You are on page 1of 30

Triết học Mác-Lênin

*Tìm hiểu về 2 quy luật


1.Quy luật mâu thuẫn
*Quy luật mâu thuẫn là gì?
Quy luật mâu thuẫn là một trong những quy luật cơ bản trong phép
biện chứng duy vật và biện chứng duy vật lịch sử khằng định về: mọi sự
vật hay hiện tượng ở trong tự nhiên đều có sự tồn tại và mâu thuẫn
bên trong. Quy luật mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập.
*Nội dung của quy luật mâu thuẫn
Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt
đối lập, từ đó tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự
thống nhất và đấu tranh từ các mặt đối lập tạo ra xung lực nội của sự
vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế bưởi cái mới.
– Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất,
đấu tranh
+ Mặt đối lập: Mạt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc
điểm, những tính quy định mà có khuynh hướng biến đổi trái ngược,
tồn tại theo khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã hội.
+Ví dụ:
Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt động
ăn và hoạt động bài tiết.
Đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà
mặt đối lập liên hệ, chúng có tác động qua lại với nhau, theo đó mâu
thuẫn biện chứng được tồn tại một cách khách quan, phổ biến ở trong
xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong mâu thuẫn biện chứng tư duy có sự
phản ánh mâu thuẫn đối với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận thức.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại
nhưng không tách rời với nhau của các mạt đối lập, tự tồn tại đó phải
lấy sự tồn tại của mặt khác để làm tiền đề.
Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối
lập. Khi ở một mức độ nào đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang
nhau, đó chỉ là trạng thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lợi với nhau theo xu
hướng là bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy
thuộc vào mối quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và
các mặt đối lập, tính chất.
– Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển
+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác
động khác nhau mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu
thuẫn biện chứng bao gồm sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối
lập.
Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của
mặt đối lập không tách rời nhau.
+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các
mặt đang tác động, làm mâu thuẫn phát triển.
Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản.
Tuy nhiên theo khuynh hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này
càng lớn lên và rộng dẫn ra đến khi nào trở thành đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển
hóa lẫn nhau và từ đó mâu thuận được giải quyết. Nhờ sự giải quyết
theo hướng này mà thể thống nhất mới sẽ thay thế thể thống nhất cũ
hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.
+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu
tranh, đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập thì không thể tách rời
khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay
đổi, đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi
và tính ổn định sự vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn gốc của phát triển và
vận động.
– Phân loại mâu thuẫn
+ Nếu dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được
phân loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn
được chia làm mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai
đoạn nhất định thì mâu thuẫn phân loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu
thuẫn thứ yếu.
+ Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
-Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
– Để nhận thức được ban chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng,
giải pháp cho hoạt động thực tiễn cần phải nghiên cứu mâu thuẫn sự
vật.
– Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
hay quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thực, hoạt
động thực tiễn.
Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của sự vận động, phát
triển, có tính khách quan phổ biến.
Ví dụ về mâu thuẫn
Ví dụ: Trong hoạt động bài tiết thì con người có hai hoạt động đối lập
nhau: hoạt động ăn, hoạt động bài tiết. Mặc dù chúng đối lập nhau
nhưng lại không thể tách rời nhau và phụ thuộc vào nhau, từ đó cho
thất hai hoạt động này có sự thống nhất với nhau.

02.Quy luật phủ định của phủ định


*Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế
thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định
biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát
triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ
nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ
bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát
triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường
xoáy ốc.
*Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định:
1. Định nghĩa về phủ định biện chứng:
– Trước khi tìm hiểu phủ định biện chứng là gì, ta cần hiểu thế nào là
phủ định.
Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng
khác trong quá trình vận động và phát triển.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh
ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự
vật mới.
Sự thay thế đó là phủ định. Phủ định là tất yếu trong quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Không có phủ định, sự vật không phát triển
được.
Ví dụ:
+ Trong quá trình phát triển của các phương tiện giao thông, xe máy là
sự phủ định đối với xe đạp. Xê ô tô là sự phủ định đối với xe máy.
+ Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ
định cha. Ông cha ta thường hay nói “con hơn cha là nhà có phúc” là ý
như vậy.
– Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển,
là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn
so với cái bị phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất; sự đấu tranh thường xuyên
của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến
sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không
ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật
cũ. Điều đó có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát
triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định
biện chứng.
Ví dụ:
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 11 là sự phủ
định đối với iPhone X.
+ Khi gieo trồng, cây lúa là sự phủ định biện chứng đối với hạt thóc.
+ Trong chăn nuôi, con gà đạp trứng ra đời là sự phủ định biện chứng
đối với quả trứng
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng:
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính
kế thừa.
2.1. Tính khách quan:
– Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự
phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết
quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
– Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì
thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức
phủ định riêng tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân
chúng.
– Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan của
con người. Con người chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy
diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự
vật
2.2. Tính kế thừa:
– Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật
nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.
– Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư
vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ
những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải
tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt
mới phù hợp với hiện thực.
– Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt
tốt, tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những
giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giải đoạn
trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn
là sự liên kết giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và
hiện tại. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự
phát triển.
Ví dụ:
Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những
yếu tố tích cực của cha mẹ và bỏ qua những yếu tố lạc hậu.
– Tuy vậy, cũng cần lưu ý là, những nhân tố tích cực của sự vật cũ được
giữ lại vẫn phải được cải tạo, phải được biến đổi cho phù hợp với điều
kiện mới.
3. Phủ định của phủ định: Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển:
– Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận
động của sự vật ấy, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những
nhân tố cũ. Khi đó, sự phủ định biện chứng lần 1 diễn ra: Sự vật ban
đầu không còn nữa mà bị thay thế bằng sự vật mới, trong đó những
nhân tố tích cực của sự vật ban đầu được giữ lại.
– Tuy nhiên, sau một thời gian, sự vật mới ra đời ở trên lại bị phủ định
bằng sự vật mới khác. Đó là sự phủ định lần 2. Cứ thế tiếp tục, tùy vào
sự vật sẽ có phủ định lần 3, lần 4…, lần n.
Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định, sẽ có một sự vật mới dường như lặp lại
(rất giống) với sự vật ban đầu, song không phải là sự trùng lặp hoàn
