You are on page 1of 33

VIỆT BẮC

Tố Hữu

Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre Emmanuel có
ghi những dòng vô cùng ý nghĩa về nhà thơ Tố Hữu: “Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là
tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi
sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những phương
tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa; không
còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của
mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta
càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ". Tập thơ Việt Bắc
chính là một dấu son tiêu biểu cho con đường thơ – đường cách mạng của thi sĩ tài
hoa này.

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


1. Tác giả Tố Hữu
a. Tiểu sử

Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai,
nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông sinh
trưởng trong gia đình nhà nho nghèo tại Huế - vùng đất cố đô thơ mộng còn lưu giữ
nhiều nét văn hóa dân gian. Tố Hữu ngay từ thời ấu thơ đã sớm được truyền tình
yêu với văn học dân gian. Bước vào tuổi thanh niên, Tố Hữu sớm được giác ngộ
cách mạng. Ông hăng say hoạt động và đấu tranh cách mạng nhưng cũng trải qua
nhiều lần tù ngục. Sau này, ông liên tục giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đặc trách trong mặt trận văn hóa văn nghệ.

b. Đường cách mạng và đường thơ

Tố Hữu được coi là “cánh chim đầu đàn” của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Trong lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu có đoạn: “Lịch trình tiến triển về thơ
của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về
sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một
khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng. Người Tố Hữu là
một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Cũng
bởi các chặng đường thơ Tố Hữu luôn gắn bó chặt chẽ và phản ánh chân thật gian
khổ, hi sinh nhưng cũng đầy vinh quang, thắng lợi của dân tộc, đồng thời cũng là
chặng đường vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của chính nhà thơ. Điều này
được thể hiện rõ rệt qua 7 tập thơ trong cuộc đời sáng tác của Tố Hữu.
Tập thơ Từ ấy (1937 – 1946) gắn với chặng đường đầu tiên trong đời thơ Tố
Hữu và cũng là thời gian đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên yêu
nước quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng.

Tập thơ Việt Bắc (1946 – 1954) gắn với những năm tháng kháng chiến chống
Pháp, là tiếng ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Tập thơ Gió lộng (1955 – 1961) dạt dào những nguồn cảm hứng lớn lao trong
giai đoạn đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hai tập thơ Ra trận (1962 – 1971), Máu và hoa (1972 – 1977) vừa là bản anh
hùng ca ca ngợi khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vừa là
tiếng ca hân hoan của niềm vui toàn thắng.

Hai tập thơ Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999) đánh dấu bước chuyển
biến mới trong cảm hứng sáng tác của Tố Hữu nhưng vẫn có sự ổn định của tính
chất trữ tình chính trị vốn quen thuộc trong thơ ông.

c. Phong cách nghệ thuật

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải
có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm
của mình”. Và Tố Hữu là một tác gia tiêu biểu đã xây dựng cho mình được phong
cách thơ độc đáo, không lặp lại bất kì cây bút nào khác.

Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ ông mang tính trữ tình chính trị
rất sâu sắc. Tố Hữu là một thi sĩ đồng thời cũng là một chiến sĩ. Ông sáng tác trước
hết là để phục vụ cho đấu tranh cách mạng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và lí tưởng
của Đảng. Vì vậy nhà thơ Chế Lan Viên sau những suy ngẫm về thơ Tố Hữu đã tâm
sự: Với Tố Hữu “tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người viết về
các vấn đề lớn hay sự việc nhỏ… là để nói cho được cái lí tưởng cộng sản ấy thôi”.
Nhờ có rung động nhạy bén và cảm hứng dạt dào đã khiến nhà cách mạng có thể
thơ hóa những vấn đề chính trị tưởng chứng rất khô khan. Thơ ông tập trung thể
hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của con người cách mạng. Điều ấy
cũng từng được Xuân Diệu khẳng định: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình
độ thơ rất đỗi trữ tình”.

Tính trữ tình chính trị chính là nguyên nhân khiến khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn rất đậm nét trong thơ Tố Hữu. Cảm hứng lớn nhất trong thơ Tố
Hữu là cảm hứng lịch sử dân tộc, những vấn đề được nhà thơ quan tâm và phản ánh
trong thơ luôn là những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Cái tôi
trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi nhân danh Đảng, dân tộc và thời đại. Nhân vật
trữ tình trong thơ ông được xây dựng với những phẩm chất của giai cấp và cộng
đồng. Thơ ông cũng tràn đầy cảm hứng lãng mạn luôn hướng người đọc đến một
tương lai tươi sáng, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con
đường cách mạng, ngợi ca nghĩa tình cách mạng và con người cách mạng.

Thơ Tố Hữu mang giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết cũng nhờ chất
Huế từ lâu đã thấm vào tâm hồn ông. Đồng thời nó xuất phát từ quan niệm sáng tác
của Tố Hữu: “Thơ là chuyện đồng điệu… Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng
nói đồng chí”.

Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức biểu hiện.
Về nội dung, hiện thực đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách
mạng qua ngòi bút Tố Hữu đã trở nên gắn bó, hòa nhập với truyền thống tinh thần,
tình cảm, đạo lí của dân tộc và làm phong phú hơn truyền thống ấy. Về nghệ thuật,
thơ ông sử dụng thành công các thể thơ truyền thống của dân tộc như: thơ lục bát,
song thất lục bát. Ngôn ngữ thơ gần gũi, sử dụng nhiều từ ngữ và cách nói dân gian,
gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Phong cách dân tộc ở Tố Hữu còn
thể hiện ở chỗ “thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của
dân tộc”.

2. Tác phẩm
a. Vị trí

Với những nét phong cách nghệ thuật đậm nổi được chạm khắc trên từng lời
thơ, Việt Bắc không chỉ là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những
tác phẩm xuất sắc nhất của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

b. Hoàn cảnh sáng tác

Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của bộ đội ta trong
kháng chiến chống Pháp. Tại nơi đây, người dân miền núi đã che chở, đùm bọc cho
Đảng, Chính phủ và kề vai sát cánh bên những người cán bộ kháng chiến để giành
và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí
kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của
cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính
phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội.

Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hoà bình, từ
núi rừng về thành thị. Biết bao băn khoăn, trăn trở về tấm lòng son sắt, thủy chung
nơi những con người đã từng được bao bọc, chở che, bao lưu luyến, nghĩa tình với
những tấm lòng từng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ bùi”, những bâng khuâng
thương nhớ của kẻ ở và những bịn rịn, trống trải ở người đi đa trào ra.

 “Việt Bắc” là bài thơ “không viết không được”, ra đời thật đúng lúc trong không
khí lịch sử và tâm trạng khi chia tay của ngườ cán bộ với đồng bào Việt Bắc.

Bài thơ gồm có hai phần. Phần đầu tái hiện những kỉ niệm của cách mạng và
kháng chiến tại chiến khu Việt Bắc. Phần sau gợi ra viễn cảnh hòa bình tươi sáng của
đất nước và lời ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.

c. Ý nghĩa nhan đề

Không chỉ là tên gọi của đoạn trích trong sách giáo khoa, “Việt Bắc” còn là tên
của toàn bộ tập thơ này. Việt Bắc chính là căn cứ địa cách mạng (từ năm 1941 sau khi
khởi nghĩa Bắc Sơn 9/1940 nổ ra, nơi đây được hình thành và đến năm 1954 thì hoàn
thành sứ mệnh trong kháng chiến chống Pháp) gồm 6 tỉnh: Cao Bằng - Bắc Kạn -
Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên. Việt Bắc trong kí ức của mỗi
người dân Việt Nam luôn là quê hương cách mạng, thủ đô kháng chiến.

Nhan đề “Việt Bắc” đã gợi nhắc tới những sự kiện, những kỉ niệm của một
thời kì kháng chiến gian khổ mà hào hùng, về nghĩa tình sâu nặng giữa nhân dân
với cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc.

Hai chữ "Việt Bắc" như một lời khắc ghi sâu sắc tình cảm thuỷ chung, son sắc
của nhà thơ - người cán bộ kháng chiến đối với quê hương. Đồng thời, đây cũng là
lời nhắn gửi của người chiến sĩ – thi sĩ rằng: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống
quý báu anh hùng bất khuất, ân tình thủy chung của cách mạng, của con người Việt
Nam.

d. Chủ đề

“Việt Bắc” được coi là khúc hùng ca ca ngợi con người kháng chiến và cuộc
sống chiến khu thời kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng và là bản tình ca
thủy chung, nghĩa tình giữa con người cách mạng với đồng bào Việt Bắc.

e. Kết cấu đối đáp

 Tố Hữu đã xây dựng kết cấu rất đặc biệt cho bài thơ “Việt Bắc”. Thi nhân
mượn kết cấu lối hát đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca khi viết về một đề tài
không mới là cuộc chia ly nhưng để ghi lại một sự kiện lịch sử vừa mới diễn ra.
Không phải là cá nhân chia tay với cá nhân mà là của tập thể với tập thể, của chiến sĩ
ra về với nhân dân ở lại. Không phải ngẫu nhiên ông được gọi là nhà thơ của lẽ sống
lớn, tình cảm lớn. Cũng không phải ngẫu nhiên phong cách đậm nét của thơ ông lại
là tính dân tộc đậm đà từ vỏ ngoài” đến “lõi trong”. Bên ngoài xây dựng hình thức
đối đáp nhưng bên trong thực chất là lời độc thoại. Lời đối đáp ấy không chỉ là sự
ướm hỏi mà để bày tỏ tình cảm, tạo ra âm thanh mang tính điệp trùng cộng hưởng,
đồng vọng không dứt, âm vang của thời đại. Cảm xúc chủ đạo, xuyên suốt trong tác
phẩm chính là nỗi nhớ.

