Professional Documents
Culture Documents
Trong đó:
re: Tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư đối với cổ phiếu
rf: Tỷ suất sinh lời phi rủi ro
rm : Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của thị trường
β: Hệ số rủi ro đối với cổ phiếu
Khi:
β =1: biến thiên bằng thị trường, rủi ro bằng mức thị trường
β > 1: rủi ro cao hơn mức trung bình của thị trường
β < 1: rủi ro thấp hơn mức trung bình của thị trường (biến thiên và độ lệch
chuẩn thấp hơn thị trường)
Ví dụ: Lãi suất phi rủi ro (r f ¿ là 10%, tỷ suất sinh lời thị trường (r m ¿ là 14%,
hệ số rủi ro đối với cổ phiếu của công ty được xác định là 1,5. Hỏi tỷ suất
sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư hay cổ đông đối với cổ phần của công ty là
bao nhiêu?
Giải: r e =10 % +1,5x(14% - 10%) = 16%
Ưu điểm:
Cho thấy tác động của rủi ro đến chi phí sử dụng vốn một cách rõ ràng, mặt
khác phương pháp này có thể áp dụng cho các công ty trả cổ tức ổn định hay
không ổn định.
Hạn chế:
Đòi hỏi phải ước định mức rủi ro thị trường và hệ số rủi ro. Đây là vấn đề
không hề đơn giản, vì các yếu tố này thường thay đổi theo thời gian.
Mặt khác, khi sử dụng mô hình CAPM là dựa vào quá khứ để dự đoán tương
lai. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện của nền kinh tế thay đổi rất nhanh, vì
thế quá khứ không phải luôn luôn là sự chỉ dẫn tốt cho tương lai.
a. Những giả thuyết về thị trường vốn: Lý thuyết thị trường vốn xem xét
danh mục đầu tư bao gồm tài sản phi rủi ro và danh mục đầu tư hiệu quả M,
theo định nghĩa của Markowits.
- Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Hoạt động của những nhà
đầu tư riêng lẻ không làm ảnh hưởng đến thị trường. Giá cả trên thị trường
chỉ chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ cung cầu.
- Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ một sự cản trở
nào trong cung và cầu của một loại chứng khoán.
- Trên thị trường tồn tại loại chứng khoán không có rủi ro mà nhà đầu tư có
thể đầu tư.
- Các thị trường vốn ở trạng thái cân bằng.
- Các nhà đầu tư có thể đi vay và cho vay ở lãi suất phi rủi ro ¿)
- Nhà đầu tư ra quyết định đầu tư dựa theo 2 tham số: lợi nhuận kỳ vọng và
phương sai của lợi nhuận.
- Nhà đầu tư nói chung là người ngại rủi ro. Do vậy, họ muốn tối đa hóa tỷ
suất sinh lợi với một mức độ rủi ro cho phép.
- Nhà đầu tư quyết định trong một khoảng thời gian nào đó có thể là 6 tháng,
1 năm hay 2 năm, …
- Tất cả nhà đầu tư có thể mua và bán các tỷ lệ phần trăm của bất kỳ tài sản
hay danh mục nào.
- Tất cả những nhà đầu tư đều là các nhà đầu tư hiệu quả Markowitz, họ mong
muốn nắm giữ danh mục nằm trên đường biên hiệu quả.
Tập hợp những sự kết hợp của danh mục này nằm trên đường thẳng kẻ từ
trục tung ở điểm có lợi nhuận phi rủi ro đến điểm tiếp xúc ở đường giới hạn
danh mục đầu tư hiệu quả, như được mô tả như hình dưới đây:
Công thức của đường CML được thể hiện như sau :
Trong đó:
- Mẫu số thể hiện mức độ rủi ro của danh mục đầu tư thị trường.
- Như vậy, độ dốc của đồ thị biểu hiện mức độ bù đắp thu nhập cho mỗi đơn
vị rủi ro của thị trường, vì đường CML biểu hiện mức lợi suất có thể nhận
được cho mỗi mức độ rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận.
- Mỗi điểm trên đường thẳng thể hiện trạng thái cân bằng của thị trường ở các
cấp độ khác nhau.
- Độ dốc của đường CML quyết định thu nhập phụ trội cần thiết để bù đắp
cho mỗi đơn vị thay đổi trong rủi ro mà nhà đầu tư phải gánh chịu.
Đó chính là lý do để coi đường CML là giá trị thị trường của rủi ro (Market
price of risk).
4. Quan hệ giữa lý thuyết thị trường vốn và mô hình định giá tài
sản vốn CAPM:
Phương trình đường thị trường vốn CML phản ánh mối quan hệ giữa rủi ro
và tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu tư.
Giả sử chúng ta thay danh mục đầu tư bằng một chứng khoán cá biệt j, thì
phương trình trên có thể viết thành :
Đặt thì
Như thế phương trình trên chính là phương trình biểu diễn đường thị trường
chứng khoán SML.
Mô hình định giá tài sản vốn chỉ là một trường hợp đặc biệt của lý thuyết
thị trường vốn mà thôi