toàn với sự vật ban đầu đó, mà ở nấc thang cao hơn; nó được bổ sung
những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực đối với sự
phát triển tiếp tục của nó.
Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định dẫn đến sự xuất hiện sự vật mới mà
dường như lặp lại sự vật ban đầu thì ta có một chu kỳ phát triển. Ở đây
có sự phủ định của phủ định.
Ví dụ:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) =>
Phủ định lần 1 tạo ra gà mái con => Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên)
sinh ra nhiều quả trứng.
+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) => Phủ định
lần 1 tạo ra cây lúa => Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.
Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu
đến nhiều quả trứng mới. Từ một hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc
mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát triển lên nấc thang cao hơn.
Đó là kết quả phủ định của phủ định.
– Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là
sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện
chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới.
Như thế, những lần phủ định biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu
hướng tiến lên không ngừng, như việc sẽ ngày càng có nhiều quả trứng
hơn, ngày càng có nhiều hạt thóc hơn.
– Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn.
Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối
lập trong bản thân sự vật. Các mặt đối lập ở đây là mặt khẳng định và
mặt phủ định.
Phủ định lần 1 sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình
(như quả trứng ban đầu đối lập với gà mái con; gà mái con là
vật trung gian). Sau một hoặc nhiều lần phủ định tiếp theo sẽ ra đời
một sự vật mới đối lập với cái trung gian (nhiều quả trứng sinh ra đối
lập với gà mái con).
Mà đối lập với cái trung gian nghĩa là dường như tương đồng với sự vật
ban đầu, dường như quay trở lại thời điểm xuất phát (như việc một quả
trứng sinh ra nhiều quả trứng, một hạt thóc sinh ra nhiều hạt thc).
Như thế ta thấy, đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện
chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường
như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
– Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát
triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp
theo. Cứ thế, các chu kỳ phát triển cứ nối tiếp nhau tạo thành sự phát
triển, sự tiến lên vô cùng tận của thế giới, nhưng không phải theo
đường thẳng mà theo hình xoáy ốc.
– Sở dĩ nói “theo hình xoáy ốc” vì “hình xoáy ốc” đã biểu đạt được các
đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại
nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển.
Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện trình độ cao hơn của sự
phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua, lặp lại vòng
trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tân của sự phát
triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp lên cao.
*Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định làm sáng tỏ chiều hướng vận động,
phát triển của các sự vật và có ý nghĩa phương pháp luận trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
1. Cái mới nhất định sẽ xuất hiện từ cái cũ nhưng ta không được phủ
sạch cãi cũ.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, ta cần lưu ý rằng cái mới nhất
định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu.
Cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do
đó, ta cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
2. Chúng ta phải chủ động phát hiện, bồi dưỡng, thúc đẩy cái mới.
Trong thực tiễn, ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin
tưởng vào tương lai phát triển của cái mới. Mặc dù cái mới lúc đầu còn
yếu ớt, ít ỏi, ta phải ra sức ủng hộ, bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo
điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, gạn đục khơi
trong, giữ lấy những gì còn tích cực, có giá trị từ cái cũ, cải tạo cái cũ
cho phù hợp với những điều kiện mới. Chúng ta phải chống thái độ “hư
vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận, đánh giá quá khứ.
3. Phải khắc phục thái độ bảo thủ, loại bỏ những hủ tục trong xã hội.
Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ,
chúng ta cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại những
cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Chúng ta phải nhận thức rõ những cái lỗi thời, ví dụ như những hủ tục
cũ trong việc cưới xin, tang lễ, hội hè…, quan niệm “có nếp có tẻ” trong
việc sinh con… sẽ gây ra nhiều tốn kém và nhiễu nhương.

*Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.Bản chất và hiện tượng
I. Khái niệm
– Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu
vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra
đúng như thế chứ không thể khác.
Ví dụ:
+ Đã là con người, ai cũng phải sinh ra, lớn lên và chết đi. Điều này
không thể khác được.
+ Khi quả trứng gà bị rơi từ độ cao 10 mét thì nó chắc chắn sẽ vỡ. Việc
bị vỡ trong trường hợp này là tất nhiên vì nó không thể khác được.
– Ngẫu nhiên là cái không phải do bản thân kết cấu của sự vật, mà do
các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên
ngoài quyết định; do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có
thể xuất hiện như thế này, cũng có thể xuất hiện như thế khác.
+ Thời điểm anh Nguyễn Văn A sinh ra hay chết đi trong cuộc sống là
hoàn toàn ngẫu nhiên. Có thể là năm 2019 hoặc 2017 hoặc 2020. Các
thời điểm này có thể khác đi do những nguyên nhân bên ngoài.
+ Việc quả trứng gà bị rơi là ngẫu nhiên. Nó có thể bị rơi hoặc không.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
1. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại một cách khách quan, ở bên
ngoài và độc lập với ý thức của con người.
– Dù con người có nhận thức được hay chưa, tất nhiên và ngẫu
nhiên luôn tồn tại và phát huy vai trò của nó đối với sự phát triển của
sự vật, hiện tượng.
– Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều
có vai trò quan trọng:
+ Cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật.
+ Cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự
vật, có thể làm cho sự phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm.
Sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu
nhiên, kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ, ví dụ như cá tính của người
lúc đầu lãnh đạo phong trào cách mạng.
2. Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt thống nhất và đối lập.
Tuy cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không bao
giờ tồn tại biệt lập với nhau dưới dạng thuần túy, mà bao giờ cũng tồn
tại trong sự thống nhất hữu cơ.
Sự thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ:
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số
cái ngẫu nhiên.
+ Cái nghẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời
bổ sung cho cái tất nhiên.
Tức là, cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng của sự phát triển.
Khuynh hướng ấy mỗi khi tự bộc lộ mình thì bao giờ cũng bộc lộ ra dưới
một hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung.
Bản thân cái tất nhiên chỉ có thể được tạo nên từ những cái ngẫu nhiên.
Còn tất cả những gì ta thấy trong hiện thực và cho là ngẫu nhiên thì đều
không phải là ngẫu nhiên thuần túy, mà là những ngẫu nhiên đã bao
hàm cái tất nhiên, đã che giấu cái tất nhiên.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
– Trong hiện thực, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh
viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, và trong những điều
kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau. Tức là, tất nhiên biến
thành ngẫu nhiên và ngược lại.
Ví dụ:
+ Trong xã hội công xã nguyên thủy, việc trao đổi vật này (áo…) lấy
một vật khác (gà…) là ngẫu nhiên. Vì khi ấy sức sản xuất của công xã chỉ
đủ riêng cho mình dùng.
+ Sau này, khi sự phân công lao động đã rộng rãi, năng lực sản xuất đã
lớn, có nhiều sản phẩm dư thừa. Khi đó, sự trao đổi sản phẩm tất yếu
phải diễn ra để làm cho cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn.
– Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối. Thông
qua những mặt này, hay trong mối quan hệ này, thì biểu hiện là
tất nhiên nhiên, nhưng qua những mặt khác, mối quan hệ khác, thì lại
là ngẫu nhiên; và ngược lại.
Ví dụ: Nếu xét ở khía cạnh cuối cùng có vỡ hay không, thì việc việc quả
trứng bị vỡ là tất nhiên. Nhưng xét ở khía cạnh nó vỡ khi bị rơi, bị đập
ra hay khi gà con đạp vỡ, thì việc bị vỡ là ngẫu nhiên
II. Ý nghĩa phương pháp luận
– Trong học tập, nghiên cứu, ta cần dựa vào cái tất nhiên chứ không
thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Vì cái tất nhiên vạch ra khuynh hướng, chi
phối sự phát triển của sự vật.
Nhiệm vụ của nhân thức là nhận thức cái tất nhiên.
– Nhưng cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật,
nên không thể bỏ qua cái ngẫu nhiên.
Vì cái tất nhiên không bao giờ tồn tại thuần túy mà luôn biểu lộ thông
qua cái ngẫu nhiên, nên muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt đầu từ
cái ngẫu nhiên. Ta chỉ có thể vạch ra được cái tất nhiên bằng cách
nghiên cứu qua nhiều cái ngẫu nhiên.
– Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần túy mà bao giờ cũng là hình
thức trong đó ẩn nấp cái tất nhiên, nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn ta phải chú ý tìm ra cái tất nhiên ẩn giấu đằng sau cái ngẫu
nhiên.
– Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể biến thành
cái ngẫu nhiên và ngược lại, nên cần chú ý tạo ra những điều kiện cần
thiết hoặc để ngăn trở, hoặc để sự chuyển hóa đó diễn ra tùy theo yêu
cầu của hoạt động thực tiễn.
– Cần có các phương án dự phòng cho trường hợp các sự biến ngẫu
nhiên bất ngờ xuất hiện để tránh bị động.

