You are on page 1of 3

1/GIỚI THIỆU CHUNG

Mô hình CAPM là gì?

Capital Asset Pricing Model (CAPM) là một mô hình thể hiện quan hệ giữa suất sinh lợi kỳ vọng của một
tài sản, so với rủi ro của chính tài sản đó.

Kết quả của mô hình CAPM sẽ là tỷ lệ sinh lời yêu cầu của một tài sản (chi phí sử dụng vốn chủ – Ke).

Bằng cách so sánh tỷ lệ sinh lời yêu cầu, với khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu thực tế (ROE) chúng ta
sẽ có cái nhìn sơ lược nhất về khả năng sinh lời của doanh nghiệp.

Nguyên tắc cơ bản ở đây là:

High risk – high return

Nếu bạn yêu cầu suất sinh lời của cổ phiếu càng lớn thì chi phí sử dụng vốn sẽ càng cao.

Nói cách khác, doanh nghiệp được lựa chọn sẽ càng khắt khe hơn

CÁCH NÓI KHÁC


Trong tài chính, mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) được sử dụng để xác định tỷ suất sinh lợi
yêu cầu của một tài sản khi tài sản đó được thêm vào một danh mục đã được đa dạng hóa tốt, với
rủi ro không thể đa dạng hóa của tài sản đó được cho trước. Mô hình này đo lường độ nhạy cảm
của tài sản với rủi ro không thể đa dạng hóa (cũng được gọi là rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường)
mà thường được đại diện bởi hệ số beta (β) trong ngành tài chính, cũng như với lợi tức kỳ vọng của
thị trường và lợi tức kỳ vọng của một tài sản lý thuyết phi rủi ro.

2/CÁC GIẢ ĐỊNH


Các giả định và mở rộng giả định của mô hình CAPM

Tất cả các nhà đầu tư đều là những người đầu tư hiệu quả, họ mong muốn nắm giữ danh mục
nằm trên đường biên một cách hiệu quả. Họ có thể là người đi vay hoặc cho vay số tiền bất kỳ ở
lãi suất phi rủi ro
Tất cả các nhà đầu tư đều mong đợi thuần nhất, tức là họ có ước lượng các phân phối xác suất
tỷ suất sinh lợi trong tương lai tương đương nhau.

Các nhà đầu tư đều có một phạm vi thời gian trong một chu kỳ như sau. Mô hình này sẽ được
xây dựng trong một khoảng thời gian giả định và kết quả của nó sẽ  bị ảnh hưởng nếu giả định
khác đi.

Tất cả các khoản đầu tư có thể phân chia tùy ý, tức là nhà đầu tư có thể mua và bán các tỷ lệ
phần trăm của tài sản hoặc danh mục.

Không có thuế hoặc chi phí giao dịch liên quan đến mua bán tài sản.

Việc phản ánh lạm phát hay bất kỳ thay đổi nào trong lãi suất và lạm phát không thực sự đầy
đủ.

Các thị trường vốn ở trạng thái cân bằng nên các nhà đầu tư bắt đầu với tất cả tài sản được
định giá đúng với mức độ rủi ro của nó.

Các nhà đầu tư đều hành động hợp lý: e ngại rủi ro, ra quyết định theo suất sinh lợi kỳ vọng và
độ lệch chuẩn của suất sinh lợi.

HOẶC LÀ
1. Các nhà đầu tư nhằm mục tiêu tối đa hóa hữu dụng kinh tế với
số lượng tài sản được cho trước và cố định.
2. Các nhà đầu tư là hợp lý và e ngại rủi ro.
3. Số lượng các nhà đầu tư đủ lớn.
4. Nhà đầu tư là người nhận giá, tức là không thể tác động lên
giá cả.
5. Nhà đầu tư có thể cho vay và vay không giới hạn với lãi suất
phi rủi ro.
6. Không có chi phí giao dịch và thuế.
7. Tất cả các tài sản có thể được chia nhỏ và có tính thanh khoản
hoàn hảo.
8. Các nhà đầu tư có kỳ vọng thuần nhất.
9. Tất cả các thông tin sẵn có đồng thời cho tất cả các nhà đầu
tư.

You might also like