Professional Documents
Culture Documents
Đề cương KTCT
Đề cương KTCT
Hàng hoá:
1.1. Sản xuất hàng hoá (STT 2)
Khái niệm:
là kiểu tổ chức kinh tế
người sản xuất nhằm mục đích trao đổi, mua bán
sản xuất hàng hoá là 1 phạm trù lịch sử
Lịch sử ra đời: Sản xuất tự cấp tự túc => Sản xuất hàng hoá giản đơn =>
Sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá: 1
ĐK1: Phân công lao động xã hội (ĐK cần)
ĐK2: Sự tách biệt đối tượng về kinh tế giữa các chủ thể xã hội (Ở
Việt Nam không có điều kiện này) (ĐK đủ)
(Giải thích các điều kiện này trên cơ sở: Là gì? Vì sao lại làm ra đời
sx HH? Liên hệ sx hh ở VN)
Khái Công dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu Là lao động xã hội của con người
niệm cầu nào đó của con người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa
Ví dụ Giá trị sử dụng của gạo là để ăn Để sản xuất ra 5 cân gạo người nông
dân cần 5 giờ
Đặc - Được thực hiện trong tiêu dùng - Biểu hiện mối quan hệ kinh tế
điểm (bởi chỉ khi sử dụng con người mới giữa những người sản xuất, trao đổi
nhận được công dụng để thỏa mãn nhu hàng hóa
cầu (cạnh tranh xem ai tạo ra sản phẩm
- Là phạm trù vĩnh viễn mà ít hao tốn sức lao động hơn,...)
(vì giá trị sử dụng luôn tồn tại trong - Là phạm trù lịch sử
hh) (vì chỉ tồn tại trong kinh tế hàng
- Số lượng giá trị sử dụng phụ thuộc hóa)
vào sự phát triển khoa học – kỹ thuật - Giá trị trao đổi là hình thức biểu
(Xã hội càng tiến bộ -> lực lượng sản hiện ra bên ngoài của giá trị
xuất càng phát triển -> tìm được tính (hao phí sức lao động -> tạo giá trị -
năng mới, phong phú) > giá trị trao đổi)
- Giá trị là nội dung, là cơ sở của
trao đổi
(khi trao đổi người ta ngầm so sánh
lao động đã hao phí ẩn dấu trong
hàng hóa với nhau)
(giá cả có thể cao hơn giá trị của hh
do thị yếu, tâm lí của người tiêu
dùng)
1.3.2. Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất có tính hai mặt: mặt
cụ thể và mặt trừu tượng của lao động.
Lao động cụ thể Lao động trừu tượng
- Là lao động có ích dưới một hình thức - Là sự tiêu hao sức lao động của con người
nghề nghiệp chuyên môn nhất định trong sx hh nói chung (trí lực, sự sáng
- Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tạo,...)
tượng, phương pháp riêng, kết quả riêng - Tạo ra giá trị của hh do đó ldtt thuộc phạm
(Ví dụ: thợ may có mục đích may ra trù lịch sử
quần áo) - Chỉ có trong sản xuất hàng hóa
- Tạo ra giá trị sử dụng do đó lao động
cụ thể thuộc phạm trù vĩnh viễn
- Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa lao động cụ2 thể và lao động trừu tượng:
+ Thống nhất: lao động của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội
+ Mâu thuẫn:
· Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa
(mỗi thầy cô có phong cách, phương pháp giảng dạy khác nhau)
><
· Lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa
· Mâu thuẫn xuất hiện khi sản phẩm do những người sản xuất hh riêng biệt tạo ra
không phù hợp với nhu cầu xã hội, hoặc mức hao phí lao động cá biệt cao hơn
mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được
=> Hàng hóa ko bán được
=> Giá trị hh không được xã hội công nhận
=> Nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn
Liên hệ: Để tránh ảnh hưởng mẫu thuẫn của 2 mặt lao động sxhh, người sx cần điều
chỉnh lao động trừu tượng phù hợp với thị yếu, nhu cầu của xã hội từ đó tăng khả năng
trao đổi hàng hóa.
Đón đầu xu thế của thời đại mới, các sản phẩm may mặc gắn liền với môi trường xanh,
sạch. Công ty Vinatex đã nghiên cứu các sản phẩm có xơ sợi từ xơ dừa, chuối, đay hoặc
cellulo hữu cơ kết hợp với các phương pháp chế biến tiết kiệm năng lượng, dùng năng
lượng sạch, có nguồn gốc hữu cơ như thuốc nhuộm từ cây lá, củ quả chủ yếu dùng nước
sôi và thời gian hoặc sản phẩm tái tạo như xơ FE recycle, công nghệ nhuộm Clean dye
không nước. Nhờ đó mà ngành dệt may VN đã gặt hái được nhiều thành tựu, đáp ứng
được nhu cầu, thị yếu của khách hàng trong và ngoài nước.
1.3.3. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của
hàng hóa
- Lượng giá trị hàng hóa = Lượng lao động hao phí của người sản xuất = Thời gian lao
động của người sản xuất
+ Khi nhiều người sx cùng một loại HH
=> Cho ra nhiều mức hao phí khác nhau
(ví dụ cùng một thửa ruộng người cày trong 2h, người cày trong 3h)
=>Từ đây sinh ra thời gian lao động xã hội cần thiết được xã hội công nhận: thời gian sản
xuất trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình, cường độ
lao động trung bình
+ Liên hệ: Trong sản xuất, người sản xuất phải tích cực đổi mới, sáng tạo nhằm giảm thời
gian hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí trung bình cần thiết để có được ưu
thế trong cạnh tranh.
Thời gian đầu, các sản phẩm nội thất gia đình của Hòa Phát được thị trường tiếp nhận khá
thận trọng, do phân khúc hàng gia đình cạnh tranh khốc liệt, với sự góp mặt của nhiều
doanh nghiệp trong và ngoài nước có hệ thống phân phối rộng khắp. Các phân khúc cao
cấp hơn cũng đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn. Trong bối cảnh ấy, Nội thất Hòa Phát
không ngừng phát triển nghiên cứu, sáng tạo, đưa ra các sản phẩm thân thiện với người
sử dụng. Hòa Phát đã ứng dụng công nghệ hiện đại vào phát triển sản phẩm mới, đồng
thời tập trung đầu tư thêm hàng loạt máy móc hiện đại hàng đầu thế giới, giúp tăng năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm hàng chục lần. Giờ đây, các sản phẩm nội thất gia
đình của Hòa Phát đã được thị trường ưa chuộng với nhiều ưu điểm tương đương sản
phẩm nhập khẩu, nhưng giá thành nội địa.
+ Cấu thành lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa:
Hao phí lao động quá khứ (vật liệu, nguyên nhiên liệu đã tiêu dùng) + hao phí lao động
mới = Giá trị HH
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
+ Năng suất lao động:
· Là năng lực sản xuất của người lao động được tính số sản phẩm làm ra trên 1 đơn
vị thời gian hoặc lượng thời gian hao phí để làm ra 1 sản phẩm.
· Mối quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị của hàng hóa
Năng suất lao động tăng -> giảm lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết
-> giá trị hàng hóa giảm
· Năng suất lao động phụ thuộc:
o Trình độ người lao động
o Trình độ khoa học kỹ thuật
o Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất
o Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất
o Các điều kiện tự nhiên
Ví dụ: Ở nền nông nghiệp lúa nước:
· Người nông dân có kĩ năng, kinh nghiệm
· KH-KT ngày càng phát triển -> phát minh ra nhiều máy móc tiên tiến, các loại
giống đa dạng năng suất cao
· Khi xã hội phát triển, hình thành phân công lao động -> có nhà bán giống, nhà
cho thuê máy gặt,...
· Đất đai màu mỡ, thời tiết thuận lợi
=> Năng suất lao động tăng
- So sánh tăng năng suất lao động và cường độ lao động:
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động sản xuất
Tăng NSLD Tăng CDLD
- Giá trị 1 đơn vị hàng hóa giảm - Giá trị 1 đơn vị hàng hóa không
- Tổng số hàng hóa tăng đổi
=> Người mua được hưởng lợi, Người bán có đột - Tổng số hàng hóa tăng
phá về tổng số lượng hàng hóa mà không gây tổn => Người mua không được hưởng
hại đến sức khỏe của công nhân lợi, người bán gây hao tốn sức lực
=> Mang tính bền vững của công nhân
=> Không bền vững
=> Vì vậy cần có chính sách
cường độ lao động hợp lí
Liên hệ: Xã hội ngày càng phát triển, các ngành nghề càng được ứng dụng kĩ thuật công
nghệ cao. Theo một nghiên cứu của Đại học Oxford, Anh Quốc đã chỉ ra rằng trong vòng
10 năm tới, 45% nghề nghiệp hiện tại sẽ biến mất do lao động giản đơn dần dần sẽ bị
thay thế hoàn toàn hoặc một phần bởi công nghệ và trí tuệ nhân tạo. Như vậy lao động
phức tạp ngày càng được đề cao. Vì vậy, đây là một yếu tố mà thế hệ trẻ hiện nay cần cân
nhắc trước khi quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Mặc dù sẽ có những ngành
nghề sẽ bị đào thải nhưng cũng sẽ có vô số các ngành nghề mới được sinh ra. Nắm bắt
được xu thế phát triển của xã hội, bản thân em cần đầu tư trong việc học tập và rèn luyện,
tích lũy cho mình nền tảng tri thức vững chắc để trở thành người lao động phức tạp tạo ra
hàng hóa chất lượng, giá trị cao.
Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu
cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Dưới sự tác động của các quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh, kinh tế thị trường sẽ tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của xã hội qua đó sẽ làm xã hội ngày càng hiện đại hơn, văn minh hơn.
Trong thời kỳ bao cấp chỉ có hệ thống bệnh viện công (hay gọi là bệnh viện nhà
nước) hoạt động. Thủ tục nhập viện, khám chữa bệnh phải mất rất nhiều thời gian,
một bộ phận cán bộ nhà nước quan liêu hách dịch, gây phiền hà, tốn kém. Trong
kinh tế thị trường, là sự cạnh tranh giữa bệnh viện công và hệ thống bệnh viện tư
nhân là tất yếu. Sự cạnh tranh này buộc các bệnh viện nhà nước phải tư nhân hóa
từng phần, đầu tư trang thiết bị hiện đại và thay đổi phong cách phục vụ bệnh
nhân. Kinh tế thị trường là cho xã hội ngày càng hiện đại hơn, văn minh hơn.
- Khuyết tật:
Xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng
Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra sự
cân đối về giá cả và sản lượng hàng hóa. Thị trường vốn dĩ rất nhạy cảm, khó dự
đoán chính xác, cho nên khi xảy ra các biến cố như : chiến tranh, dịch bệnh, thiên
tai hay cấm vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng thị trường.
Chúng ta cứ hình dung, đối với ngành hàng không chẳng hạn, trước kia, ngành
hàng không tăng trưởng rất tốt, do quá trình hội nhập của chúng ta ngày cảng
thuận lợi. Nhưng, khi dịch bệnh covid xảy ra, cả nước đóng cửa chống dịch, mọi
hoạt động giao thương, vận chuyển hàng hóa, du lịch … bị đóng băng. Ngành dịch
vụ hàng không lâm vào khủng hoảng nặng nề, thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng.
Hay như, cuộc chiến tranh giữa Nga và Ucraina, làm ảnh hưởng đến nguồn cung
khí đốt và xăng dầu. Nguồn cung khan hiếm,giá xăng dầu tăng chóng mặt, gây ra
khủng hoảng năng lượng ở các nước nhập khẩu xăng dầu, và các doanh nghiệp
trực tiếp sử dụng nguồn năng lượng này.
Ban đầu, khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ đối với một hoặc số loại hàng hóa, sau
thể diễn ra trên phạm vi tổng thể nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường không thể tự
khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn này, bởi chúng ta cũng không thể dự báo
chính xác thời điểm dịch bệnh covid cũng như chiến tranh sẽ xảy ra khi nào.
Nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường với mục đích là tối đa hóa lợi nhuận, vì
lợi ích trước mắt mang tính cá nhân nên có thể khai thác cạn kiệt nguồn tài
nguyên, gây suy thoái môi trường tự nhiên.
Thực tế ở Việt Nam thì đã có không ít sự vụ khai thác cạn kiệt tài nguyên cũng
gây suy thoái môi trường trầm trọng, như: các vụ khai thác cát trộm ở lòng sông
Hồng hay các vụ khai thác than trái phép ở Quảng Ninh. Đặc biệt nghiêm trọng, là
các vụ gây ô nhiễm môi trường sinh thái của Công ty vedan gây ô nhiễm sông Thị
Vải năm 2008; Công ty Formusa Hà Tĩnh gây ô nhiễm biển làm cá chết hàng loạt
năm 2016… Nguyên nhân của các vụ gây ô nhiễm này, vì lợi ích cá nhân doanh
nghiệp, không muốn đầu tư , xử lý chất thải trước khi đẩy ra môi trường. Đây là
mặt trái mang tính khuyết tật của kinh tế thị trường ảnh hưởng đến môi trường tự
nhiên.
Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc
trong xã hội.
Chúng ta hình dung rằng, trong kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự do
cạnh tranh với nhau, kết quả của sự cạnh tranh gay gắt dẫn đến hình thành bộ phận
người giàu có là những người sở hữu tư liệu sản xuất hoặc chiếm lĩnh được thị
trường và bộ phận người nghèo là những người không có tư liệu sản xuất hoặc thất
bại trong cạnh tranh. Sự phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là một tất yếu
trong kinh tế thị trường khi có cạnh tranh.
Tuy nhiên, nếu sự phân hóa này trở nên thái quá, tức là khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo ngày càng tăng thì có thể dẫn đến căng thẳng về mặt xã hội, đấu tranh
giai cấp xuất hiện. Do vậy, các chính phủ phải can thiệp bằng nhiều công cụ, chính
sách điều hòa mâu thuẫn lợi ích kinh tế như : chính sách thuế thu nhập cá nhân,
chính sách trợ cấp an sinh xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội … để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội.
Tóm lại, kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm còn có những khuyết tật. Vì
thế, để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường cần có sự can thiệp của
nhà nước để hạn chế những khuyết tật của thị trường, đảm bảo cho thị trường vận
động hiệu quả và ổn định, tối đa hóa lợi ích của các chủ thể kinh tế và của toàn xã
hội. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
hay còn gọilà nền kinh tế hỗn hợp
- Vai trò của nhà nước trong việc hạn chế, khắc phục những khuyết tật của nền kinh
tế thị trường
Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi
trường càng thuận lợi thì hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở
rộng. Môi trường vĩ mô không tự hình thành, mà phải được nhà nước tạo lập. Tạo
lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng được
môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh
tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia phải tuân thủ các thông lệ quốc tế. Tạo lập
môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng của nền kinh tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh
tế còn là tạo lập môi trường văn hóa phù hợp vớiyêu cầu phát triển kinh tế thị
trường.
triển xã hội
Phân phối thu nhập công bằng góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh
tế. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống tối thiểu. Để làm
được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm
nghèo,tạo cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ
bản. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập
cho các chủ thể kinh tế - xã hội là giải pháp cần thiết để loại bỏ những vấn đề về thu
nhập. Bên cạnh đó,các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng
nhái; lừa đảo… tồn tại khá phổ biến. Các hoạt động này càng gia tăng, càng làm tổn
hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Nhà nước nghiêm cấm các
hình thức thu nhập bất hợp pháp, mọivi phạm phải được xét xử theo quy định của
pháp luật
xuất cũng như sức lao động. Ngoài ra, những người sản xuất
mặt hàng khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng
này ngay sau đó
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản phẩm nhằm tăng
năng suất lao động :
mỗi loại hàng hóa sẽ được sản xuất trong những điều kiện cơ
bản khác nhau. Vì vậy, mức hao phí lao động cá biệt cũng
hoàn toàn không giống nhau. Tuy nhiên trên thị trường, các loại
hàng hóa đều phải được trao đổi dựa trên mức hao phí lao
động xã hội cần thiết.
- Đào thải các yếu tố lạc hậu, lỗi thời vì giá trị hàng hóa luôn
được điều chỉnh để phù hợp với xã hội.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhờ - Cạnh tranh không lành mạnh
đó mà phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, gây tổn hại môi trường kinh
vùng miền doanh.
- Thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh không lành mạnh
gây lãng phí nguồn lực xã hội.
- Là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bố các
nguồn lực - Cạnh tranh không lành mạnh
làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
- Ví dụ về quy luật cạnh tranh:
Người sản xuất thì muốn bán được hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua
được hàng hóa với giá rẻ. Hoặc người tiêu dùng cũng cạnh tranh với người tiêu dùng để
mua được hàng hóa với giá rẻ hơn, chất lượng hơn. Những người sản xuất cũng cạnh
tranh với nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa, như điều kiện về vốn, lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường, giành nơi đầu tư có
lợi… để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn,
để giành giật thị trường tiêu thụ, họ có thể dùng biện pháp cạnh tranh giá cả như giảm giá
cả hàng hóa để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng thông tin, quảng
cáo sản phẩm, quảng cáo dây chuyền sản xuất… để kích thích người tiêu dùng.
* Liên hệ thực tiễn về quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh gay gắt giữa hai hãng điện thoại Apple và Samsung.
Câu 3: Nguồn gốc của giá trị thặng dư
3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư:
- Công thức chung của tư bản:
Tiền trong sxhh giản đơn: H-T-H (thoả mãn giá trị sử dụng – công dụng)
Tiền thực hiện chức năng Tư bản trong SXTBCN: T-H-T’ (T’=T+t)
(thu về giá trị và giá trị tăng thêm)
t là giá trị dôi ra, trội ra, hay Giá trị thặng dư.
T là số tiền ứng ra ban đầu, gọi là Tư bản.
Như vậy, Tư bản là giá trị mang lại Giá trị thặng dư.
- Nguồn gốc của Giá trị thặng dư:
Lưu thông không tạo ra GTTD.
Theo C.Mác: “Sức lao động hay Năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó.”
- Hàng hoá Sức lao động:
Hai điều kiện để Sức lao động trở thành Hàng hoá:
Người lao động tự do về thân thể.
Người lao động không đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự tổ chức sản xuất, vì
vậy họ phải bán SLĐ.
- Thuộc tính của hàng hoá SLĐ:
Giá trị:
Do thời gian lao động xã hội cần thiết để SX và tái SX SLĐ quyết định.
Được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản
xuất ra SLĐ.
Giá trị sử dụng:
Để thoả mãn nhu cầu của người mua.
Được thể hiện trong quá trình sử dụng SLĐ.
Trong quá trình sử dụng, SLĐ luôn tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó,
chính vì vậy, nó tạo ra giá trị thặng dư.
(HH thông thường: càng SD, GTSD càng giảm)
(HH SLĐ: càng SD, GTSD càng tăng)
* Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng hóa sức lđ đối với việc phát triển thị trường hàng
hóa sức lđ ở Việt Nam hiện nay.
LIÊN HỆ:
- NN cần có chính sách phát huy yếu tố con người: đào tạo, khai thác hiệu quả SLĐ?
- DN: tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, quản lý người LĐ thế nào cho hiệu quả, bền vững?
- Người LĐ cần làm gì để làm cho GT HH SLĐ của mình cao?
3.2. Sự sản xuất giá trị thặng dư
- Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị SLĐ do công nhân làm thuê
tạo ra, là kết quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản. (GTTD=m)
- Tư bản là giá trị đem lại GTTD bằng cách bóc lột lao động làm thuê.
- Tư bản bất biến và Tư bản khả biến:
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái
sản xuất mà giá trị được lao động cụ thể của sức lao động không tái hiện ra, nhưng
công nhân làm thuê bảo toàn và chuyển thông qua lao động trừu tượng của công
nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm, tức là giá nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến
trị không biến đổi trong quá trình sản xuất đổi về số lượng trong quá trình sản xuất,
được C.Mác gọi là TBBB (c) được Mác gọi là TBKB (v)
Tư bản bất biến chỉ là điều kiện không thể Tư bản khả biến là nguồn gốc sinh ra
thiếu được để sản xuất ra để sinh ra giá trị giá trị thặng dư.
thặng dư
- Ứng vào giá trị TLSX. - Ứng vào giá trị SLĐ.
(máy móc, nguyên liệu) - Trong QTSX, tăng lên về lượng.
- Trong quá trình sản xuất, không thay đổi
về lượng.
- Cơ sở phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến: căn cứ vào nguồn
gốc sinh ra của giá trị thặng dư (tư bản khả biến là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư,
tư bản bất biến là điều kiện để tư bản khả biến sinh ra giá trị thặng dư)
Liên hệ: Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với phân bổ vốn và quản lý vốn đầu tư trong
DN?
* Liên hệ với quá trình sx trong kt tư nhân ở Việt Nam hiện nay
* Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng hóa sức lđ đối với việc phát triển thị trường hàng
hóa sức lđ ở Việt Nam hiện nay.
Đảng và Nhà nước ra chủ trương xây dựng nguyên tắc của chính sách phát triển thị
trường lđ là phải giữ nguyên sự duy trì đầy đủ vai trò lớn lao của Nhà nước đối với
nhân dân trong vấn đề điều tiết việc làm.
- Đảm bảo việc làm có hiệu suất cao chỉ có thể đạt được trên cơ sở kết hợp chặt chẽ
những hoạt động tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước với sự tự điều tiết của
thị trường.
- Điều kiện quan trọng nhất của việc thực hiện chính sách này là phải tuân theo hàng loạt
những nguyên tắc như: phát triển đa dạng các loại hình sở hữu và hoạt động kinh doanh
với mục đích mở rộng những khả năng lựa chọn các khu vực bổ sung theo giới, độ tuổi,
dân tộc,...tự do pháp lý đối với người lao động và người thuê lao động khi thuê mướn và
sa thải, tự do di chuyển lao động và vốn, phát triển hệ thống điều tiết các quan hệ lao
động, đặc biệt khi giải quyết những tranh chấp lao động tập thể và cá nhân.
- Cơ sở phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến: căn cứ vào nguồn
gốc sinh ra của giá trị thặng dư (tư bản khả biến là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư,
tư bản bất biến là điều kiện để tư bản khả biến sinh ra giá trị thặng dư)
* Liên hệ với quá trình sản xuất trong kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế dựa trên hình thức sử
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân. Kinh tế tư nhân gồm những hộ gđ,
doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động xã hội: công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ… Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động mà còn tạo ra cơ
hội cho những doanh nghiệp trở nên nổi tiếng trong nước cũng như trên quốc tế. Vì vậy
Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong những
ngành, lĩnh vực có lợi cho dân sinh và khuyến khích làm ăn, buôn bán theo quy định của
pháp luật. Sự phát triển kinh tế tư nhân cũng nhằm mục đích làm giàu hợp pháp đi kèm
theo đó làm xóa đói, giảm nghèo.
- “Năng lực lao động chưa phải là lao động, cũng như năng lực tiêu hoá chưa phải là tiêu
hoá thức ăn”
=> Nguồn gốc của tiền công chính là do hao phí sức lao động của người lao động làm
thuê tự trả cho chính mình
T – H – T’ – H – T’’ – H – T’’
-Chu chuyển của tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kì thường
xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian
- Chu chuyển của tư bản được đo lường bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu
chuyển của tư bản
Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số vòng chu
chuyển không giống nhau. Để so sánh tốc độ vận động của các tư bản khác nhau, người
ta tính số vòng chu chuyển của các loại tư bản đó trong một thời gian nhất định.
số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta có công thức số vòng chu chuyển
của tư bản như sau:
n = CH/ch
Trong đó: (n) lả số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời gian trong năm;
(ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.
Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ chu chuyển trong
năm là:
- Để thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, các nhà tư bản phải nỗ lực rút ngắn thời
gian chu chuyển hay đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản trên cơ sở nắm vững các yếu tố
ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của tư bản, đồng thời sử dụng hiệu quả tư bản cố
định và tư bản lưu động.
nguồn gốc của giá trị thặng dư là do hao phí lao động tạo ra.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong
toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã
hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, việc nghiên cứu, khai thác và học tập
những di sản lý luận của Mác trở thành việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam hiện nay, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị
thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính
trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư
của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây,
bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị
trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ đổi mới.