2.Bản chất và hiện tượng


Phạm trù bản chất là gì?
Phạm trù bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những
mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động
và phát triển
của sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ của xã
hội.
Do đó, một con người thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội.
Các mối quan hệ đó rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ
huyết thống,
quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp.
Hay, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người
lao động
bằng các quy luật như quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận,…
Phạm trù hiện tượng là gì?
Nếu bản chất là cái bên trong quy định sự vận động và sự phát triển của
sự vật, hiện tượng thì phạm trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái
biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực
lượng sản xuất và tính chất chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất.
Hay nói cách khác là sự mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản.
Bản chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng như nạn thất
nghiệp, đời sống khổ cực của giai cấp vo sản và người lao động, sự giàu
có của giai cấp tư sản.
Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta
thấy hai phạm trù này đều tồn tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng
là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Qua ví dụ đã nêu, ta thấy bản chất là cái bên trong chỉ được biểu hiện
thông qua hiện tượng. Hay nói cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một
bản chất nhất định. Như vậy, không có bản chất tồn tại thuần túy tách
rời hiện tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của
một bản chất nào. Lê – nin khẳng định: “Bản chất hiện ra, hiện tương
tường là có tính bản chất”.
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.
Chúng sẽ luôn tồn tại cùng nhau, nếu bản chất cũ mất đi thì các hiện
tượng do nó sinh ra cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất
hiện thì nó lại sản sinh ra các hiện tượng phù hợp với nó.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
Sự đối lập của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng được thể hiện
thông qua các yếu tố sau:
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt
phong phú và đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên
biến đổi.
Ý nghĩa phương pháp luận
– Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, phải đi sâu tìm
bản chất, không dừng ở hiện tượng, bởi bản chất là cái ở bên trong
hiện tượng.
– Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ
quan, tùy tiện. Vì bản chất tồn tại một cách khách quan ở ngay trong
bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật
ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
– Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, do đó, tìm bản
chất phải thông qua tìm hiểu các hiện tượng bên ngoài. Cần lưu ý, trong
quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét nhiều hiện tượng
khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
– Đặc biệt, để cái tạo sự vật phải thay đổi bản chất của nó chứ không
chỉ thay đổi hiện tượng. Bởi thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ
thay đổi theo. Có thể thấy, đây là một quá trình vô cùng phức tạp, do
đó cần kiên nhẫn, không chủ quan, nóng vội.
Như vậy, ta thấy cặp phạm trù bản chất và hiện tượng là một cặp phạm
trù quan trọng, thể hiện tính khoa học và đúng đắn. Xuất phát từ các
đặc điểm của chúng, mỗi chúng ta cần nhìn nhận các vấn đề một cách
khách quan, khoa học thông qua tìm hiểu đầy đủ, toàn diện các hiện
tượng bên ngoài. Từ đó đưa ra các kết luận đúng đắn về bản chất bên
trong. Nhờ vậy giúp chúng ra có được nhận thức một cách đúng đắn
nhất về sự vật hiện tượng.