 Kẻ ở người đi trong cuộc chia tay đã chọn cặp đại từ xưng hô “ta – mình”
nghe sao thân mật, gần gũi đến lạ. Cách xưng hô ấy gợi ta nhớ tới những khúc hát
yêu thương tình nghĩa trong ca dao. Hơn nữa cách xưng hô này thường xuất hiện
trong đôi lứa yêu nhau, trong mối quan hệ vợ chồng keo sơn, bền chặt.

Người miền Bắc chúng ta vẫn có câu:

“Mình về ta chẳng cho về

Ta níu vạt áo ta đề câu thơ.”

Hay như trong miền Nam khi những người thương, yêu nhau tiễn nhau bồi hồi cảm
xúc cũng có câu:

“Chàng về, em nắm vạt áo em la làng

Bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho ai?”

Tố Hữu đã mượn những yêu thương, nồng thắm ấy để gửi vào cuộc chia tay giữa
những con người đã từng kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ. Cuộc chia tay vì thế
cứ đầy ắp những bịn rịn, vấn vương. Lời hỏi đáp buông ra như những lời thủ thỉ,
tâm tình, vỗ vào lòng độc giả.

Trong suốt toàn bộ tác phẩm, cặp đại từ “mình – ta” được sử dụng vô cùng
linh hoạt. Có lúc “mình” là người đi, “ta” là kẻ ở trong lời hỏi của người ở lại “Mình
về mình có nhớ ta”. Có khi “ta” lại là người đi, còn “mình” là kẻ ở trong lời đáp của
người ra đi “Ta về mình có nhớ ta”. Và thậm chí “ta” và “mình” gắn bó đến mức hòa
là một giống như lời ca: “Mình với ta tuy hai mà một/ Ta với mình tuy một mà hai”.
Câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” cứ thế dâng đầy những nghĩa tình, những keo
sơn, bền chặt.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT


1. Lời người ở lại gợi nhắc về những kỉ niệm ân tình trong mười lăm năm gắn
bó và những nhớ thương, bịn rịn của người về xuôi trong giờ phút chia li

(8 câu đầu)
a. Lời ướm hỏi của người ở lại nhằm khơi gợi những kỉ niệm về một thời keo
sơn gắn bó. Đồng thời qua đó bốn câu thơ đầu đã khai mở những niềm băn
khoăn, thương nhớ của người ở lại với người ra đi.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Biết bao ân tình của người ở lại với người ra đi được gửi gắm trong hai câu
lục bát:

Mình về mình có nhớ ta

Mình về mình có nhớ không

Hai thơ là câu hỏi tu từ nhưng lại không có mục đích tìm kiếm câu trả lời. Là hỏi
nhưng đọc lên người ta lại chỉ thấy những dạt dào thương mến. Từ câu một tới câu
ba, thi sĩ chỉ thay đổi mỗi chữ “ta” thành “không”. Nếu câu một là những lời bộc
bạch, giãi bày tâm tư, tình cảm thì câu thơ thứ ba thiên về lời nhắc nhở.

Ngay từ câu thơ mở đầu, nhà thi sĩ đã mượn cách xưng hô “mình – ta” vốn
rất quen thuộc, gần gũi trong ca dao. Những cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn của
đôi lứa yêu nhau bỗng dưng ùa về qua cách xưng hô thân mật ấy:

Mình về có nhớ ta chăng

Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình.

Tố Hữu đã mượn lời ca ngọt ngào của đôi lứa yêu nhau để diễn tả những ân tình
cách mạng, mượn cách xưng hô của lứa đôi, của cá nhân với ca nhân để gửi gắm câu
chuyện thời đại của tập thể với tập thể. “Ta” ở đây là người ở lại, “mình” là đại diện
của người ra đi. Tố Hữu thổi những mặn nồng, thân mật của lứa đôi từ ca dao vào
tình cảm của cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc, để bẩy lên mối quan hệ vốn
gắn bó khăng khít, chăng thể xóa nhòa. Cuộc chia tay về chính trị mà cứ lưu luyến
như cuộc chia tay của lứa đôi. Tuy nhiên tác giả đặt chữ “mình” ở đầu câu, chữ “ta”
ở cuối câu như mở rộng ra không gian chia li xa cách giữa hai đối tượng. Hơn nữa
bốn câu thơ xuất hiên tới ba chữ “mình” nhưng chỉ xuất hiện duy nhất một chữ “ta”
khiến không gian của cuộc chia li chỉ toàn hình bóng của người ở lại. Hình bóng
người ở lại vì thế trở nên đơn côi, buồn bã trong quang cảnh hắt hiu, quạnh quẽ. Nỗi
niềm thương nhớ, lưu luyến vì thế cũng miên man, da diết. Lời thơ với hai chữ “có
nhớ” như một sự băn khoăn, trăn trở, khắc sâu trong lòng người ở lại câu hỏi về sự
thủy chung của người đi và mở ra cả những lời khơi gợi kỉ niệm trong người ra đi.

Lời hỏi của người ở lại hướng về thời gian mười lăm năm gắn bó. Mười lăm
năm không phải là một khoảng thời gian quá dài nhưng gắn quãng thời gian mười
lăm năm vào đời người hữu hạn thì lại có biết bao điều phải nói. Dù độ dài của nó
chỉ như “muối bỏ bể” trước thời gian vô thủy vô chung nhưng nó cũng đủ để tạo ra
những điều khắc cốt ghi tâm. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét về câu thơ
chứa đoạn đường mười lăm này của Tố Hữu: “Câu thơ “Mười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồng” mang dáng dấp một câu Kiều “Những là rày ước mai ao/ Mười lăm năm
ấy biết bao nhiêu tình”. Kim Kiều xa cách nhau mười lăm năm mà vẫn “biết bao
nhiêu tình” nói chi đến cán bộ và nhân dân Việt Bắc đã có thời gian gắn bó, sát cánh
bên nhau những mười lăm năm”. Cùng với đại từ “ấy”, trạng ngữ chỉ thời gian đưa
ta trở về quá khứ xa xăm từ những ngày đầu gây dựng nền móng cánh mạng cho
đến khi căn cứ lớn mạnh, vững chắc trở thành thủ đô kháng chiến và hân hoan trong
niềm vui thắng lợi. Theo dòng lịch sử quãng thời gian này ứng với thời kì kháng
Nhật (khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940) đến khi những người kháng chiên trở về Thủ
đô (tháng 10 -1954). Đoạn dây thời gian ấy chính là mối gắn kết bền chặt tình cảm
của cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc. Sau những gắn bó buồn vui, gian
khố, có phúc cùng hưởng có họa cùng chia, họ đã có với nhau biết bao “thiết tha
mặn nồng”, bao keo sơn, nồng ấm, bao sâu nặng nghĩa tình và cũng bao da diết, vấn
vướng khi chia xa.

Sau những kỉ niệm mặn nồng, da diết, người ở lại khéo bày tỏ lời dặn dò, kín
đáo với người ra đi. Câu hỏi tu từ thứ hai hướng về không gian với biết bao trăn trở.
Hình ảnh “cây, núi, sông, nguồn” đưa ta đến giữa hai thế giới không gian miền xuôi,
miền ngược, giữa hai chiều thời gian quá khứ, tương lai và sự xuất hiện của hai đối
tượng kẻ ở, người đi. Nếu “cây, sông” gợi nhắc vùng đồng bằng – nơi mà trong
tương lai gần đây thôi người cán bộ kháng chiến sẽ trở về, sống giữa chốn phồn hoa
đô hội thì “núi, nguồn” lại gắn liền với vùng núi cao, tượng trưng cho chiến khu
Việt Bắc – nơi mà trong quá khứ người lính đã từng cùng đồng bào kề vai chiến đấu.
Ở nơi ấy vẫn còn đó những kỉ niệm xưa và những con người cũ nay trở về với cảnh
sinh hoạt bình thường. Nhà thơ băn khoăn về lòng người ra đi: không biết có còn
nhớ về ân tình đã qua hay không và cũng nghiêm nghị nhắc nhở đạo lí “uống nước
nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Người lính về Hà Nội rồi, thấy cây thì hãy
nhớ đến núi, nhìn sông phải nhớ tới nguồn. Dù hoàn cảnh có đổi thay nhưng tấm
lòng sắt son, chung thủy thì không thể phai mờ. Xin người về đừng quên Việt Bắc –
cái nôi của cách mạng và cội nguồn của dân tộc. Ấy chính là “Quê hương cách mạng
dựng nên Cộng hòa”.

b. Nỗi nhớ nhung, bịn rịn của người ra đi trong cảnh tiễn đưa đầy bâng
khuâng, lưu luyến

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại những bao cảm xúc
của họ đã được giãi bày qua bốn câu thơ tiếp. Hai chữ “tiếng ai” gieo vào hồn người
bao bâng khuâng, xao xuyến. “Ai” ở đây chính là người ở lại nhưng chính cách dùng
đại từ có tính phiếm chỉ này của nhà thơ lại khiến câu thơ rơi vào chút mơ hồ không
rõ đối tượng. “Ai” là người nào không rõ, là cô gái hay chàng trai, là người thanh
niên hay các cụ già… Họ mới chỉ xuất hiện trong lời thơ qua tiếng nói vọng lại từ cỏ
cây, sông núi. “Tiếng ai” phải chăng là tiếng lòng của người ở lại nhưng cũng chính
là sự đồng vọng trong tâm trí người ra đi. Câu hỏi từ trái tim ở trên nay đã tìm được
lời đáp của trái tim. Sự thấu hiểu đã hiện ra nhờ những tri âm, thấu hiểu.

