You are on page 1of 27

1.

Hàng hoá: 
1.1. Sản xuất hàng hoá (STT 2)
 Khái niệm: 
 là kiểu tổ chức kinh tế
 người sản xuất nhằm mục đích trao đổi, mua bán
 sản xuất hàng hoá là 1 phạm trù lịch sử
 Lịch sử ra đời: Sản xuất tự cấp tự túc => Sản xuất hàng hoá giản đơn =>
Sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa
 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá: 1
 ĐK1: Phân công lao động xã hội (ĐK cần)
 ĐK2: Sự tách biệt đối tượng về kinh tế giữa các chủ thể xã hội (Ở
Việt Nam không có điều kiện này) (ĐK đủ)
(Giải thích các điều kiện này trên cơ sở: Là gì? Vì sao lại làm ra đời
sx HH? Liên hệ sx hh ở VN)

1.3.  Hàng hóa và thuộc tính của hàng hóa (STT3)


1.3.1. Hàng hóa
a) Khái niệm
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông quá trao đổi, mua bán.
b) Thuộc tính
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
  Giá trị sử dụng Giá trị

Khái Công dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu Là lao động xã hội của con người
niệm cầu nào đó của con người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa

Ví dụ Giá trị sử dụng của gạo là để ăn Để sản xuất ra 5 cân gạo người nông
dân cần 5 giờ
Đặc - Được thực hiện trong tiêu dùng - Biểu hiện mối quan hệ kinh tế 
điểm (bởi chỉ khi sử dụng con người mới giữa những người sản xuất, trao đổi
nhận được công dụng để thỏa mãn nhu hàng hóa
cầu (cạnh tranh xem ai tạo ra sản phẩm
- Là phạm trù vĩnh viễn mà ít hao tốn sức lao động hơn,...)
(vì giá trị sử dụng luôn tồn tại trong - Là phạm trù lịch sử
hh) (vì chỉ tồn tại trong kinh tế hàng
- Số lượng giá trị sử dụng phụ thuộc hóa)
vào sự phát triển khoa học – kỹ thuật - Giá trị trao đổi là hình thức biểu
(Xã hội càng tiến bộ -> lực lượng sản hiện ra bên ngoài của giá trị
xuất càng phát triển -> tìm được tính (hao phí sức lao động -> tạo giá trị -
năng mới, phong phú)  > giá trị trao đổi)
- Giá trị là nội dung, là cơ sở của
trao đổi
(khi trao đổi người ta ngầm so sánh
lao động đã hao phí ẩn dấu trong
hàng hóa với nhau)
(giá cả có thể cao hơn giá trị của hh
do thị yếu, tâm lí của người tiêu
dùng)

c) Một số quan niệm và hàng hóa trong KT học


- Hàng hóa cá nhân là một loại hh mà nếu được một người tiêu dùng rồi thì người khác
không thể dùng được nữa
( Kem là một loại hh cá nhân vì khi bạn ăn cây kem của mình rồi thì người bạn của bạn
sẽ không thể lấy cây kem đó mà ăn nữa)
- Hàng công cộng là một loại hh mà thậm chí nếu có một người dùng rồi thì những người
khác vẫn còn dùng được.
(Nguồn nước sạch là hàng hóa công cộng)
- Hàng khuyến dụng là hh mà xã hội nghĩ rằng người dân nên tiêu dùng hoặc tiếp nhận,
cho dù thu nhập của họ ở mức nào đi chăng nữa.
(Y tế, giáo dục, nhà ở thực phẩm là hàng khuyến dụng)

1.3.2. Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất có tính hai mặt: mặt
cụ thể và mặt trừu tượng của lao động.
Lao động cụ thể Lao động trừu tượng

- Là lao động có ích dưới một hình thức - Là sự tiêu hao sức lao động của con người
nghề nghiệp chuyên môn nhất định trong sx hh nói chung (trí lực, sự sáng
- Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tạo,...)
tượng, phương pháp riêng, kết quả riêng - Tạo ra giá trị của hh do đó ldtt thuộc phạm
(Ví dụ: thợ may có mục đích may ra trù lịch sử
quần áo) - Chỉ có trong sản xuất hàng hóa
- Tạo ra giá trị sử dụng do đó lao động
cụ thể thuộc phạm trù vĩnh viễn

-  Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa lao động cụ2 thể và lao động trừu tượng:
+      Thống nhất: lao động của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội
+      Mâu thuẫn:
·        Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa
(mỗi thầy cô có phong cách, phương pháp giảng dạy khác nhau)
>< 
·       Lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa
·       Mâu thuẫn xuất hiện khi sản phẩm do những người sản xuất hh riêng biệt tạo ra
không phù hợp với nhu cầu xã hội, hoặc mức hao phí lao động cá biệt cao hơn
mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được
=> Hàng hóa ko bán được
=> Giá trị hh không được xã hội công nhận
=> Nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn
Liên hệ: Để tránh ảnh hưởng mẫu thuẫn của 2 mặt lao động sxhh, người sx cần điều
chỉnh lao động trừu tượng phù hợp với thị yếu, nhu cầu của xã hội từ đó  tăng khả năng
trao đổi hàng hóa.
Đón đầu xu thế của thời đại mới, các sản phẩm may mặc gắn liền với môi trường xanh,
sạch. Công ty Vinatex đã nghiên cứu các sản phẩm có xơ sợi từ xơ dừa, chuối, đay hoặc
cellulo hữu cơ kết hợp với các phương pháp chế biến tiết kiệm năng lượng, dùng năng
lượng sạch, có nguồn gốc hữu cơ như thuốc nhuộm từ cây lá, củ quả chủ yếu dùng nước
sôi và thời gian hoặc sản phẩm tái tạo như xơ FE recycle, công nghệ nhuộm Clean dye
không nước. Nhờ đó mà ngành dệt may VN đã gặt hái được nhiều thành tựu, đáp ứng
được nhu cầu, thị yếu của khách hàng trong và ngoài nước.