3.Khả năng và hiên thực


I. Khái niệm khả năng và hiện thực
1. Khái niệm:
– Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới nhưng nó sẽ có, sẽ tới khi có
các điều kiện thích hợp.
Ví dụ: Ông X đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Ở đây có khả năng của
một ngôi nhà.
– Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
Ví dụ: Chiếc xe đạp bạn A đang đi là hiện thực. Suy nghĩ của bạn B về
một bộ phim hay cũng là hiện thực.
Do tất cả những gì đang tồn tại thực sự đều được coi là hiện thực nên
ta cần phân biệt:
+ Hiện thực khách quan: Chính là thế giới vật chất đang tồn tại khách
quan.
+ Hiện thực chủ quan: Là ý thức, tư tưởng đang tồn tại trong mỗi con
người.
2. Phân loại khả năng:
Tùy giác độ chúng ta lựa chọn mà có các loại khả năng khác nhau. Một
số loại khả năng hay gặp như:
– Khả năng thực tế là những khả năng do các mối liên hệ tất nhiên
quyết định, xuất hiện từ bản chất bên trong của sự vật và khi có đầy đủ
điều kiện sẽ trở thành hiện thực.
Ví dụ: Trong mỗi hạt thóc có khả năng thực tế hạt thóc sẽ thành cây
lúa.
– Khả năng hình thức, hay khả năng ảo, khả năng trừu tượng là
những khả năng do các mối liên hệ ngẫu nhiên, quan hệ bên ngoài
mang đến và chưa có đủ điều kiện để chuyển hóa thành hiện thực.
Ví dụ: Khả năng con người trúng sổ xố là khả năng ảo. Khả năng này
biến thành hiện thực chỉ là do ngẫu nhiên, may mắn.
– Ngoài các khả năng chính trên đây, ta còn có thể phân loại thành:
+ Từ góc độ xác suất lớn hay nhỏ xảy ra: Khả năng chủ yếu và khả
năng thứ yếu.
+ Xét theo sự liên quan đến lợi ích của con người: Khả năng tốt và khả
năng xấu.
+ Khi xét tới sự tương tác giữa các khả năng: Khả năng cùng tồn tại
và khả năng loại trừ lẫn nhau.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khả năng và hiện
thực có mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, luôn chuyển hóa lẫn nhau.
– Sở dĩ như vậy vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả
năng hướng tới biến thành hiện thực.
Trong thực tế, quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả
năng biến thành hiện thực, còn hiện thực này lại sản sinh ra những khả
năng mới. Cả khả năng mới ấy trong những điều kiện thích hợp lại biến
thành hiện thực mới.
Sự chuyển hóa cứ tiếp diễn mãi như vậy, tạo thành quá trình vô tận.
– Để khả năng biến thành hiện thực cần có vai trò của các điều kiện
khách quan và chủ quan.
Quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là một quá trình
khách quan.
Nói “chủ yếu” là vì trong tự nhiên không phải mọi khả năng đều biến
thành hiện thực một cách tự phát.
Ở đây có thể phân ra 03 trường hợp:
+ Thứ nhất: Loại khả năng mà điều kiện đển biến chúng thành hiện
thực chỉ có thể có bằng con đường tự nhiên.
Ví dụ: Các trường hợp động đất, sóng thần, núi lửa…
+ Thứ hai: Loại khả năng có thể biến thành hiện thực bằng con đường
tự nhiên cũng như nhờ sự tác động của con người.
Ví dụ: Để thuyền buồm vượt biển đến đúng cảng A, cần có gió và sự
điều khiển của con người.
+ Thứ ba: Loại khả năng mà bắt buộc có sự tham gia của con người để
biến thành hiện thực.
Ví dụ: Việc chế tạo ô-tô, ti-vi…
Trong lĩnh xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn
biến thành hiện thực còn cần có các điều kiện chủ quan. Đó là hoạt
động thực tiễn của con người. Ở đây, khả năng sẽ không bao giờ biến
thành hiện thực nếu không có sự tham gia của con người.
Hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất to lớn trong việc
biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá
trình biến đổi khả năng thành hiện thực. Nó cũng có thể điều khiển khả
năng phát triển theo hướng này hay theo hướng khác bằng cách tạo ra
các điều kiện thích ứng.
2. Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.
– Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể
tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng.
Ví dụ: Ông X đã có sẵn gạch, xi-măng, sắt, thép… Có khả năng xuất hiện
một ngôi nhà, đồng thời cũng có khả năng xuất hiện một cái kho.
– Ngoài một số khả năng vốn có ở sự vật trong những điều kiện có sẵn
nào đó, khi có thêm những điều kiện mới thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm
một hoặc nhiều khả năng mới.
Đó là do với sự xuất hiện của những điều kiện mới, về thực chất,
một hiện thực mới phức tạp hơn đã xuất hiện do sự tác động qua lại
giữa hiện thực cũ và điều kiện mới. Từ đó làm cho số tương tác tăng
thêm và dẫn đến làm tăng thêm khả năng mới.
3. Sự biến đổi của mỗi khả năng.
– Mỗi khả năng không phải là không thay đổi. Nó tăng lên hay giảm đi
tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
Ví dụ: Khả năng diễn ra biểu tình ở một quốc gia lớn hay thấp là tùy
theo mức độ mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền lớn hay thấp.
Do đó, muốn cho một khả năng nào đấy phát triển biến thành hiện
thực thì phải tạo cho nó các điều kiện thích hợp tương ứng.
– Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần có không
chỉ một điều kiện mà là một tập hợp các điều kiện. Tập hợp đó được
gọi là điều kiện cần và đủ, nếu có nó thì khả năng nhất định biến
thành hiện thực.
Ví dụ: Để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra cần một tập hợp các điều
kiện sau:
+ Giai cấp thống trị không thể giữ nguyên sự thống trị dưới dạng cũ
nữa.
+ Giai cấp bị trị bị bần cùng hóa quá mức bình thường.
+ Tính tích cực của quần chúng tăng lên đáng kể.
+ Giai cấp cách mạng có đủ năng lực chỉ đạo, tổ chức những hành động
cách mạng mạnh mẽ, đủ sức đập tan chính quyền cũ.
Thiếu một trong các điều kiện trên, cách mạng xã hội chủ nghĩa không
thể nổ ra.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào thực tế nhưng cũng cần
tính đến các khả năng.
– Trong hoạt động thực tiễn, việc quyết định, trù tính các kế hoạch cần
dựa và hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng. Vì hiện thực là cái
đang thực sự tồn tại, còn khả năng là cái chưa có.
Ta cần phải thấy rõ sự khác biện về chất giữa khả năng và hiện thực.
Nếu lẫn lộn giữa khả năng và hiện thực, ta sẽ phải gánh hậu quả tai hại
trong thực tiễn.
– Tuy nhiên, nói như vậy không phải là bỏ qua, xem thường khả năng.
Mà ta phải tính đến các khả năng để đề ra chủ trương, kế hoạch,
bởi khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương
lai.
Nếu ta tách rời khả năng và hiện thực, chúng ta sẽ không thấy khả
năng tiềm ẩn trong sự vật, dẫn đến không dự đoán được tương lai phát
triển của sự vật. Hoặc sẽ không thấy khả năng có thể biến thành hiện
thực, do đó không tạo ra những điều kiện thiết yếu để thúc đẩy hoặc
ngăn cản sự chuyển biến tùy theo mục đích của mình.
2. Thực hiện quy trình, cách thức xác định các khả năng trong thực
tiễn.
– Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức khoa học nói
riêng là phải tìm ra, xác định cho được các khả năng phát triển của sự
vật.
– Khi xác định các khả năng, ta cần chú ý:
+ Chỉ có thể tìm ra các khả năng phát triển của sự vật trong chính bản
thân sự vật ấy chứ không thể ở nơi nào khác. Vì khả năng là do sự vật
gây nên và tồn tại trong sự vật.
+ Chỉ có thể căn cứ vào tương quan lực lượng giữa các mặt ở bên
trong sự vật, vào mâu thuẫn nội tại trong nó, và vào những điều kiện
bên ngoài để dự kiến khuynh hướng phát triển của khả năng.
Sở dĩ là do khả năng nảy sinh vừa do tác động qua lại giữa các mặt ở
bên trong sự vật, vừa do sự tác động của sự vật với hoàn cảnh bên
ngoài.
+ Vì khả năng tồn tại trong chính bản thân sự vật, gắn bó chặt chẽ với
sự vật nên ra dễ nhầm lẫn khả năng với hiện thực. Để tránh nhầm lẫn,
ta cần lưu ý: Hiện thực là cái đã có, đã tới, còn khả năng là cái
hiện chưa có, chưa tới.
+ Chúng ta không được tách rời khả năng khỏi hiện thực. Lý do là
vì khả năng nằm ngay trong hiện thực, gắn bó chặt chẽ với hiện thực.
3. Tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng.
Sau khi xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của
hoạt động thực tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả
năng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, ta cần lưu ý:
– Trong hoạt động thực tiễn cần tính đến mọi khả năng có thể có để
dự án các kế hoạch hành động, dù những khả năng đó là tốt hay xấu,
tiến bộ hay lạc hậu. Chỉ có như vậy ta mới tránh rơi vào bị động trong
thực tiễn.
– Trong số các khả năng hiện có của sự vật, cần trước hết chú ý
đến khả năng tất nhiên, đặc biệt là các khả năng gần, vì đó là những khả
năng dễ biến thành hiện thực hơn cả.
– Vì một khả năng chỉ biến thành hiện thực khi có đủ những điều kiện
cần thiết, nên cần chủ động tạo ra những điều kiện cần và đủ để có
được hiện thực theo mong muốn.
– Trong lĩnh vực xã hội, phải có sự tham gia của con người (nhân tố
chủ quan) để khả năng biến thành hiện thực. Nên tùy theo yêu cầu của
hoạt động thực tiễn, ta cần tạo mọi điều kiện để nhân tố con người
tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn cản sự biến đổi khả
năng thành hiện thực.
Ở đây, ta cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Tức là chỉ cần có con
người là khả năng sẽ biến thành hiện thực.
+ Xem thường nhân tố chủ quan. Tức là không tin tưởng vào năng lực
của con người trong việc biến khả năng thành hiện thực.