Trong những câu thơ viết về tình cảm của người về xuối thi sĩ chủ yếu dùng
những câu khẳng định: khẳng định lại tình cảm của chiến sĩ với nhân dân. Nhà thơ
sử dụng hàng loạt các từ láy Hán Việt để miêu tả nhiều cung bậc cảm xúc của cán bộ
ra về. “Tha thiết” là canh cánh trong lòng, là khắc khoải khôn nguôi. Âm thanh “tha
thiết” gợi ra bao ân tình, trìu mến.

“Bâng khuâng” không chỉ đơn thuần là một trạng thái cảm xúc, mà đem tới
nhiều những cảm xúc khác nhau: một chút thương, một chút nhớ, một chút bồi hồi,
một một chút bịn rịn. Hình như cả nhớ nhung, luyến tiếc, cả buồn, vui đều đang lẫn
lộn, đang chồng lấn lên nhau trong tâm hồn thi sĩ. Tất cả đều bởi sự xao động trong
lòng người đi vì tuy được trở về quê hương nhưng lại phải rời xa căn cứ cách mạng.

“Bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng thấp thỏm, nôn nao, hồi hộp và day
dứt trong lòng. Con người ta không chỉ không yên trong suy nghĩ mà còn trong ánh
mắt, dáng vẻ. Lòng người “bồn chồn” khiến bước chân đi cũng trở nên lưu luyến,
bịn rịn chẳng muốn rời “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”.

Hình ảnh gây xúc động nhất trong buổi chia li có lẽ là chiếc “áo chàm” gần
gũi, thân thương. Hình ảnh “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ kép lấy dấu hiệu của sự
vật để chỉ sự vật, lấy bộ phận để chỉ toàn thể. “Áo chàm” là trang phục đặc trưng
của người dân Việt Bắc, là đại biểu cho họ, cho những người ở lại. Màu áo chàm là
màu của những con người Việt Bắc mộc mạc, giản dị, lam lũ. Tuy đơn sơ nhưng sắc
áo lại khó phai đến lạ kì. Cũng giống như người dân Việt Bắc có lam lũ, nghèo khổ
nhưng vẫn son sắt thủy chung với cách mạng và với kháng chiến. Tố Hữu đã có bao
gắn bó với Việt Bắc, bao thấu hiểu với con người nơi đây mấy có thể dùng hình ảnh
hoán dụ gây nao lòng đến vậy.

Hành động lắng sâu nhất trong giờ phút chia li chính là cử chỉ “cầm tay”. Họ
“cầm tay” nhau trong niềm xúc động nhưng trong không khí lặng im “biết nói gì
hôm nay”. Họ không biết phải nói gì không phải bởi họ không có gì để nói mà bởi
giữa họ có quá nhiều điều để nói. Mười lăm năm đâu phải ngắn, giữa họ đâu phải
chỉ có sự quen biết một hai ngày, bao kỉ niệm gắn bó như vậy biết kể như thế nào
đây, bao “thiết tha mặn nồng” kể sao cho hết. Ngôn từ bất lực trước tình nghĩa và
chỉ có cử chỉ ấm áp “cầm tay” thôi là đủ rồi. Cái “cầm tay” là biểu tượng của sự gắn
bó, bền chặt. Hành động “cầm tay” nặng bao nghĩa tình. Người ta cầm tay nhau để
truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống như người lính cụ Hồ trong kháng chiến
“nắm tay” nhau để truyền hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đồng chí – Chính Hữu

Bao xúc động chẳng nói thành lời, người cán bộ và đồng bao gửi vào cái “cầm
tay”. Nhưng như vậy là chưa đủ. Nhà thơ đặt sau hành động ấy dấu ba chấm. Một
nốt lặng đặt trong khuôn nhạc mà đòi hỏi người ca sĩ phải ngân dài. Tình cảm nhờ
đó cứ kéo dài thêm, mặn nồng nhờ đó đậm đà thêm và xúc động vì thế cứ lặng lẽ
trào ra đầy hơn.

2. Lời tâm tình của người ở lại gợi về trong người ra đi bao kí ức khó phai mờ
về Việt Bắc trong những năm kháng chiến gian khổ nhưng nặng nghĩa
nặng tình.

(12 câu tiếp)


“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” đến đây đã được diễn tả bằng những
kỉ niệm thật cụ thể. Các câu hỏi tu từ “Mình đi, có nhớ…”, “Mình về, có nhớ” cứ
điệp lại ở đầu mỗi câu trong điệu gấp gáp nơi tiếng lòng bật mở, nỗi nhớ trào dâng.
Sau mỗi câu hỏi là mỗi kí ức thân thương, xúc động ùa về.

a. Người ở lại hỏi người về xuôi để nhắc nhớ kỉ niệm kháng chiến gian khổ

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Khởi đầu cho lời tâm tình của chuổi kỉ niệm, người Việt Bắc hỏi người cán bộ
kháng chiến có nhớ những ngày tháng phải chịu đựng thời tiết khắc nghiệt cùng
nhau hay không. Những ngày tháng dường như khó khăn nhất, ta đã phải “ăn tuyết
nằm sương”, “nếm mật nằm gai” trong rừng sâu. Có thể nói “mưa nguồn, suối lũ” là
nỗi ám ảnh của những con người đã từng ở miền cao. “Mưa, lũ, mây, mù” ở đây còn
được tác giả kết hợp “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, tăng thêm bao
khó khăn, gian khổ, bão hãi hùng, khủng khiếp. Mưa lũ khắc nghiệt và dữ dội bất cứ
lúc nào cũng có thể cuốn trôi đi nhiều thứ. Mây mù vừa lạnh lẽo vừa âm u, giăng kín
lối, che đường đi và gây buốt lạnh tới thấu xương. Hình ảnh mây mù có thể hiểu là
hình ảnh ẩn dụ cho những ngày tháng kháng chiến buổi đầu còn gian khó, tương lai
còn mờ mịt, thời cơ còn chưa tới. Việt Bắc khi ấy hoang sơ mà dữ dội. Tự nhiên bí
hiểm với nhiều thiên tai bất ngờ đã trở thành một thử thách. Khó khăn chồng chất
khó khăn. Nhưng trong thuở hàn vi đó “ta” với “mình” đã cùng đồng cam cộng khổ,
kề vai sát cánh vượt qua. Sức mạnh ý chí và nghĩa tình của hai ta có thể chiến thắng
mọi nguy hiểm, vượt qua sự khó lường của thời tiết.

Lời tâm tính thử hai hướng tới cuộc sống nơi chiến khu còn khó khăn, thiếu
thốn về vật chất. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối” được cắt ra từ chính cuộc sống
kháng chiến gian khổ lúc bấy giờ. Những ngày tháng ấy, ta còn nghèo lắm, vũ khí
đạn dược phục vụ chiến trận còn thô sơ, cũ kĩ. Đó đâu chỉ là “áo rách, quần vá”, “tay
không” đi đánh giặc… trong trang thiết bị mà lương thực cung cấp cho kháng chiến
cũng vô cùng hạn chế. Những gian khổ nghĩ tới mà thấy xót xa. Nhưng lại thấy cảm
phục trước sự sẻ chia của những con người từ nhân dân tới cán bộ trong kháng
chiến. Họ nhường nhau cả miếng cơm, chia nhau từng chút một, san sẻ nhau từng
đũa một để ấm bụng, để có sức khỏe tiếp tục cuộc chiến. Bởi họ biết trên vai họ còn
có một trách nhiệm rất nặng nề. Họ phải quên đi khó khăn để tiếp tục chiến đấu.
Mối thù chung của họ là thực dân Pháp, là tất cả bè lũ bán nước và cướp nước.
Chúng đè nặng trên vai họ. Có thể thấy trong bất cứ thời điểm nào, với bất cứ thế
lực ngoại xâm nào, nhân dân ta đều ý thức được tinh thần dân tộc và niềm căm thù
giặc sâu sắc. Niềm căm thù ấy có thể cụ thể hóa, có thể cân sức nặng và cảm nhận
được. Giống như cậu bé Việt thấy mối thù thằng Mĩ “đè nặng trên vai” đến nỗi “sờ”
thấy được. Tất cả chúng ta đều nhận thức được nỗi hận giặc ngoại xâm cướp nước.
Và tất cả chúng ta, trong đó có “ta” và “mình” đều quyết tâm đánh đuổi chúng để
tiến tới thắng lợi, tới giải phóng.

b. Người ở lại khắc tạc vào lòng người về xuôi kỉ niệm nghĩa tình với thiên
nhiên và con người Việt Bắc

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Những kỉ niệm ân tình giữa thiên nhiên với con người ùa về. Nỗi nhớ nhung
trống vắng giờ tràn sang cả thiên nhiên, núi rừng. Cách nói “rừng núi nhớ ai” vừa là
phép nhân hóa cho tự nhiên nơi núi rừng nỗi niềm thương nhớ của con người vừa là
hình ảnh hoán dụ cho đồng bào Việt Bắc. Đại từ phiếm chỉ “ai” chính là người về
xuôi. Nỗi thương nhớ dường như đầy quá đã lan sang nơi cảnh vật. Người ở lại
cũng cảm thấy cô đơn nên thiên nhiên cũng mang màu trống vắng. Câu thơ nhắc tới
“trám bùi”, “măng mai” những sản vật quý giá của núi rừng Việt Bắc và cũng là
lương thực chủ yếu của bộ đội ta trong kháng chiến. Những món ăn dân dã, mộc
mạc nhưng đượm tình trong thơ Bác: “Sáng ra bờ suối tối vào hang/ Cháo bẹ rau
măng vẫn sẵn sàng”. Nay người về “trám rụng, mặng già” cũng chẳng ai buồn thu
hái. Cuộc sống sinh hoạt như dừng lại. Nỗi hụt hẫng lan ra. Bao buồn nhớ mênh
mông khó diễn tả. Núi rừng dường như sau quãng thời gian gắn bó muòi lăm năm
cũng trở nên nặng nghĩa tình. Ta cảm thấy cả khoảng trống người ra đi bỏ lại lớn
nhường nào.