1.3.3. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của
hàng hóa
- Lượng giá trị hàng hóa = Lượng lao động hao phí của người sản xuất = Thời gian lao
động của người sản xuất
+ Khi nhiều người sx cùng một loại HH
=> Cho ra nhiều mức hao phí khác nhau
(ví dụ cùng một thửa ruộng người cày trong 2h, người cày trong 3h)
=>Từ đây sinh ra thời gian lao động xã hội cần thiết được xã hội công nhận: thời gian sản
xuất trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình, cường độ
lao động trung bình
+ Liên hệ: Trong sản xuất, người sản xuất phải tích cực đổi mới, sáng tạo nhằm giảm thời
gian hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí trung bình cần thiết để có được ưu
thế trong cạnh tranh.
Thời gian đầu, các sản phẩm nội thất gia đình của Hòa Phát được thị trường tiếp nhận khá
thận trọng, do phân khúc hàng gia đình cạnh tranh khốc liệt, với sự góp mặt của nhiều
doanh nghiệp trong và ngoài nước có hệ thống phân phối rộng khắp. Các phân khúc cao
cấp hơn cũng đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn. Trong bối cảnh ấy, Nội thất Hòa Phát
không ngừng phát triển nghiên cứu, sáng tạo, đưa ra các sản phẩm thân thiện với người
sử dụng. Hòa Phát đã ứng dụng công nghệ hiện đại vào phát triển sản phẩm mới, đồng
thời tập trung đầu tư thêm hàng loạt máy móc hiện đại hàng đầu thế giới, giúp tăng năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm hàng chục lần. Giờ đây, các sản phẩm nội thất gia
đình của Hòa Phát đã được thị trường ưa chuộng với nhiều ưu điểm tương đương sản
phẩm nhập khẩu, nhưng giá thành nội địa.
+ Cấu thành lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa:
Hao phí lao động quá khứ (vật liệu, nguyên nhiên liệu đã tiêu dùng) + hao phí lao động
mới = Giá trị HH 
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
+ Năng suất lao động:
·   Là năng lực sản xuất của người lao động được tính số sản phẩm làm ra trên 1 đơn
vị thời gian hoặc lượng thời gian hao phí để làm ra 1 sản phẩm.
·       Mối quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị của hàng hóa
Năng suất lao động tăng -> giảm lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết
-> giá trị hàng hóa giảm
·       Năng suất lao động phụ thuộc:
o   Trình độ người lao động
o   Trình độ khoa học kỹ thuật
o   Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất
o   Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất
o   Các điều kiện tự nhiên
Ví dụ: Ở nền nông nghiệp lúa nước:
·       Người nông dân có kĩ năng, kinh nghiệm
·       KH-KT ngày càng phát triển -> phát minh ra nhiều máy móc tiên tiến, các loại
giống đa dạng năng suất cao
·       Khi xã hội phát triển, hình thành phân công lao động -> có nhà bán giống, nhà
cho thuê máy gặt,...
·       Đất đai màu mỡ, thời tiết thuận lợi
=> Năng suất lao động tăng
- So sánh tăng năng suất lao động và cường độ lao động:
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động sản xuất 
Tăng NSLD Tăng CDLD

- Giá trị 1 đơn vị hàng hóa giảm - Giá trị 1 đơn vị hàng hóa không
- Tổng số hàng hóa tăng đổi
=> Người mua được hưởng lợi, Người bán có đột -  Tổng số hàng hóa tăng
phá về tổng số lượng hàng hóa mà không gây tổn => Người mua không được hưởng
hại đến sức khỏe của công nhân lợi, người bán gây hao tốn sức lực
=> Mang tính bền vững   của công nhân
=> Không bền vững
=> Vì vậy cần có chính sách
cường độ lao động hợp lí

-  Tính chất phức tạp của lao động:


Lao động giản đơn Lao động phức tạp
- Chỉ cần có sức lao động bình thường - Phải sử dụng nhiều lao động trí óc, kỹ
-  Không cần qua đào tạo thuật phức tạp
-  Tạo ra hàng hóa thông thường, giản đơn, - Phải qua đào tạo, rèn luyện
giá trị thấp - Tạo ra hàng hóa phức tạp, chất lượng
  cao, giá trị cao
 
 

Liên hệ: Xã hội ngày càng phát triển, các ngành nghề càng được ứng dụng kĩ thuật công
nghệ cao. Theo một nghiên cứu của Đại học Oxford, Anh Quốc đã chỉ ra rằng trong vòng
10 năm tới, 45% nghề nghiệp hiện tại sẽ biến mất do lao động giản đơn dần dần sẽ bị
thay thế hoàn toàn hoặc một phần bởi công nghệ và trí tuệ nhân tạo. Như vậy lao động
phức tạp ngày càng được đề cao. Vì vậy, đây là một yếu tố mà thế hệ trẻ hiện nay cần cân
nhắc trước khi quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Mặc dù sẽ có những ngành
nghề sẽ bị đào thải nhưng cũng sẽ có vô số các ngành nghề mới được sinh ra. Nắm bắt
được xu thế phát triển của xã hội, bản thân em cần đầu tư trong việc học tập và rèn luyện,
tích lũy cho mình nền tảng tri thức vững chắc để trở thành người lao động phức tạp tạo ra
hàng hóa chất lượng, giá trị cao.

Vấn đề 2 : Nền Kinh tế thị trường


Đặc trưng: 
 Thứ nhất, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ
thể kinh tế bình đẳng trước Pháp luật. 
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới 
nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ trong việc
quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Họ tự chịu trách
nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân dựa trên những tín hiệu thị
trường. 
Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thịtrường là
độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động kinh doanh. Nhưng mỗi
hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong
sự vận hành của nền kinh tế thị trường. 
 Thứ hai, thị trường quyết định phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua hoạt động
của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức
lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ 
Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. Thông
qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm đang
hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu
quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác nhận rằng cho đến nay, sau khi nền kinh
tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân tự cấp - tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các
nguồn lực hiệu quả nhất.   
 Thứ ba, giá cả quyết định bởi giá trị hàng hóa và cung cầu 
Giá cả trên các lo ại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung
và cầu của từng thị trường đó. Tín hiện giá cả là căn cứ khách quan đối với các chủ thể
kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh
thị trường. 
Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định khách
quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là động
lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để
phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các cơ sở khách quan và được điều
tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do). 
 Thứ tư, nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường quốc tế 
Các nước mở rộng hợp tác, thông thương buôn bán với nhau thông qua sự ngoại
giao của Nhà nước. Điều này sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thế giới phát triển nói
chung. 
·  Biểu hiện của những đặc trưng này trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay 

