You are on page 1of 39

1.

Phân tích chứng minh cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử
cụ thể? (Nguyên lý Mối liên hệ phổ biến)

Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể là nguyên lý Mối
liên hệ phổ biến

a. Nội dung của mối liên hệ phổ biến

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách
quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.

Thế giới được tạo thành từ vô số sự vật, hiện tượng và quá trình khác nhau. Phép biện
chứng duy vật cho rằng mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng là quan trọng.
Tất cả các sự vật và hiện tượng trong thế giới tồn tại trong mối liên hệ, tác động và tương
tác với nhau liên tục. Các sự vật và hiện tượng chỉ là dạng tồn tại cụ thể của vật chất duy
nhất trong thế giới. Ý thức của con người là thuộc tính của bộ óc, một dạng vật chất sống có
tổ chức cao, và nội dung của ý thức là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất. Một ví
dụ minh họa là quá trình quang hợp của cây, trong đó cây sản xuất khí oxi và động vật hít
thở khí oxi, sau đó động vật thải chất thải tạo thành chất dinh dưỡng trong đất cho cây.

b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến


+ Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh
mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan. Liên hệ là tất yếu, khách quan, vốn có của sự vật hiện tượng.

Ví dụ: Con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi trường tự nhiên và xã hội dù
họ có ý thức được hay không. Đó là điều khách quan và không thể thay đổi bởi ý chí
con người

+ Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn
ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra
đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Sự liên hệ qua lại bên trong cơ thể người có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ
giữa người với người.

+ Tính đa dạng, phong phú: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn
cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó.
Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế
giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng
nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.

Ví dụ:
- Mỗi người khác nhau thì có mối liên hệ với cha, mẹ, anh em, bạn bè khác nhau. Hay,
cùng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai đoạn khác nhau có
tính chất và biểu hiện khác nhau.
- Các loại cá,chim,thú đều có quan hệ với nước nhưng cá quan hệ với nước khác với
chim và thú. Cá không thể sống thiếu nước, không có nước thường xuyên cá không
sống được, nhưng các loài chim thú thì lại không sống trong nước thường xuyên
được.

Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh thế giới trong những mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới, cũng như tính vô
lượng các sự vật, hiện tượng đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được
quy định bằng các mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.

Ý nghĩa phương pháp luận:

- Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn, cần xem xét sự
vật hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa
các mặt của chính sự vật.

- Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động
thực tiễn cần phải xem xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống
giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ
cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu
quả trong công việc xử lý các vấn đề thực tiễn, đồng thời khắc phục quan điểm phiến diện, siêu
hình triết trung, ngụy biện
1. Cơ sở lý luận của câu nói: “Rút dây động rừng”(ANS: nguyên lý Mối liên hệ
phổ biến)

Trình bày nguyên lý + Ý nghĩa câu nói => Liên hệ

- Ý nghĩa của câu nói “Rút dây động rừng”


Nghĩa đen: Rừng” là nơi sinh sống, phát triển của nhiều loại động thực vật khác nhau, đặc
biệt là sự phát triển vô cùng phong phú với các loài cây. Dây leo là loài thực vật được bắt
gặp ở mọi khu rừng. Bởi vậy, chỉ cần một hành động vô tình dẫm, động hay “rút” dây thì sẽ
làm rung động cả khu rừng rộng lớn.
Qua đó cho thấy, câu thành ngữ “Rút dây động rừng” cho chúng ta thấy được giữa “dây” và
“rừng” có mối quan hệ chặt chẽ, nếu tác động cái này thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cái
kia và ngược lại.

Nghĩa bóng: “Rút dây động rừng” còn ẩn chứa một ý nghĩa sâu sắc, đó là trong cuộc sống
chỉ một hành động vô ý, không cẩn trọng của ta cũng có thể kinh động đến những sự vật,
sự việc xung quanh, gây ảnh hưởng đến nhiều người. Bởi vậy, con người cần phải biết cẩn
trọng, suy nghĩ kĩ càng trước khi hành động.

- Trình bày nguyên lý + Ví dụ như câu 1


2. Hãy cho biết quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng (thế giới) diễn ra theo
những quy luật nào. Trình bày: (1) nguồn gốc của sự phát triển; (2) cách
thức/phương thức của sự phát triển; (3) khuynh hướng của sự phát triển.

Diễn ra theo 3 quy luật: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại (còn gọi là quy luật lượng – chất), quy luật mâu thuẫn và
quy luật phủ định của phủ định.

1. Nguồn gốc của sự phát triển: Quy luật Mâu Thuẫn


- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập còn được gọi là quy luật mâu thuẫn.
- Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản và là quy luật quan trọng nhất của
phép biện chứng duy vật. Theo đánh giá của Lênin, quy luật mâu thuẫn là “hạt nhân” của
phép biện chứng.
- Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển.

Nội dung quy luật


a. Khái niệm mâu thuẫn, mặt đối lập
- Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối
lập trong một sự vật, một hiện tượng.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng
vận động trái ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
b. Tính chất chung của mâu thuẫn
Vì mâu thuẫn cũng là mối liên hệ, nhưng không phải bất kỳ các mối liên hệ nào, mà chỉ là
mối liên hệ giữa các mặt đối lập, nên mâu thuẫn cũng có đầy đủ các tính chất chung của
mối liên hệ: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan: Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không
phải do sự áp đặt từ bên ngoài. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng điều chứa đựng mâu
thuẫn bên trong, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành; sự vật, hiện
tượng vừa là nó, vừa là cái khác.
Tính phổ biến: Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi quá trình; có cả trong
tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Tính đa dạng, phong phú: Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mà mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm
riêng, có vị trí, vai trò riêng, có cách giải quyết riêng:
- Có mâu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài.
- Có mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn không cơ bản.
- Có mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn thứ yếu.
- Có mâu thuẫn đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng.
c. Mâu thuẫn là một chính thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau
Sự thống nhất của các mặt đối lập:
- Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa
các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ
không có mặt đối lập kia và ngược lại.
- Là sự đồng nhất của các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập cho dù có khác nhau nhưng
bao giờ cũng có yếu tố giống nhau, tương tự nhau.
- Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập: Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Thực chất của sự đấu tranh của các mặt đối lập gắn liền với quá trình hình thành, phát triển
và giải quyết mâu thuẫn.
- Giai đoạn hình thành mâu thuẫn:
+ Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau.
+ Khác nhau bề ngoài.
+ Khác nhau bản chất – Mâu thuẫn được hình thành.
- Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
+ Các mặt đối lập xung đột với nhau.
+ Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau – Mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm.
- Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn:
+ Sự chuyển hóa của các mặt đối lập – Mâu thuẫn được giải quyết – sự vật, hiện tượng mới
được ra đời – xuất hiện mâu thuẫn mới... - Cứ như vậy, sự vật, hiện tượng không tồn tại
vĩnh viễn và quá trình vận động, phát triển của thế giới là vô tận.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập có thể được diễn ra theo hai cách: - Thứ nhất, các mặt
đối lập chuyển hóa cho nhau.
- Thứ hai, cả hai đều trở thành những chất mới.
Mối quan hệ giữa thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
- Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống
nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh; đấu tranh trong tính thống
nhất của chúng.
- Mặc dù vậy, chúng có sự khác biệt:
+ Sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng im tương đối; còn sự đấu
tranh phản ánh trạng thái vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng.
+ Nhờ có sự thống nhất, sự vật, hiện tượng mới tồn tại; còn nhờ có sự đấu tranh, sự vật,
hiện tượng mới phát triển.
+ Theo V.I.Lênin: Sự thống nhất là tạm thời, tương đối; còn sự đấu tranh là tuyệt đối.
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Phát triển là một “cuộc đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.

Ý nghĩa phương pháp luận


- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất và
nhận thức các mặt đối lập của nó”.
- Phải biết phát hiện mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
- Phải biết phân loại mâu thuẫn và có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với
từng loại mâu thuẫn.
- Việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể.

2. Cách thức/phương thức của sự phát triển: Quy Luật Lượng - chất
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại (còn gọi là quy luật lượng – chất).
- Quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật lượng – chất vạch ra cách thức của sự phát triển.

1. Nội dung quy luật


a. Khái niệm chất, lượng
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự
thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
- Chất có tính khách quan, được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn có của sự
vật. Vì vậy, để xác định chất của sự vật thì cần phải xác định các thuộc tính của nó, mà
thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ ra khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật khác.
- Chất có tính khách quan, được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn có của sự
vật. Vì vậy, để xác định chất của sự vật thì cần phải xác định các thuộc tính của nó, mà
thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ ra khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật khác.
- Thuộc tính bao gồm hai loại: Thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
- Thuộc tính cơ bản là những thuộc tính quyết định chất của sự vật; nghĩa là khi nó thay đổi
thì chất của sự vật sẽ thay đổi.
- Thuộc tính không cơ bản là những thuộc tính không quyết định chất của sự vật; nghĩa là
khi nó thay đổi thì chất của sự vật vẫn chưa thay đổi.
+ Tuy nhiên, sự phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tính
tương đối, tùy thuộc vào từng mối quan hệ nhất định.
+ Tổng hợp các thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản; còn tổng hợp các thuộc tính không
cơ bản tạo thành chất không cơ bản của sự vật.
- Nhưng mặt khác, mỗi thuộc tính lại được tạo thành từ các đặc trưng về chất của nó; vì
vậy, mỗi thuộc tính lại đóng vai trò là một chất. Do đó sự phân biệt giữa thuộc tính và chất
cũng chỉ mang tính tương đối.
- Sự vật có vô vàn thuộc tính, nên sự vật không chỉ có một chất mà còn có vô vàn chất.
- Chất biểu hiện tính toàn vẹn, tính chỉnh thể thống nhất của sự vật.
- Chất và sự vật gắn liền với nhau: Chất là chất của sự vật; còn sự vật tồn tại với tính quy
định về chất của nó.
- Chất của sự vật không chỉ được xác định bởi chất của các thuộc tính, mà còn được xác
định bởi phương thức liên kết giữa các thuộc tính cấu thành nó.
Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về
mặt số lượng các thuộc tính, yếu tố cấu thành; quy mô của sự tồn tại; tốc độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển của nó.
- Lượng có tính khách quan, là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có vô vàn chất, cho nên nó cũng có vô vàn lượng. Mỗi loại lượng
có phương thức xác định khác nhau. Có những lượng được biểu thị bằng con số chính xác,
nhưng cũng có những lượng phải bằng sự trừu tượng hóa, khái quát hóa.
- Sự phân biệt giữa lượng và chất cũng chỉ mang tính tương đối, tùy vào từng đối mối quan
hệ nhất định.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất


Từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất. Hai
mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng, bởi vì chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Tuy
nhiên, không phải sự thay đổi bất kỳ nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một
giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn ấy được
gọi là độ.
- Khái niệm độ dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng.
Khi lượng thay đổi đến một điểm giới hạn vượt quá độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về
chất. Điểm giới hạn đó là điểm nút.
- Khái niệm điểm nút dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi
về chất của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy.
- Khái niệm bước nhảy dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng do sự
thay đổi về lượng của nó trước đó gây nên.
Có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau (bước nhảy dần dần và đột biến, bước nhảy cục
bộ và toàn bộ, bước nhảy tự phát và tự giác,...).
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển
liên tục của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển
liên tục của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Nước ở trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C
đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến đổi nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang
trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
Sự tác động trở lại của chất đối với lượng
Chất mới ra đời có sự tác động trở lại đến lượng của sự vật, hiện tượng. Chất mới tác động
đến lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

2. Ý nghĩa phương pháp luận


- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải chú ý khâu tích lũy dần dần về lượng, đồng thời
phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
- Chống quan điểm “tả khuynh” (chủ quan, nóng vội, duy ý chí), khi lượng chưa biến đổi đến
điểm nút đã vội vàng thực hiện bước nhảy.
- Chống quan điểm “hữu khuynh” (bảo thủ, trì trệ), khi lượng đã biến đổi đến điểm nút
nhưng không thực hiện bước nhảy.
- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước
nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một
cách kịp thời.
- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện những bước nhảy khi hội đủ các điều
kiện chín muồi.

3. Khuynh hướng của sự phát triển: QL Phủ định của phủ định
- Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
- Quy luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển.
1. Khái niệm phủ định biện chứng
- Trong thế giới vật chất, mọi sự vật đều có quá trình sinh ra, tồn tại, rồi lại bị mất đi và được
thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới gọi là phủ định.
- Phủ định biện chứng không bao hàm mọi sự phủ định nói chung, mà nó chỉ bao hàm
những phủ định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, tạo ra bước
nhảy về chất, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
- Phủ định biện chứng có những đặc điểm:
+ Tính khách quan: Nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là
kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật. Như vậy, phủ định biện chứng
là sự tự thân phủ định.
+ Tính kế thừa: Phủ định biện chứng là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của
bản thân sự vật và của quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất, cho nên cái
mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình với cái cũ, mà
là sự phủ định có kế thừa. Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, chứ không phải từ hư vô, cái
mới không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích
hợp của cái cũ chuyển sang cái mới dưới dạng “lọc bỏ”, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ nhưng mặt
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng
thời cũng là khẳng định.
Như vậy, phủ định biện chứng là một mắt khâu tất yếu của sự phát triển.

- Ý nghĩa của vấn đề phủ định biện chứng.


Quan điểm biện chứng về phủ định chống lại quan điểm siêu hình về phủ định.
+ Quan điểm siêu hình coi phủ định là sự tác động từ bên ngoài, là bác bỏ hoàn toàn cái cũ,
là phủ định sạch trơn, chấm dứt sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Quan điểm siêu hình khi kế thừa lại kế thừa một cách nguyên xi, không phê phán, không
cải tạo, lắp ghép một cách rập khuôn, máy móc nhân tố cũ vào cái mới. Do đó, quan điểm
siêu hình không thấy được tiền đề của sự nảy sinh cái mới, hoặc không thấy khuynh hướng
phát
triển của cái mới.
+ Quan điểm phủ định biện chứng đã nối liền cái mới với cái cũ, thấy được khuynh hướng
phát triển của cái mới.

2. Nội dung quy luật:


- Phạm trù “phủ định biện chứng” mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang
trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là “cái phủ định” (lần thứ nhất), cái mới cũng
chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới phủ định lần thứ hai “phủ định của phủ định”.

- Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, sợi dây chuyền của những lần phủ định
biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái
mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh
hướng phủ định của phủ định, từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy ốc”. Sau
mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên
cơ sở cao hơn.
- Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn bên
trong của sự vật quy định. Mỗi lần phủ định đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa
lẫn nhau của các mặt đối lập – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Qua sự phủ định lần
thứ nhất tạo ra cái phủ định đối lập với cái khẳng định ban đầu. Qua sự phủ định lần thứ hai,
sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như
trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên như cũ mà trên cơ sở cao hơn.
- Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và cái khẳng định,
là sự tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực của cái khửang định ban đầu và cái phủ định
lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự “lọc bỏ” những giai
đoạn đã qua, vì vậy nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn.
- Phủ định của phủ định đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật, đồng thời nó
là điểm xuất phsat của một chu kỳ tiếp theo.
- Không nên hiểu một cách máy móc, giản đơn rằng bất kỳ sự vật nào cứ trải qua hai lần
phủ định thì hoàn thành một chu kỳ phát triển. Số lượng các bước phủ định của một chu kỳ
phát triển có thể nhiều hơn hai lần phủ định, tùy theo tính chất của một quá trình phát triển
cụ thể. Song về nguyên tắc, vẫn có thể quy về hai lần phủ định: Phủ định lần thứ nhất
chuyển cái khẳng định thành cái đối lập với mình, phủ định lần thứ hai là loại phủ định trải
qua một số khâu trung gian để chuyển thành cái đối lập với cái phủ định lần thứ nhất.
- Quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội
và tư duy.

3. Ý nghĩa phương pháp luận


- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết một cách đúng đắn về xu hướng phát triển
của sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, sự phát triển diễn ra thường quanh co, phức tạp, đặc biệt
trong lĩnh vực đời sống xã hội. Song phát triển là khuynh hướng chung, tất yếu của sự vật,
không nên bi quan trước những thất bại tạm thời, cần tin tưởng rằng cái mới nhất định sẽ
thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng lạc hậu, cái mới là cái ra đời phù hợp
với quy luật phát triển của sự vật.
- Trong giới tự nhiên, phủ định được diễn ra một cách tự động, còn trong lĩnh vực xã hội có
sự tham gia của con người có ý thức. Vì vậy cần phát hiện đúng, kịp thời cái mới, phát huy
mọi điều kiện khách quan cũng như những nhân tố chủ quan tích cực, thuận lợi để tạo ra
cái mới tiến bộ thay thế cho cái cũ.
- Cần phải tuân theo logic khách quan của tiến trình phủ định trong đời sống xã hội. Đó là
luận chứng cho tính không tất yếu trong sự tồn tại của đối tượng cần phủ định (đây là sự
phê phán mang tính xây dựng, làm tiền đề cho sự phát triển). Từ đó xây dựng nên mô hình
lý luận về cái mới cần phải có để thay thế cái đã có. Tiến hành phủ định bằng thực tiễn để
hiện thực hóa mô hình lý luận về cái mới nhằm thay đổi trong hiện thực của đời sống xã hội.
Nghĩa là phủ định từ tư tưởng, lý luận dẫn đến phủ định trong thực tiễn.
4. Hãy chứng minh Phát triển là sự đứt đoạn trong liên tục (Quy luật Lượng - Chất để
chứng minh)

Theo triết học Mác thì phát triển dùng để chỉ sự vận động đi từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều
hay yếu đến mạnh bao trong cả một số giai đoạn phát triển có cả đường cong, đường dích
dắc, vừa liên tục vừa đứt đoạn, vừa có tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Ðó là một quá
trình tích lũy và chuyển hóa không ngừng giữa lượng và chất, thông qua sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập theo con đường phủ định của phủ định. Nó bao hàm cả những bước tiệm
tiến và cả những bước nhảy vọt. Do vậy, phát triển là sự vận động đi lên bao hàm cả bước
lùi tạm thời và cả vận động riêng lẻ hay còn gọi là sự đứt đoạn trong liên tục.

Quy Luật lượng – chất là cơ sở lý luận của quan điểm trên nhằm chỉ ra khuynh hướng
của sự vật là sự vận động đi lên và bao gôm cả những sự đứt đoạn.

+ Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
+ Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các
phương diện: số lượng, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát
triển của sự vật hiện tượng.

- Sự thống nhất giữa lượng và chất: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống
nhất giữa hai mặt chất và lượng, lượng có xu hướng thường xuyên biến đổi, còn chất có xu
hướng ổn định tạm thời. Lượng và chất tác động lẫn nhau trong suốt quá trình tồn tại của
sự vật hiện tượng. Sự thống nhất đó được thực hiện trong độ. Độ là khái niệm chỉ khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng.

- Quá trình từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:

+ Trong khoảng giới hạn độ, lượng của sự vật có xu hướng thường xuyên biến đổi theo
chiều hướng tăng dần hoặc giảm dần. Sự thay đổi về lượng tác động lên chất của sự vật,
đến lúc nào đó làm thay đổi chất của sự vật, sự vật biến thành sự vật mới. Thời điểm đó gọi
là điểm nút.

+ Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới thông qua bước nhảy. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình
thức bước nhảy khác nhau: nhanh – chậm; lớn – nhỏ; toàn bộ - bộ phận…

+ Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục
của sự vật.

- Quá trình thay đổi về chất dẫn tới sự thay đổi về lượng: Khi chất mới ra đời lại có sự tác
động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật trên nhiều phương
diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật.

Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất
và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
thông qua bước nhảy, đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, tạo ra
những biến đổi mới về lượng của sự vật. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương
thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Khi lượng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời
thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này
tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động,
phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính
gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.

2. Ý nghĩa phương pháp luận


- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải chú ý khâu tích lũy dần dần về lượng, đồng thời
phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
- Chống quan điểm “tả khuynh” (chủ quan, nóng vội, duy ý chí), khi lượng chưa biến đổi đến
điểm nút đã vội vàng thực hiện bước nhảy.
- Chống quan điểm “hữu khuynh” (bảo thủ, trì trệ), khi lượng đã biến đổi đến điểm nút
nhưng không thực hiện bước nhảy.
- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước
nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một
cách kịp thời.
- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện những bước nhảy khi hội đủ các điều
kiện chín muồi.
5. Hãy chứng minh/Vì sao nói sự (phát triển) ra đời của cái mới thay thế cái cũ
diễn ra theo đường xoáy ốc đi lên. (Quy Luật Phủ định của phủ định)

Quy luật Phủ định của Phủ định

Phủ định biện chứng chỉ ra sự nảy sinh cái mới trong lòng cái cũ, bắt nguồn từ cái cũ. Phủ
định là sự gián đoạn trong sự phát triển liên tục của sự vật. Nhờ những gián đoạn này mà
sự vật đạt được những trạng thái chất lượng mới trong sự tồn tại, phát triển của mình.

- Mỗi phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật
cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự ra
đời của cái mới. Sự vật mới này đối lập với sự vật được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất, nó
được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở
lại cái cũ nhưng ở trình độ mới cao hơn. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển
biện chứng thông qua phủ định của phủ định.

- Mỗi phủ định đều bao hàm khẳng định. Mỗi phủ định về sau là sự tổng hợp, khẳng định
những cái đã được bảo tồn trong các phủ định trước và sự loại bỏ dần dần những yếu tố,
những mặt bảo thủ của cái cũ. Cái phủ định cuối cùng trong chuỗi phủ định (phủ định của
phủ định) là sự tổng hợp mọi phủ định đưa đến sự hình thành cái mới thay thế cái cũ. Chính
vì vậy, sự vật mới là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong
phú hơn.

- Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm
xuất phát của một chu kỳ tiếp theo, tạo ra đường xoáy ốc của sự phát triển. Mỗi đường mới
của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển. Sự nối tiếp nhau của
đường xoáy ốc tạo thành tính vô tận của sự phát triển.

- Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát
triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc,
dường như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng trong đường
xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, phủ định biện
chứng đã đóng vai trò là những "vòng khâu" của quá trình đó. Từ đó ta chứng minh được
sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ diễn ra theo đường xoáy ốc đi lên là có cơ sở dựa trên
những kiến thức và lập luận từ triết học Mác.