Câu hỏi tu từ tiếp tục ghi tác tình cảm sắt son của nhân dân Việt Bắc với cán
bộ kháng chiến. Câu thơ có sự xuất hiện của những mái nhà lá đơn sơ, mộc mạc,
hình ảnh những ngọn lau xám hắt hiu trong gió. Lời thơ đảo ngữ càng nhấn mạnh
nét tiêu sơ, buồn bã của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh tương phản “hắt hiu lau xám”
và “đậm đà lòng son”. Trong những ngôi nhà tranh vách đất, lá cọ ấy là những tấm
lòng nghĩa tình, thủy chung. Người Việt Bắc có thể nghèo về vật chất nhưng họ lại
rất giàu về tình nghĩa. Màu lau xám, cái nghèo khổ càng làm tôn lên sự thắm tình
đượm nghĩa của nhân dân với cách mạng. Và người cán bộ mai này về xuôi cũng
đừng quên những kiên trung, son sắt, một lòng với Đảng, với Bác, với cách mạng,
với kháng chiến.

c. Người ở lại nhắn người về xuôi hãy nhớ hình ảnh Việt Bắc – cội nguồn cách
mạng, quê hương của cuộc kháng chiến

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Người ở lại hỏi “Mình về, có nhớ núi non”, “núi non” chính là hình ảnh hoán
dụ cho chiến khu và con người Việt Bắc. Đó là nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho cán
bộ kháng chiến trong suốt mười lăm năm. Kẻ ở nhắc người đi nhớ về Việt Bắc và
nhớ về hai sự kiện lịch sử đầy gian khổ, khó khăn nhưng cũng đầy tự hào của dân
tộc. Phong trào kháng Nhật vào năm 1940 – thời điểm Nhật bắt đầu xâm lược nước
tạ, khi ấy, núi rừng Việt Bắc đã có những dấu chân đầu trong cuộc kháng chiến.
Phong trào Việt Minh ý chỉ Việt Nam độc lập đồng minh hội thành lập vào năm
1941. Đây là mặt trận vũ trang đã góp công lớn vào chiến thắng Cách mạng tháng
Tám và là tiền đề cho kháng chiến chống Pháp sau này.

Câu hỏi tu từ cuối cùng với rất nhiều ẩn ý. Câu thơ có sáu chữ mà có tới ba
chứ “mình”. Nếu hai chữ “mình” đầu tiên ám chỉ người ra đi thì chữ “mình” thứ ba
mang tới rất nhiều cách hiểu. Ta có thể hiểu “mình” ở đây chính là “ta” – người ở lại.
Người ở lại hỏi người ra đi liệu có còn nhớ về Việt Bắc hay không nhưng vì xúc
động quá, lời thơ xoắn xuýt lại với nhau, “ta” và “mình” hòa làm một, gắn bó keo
sơn, bền chặt. Nhưng ta cũng hoàn toàn có thể hiểu “mình” chính là “mình” – người
ra đi, người cán bộ kháng chiến. Câu hỏi đầy băn khoăn, trăn trở không biết người
về xuôi có còn nhớ chính mình trong cuộc kháng chiến ấy không, nhớ những lí
tưởng cao đẹp, những cống hiến, hi sinh. “Mình” liệu rằng có giữ được là chính
mình hay không, có còn là con người thủy chung, son sắt ta đã từng chia ngọt sẻ bùi.
Lời thơ vì thế như một lời nhắc: nhắc người cán bộ về xuôi về phồn hoa đô thi đừng
đánh mất chính mình, đừng phản bội lí tưởng của mình và bội bạc với ân tình cách
mạng, đừng vì sống giữa “ánh điện cửa gương” mà quên đi vầng trăng thủy chung
nơi rừng núi.
Câu bát sau đó còn nhắc tới những địa danh nổi tiếng, những sự kiện rất
quan trọng của cuộc kháng chiến. Đó chính là mái đình Hồng Thái - điểm dừng chân
đầu tiên của Bác từ Cao Bằng về căn cứ địa cách mạng Tân Trào ngày 21/5/1945.
Đình Hồng Thái cũng là nơi đón tiếp các đại biểu về dự Quốc dân đại hội tháng
8/1945, trong kháng chiến chống Pháp nơi đây trở thành trạm đặc biệt quan trọng
của Ban bảo vệ an toàn khu. Cây đa Tân Trào cũng là nhân chứng lịch sử đặc biệt.
Dưới gốc đa này, chiều ngày 16/8/1945, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc bản quân
lệnh số 1 và ngay sau đó quân Giải Phóng làm lễ xuất quân lên đường qua Thái
Nguyên tiến về giải phóng thủ đô Hà Nội.

Bốn câu thơ chính là lời khẳng định chắc chắn: Việt Bắc chính là quê hương
của cách mạng, cái nôi của kháng chiến, là trung tâm đầu não của kháng chiến. Từ
đây ta với những quyết sách, chiến dịch quan trọng tiến tới thắng lợi, ghi danh trong
trang sử vàng của dân tộc.

3. Lời thề thủy chung, son sắt khẳng định tình cảm của người cán bộ về xuôi
khi từ biệt quê hương kháng chiến

(4 câu tiếp)

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…

Người ở lại đặt câu hỏi nhiều, cũng băn khoăn trăn trở nhiều, rằng: người cán
bộ về xuôi có còn nhớ những kỉ niệm trong những ngày tháng đã qua không, liệu có
thay lòng đổi dạ, có bạc bẽo quên đi những ân tình của đồng bào Việt Bắc. Niềm
thổn thức trong lòng bấy lâu ấy của người ở lại đến đây đã được người gia đi thấu
hiểu, cảm nhận. Nếu ở những lời hỏi trên của người đi, cách xưng hô "mình - ta"
thân thương, gần gũi nhưng vẫn có chút gì đó mang màu chia li, xa cách, mang
trống vắng, đơn côi hay nhớ thương, buồn bã thì ở câu lục dưới đây "mình" và "ta"
đã trở nên quấn quýt, quyện hoà: "Ta với mình, mình với ta". Câu thơ chia làm hai
tiểu đối với sự láy đi láy lại của hai chữ "mình", "ta". Vế sau với vế trước chỉ khác
nhau ở chỗ nhà thơ đã khéo léo đổi vị trí hai đại từ "ta", "mình" cho nhau mà thôi.
Chúng đang gắn vào nhau trong chất keo bền chặt của quan hệ từ "với". Như vậy
câu thơ dù chẳng có chữ "nhớ" nào, cũng chẳng có từ "yêu" nào nhưng tình cảm vẫn
ào ra trong trang giấy. Bởi chính sự xoắn xuýt của câu chữ đã nói lên sự gắn kết,
đồng điệu của những tấm lòng. 
Người ra đi đã khẳng định với người ở lại tình cảm sắt son của mình: “Lòng
ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Câu thớ gợi về một tứ Kiều:

“Vầng trăng vằng vằng giữa trời

Đinh ninh hai mặt một lời song song”

Kiều Kim xưa dưới trăng thề nguyền, tác giả. Nay người cán bộ cũng mượn hai chữ
“đinh ninh” từng xuất hiện trong lời thề đôi lứa đề khắc ghi tấm lòng mình. Câu thơ
gợi lại truyền thống đạo lí thủy chung, nghĩa tình, sống có trước có sau của người
Việt. Tố Hữu dùng từ “sau trước” còn gợi lại cả khoảng thời gian xa xăm từ quá khứ
đến hiện tại và tới cả tương lai sau này. Những năm tháng trong quá khứ đã tạo ra
mối tri âm bền chắc của hiện tại. Những sẻ chia, cùng khổ thời chiến tranh đã làm
“đầm đà”, sâu sắc, thấm thía cho nghĩa tìn của hai ta. Và thời gian sau này chính là
liều thuốc thử cho những “đậm đà” ấy. Nhưng người ra đi đã khẳng định “đinh
ninh” như một lời khắc ghi, đóng dấu. Ân nghĩa ấy với người ở lại, cán bộ kháng
chiến sẽ không bao giờ quên. Dù thời gian có ngày một đầy, hoàn cảnh có nhiều biến
động cũng không thể nào xóa nhòa, lay chuyển tình cảm của người cán bộ kháng
chiến với đồng bào Việt Bắc, thậm chí chính thử thách của thời gian khiến tình cảm
“ta”, “mình” thêm đằm thắm hơn.