2.1.2. Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường 


- Ưu thế: 
 Kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự sáng tạo của các chủ
thể kinh tế. 
Các bạn thấy rằng, trong kinh tế thị trường, ảnh hưởng bởi quy luật cung- cầu,
cộng với sự cạnh tranh khốc liệt, buộc các chủ thể kinh tế không ngừng đổi mới
sáng tạo, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm. 
Ta có thể ví dụ như trong ngành may mặc thời trang chẳng hạn. Nhằm đáp ứng
nhu cầu thời trang ngày càng cao của giới trẻ, cùng với sự cạnh tranh ngày càng
gay gắt, thì các hãng thời trang liên tục phải sáng tạo kiểu dáng, mẫu mã cũng như
thay đổi chất liệu sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. 
Hay một ví dụ khác ở thị trường Việt Nam ,đó là sự cạnh tranh giữa các hãng điện
thoại thông minh: Samsung, Iphone, oppo…. Các hãng liên tục phải sáng tạo, đổi
mới công nghệ, tính năng hiện đại để có thể chiếm lĩnh thị trường. Hãng điện thoại
thoại nào bị tụt hậu về công nghệ sẽ bị thị trường đào thải. Thực tế thì hãng Nokia,
Motorola, HTC, Sony… đã thất bại trong cuộc cạnh tranh về công nghệ với các
hãng lớn như : Apple, Samsung … 
 Nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các
vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới. 
Ta trở lại ví dụ về lĩnh vực may mặc thời trang. Đối với lĩnh vực này, chủ thể là
kinh tế tư nhân sẽ tỏ ra ưu thế hơn kinh tế nhà nước hay kinh tế tập thể khi họ rất
nhanh nhạy nắm bắt được thị hiếu, thay đổi kiểu dáng, mẫu mã. Bởi vậy, các
hãng thời trang lớn đa phần là của các công ty tư nhân hoặc liên doanh. 
Còn trong lĩnh vực sản xuất đồ công nghệ điện tử thì chủ thể doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có lợi thế hơn khi họ sở hữu công nghệ sản xuất hiện đại, vốn
đầu tư lớn. LG, Samsung, Sony hay Toshiba… là những ví dụ điển hình. 
Còn chủ thể là kinh tế nhà nước sẽ có nhiều ưu thế đối với các dự án xây dựng kết
cấu hạ tầng, nghiên cứu khoa học cơ bản, xây dựng sân bay, cảng biển …. Các dự
án này tương đối phức tạp về quy hoạch, về địa chính trị, và về an sinh xã hội…
kinh tế nhà nước thuận lợi hơn kinh tế tư nhân đối với các dự án này. 
Ngoài ra, kinh tế thị trường cũng phát huy được các lợi thế của vùng, miền kinh tế
trong quốc gia, lợi thế của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với các nước còn
lại. 
Các địa phương có những lợi thế về tự nhiên là khác nhau : Hải Dương, Bắc giang
là địa phương có lợi thế trồng vải thiều do điều kiện thuận lợi về tự nhiên, về thổ
nhưỡng nơi đây. Chính vì vậy, việc xây dựng các hợp tác xã, các trang trại trồng
vải thiều ở đây sẽ rất tiềm năng hơn các địa phương khác,đáp ứng tốt thị trường
trong nước và xuất khẩu. Hay như, du lịch biển cho Phú Quốc, Nha Trang, Đà
Nẵng, Hạ Long … chẳng hạn, sẽ phát huy được lợi thế du lịch biển hơn các địa
phương khác. 
Tương tự như vậy, tiềm năng, lợi thế của từng quốc gia cũng sẽ được khai thác
hiệu quả. Việt Nam là quốc gia lợi thế về tài nguyên đất, nguồn lao động dồi dào,
giá rẻ, nên có lợi thế cung ứng lao động trong các lĩnh vực như nông nghiệp, may
mặc, đóng gói sản phẩm, công nghiệp chế biến … Chính kinh tế thị trường sẽ
phân bổ nguồn lực một cách tối ưu, hiệu quả nhất. 

 Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu
cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. 
Dưới sự tác động của các quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh, kinh tế thị trường sẽ tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của xã hội qua đó sẽ làm xã hội ngày càng hiện đại hơn, văn minh hơn. 
Trong thời kỳ bao cấp chỉ có hệ thống bệnh viện công (hay gọi là bệnh viện nhà
nước) hoạt động. Thủ tục nhập viện, khám chữa bệnh phải mất rất nhiều thời gian,
một bộ phận cán bộ nhà nước quan liêu hách dịch, gây phiền hà, tốn kém. Trong
kinh tế thị trường, là sự cạnh tranh giữa bệnh viện công và hệ thống bệnh viện tư
nhân là tất yếu. Sự cạnh tranh này buộc các bệnh viện nhà nước phải tư nhân hóa
từng phần, đầu tư trang thiết bị hiện đại và thay đổi phong cách phục vụ bệnh
nhân. Kinh tế thị trường là cho xã hội ngày càng hiện đại hơn, văn minh hơn. 
- Khuyết tật: 
 Xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng 
Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra sự
cân đối về giá cả và sản lượng hàng hóa. Thị trường vốn dĩ rất nhạy cảm, khó dự
đoán chính xác, cho nên khi xảy ra các biến cố như : chiến tranh, dịch bệnh, thiên
tai hay cấm vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng thị trường. 
Chúng ta cứ hình dung, đối với ngành hàng không chẳng hạn, trước kia, ngành
hàng không tăng trưởng rất tốt, do quá trình hội nhập của chúng ta ngày cảng
thuận lợi. Nhưng, khi dịch bệnh covid xảy ra, cả nước đóng cửa chống dịch, mọi
hoạt động giao thương, vận chuyển hàng hóa, du lịch … bị đóng băng. Ngành dịch
vụ hàng không lâm vào khủng hoảng nặng nề, thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng. 
Hay như, cuộc chiến tranh giữa Nga và Ucraina, làm ảnh hưởng đến nguồn cung
khí đốt và xăng dầu. Nguồn cung khan hiếm,giá xăng dầu tăng chóng mặt, gây ra
khủng hoảng năng lượng ở các nước nhập khẩu xăng dầu, và các doanh nghiệp
trực tiếp sử dụng nguồn năng lượng này. 
Ban đầu, khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ đối với một hoặc số loại hàng hóa, sau
thể diễn ra trên phạm vi tổng thể nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường không thể tự
khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn này, bởi chúng ta cũng không thể dự báo
chính xác thời điểm dịch bệnh covid cũng như chiến tranh sẽ xảy ra khi nào. 

 Nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. 
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường với mục đích là tối đa hóa lợi nhuận, vì
lợi ích trước mắt mang tính cá nhân nên có thể khai thác cạn kiệt nguồn tài
nguyên, gây suy thoái môi trường tự nhiên. 
Thực tế ở Việt Nam thì đã có không ít sự vụ khai thác cạn kiệt tài nguyên cũng
gây suy thoái môi trường trầm trọng, như: các vụ khai thác cát trộm ở lòng sông
Hồng hay các vụ khai thác than trái phép ở Quảng Ninh. Đặc biệt nghiêm trọng, là
các vụ gây ô nhiễm môi trường sinh thái của Công ty vedan gây ô nhiễm sông Thị
Vải năm 2008; Công ty Formusa Hà Tĩnh gây ô nhiễm biển làm cá chết hàng loạt
năm 2016… Nguyên nhân của các vụ gây ô nhiễm này, vì lợi ích cá nhân doanh
nghiệp, không muốn đầu tư , xử lý chất thải trước khi đẩy ra môi trường. Đây là
mặt trái mang tính khuyết tật của kinh tế thị trường ảnh hưởng đến môi trường tự
nhiên. 

 Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc
trong xã hội. 
Chúng ta hình dung rằng, trong kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự do
cạnh tranh với nhau, kết quả của sự cạnh tranh gay gắt dẫn đến hình thành bộ phận
người giàu có là những người sở hữu tư liệu sản xuất hoặc chiếm lĩnh được thị
trường và bộ phận người nghèo là những người không có tư liệu sản xuất hoặc thất
bại trong cạnh tranh. Sự phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là một tất yếu
trong kinh tế thị trường khi có cạnh tranh. 
Tuy nhiên, nếu sự phân hóa này trở nên thái quá, tức là khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo ngày càng tăng thì có thể dẫn đến căng thẳng về mặt xã hội, đấu tranh
giai cấp xuất hiện. Do vậy, các chính phủ phải can thiệp bằng nhiều công cụ, chính
sách điều hòa mâu thuẫn lợi ích kinh tế như : chính sách thuế thu nhập cá nhân,
chính sách trợ cấp an sinh xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội … để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội. 
Tóm lại, kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm còn có những khuyết tật. Vì
thế, để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường cần có sự can thiệp của
nhà nước để hạn chế những khuyết tật của thị trường, đảm bảo cho thị trường vận
động hiệu quả và ổn định, tối đa hóa lợi ích của các chủ thể kinh tế và của toàn xã
hội. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
hay còn gọilà nền kinh tế hỗn hợp 
-    Vai trò của nhà nước trong việc hạn chế, khắc phục những khuyết tật của nền kinh

tế thị trường 
 Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế 
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi
trường càng thuận lợi thì hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở
rộng. Môi trường vĩ mô không tự hình thành, mà phải được nhà nước tạo lập. Tạo
lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng được
môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh
tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia phải tuân thủ các thông lệ quốc tế. Tạo lập
môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng của nền kinh tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh
tế còn là tạo lập môi trường văn hóa phù hợp vớiyêu cầu phát triển kinh tế thị
trường. 

 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội 


Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị
trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của
một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, nhà nước cần có các chính
sách, trước hết là các chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi
ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh
lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; mặt khác phải
ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn
đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân
phối thu nhập phải tính đến. 
     Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát

triển xã hội 
Phân phối thu nhập công bằng góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh
tế. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống tối thiểu. Để làm
được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm
nghèo,tạo cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ
bản. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập
cho các chủ thể kinh tế - xã hội là giải pháp cần thiết để loại bỏ những vấn đề về thu
nhập. Bên cạnh đó,các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng
nhái; lừa đảo… tồn tại khá phổ biến. Các hoạt động này càng gia tăng, càng làm tổn
hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Nhà nước nghiêm cấm các
hình thức thu nhập bất hợp pháp, mọivi phạm phải được xét xử theo quy định của
pháp luật 

2.2. Các quy luật của nền kinh tế thị trường 


2.2.1. Quy luật giá trị
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị 
- Nội dung của quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng
hóa phải được tiến hành trên cơ sở của hao phí sức lao động xã hội cần thiết.
- Trong đó, thời gian lao động xã hội cần thiết chỉ khoảng thời gian lao động chung cần
phải tiêu tốn để sản xuất một đơn vị hàng hóa.
- Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị: Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng
thông qua sự vận động của giá cả dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá trị là cơ
sở của giá cả, do đó giá cả phải phụ thuộc vào giá trị. Nếu sản xuất một hàng hóa ra mất
nhiều thời gian lao động xã hội cần thiết thì giá trị và giá cả của nó cũng sẽ cao và ngược
lại.
- Như vậy, trong sản xuất: nếu thời gian hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng thời
gian hao phí lao động xã hội cần thiết thì năng suất lao động sẽ tăng và ngược lại. Ví dụ:
để sản xuất 1 cái áo, người thợ may A phải tốn chi phí lao động cá biệt là 3h/sản phẩm.
Trong khi đó, hao phí lao động xã hội tức là mức hao phí lao động trung bình mà xã hội
chấp nhận là 2h/sản phẩm thì trong trường hợp này, người thợ may A đã đạt đủ yêu cầu
về mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thậm chí là làm ra được nhiều sản phẩm hơn
(năng suất lao động tăng)
Trong trao đổi: dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá, lấy hao phí sức lao động xã hội làm cơ
sở.
- Tác động của quy luật giá trị:

Tích cực Tiêu cực

-  Điều tiết và lưu thông hàng hóa : - Phân hóa những


người sản xuất thành
Nếu một hàng hóa nào đó được bán ra thị trường với giá cả
cao hơn giá trị của nó, hàng hóa bán chạy và được lãi cao thì những người giàu,
những người sản xuất sẽ nghĩ đến việc mở rộng quy mô sản nghèo một cách tự
xuất. Đồng thời, họ sẽ đầu tư thêm tư liệu sản nhiên.

xuất cũng như sức lao động. Ngoài ra, những người sản xuất
mặt hàng khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng
này ngay sau đó
-  Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản phẩm nhằm tăng
năng suất lao động :
mỗi loại hàng hóa sẽ được sản xuất trong những điều kiện cơ
bản khác nhau. Vì vậy, mức hao phí lao động cá biệt cũng
hoàn toàn không giống nhau. Tuy nhiên trên thị trường, các loại
hàng hóa đều phải được trao đổi dựa trên mức hao phí lao
động xã hội cần thiết.
-  Đào thải các yếu tố lạc hậu, lỗi thời vì giá trị hàng hóa luôn
được điều chỉnh để phù hợp với xã hội.

 Liên hệ thực tiễn :


- Đưa ra biện pháp ứng với các tác động
- Ai cần làm gì ?
2.2.2. Quy luật cung-cầu
- Quy luật cung-cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung và cầu của hàng hóa
trên thị trường.
- Quan hệ cung và cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau
và ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả của hàng hóa
- Trong đó:
 Cung-cầu tác động lẫn nhau: khi cầu tăng lên sản xuất kinh doanh mở rộng, lượng
cung hàng hóa tăng lên và ngược lại khi cầu giảm xuống sản xuất kinh doanh thu
hẹp, lượng cung hàng hóa giảm xuống.
 Cung-cầu ảnh hưởng đến giá cả thị trường:
 Nếu cung > cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị
 Nếu cung < cầu thì giá cả sẽ cao hơn giá trị
 Nếu cung = cầu thì giá cả bằng với giá trị
- Tác dụng của quy luật cung-cầu:
 Điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá
 Thay đổi cơ cấu và quy mô thị trường
 Ảnh hưởng tới giá của hàng hóa
 Covid 19

2.2.3. Quy luật lưu thông tiền tệ


- Theo C. MÁC, quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần thiết
cho việc lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định.
- Công thức tổng quát của quy luật:
M= P.Q/V
Trong đó:
 M là lượng tiền cần thiết cho lưu thông
 P: là mức giá cả
 Q: là khối lượng hàng hóa và dịch vụ đem ra lưu thông
 V: số vòng lưu thông của đồng tiền
- Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa được
đưa ra thị trường và tỉ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ.
- Nếu tiền > hàng hóa thì đồng tiền bị mất giá trị, từ đó giá cả hàng hóa tăng -> dẫn đến
lạm phát
- Nếu tiền < hàng hóa thì sẽ làm cho giá cả hàng hóa giảm -> giảm phát
- Khi hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ biến thì khi
đó, số lượng tiền cần cho lưu thông được tính như sau:
M= (P.Q - (G1+G2) +G3)/V
Trong đó: 
 P.Q là tổng giá cả hàng hóa
 G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu
 G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau
 G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán
 V là số vòng quay trung bình của tiền tệ
Ví dụ: Tiền nhôm Việt Nam trước kia được đục lỗ thuận tiện cho cất giữ. Nhưng vẫn có
giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó. Khi đó, các thay đổi trong hình thức vẫn không
làm mất giá trị của đồng tiền. Trong khó khăn nhất định khi thực hiện đúc tiền tệ. Nhà
nước cũng giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Các giá trị được nhìn nhận không nằm trên giá
tri danh nghĩa. Cũng như đồng tiền giấy ngày nay được nhìn nhận trên giá trị thực tế. Bởi
các chất liệu bằng giấy hoàn toàn không phản ánh được giá trị.
Tác động của lạm phát với quy luật lưu thông tiền tệ
Lạm phát là sự tăng mức giá của hàng hóa và hiện tượng mất giá của đồng tiền
pháp quy. Khi lượng cung trong thị trường không kịp sản xuất để đáp ứng với lượng cầu
của người tiêu dùng, đây là xuất phát điểm của lạm phát. Khi sự chênh lệch này ngày
càng rõ rệt, giá cả của hàng hóa sẽ tăng cao, dẫn đến tình trạng mất giá của đồng tiền. 
Quy luật lưu thông tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Nội dung của quy luật lưu thông
tiền tệ là quy định lượng tiền cần thiết để đảm bảo lưu thông trong thị trường. Khi đồng
tiền pháp quy mất giá, thị trường sẽ cần nhiều lượng tiền hơn để duy trì lưu thông hàng
hóa. Quy luật trước đó của thị trường sẽ bị phá vỡ và được thay thế bằng một quy luật
mới phù hợp với tình hình đương thời của nền kinh tế.
Lưu thông tiền tệ là một hoạt động cần thiết cho quá trình trao đổi hàng hóa trong thị
trường. Sự lưu thông của tiền tệ sẽ tuân thủ một quy luật lưu thông tiền tệ nhất định. Quy
luật này sẽ bị phá vỡ và thay bằng một quy luật lưu thông tiền tệ khác khi thị trường xảy
ra tình trạng lạm phát.
Ví dụ: Năm 2018 chúng ta mua một cân gạo với giá 18.000 đồng, nhưng đến năm 2021
cũng loại gạo đó nhưng một cân với giá 25.000 đồng. Thì đây chính là sự mất giá của
đồng tiền, còn gọi là lạm phát
* Thực tiễn quy luật lưu thông tiền tệ ở Việt Nam – Lạm phát
Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát
a) Lạm phát do chi phí đẩy   
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy
móc, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của
các xí nghiệp cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo
toàn lợi nhuận. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế tăng lênđược gọi là “lạm phát do
chi phí đẩy”. 
b) Lạm phát do cầu thay đổi 
 Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có
tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt
Nam), thì mặt 5
hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng
thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát
c) Lạm phát do xuất khẩu  
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ lượng
hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng
hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong
nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát. 
d) Lạm phát do nhập khẩu   
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới
tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập
khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát. 
e) Lạm phát tiền tệ    
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua
ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân
hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu
thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Tình hình lạm phát   
Năm 2019, do cầu về hàng hóa thế giới giảm, giá các nhóm hàng hóa trên thị trường thế
giới đều tăng chậm hơn so với năm 2018, thậm chí giảm: Giá thực phẩm giảm 4,6%
(năm 2018 tăng 0,3%), năng lượng giảm 13,6% (năm 2018 tăng 27,8%), nguyên liệu thô
giảm 4% (năm 2018 tăng 0,3%), phân bón tăng 1% (năm2018 tăng 11,1%), kim loại và
khoáng sản giảm 5,4% (năm 2018 tăng 5,5%). Giá hàng hóa thế giới giảm tác động ngay
đến giá trong nước thông qua kênh nhập khẩu, với giá nhập khẩu hàng hóa trong 9 tháng
đầu năm 2019 chỉ tăng mức 0,8%so với cùng kỳ năm 2019 (cùng kỳ năm 2018 tăng
1,4%)
2.2.4. Quy luật cạnh tranh
- Khái niệm: Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có
được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi ích tối
đa.
- Quy luật cạnh tranh yêu cầu: khi đã tham gia vào thị trường, các chủ thể sản xuất
kinh doanh, bên cạnh sự hợp tác thì luôn phải chấp nhận cạnh tranh.
- Kinh tế thị trường càng phát triển thì sức cạnh tranh trên thị trường càng trở nên thường
xuyên, quyết liệt hơn
- Có 2 phương thức cạnh tranh chính: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa
các ngành.
 Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế trong
cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hóa. Trong đó, biện pháp cạnh
tranh là các chủ thể kinh tế, nói cách khác là các doanh nghiệp phải ra sức cải
tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động
để từ đó hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa, làm cho giá trị hàng hóa doanh
nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị của hàng hóa đó
 Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh
doanh giữa các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Trong đó,
các ngành sản xuất khác nhau có lợi nhuận giữa các ngành khác nhau -> nhà tư
bản cạnh tranh với nhau để chọn ra ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn. Biện pháp cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là các doanh nghiệp tự do di
chuyển nguồn lực của mình từ ngành này sang ngành khác.
 Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:

Tích cực Tiêu cực

- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhờ - Cạnh tranh không lành mạnh
đó mà phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, gây tổn hại môi trường kinh
vùng miền doanh.
- Thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh không lành mạnh
gây lãng phí nguồn lực xã hội.
- Là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bố các
nguồn lực - Cạnh tranh không lành mạnh
làm tổn hại phúc lợi của xã hội.

 
- Ví dụ về quy luật cạnh tranh:
Người sản xuất thì muốn bán được hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua
được hàng hóa với giá rẻ. Hoặc người tiêu dùng cũng cạnh tranh với người tiêu dùng để
mua được hàng hóa với giá rẻ hơn, chất lượng hơn. Những người sản xuất cũng cạnh
tranh với nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa, như điều kiện về vốn, lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường, giành nơi đầu tư có
lợi… để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn,
để giành giật thị trường tiêu thụ, họ có thể dùng biện pháp cạnh tranh giá cả như giảm giá
cả hàng hóa để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng thông tin, quảng
cáo sản phẩm, quảng cáo dây chuyền sản xuất… để kích thích người tiêu dùng.
* Liên hệ thực tiễn về quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh gay gắt giữa hai hãng điện thoại Apple và Samsung.
Câu 3: Nguồn gốc của giá trị thặng dư
3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư:
- Công thức chung của tư bản:
Tiền trong sxhh giản đơn: H-T-H (thoả mãn giá trị sử dụng – công dụng)
Tiền thực hiện chức năng Tư bản trong SXTBCN: T-H-T’ (T’=T+t)
                                                  (thu về giá trị và giá trị tăng thêm)
                             t là giá trị dôi ra, trội ra, hay Giá trị thặng dư.
                             T là số tiền ứng ra ban đầu, gọi là Tư bản.
Như vậy, Tư bản là giá trị mang lại Giá trị thặng dư.
- Nguồn gốc của Giá trị thặng dư:
 Lưu thông không tạo ra GTTD.
 Theo C.Mác: “Sức lao động hay Năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó.”
- Hàng hoá Sức lao động:
Hai điều kiện để Sức lao động trở thành Hàng hoá:
 Người lao động tự do về thân thể.
 Người lao động không đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự tổ chức sản xuất, vì
vậy họ phải bán SLĐ.
- Thuộc tính của hàng hoá SLĐ:
 Giá trị: 
 Do thời gian lao động xã hội cần thiết để SX và tái SX SLĐ quyết định.
 Được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản
xuất ra SLĐ.
 Giá trị sử dụng: 
 Để thoả mãn nhu cầu của người mua.
 Được thể hiện trong quá trình sử dụng SLĐ.
 Trong quá trình sử dụng, SLĐ luôn tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó,
chính vì vậy, nó tạo ra giá trị thặng dư. 
(HH thông thường: càng SD, GTSD càng giảm)
(HH SLĐ: càng SD, GTSD càng tăng)
* Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng hóa sức lđ đối với việc phát triển thị trường hàng
hóa sức lđ ở Việt Nam hiện nay.
LIÊN HỆ:
- NN cần có chính sách phát huy yếu tố con người: đào tạo, khai thác hiệu quả SLĐ?
- DN: tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, quản lý người LĐ thế nào cho hiệu quả, bền vững?
- Người LĐ cần làm gì để làm cho GT HH SLĐ của mình cao?
3.2. Sự sản xuất giá trị thặng dư
-  Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị SLĐ do công nhân làm thuê
tạo ra, là kết quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản. (GTTD=m)
-  Tư bản là giá trị đem lại GTTD bằng cách bóc lột lao động làm thuê.
- Tư bản bất biến và Tư bản khả biến:

TƯ BẢN BẤT BIẾN TƯ BẢN KHẢ BIẾN

 Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu  Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái
sản xuất mà giá trị được lao động cụ thể của sức lao động không tái hiện ra, nhưng
công nhân làm thuê bảo toàn và chuyển thông qua lao động trừu tượng của công
nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm, tức là giá nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến
trị không biến đổi trong quá trình sản xuất đổi về số lượng trong quá trình sản xuất,
được C.Mác gọi là TBBB (c) được Mác gọi là TBKB (v)
 

 Tư bản bất biến chỉ là điều kiện không thể  Tư bản khả biến là nguồn gốc sinh ra
thiếu được để sản xuất ra để sinh ra giá trị giá trị thặng dư.
thặng dư
- Ứng vào giá trị TLSX. - Ứng vào giá trị SLĐ.
(máy móc, nguyên liệu) - Trong QTSX, tăng lên về lượng.
- Trong quá trình sản xuất, không thay đổi
về lượng.