3.Nội dung và hình thức


I. Khái niệm
– Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật.
Ví dụ: Nội dung của chiếc xe hơi là có 04 bánh cao su, chứa được 4-6
người, sử dụng nhiên liệu là xăng hoặc dầu, tốc độ chạy từ 30 – 200
km/h.
– Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Cần phân biệt giữa phạm trù “hình thức” trong triết học với hình
thức bên ngoài của sự vật. Phạm trù “hình thức” chủ yếu để chỉ hình
thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.
Ví dụ: Hình thức của chiếc xe hơi là các bộ phận được làm từ thép,
nhựa, cao su…, động cơ được bố trí ở phần trước của xe, có nút đề khởi
động động cơ, có ghế lái xe và ghế ngồi đệm mút…
II. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nội dung và hình
thức có mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.
– Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức.
Không có sự vật nào chỉ có nội dung mà không có hình thức, hoặc chỉ
có hình thức mà không có nội dung. Do vậy, nội dung và hình thức phải
thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.
– Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng
những mặt, những yếu tố này không tách rời nhau, mà thống nhất, gắn
kết với nhau.
Như thế, những mặt, những yếu tố… vừa là chất liệu làm nên nội dung,
vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Do đó, nội dung và
hình thức không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không
có nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức.
– Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có
nhiều hình thức. Ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện
những nội dung khác nhau.
Ví dụ:
Nội dung của ngôi nhà là để ở, ở trong có nhiều đồ gia dụng. Hình
thức ban đầu của ngôi nhà là có 02 phòng ngủ, 01 phòng khách… Chủ
nhà thu hẹp diện tích phòng khách để có 03 phòng ngủ. Như vậy, hình
thức ngôi là đã thay đổi.
Một thời gian sau, chủ nhà bán nhà, người khác sử dụng chính căn nhà
đó làm văn phòng. Khi đó, nội dung căn nhà đã thay đổi.
2. Nội dung quyết định hình thức.
Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung có vai trò
quyết định đến hình thức.
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo
là biến đổi. Còn hình thức là mặt tương đối bền vững; khuynh hướng
chủ đạo của nó là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi,
phát triển của nội dung. Còn hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn,
ít hơn so với nội dung.
Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù
hợp với nội dung mới.
Ví dụ: Nội dung quan hệ giữa anh A và chị B là quan hệ bạn bè, khi đó
hình thức quan hệ giữa hai người không có “giấy chứng nhận”. Khi anh
A và chị B kết hôn, nội dung quan hệ đã thay đổi, thì hình thức quan hệ
buộc phải thay đổi khi hai người buộc phải có “giấy chứng nhận kết
hôn”.
3. Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung.
– Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó
không có nghĩa là hình thức chỉ “ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái
lại, hình thức luôn độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại nội
dung.
Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội
dung. Ngược lại, nếu không phù hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội
dung phát triển.
– Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt
quá trình phát triển của sự vật.
Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống
mối liên hệ tương đối bền vững của hình thức. Nhưng khi những biến
đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ
tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển
của nội dung. Lúc này, hình thức không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội
dung mới sẽ phá bỏ hình thức cũ, hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ
sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát triển và chuyển
sang trạng thái mới về chất
III. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Không tách rời nội dung với hình thức.
Do nội dụng và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong
hoạt động thực tiễn, ta cần chống lại mọi khuynh hướng tách rời nội
dung với hình thức. Ở đây cần chống lại hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc là tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung.
Ví dụ: Trong cuộc sống chỉ coi trọng vật chất xa hoa mà coi nhẹ tâm hồn
con người.
+ Hoặc là tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.
Ví dụ: Trong cuộc sống, chỉ biết đến rèn luyện nhân cách, tâm hồn mà
không chú ý đến phương tiện vật chất tối thiểu.
2. Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật.
Vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần
căn cứ trước hết vào nội dung của nó. Và nếu muốn làm biến đổi sự vật
thì cần tác động để thay đổi trước hết nội dung của nó.
3. Phải theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Vì hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của nội dung,
nên trong hoạt động thực tiễn cần luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình
thức và nội dung của sự vật để có thể kịp thời phát hiện, can thiệp vào
tiến trình phát triển của sự vật theo hướng có lợi nhất.
Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều kiện để hình thức phù
hợp với nội dung. Ngược lại, nếu thấy sự vật phát triển lên sẽ có hại,
cần tìm cách để hình thức không phù hợp với nội dung.
4. Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.
– Vì cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có
nhiều hình thức, ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện
những nội dung khác nhau, nên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi
loại hình thức có thể có (mới và cũ), kể cả phải cải biến những hình
thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện những nhiệm vụ
thực tiễn.
– Ở đây cũng cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái
mới.
+ Hoặc phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới. Chủ
quan, nóng vội, thay đổi hình thức một cách tùy tiện, không có căn cứ.

4.Nguyên nhân với kết quả


Mối quan hệ biện chứng hai phạm trù giữa cái Nguyên nhân là phạm
trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó với Kết quả là
phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra, qua đó phản
ánh mối quan hệ hình thành của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào
nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân sinh ra. Mặt khác, một nguyên nhân trong những điều
kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả khác nhau. Và nếu
nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự
vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả,
làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu những nguyên
nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác
dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn
cản sự xuất hiện của kết quả. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị
trí cho nhau Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong
mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là
kết quả và ngược lại
*TÍNH CHẤT
Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự
vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay
không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất
yếu gây nên biến đổi nhất định
Tính phổ biến: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội
đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không
có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay
chưa mà thôi.
Tính tất yếu: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện
giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau.
*Ý NGHĨA
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân
này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong
hoạt động thực tiễn chủ thể cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra
nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong,
nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách
quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên
nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có
tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên
nhân có tác động tiêu cực.

You might also like