You are on page 1of 7

Mở bài và kết bài của một số văn bản lớp 9

Son Dong
14/10/2013, 19:37
lịch âm dương | lịch vạn niên
Mở bài và kết bài của một số văn bản lớp 9
Hôm nay, mình sẽ đăng cho các bạn 1 bài tham khảo về 1 số cách mở bài và kết bài
của các văn bản học ở lớp 9. Mình hi vọng, nó sẽ giúp ích đc cho các bạn trong việc
viết văn và thi cử.
Các bạn xem thử nha

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Mở bài
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ
thời chống Mĩ cứu nước. Thơ ông có giọng tự nhiên, tinh nghịch mà sôi nổi, đã góp
phần làm sống mãi hình ảnh thế hệ thanh niên thời chống Mĩ gian khổ, ác liệt mà vẫn
phơi phới niềm tin. Tiêu biểu là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (1969). Qua đó,
tác giả làm nổi bật hình ảnh những người lái xe ở tuyến đường Trường Sơn hiên
ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.

NÓI VỚI CON

Mở bài
Nhà thơ Y Phương là người dân tộc Tày. Ông có nhiều bài thơ viết về quê hương, dân
tộc mình. Thơ ông hồn nhiên mà trong sáng, chân thật mà mạnh mẽ. Cách tư duy
trong thơ ông độc đáo, giàu hình ảnh, thể hiện phong cách của con người miền núi.
Bài thơ “Nói với con” là một khúc tâm tình của người cha dặn dò con, thể hiện lòng
yêu thương con cuả người miền núi và ước mong thế hệ con cái phát huy truyền thống
tốt đẹp của cha ông.

ĐỒNG CHÍ

Mở bài
Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ. Chính Hữu viết không nhiều, những tác phẩm của ông hầu
như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác
phẩm tiêu biểu nhất về người lính cách mạng thời kháng chiến chống Pháp, được sáng
tác đầu năm 1948 (in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”). Với ngôn ngữ cô đọng,
giàu hình ảnh tác phẩm thể hiện vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc mạc
mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những ngày tháng chiến đấu gian
lao, chống kẻ thù xâm lược.

VIẾNG LĂNG BÁC


Mở bài
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ
giải phóng miền Nam thời chống Mĩ. Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ
kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh
thành, Viễn Phương ra miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác”
được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”. Tác phẩm thể
hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với
Bác.

MÙA XUÂN NHO NHỎ

Mở bài
Nhà thơ Thanh Hải hoạt động văn nghệ từ cuối những năm chống Pháp. Trong thời
chống Mĩ, ông ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có công xây
dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ “Mùa xuân nho
nhỏ” được sáng tác không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời (11-1980). Bằng sự diễn
đạt gợi cảm, Thanh Hải thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống và ước nguyện
chân thành của tác giả được cống hiến cho đất nước.

CHIẾC LƯỢC NGÀ

Mở bài
“Chiếc lược ngà” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng
trong thời kháng chiến chống Mĩ, được đưa vào tập truyện cùng tên của ông. Với tình
huống độc đáo và tài năng của người cầm bút, tác giả đã tạo nên một câu chuyện cảm
động về tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI

Mở bài
Lê Minh Khuê là cây bút nữ nghiêng về truyện ngắn. Trong những năm chiến tranh
chống Mĩ, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên
tuyến đường Trường Sơn. Tiêu biểu là truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (1971).
Truyện phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng, cuộc sống chiến đấu gian
khổ và tinh thần lạc quan của các cô gái mở đường Trường Sơn giữa trọng điểm ném
bom ác liệt của máy bay Mĩ.

LẶNG LẼ SA PA

Mở bài
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long được sáng tác năm 1970 (nhân
chuyến đi Lào Cai) trong không khí cả nước đánh Mĩ và thắng Mĩ (in trong tập “Giữa
trong xanh”). Truyện khắc hoạ thành công hình ảnh những người lao động bình
thường mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh
núi cao. Đây là truyện ngắn giàu chất thơ song rất có giá trị hiện thực và ý nghĩa giáo
dục sâu sắc.
CHỊ EM THUÝ KIỀU

Mở bài
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới. Sự nghiệp văn học
của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Sáng
tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Đoạn trường tân thanh”, thường gọi là “Truyện Kiều”.
Bên cạnh giá trị nội dung, “Truyện Kiều” còn nổi bật về giá trị nghệ thuật, đặc sắc
nhất là bút pháp miêu tả người. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích
“Chị em Thuý Kiều” (nằm ở phần mở đầu của tác phẩm)

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

Mở bài
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, đồng thời là một trong những
gương mặt tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở Hồng Gai (Quảng Ninh) và in
trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”. Bằng bút pháp lãng mạn, tích cực, tác giả ca ngợi
vẻ đẹp của người lao động được giải phóng đang hăng say xây dựng đất nước.

BẾP LỬA

Mở bài
Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước.
Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ
nên rất gần gũi với bạn đọc trẻ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 (in trong
tập “Hương cây - Bếp lửa”) khi tác giả đang du học tại Liên Xô. Bài thơ gợi lại những
kỉ niệm xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng, biết ơn
của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH

Mở bài
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới. Sự nghiệp văn học
của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Sáng
tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”. Trong tác phẩm, đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” (phần thứ hai) vẫn được người đọc xưa nay xem là một trong những
đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ
tình đặc sắc. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, tấm lòng thuỷ chung, hiếu
thảo của Thuý Kiều khi nàng bị Tú Bà giam lỏng.

SANG THU

Mở bài
Hữu Thỉnh là nhà thơ quân đội, đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về
con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ “Sang thu” được sáng tác vào cuối
năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng
khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức
tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ lúc giao mùa từ hạ sang
thu.

RÔ – BIN – XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG

Mở bài
Đe-ni-en Đi-phô là nhà văn lớn của nước Anh thế kỉ XVIII. Văn bản “Rô-bin-xơn
ngoài đảo hoang” trích trong cuốn tiểu thuyết “Rô-bin-xơn Cru-xô” là tác phẩm đầu
tay và cũng nổi tiếng nhất của ông. Qua bức chân dung tự hoạ của nhân vật, ta hình
dung được cuộc sống vô vàn khó khăn, gian khổ và tinh thần lạc quan của Rô-bin-xơn
khi chỉ có một mình nơi hoang đảo vùng xích đạo suốt mười mấy năm ròng rã.

CHỊ EM THUÝ KIỀU

Kết bài
Nói tóm lại, qua đoạn trích, tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp
của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người nhằm khắc hoạ rõ nét bức chân dung
của hai chị em Thuý Kiều, mà đặc biệt là nhân vật chính Thuý Kiều. Bài thơ đã đề
cao, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự báo về kiếp tài hoa bạc mệnh của người phụ nữ
dưới chế độ phong kiến là biểu hiện của tấm lòng, cảm hứng nhân đạo của thiên tài
văn học Nguyễn Du.

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH

Kết bài
Cả đoạn trích như một bức tranh buồn đến tê lòng. Điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”
với biện pháp tăng tiến cùng kèm theo câu hỏi tu từ đã đưa nỗi lòng Kiều từ cô đơn, lẻ
loi, buồn nhớ lên đến tột đỉnh của sự thất vọng, lo sợ. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng
Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ
về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người tình thuỷ chung, người con hiếu thảo,
người có tấm lòng vị tha đáng trọng.

Đoạn trích ‘Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ hay trong “Truyện Kiều”.
Những câu thơ có hoa, có nhạc ấy vừa vẽ ra một biển trời chiều hôm lại vừa tấu lên
một giai điệu sâu lắng của lòng người. Ở đây, không chỉ có cảnh đẹp, tình sầu mà
lòng nhà thơ tưởng như cũng hoà với lòng nhân vật, cùng đồng cảm, buồn thương,
đau xót trước một kiếp người tài, sắc, hiếu thảo bị giam hãm, cầm tù, một kiếp người
bị săn đuổi.

ĐỒNG CHÍ

Kết bài
“Đồng chí!” .Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt
dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ
nhàng, tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp
đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng
mỗi lần đọc lại bài thơ “Đồng chí”, ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội cụ Hồ hiện
lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Kết bài
Bằng cách đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến
trường; ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn. Phạm Tiến
Duật khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ
hiên ngang, lạc quan, dũng cảm. Họ là hình ảnh tiêu biểu của anh bộ đội cụ Hồ:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước


Mà lòng phới phới dậy tương lai”
(Tố Hữu)
Chiến tranh đã lùi xa nhưng khi đọc bài thơ, người đọc như được sống lại một thời
gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt. Bài thơ là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến anh hùng.

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

Kết bài
Tóm lại, qua bài thơ, Huy Cận đã cho ta thấy được sự giàu đẹp của biển cả quê hương
và vẻ đẹp của con người lao động mới. Chất lãng mạn, trữ tình của bài thơ đã truyền
cho ta cảm xúc dạt dào, ta cảm nhận được cái đẹp trong cuộc sống mới, giúp ta có
niềm tin thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Với sự sáng tạo độc đáo trong bút pháp lãng
mạn, bài thơ giữ được vị trí xứng đáng trong nền thơ ca hiện đại của chúng ta.

BẾP LỬA

Kết bài
Điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật của bài thơ là sự suy ngẫm, phát hiện chiều sâu
tư tưởng của các hình tượng thơ. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín:
Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con
người suốt hình trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính
là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó
cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. Thành công của bài
thơ là sự sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng mà còn
kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận giọng điệu và thể thơ 8 chữ phù hợp với
cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm.

LẶNG LẼ SA PA

Kết bài
Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, tác giả muốn nói với người đọc: “Trong cái lặng im
của Sa Pa […], có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Đồng
thời qua câu chuyện về anh thanh niên, tác phẩm cũng gợi lên ý nghĩa và niềm vui của
lao động tự giác. Truyện đã xây dựng được một tình huống hợp lí, cách kể chuyện tự
nhiên có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và bình luận. Anh thanh niên trong truyện
ngắn là hình tượng điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam đang xây dựng đất nước. Một
con người với lí tưởng cao đẹp. Sống và cống hiến…Anh là tấm gương cho chúng ta
học tập, noi theo.
CHIẾC LƯỢC NGÀ

Kết bài
Qua truyện “Chiếc lược ngà” nói chung và đoạn trích nói riêng, tác giả đã thành công
ở nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ mà hợp lí, tự nhiên. Ở ngòi bút miêu tả tâm
lí và tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em. Đoạn trích đã thể hiện thật cảm động
tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua đó, tác giả
khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc,
nó còn cao đẹp trong những hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án
chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.

MÙA XUÂN NHO NHỎ

Kết bài
Thanh Hải đã tìm ra ý nghĩa, sự cao đẹp của cuộc sống, của sự cống hiến. Bài thơ có
nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái, lắng đọng như nốt trầm nhưng lại làm lòng người xao
xuyến, xúc động trào dâng. Tác giả đã đem lại cho ta thật nhiều điều quí giá, một tấm
chân tình cao đẹp. Ta nguyện cũng sẽ như tác giả, sẽ làm một mùa xuân nho nhỏ để
đóng góp cho đời, để thực hiện ước mong, lời nhắn nhủ của Thanh Hải.

VIẾNG LĂNG BÁC

Kết bài
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thật giàu hình ảnh, cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không
thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một
cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào, đằm thắm lại rất giản dị, chân
thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền được cảm xúc của mình đến với người đọc
chính bởi cảm xúc của tác giả cũng là cảm xúc của cả đồng bào Nam Bộ nói riêng,
của dân tộc nói chung. Chúng ta - những cháu ngoan Bác Hồ cũng xin nguyện như
Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm
muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.

SANG THU

Kết bài
“Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận
mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim
mọi người. Với “Sang thu” người đọc có thể nhìn thấy ở đó hình ảnh của quê hương
xứ sở mình, hình ảnh của tâm hồn mình. Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển
mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã khuấy động một cách nhìn riêng, một lối miêu tả
riêng, thoát khỏi những ước lệ để khẳng định vị trí của mình trên con đường sáng tạo
nghệ thuật.

NÓI VỚI CON

Kết bài
Qua lời nói với con, bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện
tình cảm gia đình đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của
một người dân tộc miền núi, gợi nhắc chúng ta tình cảm gắn bó truyền thống, với quê
hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI

Kết bài
Truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm sống lại cuộc sống và
chiến đấu của những cô thanh niên xung phong ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ.
Những hình ảnh cao đẹp của họ tiêu biểu cho thế hệ trẻ trong những năm tháng hào
hùng của Tổ quốc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phới phới dậy tương lai”
(Tố Hữu)
Chiến tranh đã đi qua nhưng hình ảnh ba cô gái phá bom, với những chiến công thầm
lặng của họ sẽ bất tử với năm tháng và lòng người. Những đôi mắt của họ, những trái
tim rực đỏ của họ sẽ là “những ngôi sao xa xôi” mãi mãi lung linh, toả sáng hồn ta với
bao ngưỡng mộ, biết ơn.

RÔ – BIN – XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG

Kết bài
“Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” là bài ca lao động sáng tạo hào hùng của con người.
Rô-bin-xơn đã rơi vào hoàn cảnh cực kì khó khăn. Một người khác ở hoàn cảnh ấy có
lẽ đã chán nản, tuyệt vọng, buông xuôi rồi chết. Nhưng Rô-bin-xơn thì không như
vậy. Chàng bám chắc lấy cuộc sống, không phải để sống lay lắt, mà luôn luôn phấn
đấu để cuộc sống ngày càng tốt hơn. Chàng không để thiên nhiên khuất phục mà đã
khuất phục đ

You might also like