- Cơ sở phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến: căn cứ vào nguồn
gốc sinh ra của giá trị thặng dư (tư bản khả biến là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư,
tư bản bất biến là điều kiện để tư bản khả biến sinh ra giá trị thặng dư)
Liên hệ: Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với phân bổ vốn và quản lý vốn đầu tư trong
DN?
* Liên hệ với quá trình sx trong kt tư nhân ở Việt Nam hiện nay

* Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng hóa sức lđ đối với việc phát triển thị trường hàng
hóa sức lđ ở Việt Nam hiện nay.

Đảng và Nhà nước ra chủ trương xây dựng nguyên tắc của chính sách phát triển thị
trường lđ là phải giữ nguyên sự duy trì đầy đủ vai trò lớn lao của Nhà nước đối với
nhân dân trong vấn đề điều tiết việc làm.

- Đảm bảo việc làm có hiệu suất cao chỉ có thể đạt được trên cơ sở kết hợp chặt chẽ
những hoạt động tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước với sự tự điều tiết của
thị trường.

- Điều kiện quan trọng nhất của việc thực hiện chính sách này là phải tuân theo hàng loạt
những nguyên tắc như: phát triển đa dạng các loại hình sở hữu và hoạt động kinh doanh
với mục đích mở rộng những khả năng lựa chọn các khu vực bổ sung theo giới, độ tuổi,
dân tộc,...tự do pháp lý đối với người lao động và người thuê lao động khi thuê mướn và
sa thải, tự do di chuyển lao động và vốn, phát triển hệ thống điều tiết các quan hệ lao
động, đặc biệt khi giải quyết những tranh chấp lao động tập thể và cá nhân.

- Cơ sở phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến: căn cứ vào nguồn
gốc sinh ra của giá trị thặng dư (tư bản khả biến là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư,
tư bản bất biến là điều kiện để tư bản khả biến sinh ra giá trị thặng dư)

- Tư bản khả biến tạo ra giá trị mới = v + m

* Liên hệ với quá trình sản xuất trong kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế dựa trên hình thức sử
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân. Kinh tế tư nhân gồm những hộ gđ,
doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động xã hội: công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ… Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động mà còn tạo ra cơ

hội cho những doanh nghiệp trở nên nổi tiếng trong nước cũng như trên quốc tế. Vì vậy
Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong những
ngành, lĩnh vực có lợi cho dân sinh và khuyến khích làm ăn, buôn bán theo quy định của
pháp luật. Sự phát triển kinh tế tư nhân cũng nhằm mục đích làm giàu hợp pháp đi kèm
theo đó làm xóa đói, giảm nghèo.

3.3. Tiền công

- Là giá cả của hàng hoá sức lao động

- “Năng lực lao động chưa phải là lao động, cũng như năng lực tiêu hoá chưa phải là tiêu
hoá thức ăn”

- “Tiêu dùng sức lao động, đó chính là lao động”

=> Nguồn gốc của tiền công chính là do hao phí sức lao động của người lao động làm
thuê tự trả cho chính mình

3.4. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản

*Mô hình tuần hoàn của tư bản

*Chu chuyển của tư bản

T – H – T’ – H – T’’ – H – T’’

-Chu chuyển của tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kì thường
xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian

- Chu chuyển của tư bản được đo lường bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu
chuyển của tư bản

- Thời gian chu chuyển của tư bản

Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số vòng chu
chuyển không giống nhau. Để so sánh tốc độ vận động của các tư bản khác nhau, người
ta tính số vòng chu chuyển của các loại tư bản đó trong một thời gian nhất định.

- Tốc độ chu chuyển của tư bản

số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta có công thức số vòng chu chuyển
của tư bản như sau:

n = CH/ch

Trong đó: (n) lả số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời gian trong năm;
(ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.

Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ chu chuyển trong
năm là:

n = 12 tháng / 6 tháng = 2 vòng

Tư bản cố định Tư bản lưu động


- là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình - là bộ phận tư bản sản xuất
thái tư liệu lao động tham gia toàn bộ vào quá tồn tại dưới hình thái sức lao
trình sản xuất động, nguyên nhiên vật liệu,
vật liệu phụ
- giá trị của nó chỉ chuyển dần từng phần vào
giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn. - giá trị của nó được chuyển
một lần, toàn phần vào giá trị
- Phân loại: sản phẩm khi kết thúc từng
quá trình sản xuất.
+ hao mòn hữu hình (sự mất mát về giá trị
sử dụng và giá trị) do sử dụng và tác động
của tự nhiên gây ra

+ hao mòn vô hình (sự mất giá thuần túy)


do sự tăng lên của năng suất lao động sản
xuất tư liệu lao động và sự xuất hiện của
những thế hệ tư liệu lao động mới có năng
suất cao hơn

- Để thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, các nhà tư bản phải nỗ lực rút ngắn thời
gian chu chuyển hay đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản trên cơ sở nắm vững các yếu tố
ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của tư bản, đồng thời sử dụng hiệu quả tư bản cố
định và tư bản lưu động.

nguồn gốc của giá trị thặng dư là do hao phí lao động tạo ra.

* Ý nghĩa thực tiễn của giá trị thặng dư:

Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong
toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã
hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, việc nghiên cứu, khai thác và học tập
những di sản lý luận của Mác trở thành việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam hiện nay, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị
thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính
trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư
của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây,
bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị
trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ đổi mới.