Ý nghĩa quy luật phủ định của phủ định


Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta làm sáng tỏ các chiều hướng vận động và
phát triển của sự vật. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa phương pháp luận trong việc nhận thức
và hoạt động thực tiễn.

1. Cái mới xuất hiện từ cái cũ nhưng không được bỏ hoàn toàn cái cũ
Khi nhận thức, hoạt động trong thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng cái mới luôn thay thế cho
cái cũ, sự tiến bộ nhất định sẽ thay thế cho sự lạc hậu. Cái mới được ra đời dựa trên cái cũ
và kế thừa những điều tích cực từ cái cũ. Chính vì vậy, chúng ta cần chống lại hay ngăn
ngừa thái độ phủ định hoàn toàn cái cũ.
2. Cần chủ động phát hiện, bồi dưỡng, thúc đẩy cái mới
Trong hoạt động thực tiễn, ta cần phát hiện kịp thời cái mới, biết quý trọng và tin tưởng và
sự phát triển trong tương lai của cái mới. Có thể ban đầu cái mới còn khá ít ỏi và yếu ớt
nhưng ta cần hết sức ủng hộ, bồi dưỡng cũng như phát huy cái mới, tạo điều kiện để cái
mới có thể chiến thắng cái cũ.

Trong quá trình đấu tranh cùng cái cũ, chúng ta cần biết sàng lọc để giữ lại những điều tích
cực, có giá trị tốt từ cái cũ, cải tạo cái mới sao cho phù hợp với điều kiện mới. Cần chống lại
thái độ “hư vô chủ nghĩa” khi nhìn nhận và đánh giá quá khứ.

3. Khắc phục thái độ bảo thủ, loại trừ những hủ tục trong xã hội
Đồng thời chúng ta cần khắc phục, ngăn ngừa thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại những điều
lỗi thời làm cản trở sự phát triển của lịch sử. Cần nhận thức rõ ràng đâu là cái lỗi thời, đâu
là cái tích cực cần lưu giữ.
6. Vì sao nói thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích, tiêu chuẩn của chân lí? ->
Trình bày thực tiễn là gì, các hình thức thực tiễn, hình thức quan trọng nhất,
khái niệm nhận thức, hình thức của nhận thức r mới trl câu hỏi

Khái niệm và các hình thức của Thực tiễn:


Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải biên thế giới khách quan. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng
công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của
mình. Đây là hoạt động đặc trưng của bản chất con người, nói tới thực tiễn là hoạt động có
tính tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của
động vật.

Thực tiễn có ba hình thức cơ bản:

- Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan trọng
nhất, là hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn. Đây là hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của
cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
Sản xuất vật chất cũng là cơ sở cho sự tồn tại các hình thức thực tiễn khác cũng
như tất cả các hoạt động sống khác của con người.

- Ví dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa trên đồng; người ngư dân
dùng lưới để đánh bắt cá trên biển...

- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức
khác nhau trong xã hội nhằm cải biên, cải tạo, phát triển những thiết chế xã hội,
quan hệ chính trị - xã hội thông qua các hoạt động như đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giải phóng dân tôc, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ với mục đích chung để thúc đẩy
xã hội phát triển.

- Ví dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân, đế quốc để giành độc lập
dân tộc.

- Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được
tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, những cái không có sẵn trong
tự nhiên; gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt
động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại.

- Ví dụ: Con người nghiên cứu cơ chế hoạt động của virus corona để điều chế ra
vaccine ngừa Covid -19 tiêm chủng cho con người.

Khái niệm của Nhận thức: là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực của thực
tiễn mà thực tiễn lại còn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức để từ đó giúp con
người hiểu và biết thêm được về các quy luật, đã là quy luật thì không thể phủ định được và
sẽ tồn tại và là chân lý.
Các hình thức của Nhận thức: thông qua 3 giai đoạn
● Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính

Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:

- Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các
sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những
năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.
- Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự
vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp
các cảm giác.
- Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật
do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các
giác quan.
● Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính

Các hình thức của nhận thức lý tính bao gồm:

- Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính
bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp
biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật.
- Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
- Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới.

Đặc điểm của nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng
đồng thời cũng là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.

Về cơ bản nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận
thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.

● Giai đoạn 3: Nhận thức trở về thực tiễn

Là khi tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Thực tiễn là một trong các giai đoạn của
quá trình nhận thức có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Vì vậy, thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý, cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng của
nhận thức không chỉ để giải thích và cải tạo thế giới mà còn có chức năng định hướng thực
tiễn.

TRẢ LỜI CÂU HỎI

● Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích, tiêu chuẩn của chân lý
Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn đóng vai trò là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan,
diễn ra độc lập đối với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó
mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho
cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm
nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Chính thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết "vấn đề tìm hiểu tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý"

Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy luật, đâu là
cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì không nên làm, đâu là cái
không hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri thức đúng, cái hợp quy luật hay là đúng
với quy luật. Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức có
phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế mà thực tiễn là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức, vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn
mạng điều này thì VI Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức".

Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu việc nhận
thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ sâu vào thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu phải liên hệ với thực tiễn tức là "học phải
đi đôi với hành". nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, máy móc, quan liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó
có hợp quy luật hay không có là tri thức đúng chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối hóa
thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi chúng ta phải có cái
nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý. Những tri thức phù hợp với hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời
mới phù hợp được với hiện thực khách quan còn tri thức sai, sai lầm thì không thể phù hợp
với hiện thực khách quan được.

Ý nghĩa phương pháp luận

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm
thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý
luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.

- Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh
nghiệm chủ nghĩa.
7. Các hình thức tồn tại của vật chất & Vì sao nói vật chất là vô tận?

(1) Vận động: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vận động là thuộc tính cố
hữu của vật chất. Nghĩa là, vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vận động
được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.

● Những hình thức vận động cơ bản của vật chất

+ Ph. Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý,
hoá học, sinh học và xã hội. Thông qua các hình thức cơ bản của vận động cho thấy, vật
chất tồn tại hiện hữu dưới dạng là một đối tượng cơ học, hay vật lý, hoá học, sinh học hoặc
xã hội.

+ Các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các
hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên
cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức
vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và không thể quy về hình thức
vận động thấp

● Vận động và đứng im.

+ Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại còn bao
hàm trong đó sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và
điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là
điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất. Đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra
trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời điểm,
chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó, chứ không phải cùng một
lúc đối với mọi hình thức vận động. Đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động
- vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.

+ Không có đứng im thì không có sự ổn định của sự vật, và con người cũng không bao giờ
nhận thức được chúng. Không có đứng im thì sự vật, hiện tượng cũng không thể thực hiện
được sự vận động chuyển hoá tiếp theo. Vận động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện
chứng của các mặt đối lập trong sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện
tượng, nhưng vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối.

(2) Không gian và thời gian

- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự,
kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về
mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
- Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động

+ Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận
động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong
không gian mà lại không có một quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện
tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định. Tính chất của
không gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời
gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không
- thời gian.

+ Vật chất có ba chiều không gian (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) và một chiều thời gian
(từ quá khứ tới tương lai). Vì vậy vật chất là vô tận vì tồn tại trong chiều không gian và thời
gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất

Ý nghĩa phương pháp luận

1. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.

– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt,
mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó.
Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến
đổi khác nhau đó.

– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối
hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó
là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ
đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.

– Quan điểm phát triển đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ định kiến, đối lập với
sự phát triển.

