai
đoạn nhất định, người ta phân mâu thuẫn xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và không đối
kháng

a. Mâu thuẫn đối kháng


Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
giữa những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà
được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột; giữa giai cấp thống
trị và giao cấp bị trị.
b. Mâu thuẫn không đối kháng
Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những giai
cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản không đối lập
nhau. Các mâu thuẫn đó là cục bộ, tạm thời.

2. Nội dung quy luật mâu thuẫn


Nội dung của quy luật mâu thuẫn nói lên rằng mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự
vật, hiện tượng là nguyên nhân; giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động,
phát triển; sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng là tự thân. Quá trình từ khác
nhau, thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết quả là mẫu
thuẫn mới trong một sự vật, hiện tượng ở dạng thống nhất thường trải qua ba giai đoạn
chính, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của mình:

- Giai đoạn 1 (giai đoạn khác nhau): khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu
thuẫn thường được biểu hiện ở khác nhau giữa các mặt đối lập.
- Giai đoạn 2 (giai đoạn từ khác nhau chuyển thành mâu thuẫn): trong quá trình
vận động, phát triển của các mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và
bài trừ, phủ định lẫn nhau ở giai đoạn 1; sự khác nhau chuyển thành mâu thuẫn.
- Giai đoạn 3 (giai đoạn giải quyết mâu thuẫn): khi hai mặt đối lập xung đột gay
gắt với nhau, nếu có điều kiện thì hai mặt đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc
triệt tiêu nhau; hoặc cả hai mặt đó đều bị triệt tiêu; sự vật, hiện tượng chuyển sang

5|Page
chất mới. Mâu thuẫn được giải quyết với kết quả là hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ,
sự thống nhất giữa hai mặt mới được hình thành cùng với sự hình thành của mẫu
thuẫn mới. Mâu thuẫn này lại được giải quyết làm cho sự vật, hiện tượng mới luôn
xuất hiện thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho
sự vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là quan hệ giữa mâu
thuẫn biện chứng với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, trong đó mâu
thuẫn giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là động
lực bên trong của sự vận động và phát triển.
- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện,
thoáng qua, nghĩa là sự thống nhất đó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối
của sự vật, hiện tượng. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa
là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự
chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự
thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.

3. Ý nghĩa phương pháp luận


Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng;
từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan.
Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong
sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động
nhận thức và thực tiễn.

Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét vai trò, vị trí và mối
quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết
phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết
mâu thuẫn đó.

Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa
các mặt đối lập, không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ,

6|Page
bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi
chưa.

II. Mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế Việt Nam
1. Bản chất của nền kinh tế độc lập, tự chủ
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối
chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập, tự chủ
vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho nền kinh tế, cho
việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập, tự chủ về chính trị thì nội dung
cơ bản của độc lập, tự chủ của một quốc gia là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế là quan điểm nhất
quán, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của
Đảng trong điều kiện mới. Nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế không lệ thuộc, phụ
thuộc vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối,
chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương
mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của
dân tộc.

Nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế biệt lập, khép kín, tự cung, tự cấp,
thiếu gắn kết với các nền kinh tế trên thế giới, mà là nền kinh tế có sự độc lập, tự chủ về
đường lối phát triển phù hợp với xu hướng thế giới và thực tiễn lịch sử; có các nguồn nội
lực hùng hậu, năng lực cạnh tranh cao, cơ cấu kinh tế hợp lý, thích ứng nhanh và hiệu quả
với những biến động của tình hình quốc tế và hướng tới yêu cầu phát triển bền vững;
trong bất cứ tình huống nào cũng bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng, tài chính -
tiền tệ, môi trường quốc gia, kiểm soát được các rủi ro thị trường, giữ vững sự ổn định vĩ
mô và các hoạt động bình thường về kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.

2. Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam


Thực trạng hội nhâp quốc tế của một nước luôn được đánh giá một cách định tính theo
hai chiều “rộng-hẹp” và “nông-sâu”, các tiêu chí được xem xét theo phạm vi, mức độ

7|Page
tham gia và vị thế của nước đó trong cộng đồng quốc tế, trong nền chính trị, kinh tế thế
giới và nền văn minh nhân loại.

Quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam được khẳng định mạnh
mẽ từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã có nhiều nỗ lực thiết lập các mối quan hệ bang giao với các nước trên thế
giới, tham gia nhiều mặt của đời sống xã hội quốc tế, cộng đồng thế giới. Ngay từ tháng
1-1946, nhân danh Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã gửi thư đến Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc bày tỏ nguyện vọng Việt Nam gia
nhập Liên hợp quốc(13). Có thể nhắc đến những dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam trước Đại hội IX của Đảng (năm 2001), như thiết lập quan hệ
ngoại giao với tuyệt đại đa số các nước trên thế giới và quan hệ kinh tế - thương mại với
hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; trở thành thành viên của Liên hợp quốc
(năm 1977), Hội đồng tương trợ kinh tế (năm 1978), Liên minh Nghị viện thế giới (năm
1979), Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) (năm 1991), ASEAN (năm 1995), Hội
nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM) (năm 1996), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) (năm 1998)...

Tham gia vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực, đã
trở thành một nước xuất khẩu gạo (từ năm 1989) và hiện nay là một trong ba nước xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới với lượng xuất khẩu năm 2021 đạt 6,2 triệu tấn. Từ việc gia
nhập WTO đến việc đàm phán, ký kết CPTPP, Việt Nam đã có bước tiến dài trong hội
nhập quốc tế, trở thành một nước trực tiếp tham gia định hình khuôn khổ, luật lệ, chiều
hướng vận động của nền kinh tế thế giới. Điều này một lần nữa được khẳng định, khi
Việt Nam là một trong 14 nước tham gia đàm phán về Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương
- Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF). Có thể thấy, từ trọng tâm ban đầu là lĩnh vực
kinh tế, tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được triển khai
trên tất cả các lĩnh vực. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị
trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã hội nhập rộng và tương đối sâu vào nhiều

8|Page
mặt đời sống quốc tế. Đây là cơ sở thuận lợi cho Việt Nam bước sang giai đoạn mới -
giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, với trọng tâm là giành
lấy vị trí cao hơn trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân
loại. Giai đoạn mới trong tiến trình hội nhập quốc tế càng đòi hỏi Việt Nam phải chủ
động hơn, tích cực hơn.

3. Cách giải quyết mâu thuẫn


3.1. Kết hợp ngoại lực và nội lực
Đại hội XII (năm 2016), xác định: “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế,… kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn
hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Hai động thái này dù
mâu thuẫn nhau nhưng luôn tồn tại song song và cách giải quyết đầu tiên là phải đề ra
những chiến lược áp dụng để phát triển cả hai phía. Chính vì vậy, để hiện thực hóa mục
tiêu ấy đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế xây dựng và phát
triển đất nước.

Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với một nước có một bước
nhảy vọt lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ này được coi là trọng tâm bởi nó
không chỉ giúp Việt Nam đi tắt, đón đầu, tránh được các nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với các nước khác.

(1) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu

(2) Mở rộng và tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, nguồn vốn đầu tư và đối
tác, tránh phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác, tạo nền tảng cho phát triển ổn định,
bền vững. Chiến lược thị trường cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược sản phẩm và xúc tiến
quảng bá sản phẩm nhằm nâng cao vị thế và uy tín của sản phẩm hàng hóa trong nước.

9|Page
(3) Quy định chặt chẽ và mạnh dạn trong đổi mới công nghệ. Đi liền với quá trình du
nhập công nghệ, cần tăng nguồn tài chính đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, nhằm từng
bước nghiên cứu phát triển, tiến tới tự chủ dần về công nghệ.

Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đáp
ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển; đồng thời qua đó phát huy
vai trò của Việt Nam trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực và thế
giới. Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả, trong thời gian tới cần
chú ý thực hiện những giải pháp cụ thể sau:

(1) Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các FTA
yêu cầu ở cấp độ cao hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu, tham gia các điều ước quốc tế
trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư...; có đại diện làm việc tại các tổ chức
thương mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp quốc tế.

(2) Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược: cải cách thể
chế, phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển nguồn nhân lực.

(3) Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện
môi trường sản xuất, kinh doanh để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia sản
xuất hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị
trường khu vực và thế giới.

(4) Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiện thể chế
kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại, đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là những ngành có vị thế
của Việt Nam.

10 | P a g e
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội nhập
quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng
có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình.
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại để tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước ta với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam.