Người ra đi hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình”, người ở lại xin đáp lại lời thề:
“Mình đi, mình có nhớ mình”. Lẽ thường người ra đi hỏi người ở lại đáp, “mình”
hỏi thì “ta” xưng nhưng lời thơ ở đây đã chuyển từ “ta” sang “mình”. Ý thơ tương
xứng, lời thơ quyện hòa, đôi ta ăn ý đến lạ kì. Nỗi nhớ vì thế càng thêm da diết. Tình
tri ki dường như khiến đôi ta thấu hiểu đến hòa chung làm một. Tuy nhiên trong ý
thơ này, chữ “mình” thứ ba ngoài đại diện cho người ở lại theo lối xưng hô quen
thuộc của toàn bài. Chữ “mình” còn là hiện thân của chính người ra đi. Người ra đi
khẳng định tấm lòng vẹn nguyện của mình. Rời những ngày tháng sống giữa đại
ngàn mênh mông về “ánh điện cửa gương” nơi thị thành nhưng người lính sẽ không
bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ, bội bạc ân tình và đánh mất tình cảm đôi mình.

Nghĩa tình cách mạng càng thêm sâu nặng hơn qua hình ảnh so sánh phảng
phất phong vị của những câu ca cổ:

“Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”

Cách dùng từ so sánh “bao nhiêu… bấy nhiêu” đã tăng thêm mức độ nỗi nhớ. Hơn
nữa việc thi nhân hữu hình hóa nỗi nhớ trong lòng người như nước nguồn chẳng
bao giờ vời cạn, cứ ăm ắp đầy. Nghĩa tình cũng vậy cứ ngày một dạt dào, nặng sâu.
Người cán bộ khẳng định: Tình cảm của nhân dân dành cho chiến sĩ nhiều bao nhiêu
thì tình cảm của chiến sĩ dành cho nhân dân cũng nhiều bấy nhiêu. Đồng thời người
chiến sĩ cũng đáp lại lời nhắc nhở của người ở lại: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ
nguồn”. Thẳm sâu trong tâm trí họ vẫn luôn nhớ về Việt Bắc với hình ảnh thủ đô
kháng chiên, cái nôi của cách mạng và họ vẫn luôn ý thức, luôn ghi nhớ đạo lí “uống
nước nhớ” nguồn cao đẹp của dân tộc.

4. Nỗi nhớ da diết của người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc và cuộc
sống sinh hoạt thời kì kháng chiến

(18 câu tiếp)

a. Nỗi nhớ sâu đậm trong lòng người đi về thiên nhiên Việt Bắc bình dị mà
thơ mộng

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Nỗi nhớ cứ dâng đầy ngay từ điểm khởi đầu của mỗi cặp thơ lục bát. Điệp từ
“nhớ” cứ thấm đầy trong từng lời thơ tha thiết.

Mạch nhớ khởi đầu, nhà thơ hình dung sắc điệu của nỗi nhớ qua hình ảnh so
sánh đầy ngọt ngào với tình yêu đôi lứa: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Khác với
“nỗi nhớ chơi vơi” vô hình vô định, miên man, không cụ thể trong “Tây Tiến” của
Quang Dũng. Tố Hữu đã hình tượng hóa nỗi nhớ của người ra đi một cách cụ thể, rõ
ràng hơn. Một mối quan hệ chính trị lại được nhìn như tình cảm lứa đôi. Tuy nhiên
qua hình dung ấy, người ở lại có thể nhận rõ hơn dòng cảm xúc thường trực và ám
ảnh của người ra đi. Nỗi nhớ người yêu vốn khôn nguôi và da diết. Nỗi nhớ ấy diễn
ra với muồn vàn cung bậc khác nhau: khi bồi hồi, khắc khoải, khi ngơ ngẩn, thẫn
thờ, khi đau đáu, khôn nguôi, lúc sâu lắng, đằm thắm. Nỗi nhớ ấy mạnh liệt đến độ
khiến người ta thao thức cả khi tỉnh lẫn khi mở, dâng trào trong cả thâm thức và
tiềm thức như Xuân Quỳnh từng miêu tả:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”


Thậm chí chính Tố Hữu cũng từng có những chia sẻ rất thành thật, đầy ngạc nhiên
về nỗi nhớ “người yêu” ấy:

“Lạ chưa, vẫn ở bên em

Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em”

Tình yêu cháy bỏng đến mức khiến người ta dù ở gần nhau vẫn khát khao. Nay cán
bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc lại trong cảnh chia li, xa cách. Nỗi nhớ vì thế
cáng sâu đậm, càng da diết, mãnh liệt và thổn thức hơn. Một cách diễn đạt thật tình
tứ và ý nhị của con người “phải lòng” với đất nước và nhân dân mình. Ông đã nói
về đất nước và nhân dân mình như nói với người đàn bà mình yêu.

Theo dòng trào dâng của nỗi nhớ, những hình ảnh thiên nhiên ngọt ngào
bỗng ùa về. Nỗi nhớ trải rộng ra không gian, kéo dài theo thời gian, mênh mang
trong hình ảnh: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”. Câu thơ mở ra hai
khoảnh khắc hữu tình của núi rừng Việt Bắc. Ánh trăng bàng bạc thấp thoáng hiện
ra nơi đầu núi. Nắng chiều dịu nhẹ ở lưng nương. Dưới ánh trăng ấy con người hò
hẹn, tâm tình. Trong nắng chiều ôm ấp bản làng bình yên, những con người thật thà,
chất phác đang lao động, làm nương, làm rẫy. Không gian thân thương, bình dị,
chan chứa cả những nghĩa tình.

Việt Bắc hiện lên thật mơ hồ, huyền ảo trong buổi sớm tinh mơ với “bản khói
cùng sương”. Sương sớm giăng mắc khắp muôn nẻo. Những bản làng xa thấp
thoáng, ẩn chìm trong màn sương khói bồng bềnh ấy. Và xa xa nơi đó, những ánh
lửa bập bùng ẩn hiện. Người cán bộ biết trong những mái là tại bản làng là hình ảnh
những con người Việt Bắc đang chờ đợi, mong ngóng. Khung cảnh bếp lửa hiện ra
ấm áp đến lạ kì. Đó có thể là không gian quây quần, không gian trò chuyện, không
gian sưởi ấm với nhân dân, với cán bộ, Đó còn là không gian của những mẹ, những
bà tảo tần, sớm khuya vất vả bắc nước, thổi cơm. Ta nghe như có khói làm cay mắt
hay lệ của trái tim đang rơi.

Ở tại lời thơ đó hình ảnh “người thương” cũng hiện ra gần gũi. Tác giả chẳng
nói cụ thể là ai nhưng chữ “thương” cứ ngân da diết. “Người thương” ấy là những
con người nghĩa tình, đã cùng cán bộ chia sẻ buồn vui, gánh vác gian khó. Đó có
chăng là hình ảnh người mẹ, người em liên lạc, người con gái quả cảm hay người
anh du kích trong thơ Chế Lan Viên:

“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc”

“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng


(…)

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

“Con nhớ em con, thằng em liên lạc

Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ”

“Con nhớ anh con, người anh du kích

Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn

Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”

Thiên nhiên núi rừng cứ hiện về trong tâm trí người ra đi. Nào là những
“rừng nứa, bờ tre” xanh rì nơi ta nằm mát, nơi ta hò hẹn hay chỉ đơn giản là tìm về
yên tĩnh. Đó là những “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” với những dòng nước ngọt
lành ta uống, tắm mát con người ta…. Những dòng nước cứ ăm ắp, chẳng bao giờ
vơi cạn giống như nỗi nhớ của người ra đi sẽ chẳng thể khôn nguôi.

Tất cả làm nên một khung cảnh Việt Bắc vừa thân quen mộc mạc nhưng lại
nên thơ nên họa. Nếu như trong cách liệt kê của nhân dân là những chiến thắng
vang dội, thì trong lối nói của những người ra về, kí ức của họ là những dòng sông,
con suối ở Việt Bắc, cảnh đẹp thiên nhiên nhưng cũng là đặc trưng của nơi đây.

b. Nỗi nhớ tha thiết về con người Việt Bắc nghĩa tình, cùng chia ngọt sẻ bùi
với cán bộ trong những năm tháng kháng chiến gian khổ

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Nhân dân Việt Bắc hỏi “Mình đi có nhớ những ngày”. Người cán bộ chiến sĩ
đáp bằng lời khẳng định: “Ta đi ta nhớ những ngày”. Lời thơ chìm vào khoảng thời
gian xa xăm của quá khứ. “Ta đi ta nhớ” đã nhấn mạnh sự chia xa của “ta” với
“mình”. Ta rời về thành phố những chẳng thể nào quên những tháng ngày đôi ta
đồng cam cộng khổ. “Những ngày” ấy là cả thời gian mười lăm năm gắn bó. “Ta” và
“mình” trong mười lăm năm kháng chiến cùng trải qua biết bao “đắng cay ngọt
bùi”. Đó là những năm kháng chiến vô cùng gian khó. Quân và dân ta phải đối mặt
với “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối” và cả
những thiếu thốn về thuốc me, đạn dược, phải đối mặt với cảnh “giặc đến giặc
lùng”. Nhưng những “đắng cay”, những thiếu thốn về mặt vật chất có là gì khi cả
“ta” và “mình” đều có nghĩa tình sâu nặng. Những “ngọt bùi” của tình nghĩa, thấu
hiểu cùng ý chí quyết tâm, tinh thần “thép” đã giúp ta có những “ngọt bùi” của
chiến công oanh liệt, những dấu son vàng lưu sử sách ở “Tân Trào, Hồng Thái, mái
đình, cây đa”.

