Professional Documents
Culture Documents
về chất?
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng thể hiện như thế
nào?
Chất và lượng là 2 mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi
xong hai mặt đó không thể tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau một cách biện
chứng sự thống nhất giữa chất và lượng trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động,
phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất
của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đôi về lượng của sự vật, hiện
tượng và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến
đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ
tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
a) Lượng đổi dẫn đến chất đổi
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cùng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và
lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự
vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng
dẫn đển sự thay đổi về chất
Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất.
Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
Ví dụ về độ :
Cá rô phi nuôi ở nước ta có giới hạn sinh thái từ 5,60C đến 420C. Nhiệt độ 5,60C gọi là giới hạn
dưới, 420C gọi là giới hạn trên. Khoảng nhiệt độ thuận lợi cho các chức năng sống của cá là từ
200C đến 350C. Khoảng nhiệt độ chống chịu là từ 5,60C đến 200C và từ 350C đến 420C.
Trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và
hiện tượng khác
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Khi lượng thay đổi đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về
chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điếm nút, với những
điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước
nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ về nút :
Nước đạt ở 100*C thì sôi, Nước đạt ở 0*C thì đông đặc hoặc ví dụ ở cá rô pi ở trên
Ví dụ về bước nhảy :
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi
mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn
và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, V.V..
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên
tục của sự vật, hiện tượng
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai
mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra
những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo
thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Câu 2: Trình bày quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập?
Nội dung :
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển,
dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
1. Định nghĩa về các “mặt đối lập”, “mâu thuẫn biện chứng”, sự
“thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập:
– Mặt đối lập:
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại
một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ:
+ Trong mỗi con người, các mặt đối lập là hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
Trong sinh vật, các mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa.
Lửa và nước
Trong một lớp học, các mặt đối lập là hoạt động đoàn kết để cả lớp
cùng lớn mạnh và hoạt động cạnh tranh để trở thành sinh viên giỏi nhất
lớp.
Mâu thuẫn biện chứng:
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện
thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn lô-gic hình thức.
Mâu thuẫn lô-gic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm
trong tư duy.
Sự “thống nhất” của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải
lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Ví dụ: Trong mỗi con người, hoạt động ăn và hoạt động bài tiết rõ ràng
là các mặt đối lập. Nhưng chúng phải nương tựa nhau, không tách rời
nhau. Nếu có hoạt động ăn mà không có hoạt động bài tiết thì con
người không thể sống được. Như vậy, hoạt động ăn và hoạt động bài
tiết thống nhất với nhau ở khía cạnh này.
Sử tử ăn nai
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ
cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là
sự “đồng nhất” của các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang
nhau của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn
khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài
trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng,
tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều
kiện diễn ra cuộc đấu tranh.
Ví dụ : sự đấu tranh qua lại giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
????
Câu 3 Trình bày quy luật phủ định của phủ định.
Phủ định là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Ví dụ của phủ định :
+ Trong quá trình phát triển của các phương tiện giao thông, xe máy là sự phủ
định đối với xe đạp. Xê ô tô là sự phủ định đối với xe máy.
+ Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ định cha.
Ông cha ta thường hay nói “con hơn cha là nhà có phúc” là ý như vậy.
=> Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là một mắt khâu
trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không ngừng của
sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó có
nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra
đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Ví dụ:
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 11 là sự phủ định đối
với iPhone X.
+ Khi gieo trồng, cây lúa là sự phủ định biện chứng đối với hạt thóc.
+ Trong chăn nuôi, con gà đạp trứng ra đời là sự phủ định biện chứng đối với
quả trứng.
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa
cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải
là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho
sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại
một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự
phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy
ốc.
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế
thừa.
2.1. Tính khách quan:
– Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ
định nằm ngay trong bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả giải
quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
– Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế, phủ
định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy
thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
Ví dụ:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) => Phủ
định lần 1 tạo ra gà mái con => Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh
ra nhiều quả trứng.
+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) => Phủ định lần 1
tạo ra cây lúa => Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.
– Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự
thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng
được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới.
Như thế, những lần phủ định biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu hướng tiến
lên không ngừng, như việc sẽ ngày càng có nhiều quả trứng hơn, ngày càng
có nhiều hạt thóc hơn.
Như thế ta thấy, đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng
thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở
lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
– Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển,
đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Cứ thế,
các chu kỳ phát triển cứ nối tiếp nhau tạo thành sự phát triển, sự tiến lên vô
cùng tận của thế giới, nhưng không phải theo đường thẳng mà theo hình xoáy
ốc.
– Sở dĩ nói “theo hình xoáy ốc” vì “hình xoáy ốc” đã biểu đạt được các đặc
trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng
không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển.