Professional Documents
Culture Documents
Giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam, thế giới đối với ngành hàng mã HS 6403 và
tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới (nghìn USD)
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu 6403 Nhập khẩu 6403 Tổng Xuất khẩu
Năm
6403 của VN 6403 của VN của TG của TG của TG
2001 377901 166 15029192 26049710 6127467709
Bảng 3. Kim ngạch nhập khẩu của Mỹ đối với giày dép mã HS 6403 ở năm 2008, 2009 đối
với Việt Nam và Trung Quốc
Năm Tổng kim ngạch Nhập khẩu từ TQ Nhập khẩu từ VN
200
9921119 6875495 755392
8
200
11904324 7977343 764281
9
LỜI MỞ ĐẦU
Các năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tốt vượt mức kỳ vọng, với GDP năm
2018 và 2019 đều tăng hơn 7%. Một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tốc độ
tăng trưởng GDP của Việt Nam là nhờ vào các hoạt động thương mại trao đổi buôn bán với
thế giới.
Bên cạnh ngành hàng điện thoại hiện có giá trị xuất khẩu cao nhất, đóng góp quan trọng trong cơ
cấu GDP thì mặt hàng giày dép nói chung (mã HS 64) từ lâu cũng luôn là ngành chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 16
tỷ USD và giữ vị trí thứ hai trong danh sách các ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu cao
nhất năm 2018 của nước ta (Trademap).
Năm 2018, tổng số thị trường đối tác của Việt Nam đối với mặt hàng giày dép đã hơn 100 quốc gia.
Riêng ba thị trường có kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam lớn nhất là Mỹ, EU và Trung
Quốc đã chiếm gần 12 tỷ USD. Theo thống kê của World Footwear, năm 2018 Việt Nam là
đối tác cung ứng giày dép lớn thứ hai của Mỹ với 22% tổng kim ngạch. Theo các chuyên
gia, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) bắt đầu có
hiệu lực còn góp phần thúc đẩy ngành da giày ở Việt Nam thâm nhập vào các thị trường
tiềm năng khác như Mexico, Canada, Chile,...
Bên cạnh các kết quả khả quan đạt được, ngành sản xuất giày dép Việt Nam cũng phải đối mặt với
một số khó khăn nhất định như hầu hết các công ty trong nước đều là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ (từ 200 - 500 lao động), còn hạn chế về công nghệ kỹ thuật, chỉ số năng suất lao
động khu vực sản xuất dệt may của Việt Nam chỉ đạt 2,4 và thấp hơn nhiều so với một số
quốc gia khác như Trung Quốc với 6,9, Indonesia là 5,2 (theo báo cáo của WTO). Mặt
khác, khoảng 60% nguyên liệu cho ngành công nghiệp da giày là đến từ việc nhập khẩu với
chi phí ngày một tăng lên (Theo ông Nguyễn Đức Thuấn - Chủ tịch Lefaso). Về thế mạnh
của nước ta trong ngành công nghiệp này chủ yếu đến từ nguồn lực lao động dồi dào; Nhà
nước tạo động lực thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài mang vốn đầu tư vào
Việt
Nam; cùng với việc Nhà nước tích cực đàm phán đi đến ký kết các Hiệp định tự do thương
mại, bao gồm 17 Hiệp định đã ký kết, có hiệu lực hoặc đang đàm phán (theo Trung tâm
WTO và Hội nhập),... ngày càng giúp cải thiện môi trường sản xuất và góp phần củng cố vị
trí quốc gia xuất khẩu giày dép lớn thứ hai thế giới của Việt Nam (The World Footwear
2019 Yearbook).
Cơ cấu ngành hàng giày dép được phân ra thành nhiều nhóm hàng nhỏ hơn. Trong bài phân
tích dưới đây, chúng ta sẽ tập trung vào các chỉ số có liên quan của ngành hàng này, cụ thể
là loại Giày có đế ngoài bằng cao su, nhựa, da và mũ giày bằng da (mã HS 6403) trong
giai đoạn từ năm 2001 đến 2018, dựa trên nguồn số liệu của Trademap và các tài liệu
tham khảo có liên quan khác. Từ đó rút ra một số luận điểm, kết luận cụ thể đối với sự biến
động, các nhân tố gây tác động và xu thế phát triển của ngành hàng chủ lực này.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành tăng trưởng tương đối tốt qua từng năm. Ở giai đoạn từ
năm 2001 đến 2008, tốc độ tăng trưởng tương đối cao nhưng có sự biến động mạnh, do thị trường
còn nhỏ và yếu, sự biến động nhỏ về giá trị xuất khẩu cũng có thể gây ra sự thay đổi lớn trong tốc
độ tăng trưởng. Sau khi sụt giảm kim ngạch ở năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đối với mặt hàng giày dép có mũ giày bằng da
(mã HS 6403) tiếp tục tăng trở lại với mức chênh lệch qua từng năm ổn định đến năm 2015 và tốc
độ tăng có xu hướng giảm nhẹ, một phần do quy mô thị trường trong giai đoạn này đã bắt đầu lớn
mạnh. Đến năm 2016, kim ngạch xuất khẩu ghi nhận mức giảm hơn 300 triệu USD, sau đó tăng.
Năm 2006, Mỹ đã là thị trường xuất khẩu lớn nhất của giày dép Việt Nam thay thế vị trí
của EU. Quốc gia này có nhu cầu rất lớn về nhiều chủng loại giày dép khác nhau nên các doanh
nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để khai thác. Một điểm thuận lợi trong giai đoạn đó là có nhiều
hàng giày nổi tiếng thế giới của Mỹ như: Nike, Reebok… đã tin tưởng vào năng lực của các doanh
nghiệp Việt và chọn Việt Nam làm gia công sản phẩm sau đó xuất khẩu đi các nước khác. Trong
năm này, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hàng qua một số thị trường mới như
Mozambique (Đông Phi), Tây Phi… khiến cho sự tăng trưởng đạt trên 40%. Ở năm kế tiếp, Việt
Nam chính thức được công nhận là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc mở ra
cánh cửa mới cho việc giao thương xuất khẩu với nhiều quốc gia khác trên thế giới đã giúp tốc độ
tăng trưởng của ngành cao kỷ lục ở mức 50,06%.
Trong thời kỳ khó khăn đỉnh điểm của khủng hoảng. Tổng kim ngạch nhập khẩu của
Mỹ đối với ngành hàng giày dép mã HS 6403 trong năm 2009 giảm 16,66%; kim ngạch nhập khẩu
đối với đối tác lớn nhất là Trung Quốc ghi nhận mức giảm đáng kể là 13,81%; đối với đối tác lớn
thứ hai là Việt Nam,
giảm nhẹ với 1,16%. Điều này cho thấy an toàn về vị thế cũng như nhu cầu và sự ưa
chuộng của Mỹ đối với giày dép xuất xứ Việt Nam khá ổn định. Tuy nhiên do các quốc gia
khác như Anh, Canada, Pháp, Ý, Nhật có GPD giảm đáng kể đã ảnh hưởng đến kim ngạch
xuất khẩu giày dép, dẫn đến việc tốc độ tăng trưởng giảm 11,92%. Sau đó, năm 2010 Việt
Nam trở thành công xưởng giày lớn nhất của Adidas với sản lượng chiếm hơn 40%, Nike
cũng lựa chọn Việt Nam để gia công lượng lớn giày dép, đã góp phần lấy lại đà tăng
trưởng cho hoạt động xuất khẩu.
Năm 2016 là năm đầu tiên sau khủng hoảng 2009 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này
giảm. Các chuyên gia trong ngành nhận xét rằng, trong 9 tháng năm 2016, thị trường xuất
khẩu ngành da giày của Việt Nam gặp nhiều khó khăn, do những bất ổn về chính trị đã làm
nhu cầu tiêu dùng tại các khu vực và thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như Hoa Kỳ,
EU và Nhật Bản bị ảnh hưởng, nhất là tại EU. Điều này đã làm cho kim ngạch xuất khẩu
ngành giày dép nói riêng và mặt hàng giày có mũ bằng da nói riêng bị sụt giảm.
6. KẾT LUẬN
Bên cạnh các yếu tố thuận lợi tự nhiên và lịch sử phát triển của ngành hàng giày dép, Việt
Nam đã tích cực thực hiện nhiều hoạt động nhằm phát triển lợi thế thương mại và thúc đẩy
giao thương của nước ta, mang lại hiệu quả cho nền kinh tế nói chung và ngành hàng giày
dép mã HS 6403 nói riêng. Đầu tiên, là những thỏa thuận thương mại ưu đãi - phương thức
thấp nhất của hội nhập kinh tế quốc tế; thứ hai, khu vực mậu dịch tự do (Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam – Nhật Bản; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU),...; thứ ba,
thực hiện các hiệp định đối tác kinh tế;... mang lại hiệu ứng tốt cho nền kinh tế và được
nhiều tổ chức nhận xét nước ta là một trong những nền kinh tế có triển vọng cao.
Ngành giày dép Việt Nam đang ngày một phát triển lớn mạnh. Phần lớn đối tác đến từ các nền kinh
tế lớn với các đơn hàng có giá trị cao đã mang về cho các doanh nghiệp da giày một nguồn ngoại tệ
không hề nhỏ. Tuy nhiên sự phụ thuộc cao vào một số nền kinh tế nhất định cũng là một rủi ro. Có
thể thấy, năm 2016, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đối với mặt hàng giày dép mã HS 6403 đã
bị giảm do sự mất cân bằng về chính trị ở một số quốc gia đối tác. Sự bất ổn của các quốc gia lớn là
một trong các yếu tố ảnh hưởng xấu đến việc tiêu dùng của người dân cũng như việc hạn chế nhập
khẩu giày dép, hoặc thậm chí gây ảnh hưởng đến nhiều nền kinh tế khác.
Trong hoàn cảnh dịch bệnh vẫn đang nghiêm trọng và chưa thể khống chế như hiện nay. Mặc dù
Việt Nam là một trong số ít quốc gia đã ngăn chặn tốt được dịch cho đến thời điểm hiện tại. Nhưng
khó khăn của các nước khác cũng chính là thử thách cho hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta.
Việc hạn chế giao thương không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu mà còn gây khó khăn trong
việc nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, không đảm bảo được yêu cầu về sự đa dạng nguyên liệu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp dù đã sản xuất được hàng nhưng lại không thể xuất khẩu vì khách hàng
(các doanh nghiệp nhập khẩu) không bán được hàng. Do vậy, những đơn hàng đã sản xuất xong
cũng không thể xuất đi vì khả năng khách hàng sẽ hủy đơn hàng là cao. Cuối cùng, là nguy cơ khách
hàng không tiếp tục đặt hàng do tình hình dịch bệnh vẫn kéo dài.
Hiện nay, mặc dù Trung Quốc đang khắc phục được dịch bệnh nhưng đất nước này cũng đã bị tác
động không ít. Bên cạnh đó, Mỹ đã và đang được đánh giá là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
do dịch Covid - 19, cùng với nhiều quốc gia phát triển khác. Đồng thời đây cũng là những quốc gia
đối tác chính cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, việc ngành hàng giày dép của nước ta
có thể bị chịu tác động tiêu cực trong thời gian tới dẫn đến hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn là
điều dễ hiểu và có thể lường trước được.