– Nhận thức sự vật phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó, để có những phương
án dự phòng chủ động trong hoạt động tránh bớt được vấp váp, rủi ro; nghĩa là con người
sẽ chủ động, tự giác hơn trong hoạt động thực tiễn.

– Phát triển là khó khăn, phức tạp. Vì vậy, trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi
gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải bình tĩnh tin tưởng vào tương lai
Quy luật Mâu Thuẫn
1.1. Mẫu thuẫn là gì?

Theo từ điển tiếng Việt, mâu thuẫn được hiểu là tình trạng xung đột, đối chọi trực tiếp với
nhau hoặc tình trạng trái ngược nhau, phủ định nhau về một mặt nào đó hoặc tình trạng hai
mặt đối lập phát triển theo chiều trái ngược nhau ở bên trong sự vật, làm cho sự vật biến
đổi, phát triển.

1.2. Quy luật mâu thuẫn là gì?

Quy luật mâu thuẫn là một trong những quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy vật và
biện chứng duy vật lịch sử khẳng định về: mọi sự vật hay hiện tượng ở trong tự nhiên đều
có sự tồn tại và mâu thuẫn bên trong. Quy luật mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) chỉ ra nguồn gốc, động
lực bên trong của sự vận động, phát triển. Nắm vững được nội dung của quy luật này tạo cơ
sở cho việc nhận thức các phạm trù và quy luật khác của phép biện chứng duy vật; đồng
thời giúp hình thành phương pháp tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của sự vật, hiện
tượng và giải quyết mẫu thuẫn nảy sinh.

2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn


2.1. Các khái niệm của quy luật

- Mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những yếu tố, những thuộc tính khác nhau có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau cùng tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tượng của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn
biện chứng và mâu thuẫn biện chứng quy định sự biến đổi của các mặt đối lập nói riêng và
của sự vật, hiện tượng nói chung.

- Thống nhất giữa các mặt đối lập là sự không tách rời nhau, cùng tồn tại đồng thời và mặt
đối lập này phải lấy mặt đối lập kia làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Sự thống nhất giữa
các mặt đối lập còn gọi là sự đồng nhất giữa chúng do trong các mặt đối lập còn tồn tại
những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất giữa các mặt đối lập, nên trong nhiều trường
hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và hoạt động, trong những điều kiện nào đó, tại sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Đồng nhất không tách rời với chính bản thân nó; trong
đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, đối lập.

- Đấu tranh: Các mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau theo xu hướng bài trừ, phủ định
lẫn nhau; người ta gọi đó là đấu tranh giữa các mặt đối lập và sự đấu tranh đó không tách
rời với sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn.

2.2. Vai trò của mâu thuẫn biện chứng đối với sự vận động và phát triển

Thep Ph.Ăngghen, nguyên nhân chính và cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn
gốc của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng là sự tác động lẫn nhau giữa
chúng và giữa các mặt đối lập của chúng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động.
Đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động; nhưng
chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập do mâu thuẫn giữa
chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.

2.3. Phân loại mâu thuẫn

- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập đối với một sự vật, hiện tượng, người ta phân
mẫu thuẫn thành hai loại:

+ Mâu thuẫn bên trong: là sự tác động qua lại giữa các nặt, các khuynh hướng đối lập, là
mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng, đóng vai trò quyết định trực tiếp đối
với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

+ Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng
khác nhau có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng phải
thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.

- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong một giai đoạn nhất định, mâu thuẫn được chia thành các loại sau:

+ Mâu thuẫn chủ yếu: Là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở giai đoạn phát triển nhất định của
sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này có tác dụng quy định những mâu thuẫn khác trong cùng
một giai đoạn của quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
sẽ tạo điều kiện để giải quyết những mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. Sự phát triển,
chuyển hoá của sự vật, hiện tượng sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu.

+ Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng.

Tuy vậy, ranh giới giữa hai loại mâu thuẫn này chỉ là tương đối, tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ
thể; có những mẫu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ
yếu và ngược lại.

- Căn cứ vào tính chất của các lợi ích cơ bản là đối lập nhau của các giai cấp, ở một giai
đoạn nhất định, người ta phân mâu thuẫn xã hội thành các loại sau:

+ Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, giữa
những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đó là
mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột; giữa giai cấp thống trị và giao cấp bị trị.

+ Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những giai cấp,
những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Các
mâu thuẫn đó là cục bộ, tạm thời.

2.4. Nội dung của quy luật mâu thuẫn


Nội dung của quy luật mâu thuẫn nói lên rằng mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật,
hiện tượng là nguyên nhân; giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát
triển; sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng là tự thân. Quá trình từ khác nhau,
thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết quả là mẫu thuẫn mới
trong một sự vật, hiện tượng ở dạng thống nhất thường trải qua ba giai đoạn chính, mỗi giai
đoạn có những đặc điểm riêng của mình:

- Giai đoạn 1 (giai đoạn khác nhau): khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu thuẫn
thường được biểu hiện ở khác nhau giữa các mặt đối lập.

- Giai đoạn 2 (giai đoạn từ khác nhau chuyển thành mâu thuẫn): trong quá trình vận động,
phát triển của các mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và bài trừ, phủ định lẫn
nhau ở giai đoạn 1; sự khác nhau chuyển thành mâu thuẫn.

- Giai đoạn 3 (giai đoạn giải quyết mâu thuẫn): khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau,
nếu có điều kiện thì hai mặt đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc triệt tiêu nhau; hoặc cả
hai mặt đó đều bị triệt tiêu; sự vật, hiện tượng chuyển sang chất mới. Mâu thuẫn được giải
quyết với kết quả là hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất giữa hai mặt mới được
hình thành cùng với sự hình thành của mẫu thuẫn mới. Mâu thuẫn này lại được giải quyết
làm cho sự vật, hiện tượng mới luôn xuất hiện thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Sự đấu tranh
giữa hai mặt đối lập làm cho sự vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là
quan hệ giữa mâu thuẫn biện chứng với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng,
trong đó mâu thuẫn giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là
động lực bên trong của sự vận động và phát triển.

- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng
qua, nghĩa là sự thống nhất đó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật, hiện
tượng.

- Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn
định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính
tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt
đối.

2.5. Nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn

- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập giúp chúng ra nhận thức đúng bản
chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn bằng con
đường đi sâu nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Muốn phát hiện
ra mâu thuẫn cần phải tìm ra thể thống nhất của những mặt, những khuynh hướng trái
ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau
giữa các mặt đối lập đó trong sự vật, hiện tượng.

- Quy luật mâu thuẫn giúp khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát
triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mặt mâu
thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ
tác động qua lại, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới hiểu đúng
sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động để giải quyết mâu thuẫn.

- Quy luật mâu thuẫn giúp nhận thức được rằng; đẻ thúc đấy sự vật, hiện tượng phát triển
phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ
được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi; không nóng vội hay bảo thụ, trì trệ khi giải
quyết mâu thuẫn.
1. Những vấn đề lý luận của quy luật
Khái niệm về chất

Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất
hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy
định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính
cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.

Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083’C, nhiệt
độ sôi là 2880’C…những thuộc tính này đã nói lên những chất riêng của đồng để phân biệt
nó với các kim loại khác.

Đặc điểm của chất:

- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật hiện tượng không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước biển mặn tồn tại ở bên
trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có
thể áp đặt được nó.

- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật. Thuộc tính là
những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được
bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật
khác. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc
tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ
cụ thể mà thuộc tính cơ bản và không cơ bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong
mối quan hệ với động vật thì thuộc tính cơ bản của con người là các thuộc tính có khả năng
chế tạo, sử dụng công cụ, có tư duy còn các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong
trong quan hệ giữa con người với con người thì những thuộc tính như nhận dạng về dấu
vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và
phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự
vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất. Ví dụ: những mức độ
trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên ->
thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.

-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển hóa thành
sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của
nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho
trạng thái lỏng của nước thay đổi.

Khái niệm về lượng:

Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự
vật.

Biểu hiện của lượng

Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng tốc độ và
nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó lượng còn biểu hiện ở
kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp,
tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.

Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide (CO2). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức
hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên tử oxi (O)

Đặc điểm của lượng

-Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí
nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự vật hiện tượng có
nhiều loại lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể
hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng
của chúng cũng phức tạp theo.

- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể nhận thức bằng
con đường trừu tượng và khái quát hóa. Trên thực tế lượng của sự vật thường được xác
định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng hay một phân tử bao gồm
những nguyên tử nào. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu
tượng và khái quát như trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp
của một công dân,..

- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số lượng nguyên
tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội hoặc chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thông số về lượng không ổn định mà
thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định
của sự vật.

Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay
một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó điều tồn tại khách
quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng chỉ mang tính
tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ
khác lại là lượng.

1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

Sự thống nhất giữa chất và lượng: Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất
giữa mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng
và ngược lại.

Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - O - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử
ôxy) thì 1 phân tử nước (H2O) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách
quan, vốn có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…

“Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau
một cách biện chứng. Khi sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong
một độ nhất định.
Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng
có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động,
biến đổi, thay đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy
vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khoảng giới
hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi
về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ tính
quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung
một thỏi thép ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng nghìn độ song thỏi thép
vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng thay đổi đến một giới
hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.
Theo triết học Mác-Lênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó
sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Chúng ta có thể hiểu, điểm nút
là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.

Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và
chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá
trình này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn
tại. Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước
nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những
điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một
giai đoạn vận động, phát triển và là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới. Có thể nói, trong
quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế
tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét
“nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi
lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài
khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái
của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như vậy sự phát
triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho
tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố định
mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định.

Các hình thức cơ bản của bước nhảy:

+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước
nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần:

Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi
chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235)
được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy
dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những
nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình phức
tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.

+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy
cục bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố
cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật.

Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện
bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là
chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh
vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:

Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà có sự tác động trở lại đối với
lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự
thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn như, khi học sinh vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực hiện
bước nhảy để trở thành sinh viên. Trình độ văn hoá của học sinh đã cao hơn trước và sẽ
tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao
hơn.

Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà những
thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân tích ở trên
có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay
đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự
vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá
trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.

2. Ý nghĩa phương pháp luận

+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau do đó trong thức tiễn và nhận thức phải
coi trọng cả hai phương diện chất và lượng.

+ Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất trong điều kiện nhất định và
ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích lũy về lượng để làm thay đổi chất của sự vật
đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.

+ Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích lũy đến giới hạn điểm nút
do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
+ Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú do vậy cần vận dụng
linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời
sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ
thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ
động của các chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu
quả nhất.

3 Liên hệ thực tiễn


3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của
học sinh, sinh viên

Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không
biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay
đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến
thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách
tham khảo,…thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra,
những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh
sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn.

Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và
việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học, học
sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một
học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng
là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước
nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và
vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy
vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì
thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại
còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích
lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và
chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.

Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác
động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của
mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học hay một
học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại
bắt đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ
thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả
phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong
sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong
những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện
một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt
nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá trình
nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động không ngừng trong quá
trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến trình độ cao
hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.

3.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.

Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng kiến thức ở
bậc đại học tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung học phổ thông.

Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ
chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến
những khó khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức mà còn có sự
đa dạng về kiến thức ở bậc đại học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách
học tập thụ động của trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động
nhóm, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về lượng kiến thức,
thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và
giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập.
Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng
đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên
lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của
họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc
hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Có thể nới
sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành
chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù
hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích cao trong quá rình học tập và
nghiên cứu của mình.

Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.

Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách
tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu cầu mỗi sinh
viên cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi học tập là quá
trình tích lũy về lượng, điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động
nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến
đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải đến trường để
học tập, tiếp thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện tích luỹ kiến thức của sinh
viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô hay các kì thực tập( lượng)…và tốt nghiệp
Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh
viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.

Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực

Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người cũng
phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện bản thân
phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống và làm việc,
thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự
nghiên cứu trau dồi kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con
người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về lượng, dưới
sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử, sinh
viên có thể gian lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm
biến đổi về chất.

Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy
giai đoạn

Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và
rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh viên phải tích
luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số
lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút
và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh
sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên.
Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ
kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học
tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa là sau khi hoàn thành kiến
thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu
những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học sinh viên phải vượt qua kì thi tốt
nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra. Hay trong quá trình học tập và
nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn
thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn thi chứ không phải giai đoạn học
lại kiến thức mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học cũng không thể đảm bảo đủ lượng
kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao
trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó,
sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực

Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan

Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ
những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to
lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12
năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế,
chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên
tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật
lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang về những
“lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích,
thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh
viên còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,…
tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai sau. Được tự do sáng tạo và trau
dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được những thứ “chất” lượng nhất:
tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển
đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu
không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi
ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào
thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ
và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.

Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên

Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải được
tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản.
Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước
nhảy sẽ không thành công và không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức
cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để được học ở cấp trung học.
Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới
được hình thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật lượng – chất. Những sự thay
đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ
được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận động
của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong
quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn
không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức
được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì quá
trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất. Bạn
phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn
phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận
dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất
lượng của độ
1. Phủ định là gì? Phủ định biện chứng là gì?
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì phủ định là “khái niệm chỉ sự xóa bỏ hoặc thay thế
một sự vật, hiện tượng này bằng một sự vật, hiện tượng khác” trong quá trình vận động và
phát triển. Chẳng hạn như trong trong quá trình phát triển của các phương tiện giao thông,
xe máy là sự phủ định đối với xe đạp, còn xe ô tô là sự phủ định đối với xe máy.

Ngoài ra, phủ định còn có thể được hiểu là một thao tác logic và nhờ đó một mệnh đề mới
được sinh ra từ một mệnh đề đã cho. Tức là, nếu mệnh đề đã cho là đúng thì sự phủ định
nó là sai, và ngược lại, mệnh đề đã cho là sai thì sự phủ định nó sẽ thành đúng.

Còn phủ định biện chứng là với tư cách là một phạm trù triết học, được định nghĩa là khái
niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển. Phủ định biện
chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế cho sự vật, hiện tượng cũ, và là yếu
tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Hay nói cách khác, phủ
định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi
dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện
tượng cũ.

Về đặc trưng của phủ định biện chứng, có thể thấy phủ định biện chứng mang hai đặc trưng
cơ bản là tính khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong nó
gây ra) và tính kế thừa (loại bỏ các yếu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật,
hiện tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện tượng mới).

Nhìn chung, đối với mỗi sự vật cũng như đối với mỗi quan niệm, khái niệm, chúng đều có
phương thức phủ định riêng biệt. Suy ra, phương thức phủ định sẽ gồm có hai bước, đó là
phủ định (bước thứ nhất) và phủ định của phủ định (bước thứ hai).

2. Quy luật phủ định của phủ định là gì?


Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra
khuynh hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc) cũng như như kết quả (sự vật, hiện tượng mới
ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ) của sự phát triển của chúng thông qua sự thống nhất giữa
tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển.

Hay nói cách khác, quy luật phủ định của phủ định thể hiện nội dung sự vật, hiện tượng mới
ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, nó phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

3. Nội dung quy luật phủ định của phủ định và ví dụ


Nội dung quy luật phủ định của phủ định theo chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện như sau:

Thứ nhất, phủ định của phủ định là khái niệm nói lên rằng sự vận động, phát triển của sự
vật thông qua hai lần phủ định biện chứng, dường như quay trở lại điểm xuất phát ban đầu
nhưng cao hơn.

Thứ hai, phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình. Sau những
lần phủ định tiếp theo, đến một lúc nào đó sẽ ra đời sự vật mới mang nhiều đặc trưng giống
với sự vật ban đầu (xuất phát) song không phải giống nguyên như cũ, dường như lặp lại cái
cũ nhưng cao hơn.
Thứ ba, sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ tiếp theo, tạo ra đường xoáy ốc của sự phát triển. Mỗi đường
mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển. Sự nối tiếp nhau
của các vòng xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển.

Thứ tư, phủ định của phủ định, ngoài hai đặc trưng như phủ định biện chứng (là tính khách
quan và tính kế thừa), thì còn có thêm đặc trưng là tính chu kỳ.

Thứ năm, trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật có thể bao gồm nhiều lần phủ
định biện chứng.

Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa thông qua khâu
trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định biện chứng
không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó lưu giữ nội dung
tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của cái ban đầu trên cơ
sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không hẳn theo đường thẳng, mà
là theo đường xoáy trôn ốc.

Ví dụ về quy luật phủ định của phủ định

Ví dụ 1:

- Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp). Phủ định lần 1 tạo ra
gà mái con. Sau đó phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên)sinh ra nhiều quả trứng.

- Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng). Phủ định lần 1 tạo ra cây lúa.
Sau đó phủ định lần 2 là cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.

Ở cả hai câu trên, chúng ta thấy có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến
nhiều quả trứng mới. Từ một hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều
tức là đã có sự phát triển lên nấc thang cao hơn.

Ví dụ 2:

Vòng đời của một con tằm bao gồm: Trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng. Sự xuất hiện của
“tằm” đã xóa bỏ sự tồn tại của “trứng” nên tằm là phủ định của trứng. “Nhộng” sinh sôi, tằm
không còn là tằm nên “nhộng” là sự phủ định của “tằm”. “Ngài” phát triển từ “nhộng”, xóa bỏ
sự tồn tại của “nhộng” nên “tằm” là phủ định của “nhộng”. Cuối cùng, trứng mới ra đời từ
ngài, bắt đầu một quá trình mới.Trứng chính là sự phủ định của “ngài”. Quá trình phát triển
của tằm đã trải qua 4 lần phủ định.

4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa phương pháp luận như sau:

Quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời cái mới, mối liên hệ giữa cái
cũ và cái mới.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch trơn. Đồng thời
phải biết sàng lọc những gì tích cực của cái cũ.
Chống thái độ hư vô chủ nghĩa, đồng thời chống thái độ bảo thủ, khư khư ôm lấy những gì
đã lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp, không chịu đổi mới.
Phải hiểu phát triển không phải là đường thẳng mà theo đường xoắn ốc đi lên. Nghĩa là, có
nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình vận động, phát triển. Phát triển không phải là
đường thẳng.

5. Liên hệ thực tiễn quy luật phủ định của phủ định
Dưới đây, Luật Minh Khuê sẽ cung cấp cho các bạn phần vận dụng quy luật phủ định của
phủ định vào lý giải sự phát triển trong lĩnh vực thời trang Việt Nam hiện nay.

Có thể thấy rằng, thời trang là một vòng lặp lại khi chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI nhưng
đang mặc những bộ trang phục mang hơi hướng của nhiều thế kỷ trước, chỉ là chúng đã
được cách tân một cách hiện đại hơn, phù hợp hơn. Những bộ trang phục của thời đại ngày
nay là những kế thừa từ những trang phục của thời xưa nhưng đã được sáng tạo, cải tiến
để sao cho chúng hiện đại hơn, trẻ trung hơn.

Áo dài, bộ trang phục truyền thống của người Việt Nam, nhìn lại cả quá trình lịch sử phát
triển của bộ áo dài, có thể thấy nó đã được cách tân rất nhiều để phù hợp với thời đại hơn.
Quy luật phủ định của phủ định đã giúp nhìn rõ hơn về quá trình phát triển áo dài của nước
ta. Thế kỷ XVII, kiểu dáng sơ khai của chiếc áo dài là chiếc áo giao lãnh bốn vạt, tiền thân
của áo tứ thân. Áo giao lãnh khoác ngoài yếm lót, mặc cùng váy đen và thắt lưng màu
tương tự như áo tứ thân, chỉ khác là hai vạt trước buông thả chứ không buộc trước bụng.
Trong suốt thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XX, để tiện hơn cho việc đồng áng, buôn bán vất vả,
người xưa đã chế ra kiểu áo tứ thân gọn ghẽ với hai vạt trước rời nhau, có thể buộc lại, và
hai vạt sau may liền thành một tà áo. Người xưa phải ghép hai vạt áo sau để tạo tà vì thời
đó khổ vải chỉ rộng chừng 35 - 40cm. Là trang phục của tầng lớp bình dân, áo tứ thân
thường được may từ vải tối màu để tiện cho công việc. Phụ nữ thành thị ít phải lao động
thường mặc áo ngũ thân để phân biệt mình với tầng lớp lao động nghèo. Áo ngũ thân có
bốn vạt như áo tứ thân, được may liền nhau thành hai tà trước và sau như áo dài. Vạt con
thứ năm được may dưới tà trước như một mảnh áo lót kín đáo. Áo có cổ và phom rộng,
được mặc rộng rãi đến đầu thế kỷ XX. Trong những năm 1939 - 1943, bước đột phá táo
bạo, góp phần hình thành kiểu dáng của áo dài ngày nay chính là kiểu áo dài “Le Mur” do
họa sĩ Cát Tường sáng tạo vào năm 1939. Khác với phom dáng rộng truyền thống, áo dài
Le Mur ôm sát đường cong cơ thể với nhiều chi tiết u hóa như tay phồng, cổ khoét hình trái
tim, đính nơ, … Chiếc áo “lai căng” này bị dư luận thời đó lên án mạnh mẽ, cho là không
đứng đắn nên chỉ có giới nghệ sĩ phong cách tân thời mới dám mặc. Đến năm 1943, thì kiểu
áo này dần bị lãng quên. Năm 1960, áo dài với tay raglan, tay áo được nối từ cổ xéo xuống
nách. Tà trước nối với tà sau qua hàng nút bấm từ cổ xuống nách và dọc theo một bên
hông. Kiểu ráp này vừa giảm thiểu nếp nhăn ở nách, cho phép tà áo ôm khít theo đường
cong người mặc, vừa giúp người phụ nữ cử động tay thoải mái,linh hoạt. Từ đây, chiếc áo
dài Việt Nam đã được định hình. Đầu những năm 1960, áo dài Bà Nhu đã vấp phải phản
ứng mạnh mẽ vì đi ngược với truyền thống và thuần phong mỹ tục thời đó. Bà đã thiết kế ra
kiểu áo dài hở cổ, bỏ đi phần cổ áo hay còn gọi là cổ thuyền, cổ khoét. Nhưng ngày nay,
mẫu áo dài rất được ưa chuộng vì sự thoải mái và phù hợp với khí hậu nước ta.
Những năm 1960, áo dài chít eo thách thức quan điểm truyền thống trở thành kiểu dáng
thời thượng. Lúc này, chiếc áo nịt ngực tiện lợi đã được sử dụng rộng rãi. Phụ nữ thành thị
với tư duy cởi mở muốn tôn lên những đường cong cơ thể qua kiểu áo dài chít eo rất chặt
để tôn ngực. Gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở nên thịnh hành trong giới nữ sinh vì sự
thoải mái, tiện lợi của nó. Tà áo hẹp và ngắn đến gần đầu gối, áo rộng và không chít eo
nhưng vẫn may theo đường cong cơ thể. Ngày nay, chiếc áo dài truyền thống đã cách tân
tạo ra rất nhiều kiểu dáng, sử dụng rất nhiều chất liệu khác nhau. Áo dài mặc với quần
jeans, áo dài tà ngắn, áo dài tranh vẽ, áo dài cong có thể mặc trong ngày cưới, ... Như vậy,
qua nhiều lần phủ định biện chứng được kế thừa từ áo dài cổ truyền, áo dài ngày nay đã
được cách tân phù hợp hiện đại hơn mà vẫn mang vẻ đẹp truyền thống.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.