4, Lợi tức, địa tô


a. Lợi tức
- Định nghĩa: Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay trả
cho tư bản cho vay vì đã sử dụng lượng tiền nhàn rỗi (lượng tiền không được
sử dụng) của người cho vay -> Lợi tức là một phần giá trị thặng dư của tư
bản đi vay, trả cho người/ngân hàng cho vay, là giá cả của tiền vay.
- Nguồn gốc:
- Bề ngoài: Là một phần lợi nhuận bình quân mà người đi vay phải trả cho
người cho vay
- Thực chất: Là một phần của giá trị thặng dư mà người đi vay đã thu được
thông qua số tiền vay đó -> Tư bản cho vay gián tiếp bóc lột giá trị thặng dư
- Công thức tính: Tỷ suất lợi tức (z’) = Lợi tức (z) : Tư bản cho vay x 100%
- Xem xét dòng lưu chuyển của dòng tiền:
- Về phía nhà tư bản cho vay: Họ nhường quyền sử dụng tư bản của mình
cho người khác trong một khoảng thời gian nhất định -> nhận được lợi tức.
Quyền sở hữu của tư bản cho vay tách rời quyền sử dụng. Tư bản cho vay là
một loại hàng hóa đặc biệt và là hình thái tư bản phiến diện nhất, được sùng
bái nhất.
- Về phía nhà tư bản đi vay: Họ vay tiền để đưa vào sản xuất và thu được lợi
nhuận nhưng không được hưởng toàn bộ số lợi nhuận đó mà cần trích ra một
phần để trả cho tư bản cho vay.
Ý nghĩa vận dụng:

- Phát hành trái phiếu chính phủ:

Hình thức này này được được quy định cụ thể ở Nghị định 01/2011/NĐ-CP về phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương. Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các
tổ chức, cá nhân. Ngoài phương thức phát hành trực tiếp qua hệ thống kho bạc nhà
nước thì tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định 01/2011 có quy định trái phiếu Chính phủ
có thể được phát hành thông qua các hình thức như:
+ Đấu thầu trái phiếu chính chủ qua thị trường chứng khoán

+ Phát hành trái phiếu chính phủ dưới hình thức đại lý phát hành

+ Phát hành trái phiếu chính phủ dưới hình thức bảo lãnh, bán lẻ trái phiếu

Ngoài việc phát hành trái phiếu để vay trong nước ra thì Chính phủ còn có thể vay
nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ (Khoản 2
Điều 21 Luật Quản lý nợ công).

b. Địa tô tư bản chủ nghĩa


Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp. Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả một lượng tiền cho địa chủ vì
đã thuê đất của họ dưới dạng địa tô.
● Khái niệm của địa tô:

Địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình
quân mà các nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa
chủ.
● Kí hiệu của địa tô: R
● Các hình thức của địa tô:
● Địa tô chênh lệch:
● Địa tô chênh lệch I: được địa chủ thu do chỗ cho thuê ruộng đất tốt và độ
màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi.
● Địa tô chênh lệch II: được địa chủ thu do chỗ cho thuê mảnh đất đã được
đầu tư, thâm canh và làm tăng độ màu mỡ của đất.
● Địa tô tuyệt đối: địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê, không
kể độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi hay do thâm canh.
● Trong thực tế đời sống kinh tế, địa tô là một trong những căn cứ để tính
toán giá cả ruộng đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người
khác:

Giá cả đất đai = R : z’

R: địa tô

z’: tỷ suất lợi tức nhận gửi của ngân hàng

=> Ý nghĩa:
● Vạch rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp.
● Là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách kinh tế liên quan đến thuế,
đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các quan hệ đất đai.

=> Kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm,
phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững.

Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay:

Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế hay đơn vị vũ trang để sử dụng.

● Thuế đất nông nghiệp: Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông qua ngân
sách thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp, những người thuê đất
phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế nông nghiệp ở đây không phải thể hiện
sự bóc lột đối với nông dân mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân.
● Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một việc
khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng tạo của
đảng ta trong việc vận dụng lý luận về địa tô khi đề ra chính sách thuế
nông nghiệp, động viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng cục
thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các
đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có công với cách mạng, hộ gia
đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn,…
● Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và
điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng
tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác nhà nước còn đưa ra
một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà
chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông nghiệp.
● Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất nông
nghiệp sang phi nông nghiệp thì thuế từ 20% – 40%, nếu đất nông nghiệp
chuyển sang xây dựng các công trình công nghiệp từ 40% sang 60%.
● Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích
nông nghiệp thì không phải trả tiền sử dụng đất cho nông nghiệp, nếu sử dụng
vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức thuê
đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong nước.

● Thuê đất: Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng
quyền và nghĩa vụ của người dân theo điều 1, điều 4, điều 5, điều 12, điều 22,
điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của nhà nước ta hiện
nay cũng ban hành những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất (một
hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách tự

nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào mục
đích của mình.

● Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ
phải thuê đất của nhà nước, phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi trả cho
nhà nước số tiền tương đương với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê.
● Không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà
nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở
Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.

Hạn chế:

● Một số cơ quan chức năng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm trong
quản lý đất công, công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa kịp thời;
thiếu quan tâm theo dõi, thanh tra, kiểm tra, đùn đẩy trách nhiệm, chưa kiên quyết
xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm… => thất thoát, lãng phí nguồn tài nguyên đất
đai. Các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây dựng, quy định quản lý kiến
trúc đến nay chưa phủ kín địa bàn làm hạn chế quyền xây dựng nhà ở hợp pháp
của người dân.
● Nhận thức pháp luật về đất đai của người dân còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng
vi phạm như lấn chiếm, xây dựng công trình trái phép trên đất nông nghiệp, tự ý
chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

Giải pháp:
● Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
● Hoàn thiện hệ thống quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất với vai trò công cụ quản lý
nhà nước về đất đai, đảm bảo phân bổ tài nguyên đất đai hợp lý, quản lý và sử
dụng đất hiệu quả.
● Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật đất đai về việc sử dụng đi đôi với bảo
tồn đất đai đến từng người dân, thiết lập cơ chế hỗ trợ pháp lý cho người có quyền
sử dụng đất để họ bảo vệ được quyền lợi của mình và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ
của người sử dụng đất, đồng thời xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật
đất đai.

You might also like