3.2. Xây dựng vững vàng nội lực

Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Càng hội nhập sâu rộng
càng đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền thống
dân tộc. Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững
độc lập, tự chủ. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc
của nước này vào nước khácTrường hợp này dễ xảy ra đối với các nước nghèo, nước nhỏ
trong mối quan hệ với các nước giàu, nước lớnHội nhập quốc tế cũng có thể tác động tới
sự phân hóa xã hội của từng nước, khi lợi ích từ việc hội nhập được phân chia khác nhau
đối với các nhóm khác nhau trong xã hội, và từ đó góp phần làm trầm trọng thêm các vấn
đề xã hội. Hội nhập quốc tế còn có thể làm cho lợi ích nhóm nổi trội hơn, từ đó làm cho
quá trình quyết sách thêm phức tạpnhất là trong trường hợp lợi ích nhóm trong các nước
liên kết với các yếu tố nước ngoàiHội nhập quốc tế không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc
lập, tự chủ, suy giảm chủ quyền quốc gia.

Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm về độc
lập, tự chủ là bất biến. Tuyệt đối hóa hay quan niệm cứng nhắc về độc lập, tự chủ sẽ ngăn
cản hội nhập, bỏ lỡ thời cơ hoặc làm giảm hiệu quả của hội nhập và do đó sẽ tác động
tiêu cực trở lại tới độc lập, tự chủ. Mặt khác, nếu không chủ động, sáng tạo tìm ra những
phương thức mới phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện hình thành từ quá trình hội
nhập quốc tế, thì việc bảo đảm độc lập, tự chủ cũng sẽ gặp nhiều thách thức.

11 | P a g e
Việc quán triệt, xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
đã góp phần quan trọng giúp đất nước ta đạt được những thành tựu phát triển to lớn, có ý
nghĩa lịch sử qua 35 năm đổi mới. Nước ta đã tiến vào một chiều sâu mới trên quỹ đạo
hội nhập quốc tế thực hiện những điều chỉnh căn bản, nâng cao vị thế, quy mô và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế; độc lập dân tộc được củng cố, năng lực tự chủ quốc gia
được tăng cường.

Kết luận
Tóm lại, đối với một nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và vô cùng quan trọng. Nhưng
song song với đó ta cũng phải xây dựng nên kinh tế độc lập, tự chủ để có thể đi đường
dài và đứng vững trên thương trường quốc tế. Hai hướng đi này tuy có mâu thuẫn những
cách giải quyết lại là những bước đi cơ bản mà một đất nước phải đi qua để từng bước
củng cố nội lực từ đó khi tiếp xúc với các nền kinh tế khác có thể dễ dàng tiếp cận và
không tụt lùi về sau.

Việt Nam dù trải qua nhiều khó khăn từ các suy thoái và đặc biệt là Covid-19 khiền nền
kinh tế trì trệ, Nhà nước đã rất kịp thời khắc phục các khó khăn để tiếp tục xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập tự chủ không phải là khép mình không du
nhập với thế giới mà là giữ vững những lập trường, những sự quyết định cũng như vật
chất thuộc về chúng ta và Nhà nước luôn ý thức được điều đó và trong các đại hội luôn
nhắc nhở về tính quan trọng của việc không đánh mất bản sắc riêng của mình trên trường
quốc tế.

Chúng ta nghiên cứu vấn đề này không nhằm một mục đích gì khác đó là tìm ra điều
kiện tốt nhất để phát triển đất nước. Mâu thuẫn này xảy ra là điều tất yếu và cách giải
quyết đòi hỏi sự cứng rắn, quyết liệt và hai điều này luôn luôn là hai lĩnh vực cần được
phát triển mạnh mẽ. Chính vì vậy, những quyết sách đưa ra luôn phải được cân nhắc kĩ
lưỡng tránh để xảy ra việc tuyệt đối hóa một mặt.

12 | P a g e
Tài liệu tham khảo
1. Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả theo tinh thần Đại hội
XIII của Đảng – Tạp chí Cộng sản – Tác giả: TS. Nguyễn Mạnh Hùng – Nguyễn
Thị Hoa. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/826434/hoi-nhap-quoc-te-toan-dien%2C-sau-rong%2C-linh-hoat%2C-
hieu-qua-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx

2. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế - Tạp chí Quốc phòng nhân dân – Tác giả: Đại tá, PGS, TS. Phạm Văn Sơn.
http://m.tapchiqptd.vn/vi/chao-mung-dai-hoi-dang-toanquoc-lan-thu-xiii/xay-dung-nen-kinh-te-
doc-lap-tu-chu-va-nang-cao-hieuqua-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-16610.html

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd,
t.I, tr.216.

4. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ - Tạp chí Tuyên giáo – Tác giả: GS.TS Vũ
Văn Hiền https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/xay-
dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-134682

5. Nền kinh tế độc lập, tự chủ và vai trò khu vực kinh tế nhà nước – Tạp chí Ngân
hàng – Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong, ThS. Nguyễn Trần Minh Trí

13 | P a g e

You might also like