1. Khái niệm về sự phát triển


– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát
quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.

– Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển“:

+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát
triển.

+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền
với sự ra đời của cái mới này.

Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như
chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp
đặc biệt của sự vận động.

– Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của quá trình phát
triển. Sự phát triển có thể diễn ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó không loại
trừ bước thụt lùi tương đối.

2. Tính chất của sự phát triển


2.1. Tính khách quan của sự phát triển
– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách
quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người
có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.

Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.

Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.

– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ
nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.

Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi
vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật,
hiện tượng.

Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát
triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…)
mà không có sự biến đổi về chất.
2.2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách
quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.

Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng
thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.

2.3. Tính kế thừa của sự phát triển


Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những
bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ
những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển
thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.

Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.

2.4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển


Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác
nhau.

Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong
phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.

Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến
đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…

Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày
càng lớn của con người.

Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn
hơn.

3. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển


Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra
quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi:

Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát
triển.

– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt,
mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó.
Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến
đổi khác nhau đó.

– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối
hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó
là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ
đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.

Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.

Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng
đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển
như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước
thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta
gặp phải những sai lầm tai hại.

Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.

– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện
tượng phát triển.

Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của
sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp,
tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.

Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời
kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.

Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.

Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.

– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về
chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng
tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.

4. Quan điểm toàn diện là gì?


Quan điểm toàn diện là gì? – Quan điểm toàn diện được hiểu là quan điểm khi nghiên cứu
và xem xét sự vật phải quan tâm đến tất cả các yếu tố, các mặt kể cả khâu gián tiếp hay
trung gian có liên quan đến sự vật.

Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến của các hiện tượng và sự
vật trên thế giới. Phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật.
Và không có bất cứ sự vật nào tồn tại riêng biệt, cô lập, độc lập với các sự vật khác.

Ví dụ quan điểm toàn diện


Trong công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam không những chú ý đến mối liên hệ
nội tại mà còn chú đến mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Hơn 20 năm đổi mới
Đảng ta đã sử dụng đồng bộ các phương tiện cũng như biện pháp khác nhau để mang lại
hiệu quả đổi mới cao nhất. Không những cần vận dụng được nguồn lực đất nước mà còn
cần tranh thủ sự giúp đỡ của các nước khác. Vừa tận dụng được yếu tố chủ quan vừa tận
dụng được yếu tố khách quan từ bên ngoài.

Quan điểm toàn diện là gì lấy ví dụ?. Một ví dụ cho quan điểm toàn diện nữa chính là trong
học tập. Một cá nhân để đạt được kết quả tốt trong học tập cần đến nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan tác động. Bạn không những cần đến nỗ lực và trí tuệ của bản thân mà
còn cần học thêm các kiến thức từ sách vở và cuộc sống. Kiến thức cần bồi đắp từ cả lý
thuyết và thực tiễn thì mới có thể trở nên hoàn thiện. Một cá nhân không thể toàn diện nếu
chỉ học tập tốt mà còn cần đến lao động tốt và sống tốt.

5. Phương pháp luận của quan điểm toàn diện


5.1. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
Theo quan điểm phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên
hệ giữa sự phát triển và sự phổ biến dùng để cải tạo hiện thực và nhận thức. Đây cũng
chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận của quan điểm toàn diện. Mọi sự vật, sự việc
trên đời đều tồn tại song song các mối quan hệ phong phú và đa dạng.

Khi nhận thức về hiện tượng, sự vật, sự việc trong cuộc sống chúng ta cần xem xét đến
quan điểm toàn diện. Xem xét đến mối liên hệ của sự vật này với sự vật khác nhằm tránh
quan điểm phiến diện. Từ đó tránh được việc phán xét con người hay sự việc một cách chủ
quan. Không suy xét kỹ lưỡng mà đã vội kết luận về tính quy luật hay bản chất của chúng.

5.2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện là gì?


Theo quan điểm toàn diện, con người cần nhận thức sự vật qua mối quan hệ qua lại. Mối
quan hệ này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này với sự vật khác, giữa
mối liên hệ trực tiếp với gián tiếp. Chỉ khi chúng ta nhìn nhận qua quan điểm toàn diện thì
mới có thể đưa ra các nhận thức đúng đắn.

Không những thế quan điểm toàn diện còn đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt
từng mối liên hệ. Cụ thể hơn đó là các mối quan hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên
trong và bên ngoài, mối liên hệ về bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ
được bản chất của sự việc.

Bên cạnh đó quan điểm toàn diện còn đòi hỏi con người nắm bắt được khuynh hướng phát
triển của sự vật trong tương lai. Cũng như hiểu rõ về hiện tại đang tồn tại của sự vật. Con
người cần nhận biết được sự biến đổi kể cả biến đổi đi lên hay các biến đổi đi xuống.

Ví dụ quan điểm toàn diện: Khi bạn nhận xét về một người nào đó thì không thể có cái nhìn
phiến diện ở vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con người, các mối
quan hệ của người này với người khác, cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và
hiện tại. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.
6. Quan hệ giữa quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể
Theo như quan hệ giữa quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể thì trong việc xử lý
và nhận thức trong tình huống cần xem xét đến đặc thù và tính chất của đối tượng nhận
thức. Tình huống trong thực tiễn cần được giải quyết một cách khác nhau trong thực tiễn.

Cần phải đặt sự vật trong điều kiện thời gian và không gian cũng như trong từng điều kiện
lịch sử cụ thể với các mối quan hệ nhất định. Xem xét cụ thể mối quan hệ tác động từ bên
trong và bên ngoài. Mối quan hệ khách quan và chủ quan, quan hệ gián tiếp và trực tiếp của
mỗi sự vật.

Ví dụ quan điểm toàn diện: Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định được
quan hệ giữa dân tộc thuộc địa và đế quốc xâm lược, mối quan hệ giữa nhân dân các nước
thuộc địa với nhân dân các nước đế quốc bị bóc lột. Mối quan hệ giữa tầng lớp công – nông
và quan hệ giữa giai cấp lãnh đạo với với quần chúng nhân dân,… Chỉ khi nắm bắt được lý
luận và thực tiễn cũng như sự liên quan giữa các mối quan hệ thì cuộc chiến tranh tại Việt
Nam mới có thể hoàn toàn thắng lợi

You might also like