Trong gian khổ, người cán bộ chiến sĩ được sống giữa vòng tay đùm bọc và
che chở của đồng bào Việt Bắc. Cuộc sống kháng chiến thiếu thốn vô cùng. Lương
thực hạn chế. Bộ đội và nhân dân trong kháng chiến chỉ có “sắn lùi”, “cơm chấm
muối”, thậm chí đến cơm cũng còn không đủ ăn. Để xua đi cái đói, có sức tiếp tục
kháng chiến, cả hai đã cùng chia sẻ với nhau những món ăn dân dã đến không thể
dân dã hơn. Những củ sắn, củ khoai, bắp ngô hạt gạo đều là đáng quý với họ. Họ
nhường nhau từng miếng ăn và truyền nhau từng hơi ấm. Trong cái giá rét nơi núi
rừng, họ chỉ có tấm “chăn sui” – chăn làm bằng vỏ cây sui rất thô sơ, mộc mạc.
Nhưng dẫu có mỏng, có nhỏ, họ cũng san nhau hơi ấm và ở đó họ truyền cho nhau
tình thương – vũ khí tinh thần khiến họ vượt qua tất cả. Những chia ngọt sẻ bùi đã
giúp họ vượt qua nghịch cảnh. Gian khổ chỉ là cái nền tôn lên tình nghĩa và là cái
nền nổi lên sức mạnh đấu tranh.

c. Nỗi nhớ đong đầy về cuộc sống sinh hoạt bình dị mà vẫn yêu đời trên quê
hương Việt Bắc

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Cảm xúc mang ơn những bà mẹ kháng chiến trong những ngày tháng khó
khăn gian khổ nhất là mạch nguồn bất tận của nhiều nhà thơ. Dáng hình đất nước
được dựng xây lên một phần cũng nhờ bởi những người mẹ “mặc áo thay vai”
nhưng “bền bỉ nuôi chồng, nuôi con chiến đấu”. Hình ảnh của họ từng hiện lên rất
xúc động trong thơ Thu Bồn.
“Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ

Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông

Mẹ xoa đầu con

Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng”

(Quê hương mặt trời vàng)

Trong những kí ức của người cán bộ ra về có lẽ ấn tượng hơn cả chính là
những người mẹ ở Việt Bắc. Những con người đã tự nguyện lao động để nuôi kháng
chiến, chăm chỉ để góp phần san sẻ gánh nặng mưu sinh với cán bộ. Mẹ vừa địu con
vừa lao động sản xuất. Trên nương đồi nhập nắng, người mẹ đang cần mẫn bẻ bắp.
Hình ảnh “nắng cháy lưng” đến ngậm ngùi, xót xa. Nắng chiếu bỏng rát, chói chang
và gay gắt. Nhưng người mẹ vẫn một nắng hai sương tảo tần. Công việc nặng nhọc
là vậy nhưng thành quả lao động lại cực kì ít ỏi “từng bắp ngô”. Thế nhưng người
mẹ vẫn chịu thương, chịu khó, vượt qua tất cả gian nan, để giúp một phần vào công
cuộc kháng chiến, để có lương thực thực phẩm chăm lo cho bộ đội. Hình ảnh những
bà mẹ kháng chiến thật đáng ngưỡng mộ biết bao.

Cuộc sống tối tăm nơi Việt Bắc trước cách mạng đã được thắp sáng bởi những
lớp bình dân học vụ. Đảng và Bác đã mang con chữ lên tới miền ngược để người dân
có thể tiếp nhận tri thức, ánh sáng cách mạng, để đẩy lùi giặc dốt và chính sách ngu
dân. Hình ảnh những con người vui tươi, hồn nhiên, ngày tham gia lao động trên
mặt trận sản xuất, hay đứng trên mặt trận kháng chiến, tối đến vẫn miệt mài với “I,
tờ” trên mặt trận văn hóa giáo dục. Dẫu chữ viết của họ còn nghuệch ngoạc, đánh
vần còn ngọng nghịu nhưng niềm say mê con chữ vẫn chẳng hề nguôi trong họ.

Việt Bắc trong những năm tháng gian lao vẫn đầy ắp tiếng ca yêu đời, tinh
thần lạc quan. Những đêm giao lưu văn nghệ vui múa hát ca, gắn kết tình quân dân,
đầm ấp tình đồng bào. Những tiếng hát ca vui vẻ trong những buổi sinh hoạt tập thể
ấy không hề xa lạ trong thớ Quang Dũng:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Người chiến sĩ vẫn tin tưởng vào một ngày mai nhất định thành công, thắng
lợi, ý chí của họ vẫn cao hơn những khó khăn trước mắt. Trong tối tăm ta nhìn thấy
ánh sáng, trong gian khổ ta cất tiếng ca vui. Những buổi sinh hoạt cơ quan vẫn đầy
ắp khí thế để tiến tới trận thắng vẻ vang.

Hoài niệm của người ra đi khép lại bằng nhịp điệu đều đều của “tiếng mõ
rừng chiều”, “chày đêm nện cối”. Những âm thanh của cuộc sống hằng ngày bình
dị, quen thuộc nhiều khi ta chẳng để ý tới nhưng khi đã đi xa, tâm trí người chiến sĩ
lại cứ thổn thức nhớ về những âm thanh ấy. Đó là âm thanh của cuộc sống yên ả, của
người lao động tảo tần, của nghĩa tình thắm thiết và của nỗi nhớ không thể nguôi
ngoai. Tiếng suối ngoài xa cứ vọng về trong dấu ba chấm không đơn thuần là
khoảng thẳm sâu trong núi rừng mà còn là khoảng xa cách của chia li. Có xa vẫn nhớ
dù chỉ là những điều bình dị đơn sơ.

5. Bức tranh tứ bình về con người và thiên nhiên Việt Bắc trong kí ức của
người chiến sĩ cách mạng về xuôi

(10 câu tiếp)

a. Hai câu chủ đề khơi dòng nỗi nhớ khôn nguôi về Việt Bắc

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Cặp câu thơ đầu tiên mang kết cấu “ta - mình”. Người chiến sĩ đưa ra câu hỏi
tu từ gieo vào lòng người ở lại, liệu khi họ ra về, nhân dân nơi đây có nhớ mình hay
chăng, nhưng không nhằm tìm kiếm câu trả lời. Tại câu bát tác giả một lần nữa
khẳng định lại về tình cảm của người ra về. Cách xưng hô ngọt ngào “ta”, “mình”
trong những điệp từ đầy ắp “mình”, “ta” kết hợp với những “ta nhớ”, “mình…
nhớ” khiến nỗi nhớ thương cứ vấn vương trong từng câu chữ.

Đối tượng hướng đến trong nỗi nhớ của người ra đi là “hoa” và “người”.
“Hoa” là vẻ đẹp tinh túy nhất của thiên nhiên. Đặt “hoa” bên cạnh “người” là hình
ảnh đối xứng. Bởi con người là tinh hoa của vũ trụ, “người” được mệnh danh là
“hoa đất”. Trong câu thơ của Tố Hữu, nhắc đến “hoa” chính là gợi mở hình ảnh “mơ
nở”, “hoa chuối đỏ tươi” ở những câu thơ sau. Nhưng “hoa” ở đây còn là hình ảnh
hoán dụ cho thiên nhiên Việt Bắc. “Người” là đại biểu cho nhân dân Việt Bắc. “Hoa”
cùng “người” gắn bó và quyện hòa vào nhau. Nỗi nhớ thiên nhiên và con người vì
thế quấn quýt lấy nhau, xâm chiêm tâm hồn thi sĩ. Tất cả quyện lại thành một bức
tranh thơ để mở ra bộ tứ bình đặc sắc ở đoạn sau.

b. Bức tranh mùa đông

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Khác với quy luật xuân, hạ, thu, đông thông thường trong các bức tranh tứ
bình truyền thống, bức tranh bốn mùa ở Việt Bắc được Tố Hữu khởi đầu bằng
những nét vẽ về mùa đông. Nhiều ý kiến cho rằng thời điểm tháng 10/ 1945 – thời
điểm đứa con “Việt Bắc” trào đời đang là mùa đông. Vì vậy Tố Hữu đã lấy chính
mùa của hiện tại mở đầu cho bức tranh tứ bình. Tuy nhiên bên cạnh đó có ý kiến lại
cho rằng mùa đông khởi đầu bức tranh bốn mùa là mùa của quá khứ. Thời gian
trong thơ được khơi nguồn từ âm vang thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Tuy nhiên dù thế nào đi nữa ta vẫn không thể phụ nhận mạch cảm xúc mãnh liệt
dâng trào của hồn thơ Tố Hữu. Dù là mùa nào cảnh và người cũng mang những nét
đẹp riêng.

Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc về mùa đông tràn đầy sức sống. Bức tranh thơ
được mở ra theo chiều rộng mênh mông của rừng và chiều cao ngút ngàn của núi.
Đập vào mắt độc giả là màu xanh trầm tĩnh của rừng già. Ấy là màu xanh ngăn ngắt
của sự sống khác xa với hình ảnh cánh rừng trịu lá trong buốt giá thường thấy trong
văn chương:

“Trong khung xám của mùa đông bằng sắt,


Gió qua rồi còn lưu lại tiếng ngân:
Cây bên đường trụi lá, đứng tần ngần,
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái”

(Tiếng gió – Xuân Diệu)

Trên nền xanh thẳm của đại ngàn nở rộ những bông hoa chuối đỏ tươi, lung
linh dưới ánh nắng mặt trời. Màu “đỏ” thôi đã có độ ấm lại đi cùng chữ “tươi” thêm
rực rỡ ánh sáng. Gam màu nóng từ bông hoa chuối nổi lên giữa màu xanh thăm
thẳm, bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp
và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi
rừng. Mỗi bông hoa chuối là một ngọn đuốc thắp sáng và sưởi ấm con người trong
mùa đông lạnh giá. Chúng cũng giống như bàn tay vẫy gọi, lưu luyến bước chân
người ra đi như trong thơ Nguyễn Mĩ

“Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi

Như chưa hề có cuộc chia li”


Hình ảnh bông hoa chuối vì thế hiện lên như một biểu tượng của tình yêu, của niềm
tin mà mỗi người lính đều mang theo khi lên đường ra trận và sẽ mãi khắc ghi trong
suốt cuộc đời mình.

Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững
chãi, tự tin, càng làm tăng vẻ ấm áp, thơ mộng cho bức tranh thơ. Đó là hình ảnh của
con người trong lao động sản xuất. Họ làm nương, phát rẫy để phục vụ cho chiến
trường. Thi sĩ đã không họa vào thơ gương mặt của người lao động mà chỉ chớp lấy
một nét thần tình, nổi bật nhất. Ông như một nhà nhiếp ảnh tạo hình con người ở vị
trí làm chủ “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự
do "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đó là cái tư thế
làm chủ đầy kiêu hãnh. Con người ấy mang chiếc “dao gài thắt lưng” đang phản
quang lấp lánh dưới ánh sáng chiếu vào từ mặt trời. Con người như một tụ điểm của
ánh sáng và đã là linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc. Họ sẽ mạnh mẽ, tự tin,
đứng lên làm chủ quê hương mình, làm chủ đất nước mình.

c. Bức tranh mùa xuân

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Bức tranh mùa xuân, không còn sử dụng những gam màu nóng lạnh tương phản mà
vô cùng dịu mát, trẻ trung. Cảnh vật được bao trùm bởi sắc trắng tinh khiết của hoa
mơ. Thi sĩ đặt từ “nở” ở giữa câu để lan tỏa sức sống tràn trề của mùa xuân đi muôn
nới. Đồng thời với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng”, nhà thơ đã gợi ra
vẻ đẹp mênh mông, trắng xóa của rừng mở. Sức sống ấy của hoa là vô cùng mãnh
liệt khiến hoa bung nở, sắc trắng bừng lên tưởng như không chỉ phủ khắp không
gian núi rừng mà còn đọng lại trong màu thời gian “ngày xuân”. Mùa trắng ấy là
linh hồn của bức tranh xuân và là những ước vọng trong lòng người về khởi đầu
năm mới sáng tươi. Đã từng rất nhiều lần, Tố Hữu say mê sắc trắng của hoa mơ:

“Ôi sớm xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”

(Theo chân Bác – Tố Hữu)

“Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam


Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng”.

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)

Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ của mùa xuân nơi núi rừng Việt
Bắc, và càng không thể không nhớ đến con người Việt Bắc trong công việc lao động
thầm lặng, cần mẫn, uyển chuyển và tài hoa khi “chuốt từng sợi giang”. Khác với sự
mạnh mẽ tự tin, đứng lên làm chủ thiên nhiên như bức tranh mùa đông. Bức tranh
con người và mùa xuân lại toát lên sự tỉ mỉ, cần cù. Những tưởng chỉ là một công
việc nhẹ nhàng, quen thuộc nhưng động tác con người lại tinh tế, khóe léo đến lạ kì.
Họ trong những công việc bình dị đời thường nhưng thực sự thành thạo đến độ trở
thành người nghệ sĩ giống như những miêu tả tài hoa của Nguyễn Tuân về người lái
đò sông Đà hay Huấn Cao trong chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Những nét đẹp
đáng yêu ấy sẽ mãi in hằn trong tâm trí người ra đi.

d. Bức tranh mùa hạ

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Bức tranh mùa hạ trước tiên đến với chúng ta trước tiên không phải là màu
sắc, lại là âm thanh đến với bạn đọc. Thính giác choàng tỉnh giấc bởi âm thanh tưng
bừng của bầy ve. Đàn ve râm ran tấu lên khúc nhạc báo hè về. Một nguồn sống vui
tươi, rộn rã đang ngân lên không ngớt trong bức họa mùa hè.

Sau ấn tượng về thính giác câu thơ đưa người đọc vào ấn tượng nơi thị giác.
Sắc vàng của rừng phách hiện lên ở cuối câu và cứ thể đọng lại trong thương nhớ
sau cùng của độc giả. Nói về sắc vàng trong bức tranh mùa hè Tố Hữu đã từng cho
biết: Sắc vàng trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” không phải là màu vàng
của hoa như những người soạn sách nhiều năm lầm tưởng mà là màu vàng của lá.
Trong cuốn “Hồi kí Nhớ lại một thời” khi nói về vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc cùng
những gì là "luyến tiếc ngẩn ngơ" khi rời Việt Bắc, nhà thơ đã chép lại đoạn thơ đặc
sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã chú thích rất rõ ràng về
cây phách: Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên (Nhớ lại một
thời - Hồi kí - NXB Hội Nhà văn, 2000, trang 302).

Và khi cả rừng cây thay lá, màu xanh của rừng cây đột ngột chuyển sang màu
vàng. Động từ “đổ” đã diễn tả thật tinh tế cảm giác choáng ngợp ấy, vừa gợi sự biến
chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt lá phách rừng trút xuống
khi có ngọn gió thoảng qua. Dường như cảnh vật có sự giao cảm với nhau. Sau lời
giục giã của tiếng ve, dòng thác vàng bất ngờ “đổ” ụp từ trời cao xuống khiến cả
rừng cây óng ánh sắc vàng. Bức tranh mùa hè trong tưởng tượng như một bức tranh
sơn mài lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.

Màu sắc trong của bức họa về bốn mùa được thay đổi linh hoạt. Hình ảnh con
người lao động trong bức tranh ấy cũng được miêu tả theo những cách khác nhau.
Nếu ở bức tranh mùa xuân thi sĩ phác họa thành công cách thức lao động sản xuất
của người đan nón thì trong bức tranh mùa hạ, ông thổi vào đó tinh thần trong lao
động của con người. Điều này được thể hiện ở nhịp thơ 2/2/2/2 gieo vần “ai” vần
“ái” thể hiện niềm vui. Tiếng gọi “em gái” thật thân thương, trìu mến. “Em” đang
cắm cúi “hái măng”, đang lao động một mình, đóng góp âm thầm trong suốt những
năm tháng kháng chiến. Lấy măng để nuôi quân vì đây là nguồn thực phẩm chính
của quân dân ta. Bởi thế mà khi bộ đội về với miền xuôi, công việc của em kết thúc,
thiên nhiên dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Nhà
thơ miêu tả hình bóng em “một mình” trong hoài niệm. Hai từ “một mình” không
khiến bức tranh ảm đạm màu cô đơn mà ngược lại đặt trong tổng thể hình ảnh con
người có sự hòa hợp với thiên nhiên. Con người như làm bạn với thiên nhiên. Họ
vui tươi, trẻ trung, hồn nhiên. Họ - những con người ta không thể nhớ mặt đặt tên
nhưng họ làm nên đất nước muôn đời.

e. Bức tranh mùa thu

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Nếu các bức tranh trước chỉ viết về thiên
nhiên vào ban ngày thì đến bức tranh mùa thu lại là vẻ đẹp đặc trưng núi rừng Việt
Bắc vào ban đêm. Núi rừng Việt Bắc lắm hương hoa nhưng có một loài hoa thật đặc
biệt “hoa trăng”. Hình ảnh ánh trăng rọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa
trăng lung linh huyền ảo. Thảm hoa ấy từng xuất hiên trong thơ Bác hồi còn ở chiến
khu:

“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Ánh trăng còn là biểu tượng của hòa bình. Nay Tố Hữu để ánh trăng ấy “rọi”
sáng cả rừng thu, “rọi” sáng hòa bình. Nguồn ánh sáng qua động từ “rọi” dường
như đang tập trung chiếu xuống không gian, lan tỏa khắp không gian. Ánh trăng
của tự do ngập tràn, niềm vui của hòa bình ngân vang nơi nơi, in trên từng kẽ lá,
vòm cây, trong từng mái lá, nhà tranh và trong mỗi con người. Ánh trăng ấy ứng với
giờ phút chia li càng trở nên đặc biệt. Vầng trăng soi chiếu thiên nhiên và con người,
chứng kiến những lưu luyến, bịnh rịn và còn là minh chứng của nghĩa tình, thủy
chung.

Thay vì những đêm thao thức trăn trở về con đường giải phóng dân tộc của
cán bộ, chiến sĩ giờ đây chúng ta đã làm nên những chiến công hiển hách, giành lại
độc lập cho miền Bắc và ở đó là vẻ đẹp của hòa bình, những tháng ngày bình yên.
Đại từ phiếm chỉ “ai” không còn hướng tới một đối tượng riêng lẻ nào mà gọi chung
tất cả những người dân Việt Bắc chung hậu, nghĩa tình, tạo nỗi niềm đầy bâng
khuâng lưu luyến giữa kẻ ở với người đi, thiên nhiên với con người. Dưới ánh trăng
thu hòa bình, quân và dân cùng nắm tay hát mừng chiến thắng, mừng hòa bình về
trên chiến khu. Đồng thời mượn tiếng hát để ca khúc ca ân tình, ân nghĩa, thủy
chung cách mạng. Tiếng hát sáng trong của đất và người Việt Bắc về tình cảm mười
lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Tiếng hát ấy còn là lời gợi nhắc về đạo lí thủy
chung, “uống nước nhớ nguồn”.