Hình thức này này được được quy định cụ thể ở Nghị định 01/2011/NĐ-CP về phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương. Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các
tổ chức, cá nhân. Ngoài phương thức phát hành trực tiếp qua hệ thống kho bạc nhà
nước thì tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định 01/2011 có quy định trái phiếu Chính phủ
có thể được phát hành thông qua các hình thức như:
+ Đấu thầu trái phiếu chính chủ qua thị trường chứng khoán
+ Phát hành trái phiếu chính phủ dưới hình thức đại lý phát hành
+ Phát hành trái phiếu chính phủ dưới hình thức bảo lãnh, bán lẻ trái phiếu
Ngoài việc phát hành trái phiếu để vay trong nước ra thì Chính phủ còn có thể vay
nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ (Khoản 2
Điều 21 Luật Quản lý nợ công).
Địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình
quân mà các nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa
chủ.
● Kí hiệu của địa tô: R
● Các hình thức của địa tô:
● Địa tô chênh lệch:
● Địa tô chênh lệch I: được địa chủ thu do chỗ cho thuê ruộng đất tốt và độ
màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi.
● Địa tô chênh lệch II: được địa chủ thu do chỗ cho thuê mảnh đất đã được
đầu tư, thâm canh và làm tăng độ màu mỡ của đất.
● Địa tô tuyệt đối: địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê, không
kể độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi hay do thâm canh.
● Trong thực tế đời sống kinh tế, địa tô là một trong những căn cứ để tính
toán giá cả ruộng đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người
khác:
R: địa tô
=> Ý nghĩa:
● Vạch rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp.
● Là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế liên quan đến thuế,
đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất đai.
=> Kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm,
phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững.
Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay:
Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế hay đơn vị vũ trang để sử dụng.
● Thuế đất nông nghiệp: Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông qua ngân
sách thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp, những người thuê đất
phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế nông nghiệp ở đây không phải thể hiện
sự bóc lột đối với nông dân mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân.
● Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một việc
khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng tạo của
đảng ta trong việc vận dụng lý luận về địa tô khi đề ra chính sách thuế
nông nghiệp, động viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng cục
thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các
đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có công với cách mạng, hộ gia
đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn,…
● Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và
điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng
tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác nhà nước còn đưa ra
một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà
chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông nghiệp.
● Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất nông
nghiệp sang phi nông nghiệp thì thuế từ 20% – 40%, nếu đất nông nghiệp
chuyển sang xây dựng các công trình công nghiệp từ 40% sang 60%.
● Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích
nông nghiệp thì không phải trả tiền sử dụng đất cho nông nghiệp, nếu sử dụng
vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức thuê
đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong nước.
●
● Thuê đất: Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng
quyền và nghĩa vụ của người dân theo điều 1, điều 4, điều 5, điều 12, điều 22,
điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của nhà nước ta hiện
nay cũng ban hành những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất (một
hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách tự
nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào mục
đích của mình.
● Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ
phải thuê đất của nhà nước, phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi trả cho
nhà nước số tiền tương đương với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê.
● Không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà
nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở
Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.
Hạn chế:
● Một số cơ quan chức năng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm trong
quản lý đất công, công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa kịp thời;
thiếu quan tâm theo dõi, thanh tra, kiểm tra, đùn đẩy trách nhiệm, chưa kiên quyết
xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm… => thất thoát, lãng phí nguồn tài nguyên đất
đai. Các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây dựng, quy định quản lý kiến
trúc đến nay chưa phủ kín địa bàn làm hạn chế quyền xây dựng nhà ở hợp pháp
của người dân.
● Nhận thức pháp luật về đất đai của người dân còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng
vi phạm như lấn chiếm, xây dựng công trình trái phép trên đất nông nghiệp, tự ý
chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Giải pháp:
● Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
● Hoàn thiện hệ thống quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất với vai trò công cụ quản lý
nhà nước về đất đai, đảm bảo phân bổ tài nguyên đất đai hợp lý, quản lý và sử
dụng đất hiệu quả.
● Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật đất đai về việc sử dụng đi đôi với bảo
tồn đất đai đến từng người dân, thiết lập cơ chế hỗ trợ pháp lý cho người có quyền
sử dụng đất để họ bảo vệ được quyền lợi của mình và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ
của người sử dụng đất, đồng thời xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật
đất đai.