6. Nỗi nhớ về Việt Bắc trong những cuộc kháng chiến hào hùng

(10 câu tiếp)

a. Nhớ về những ngày tháng kháng chiến ở Việt Bắc cả núi rừng, đất trời và
con người cùng nhau đánh giặc.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Dòng hồi ức về những ngày đầu kháng chiến ở Việt Bắc trong không khí
khủng khiếp của bạo loạn từ quân thù. Nhà thơ không miêu tả chi tiết, cụ thể cảnh
tượng quân thù tàn phá nhưng vẫn gợi ra trong hồi tưởng độc giả những hoảng
loạng, tan tác, những đau thương, mất mát của quân và dân Việt Bắc. Nỗi ám ảnh ấy
đã đi với trong bao lời đau đớn:

“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,

Nó vơ hết áo quần trong túi”


(Dọn về làng – Nông Quốc Chấn)

Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, đồng bào Việt Bắc, cán bộ kháng chiến “cùng”
thiên nhiên, trời đất làm thành một chiến tuyến chống lại kẻ thù. Phải chăng chính
niềm căm thù giặc, lòng quyết tâm chiến thắng đã nhập cả vào núi rừng Việt Bắc.
Những “rừng cây, núi đá, sương mù” như có linh hồn đứng dậy chiến đấu. Địa hình
Việt Bắc hiểm trở với núi rừng bao la, ngút ngàn, với những vách đá hùng hiểm trở,
ẩn khuất trong sương mù.

Những dãy núi trập trùng vươn mình trở thành những “lũy sắt dày”, thành
bức tường bằng thép, bằng đồng để ngăn cản sự tấn công của quân địch. Nhớ về
thời kháng chiến, ta gặp bao khó khăn, thế mạnh mạnh hơn ta nhiều nhưng ta nào
có chịu thua đặc biệt là trên trận địa ta vốn quen thuộc. Địch trong trận địa núi đá
cùng bạt ngàn cây tiến vào cùng khó, khi tiến vào được muốn lùi cũng chẳng xong.
Nhờ yếu tố địa lợi ấy giúp quân ta chiến thắng kẻ thù.

Rừng cũng có vai trò quan trọng, có hồn, có chính kiến, có tư tưởng, cùng lúc
vây quân thù và che chở cho bộ đội ta. Những rừng cây phách, mơ trắng, rừng thu
thơ mộng trong bức tranh từ bình nay đâu mất. Rừng ngay lập tức biến thành
những chiến binh tham gia chiến đấu. Cánh rừng đại ngàn ở Việt Bắc kết hợp cùng
núi làm thành trận địa vây bắt kẻ thù. Đặc biệt rừng còn trở thành người mẹ hiền từ
nhưng hiên ngang, dũng cảm che chở, bảo vệ quân và dân trong chiến trận. Đó là
rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn” bảo vệ cho dân làng Xô Man trong truyện ngắn của
Nguyễn Trung Thành. Đó là cánh rừng nơi “Mẹ địu em chạy tót lên rừng” trong
những ngày giặc chiếm đánh ở lời thơ của Nông Quốc Chấn. Và đó còn là cánh rừng
nơi Việt Bắc trong thơ Tố Hữu.

Cùng với rừng già, sương mù Tây Bắc che chắn tầm nhìn của kẻ thù cũng
chính là yếu tố thuộc về “địa lợi”. Sống trong màn sương mịt mù không phải là điều
bất lợi với ta. Bởi ta đã quen thuộc địa hình hiểm trở, có thể trèo đèo, lội suối, băng
rừng. Nhưng với địch màn sương mù bao phủ gây cản trở, che chắn tầm nhìn. Đó là
trở ngại vô cùng lớn.

Không chỉ có con người mà cả thiên nhiên cũng góp phần vào thành công của
cuộc kháng chiến. Sự thành công đến từ tinh thần đoàn kết, hợp sức đồng lòng cả
con người cả thiên nhiên. Cả “đất nước đứng lên”, trỗi dậy để bảo vệ nền độc lập
dân tộc.

b. Kí ức về những địa danh gắn liền với chiến công vang dội

Ai về ai có nhớ không?


Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…

Nhờ sự đoàn kết một lòng, ta đã giành được những thắng lợi vẻ vang. Điệp
từ “nhớ” liên tiếp hiện ra, nỗi nhớ trào dâng trong niềm vui phấn khích. Từng địa
danh gắn với các trận đánh, các chiến thắng dồn dập hiện ra với khí thế thật hào
hùng, oanh liệt.

Người ra đi nhớ Phủ Thông, đèo Giàng - nơi đã diễn ra các trận đánh hồi đầu
cuộc kháng chiến chống pháp.

Rồi nhớ đến trận sông Lô, tới chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, ta đánh
chìm tàu chiến của Pháp:

“Tàu giặc đắm sông Lô

Tha hồ mà uống nước

Máu tanh đến bây giờ

Chưa tan mùi bữa trước.”

(Cá nước – Tố Hữu)

Và nhớ cả phố Ràng với trận đánh đồn phố Ràng năm 1948 và nhớ cả chiến
dịch giải phóng biên giới Việt – Trung năm 1950 tại Cao – Lạng.

7. Hoài niệm về khí thế ra trận và niềm vui chiến thắng của quân và dân ta

(12 câu tiếp)

a. Bức tranh Việt Bắc hừng hực khí thế ra trận được tác giả thể hiện qua hình
ảnh những con đường chiến dịch

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Hình ảnh những con đường ra trận dòng hoài niệm của người cán bộ với ăm
ắp những niềm tự hào. Hai chữ “của ta” vang lên thật hùng hồn. Câu thơ giống như
lời khẳng định chắc nịch. Đọc xong sáu chữ ấy mà khát khao được đứng lên làm chủ
quê hương, đất nước mình vẫn vang vọng trong trí nhớ. Cảm hứng này đã từng xuất
hiện nhiều trong thơ ca cách mạng
“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta”.

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Hình ảnh những con đường hành quân đi tới ngày mai tươi sáng. Nhưng những con
đường ấy cũng chính là biểu tượng cho con đường cách mạng trong cả quá trình
trưởng thành.

Những con đường rộng lớn ấy hình ảnh con người hừng hực máu lửa xuất
hiện. Sức mạnh của quân và dân ta được gợi ra thật ấn tượng ở câu bát. Sức mạnh
hùng tráng đó có thể sánh ngang với trời đất, núi sông.

Nhà thơ đặt vào đó cụm từ chỉ thời gian “đêm đêm”. Cách láy lại thời điểm
này đưa cho người đọc hình dung về khoảng thời gian liên tục. Không phải một
đêm mà ngàn đêm, hết đêm này lại tới đêm khác. Nhưng tại sao không phải là ngày
mà là đêm. Đó chính là thực tế của lịch sử đầy khó khăn nhưng đầy hào hùng. Trong
đêm, chúng ta chuẩn bị tiếp tế, chi viện về mọi mặt cho chiến trường. Ta thường bắt
gặp thực tế ấy trong thơ ca cách mạng:

“Những đêm dài hành quân nung nấu”

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

Hành quân trong đêm nhưng không khí vẫn diễn ra khẩn trương, sôi động.
Từ láy “rầm rập” kết hợp với thủ pháp so sánh và phụ âm “rung” đưa tới ấn tượng
về sự đông đảo về đoàn quân ngày đêm hành quân nung nấu với ý chí quyết chiến
quyết thắng rung chuyển đất trời. Họ như người khổng lồ vươn lên để giành lấy
chiến tích về cho Tổ quốc.

b. Hình ảnh đoàn quân ra trận hiện lên vừa hiện thực, vừa hào hùng và lãng
mạn

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Nếu ở hai câu đầu, người cán bộ nhớ về hình ảnh đoàn quân Việt Bắc ra trận
qua từ láy tượng thanh “rầm rập” thì ở hai câu thơ sau ông miêu tả trọn vẹn sức
mạnh khổng lồ của đoàn quân qua từ láy tượng hình “điệp điệp”, “trùng trùng”.
Còn nhớ những ngày đầu quân đội mới thành lập, ta chỉ có 34 chiến sĩ phần lớn là
dân tộc thiểu số, giờ đây đã trở thành một đội quân hùng hậu. Từ láy “điệp điệp”,
“trùng trùng” giàu tính tạo hình và gợi cảm về một đoàn quân vừa đông, vừa hùng
mạnh, đầy ý chí chiến đấu quyết bảo vệ quê hương đất nước. Đoàn quân ấy nối dài
trên khắp mọi nẻo đường Việt Bắc thật đông đảo, hùng tráng. Tất cả đưa tới hình
ảnh về cuộc duyệt binh lớn của cả dân tộc:

“Xuân hãy xem! Cuộc diễu binh hùng vĩ

31 triệu nhân dân

Tất cả hành quân

Tất cả thành chiến sĩ”

(Chào xuân 67 – Tố Hữu)

Hình ảnh đoàn quân ra trận vừa chân thực lại vừa lãng mạn. Câu thơ thứ hai
xuất hiện ba hình ảnh thật đẹp.

Đó là hình ảnh “đầu súng” là một biểu tượng cho cuộc chiến đấu chính nghĩa
của dân tộc Việt Nam. “Súng đạn” vốn thuộc về nơi chiến trường khốc liệt chẳng ai
muốn xảy ra. Nhưng để đập tan mộng cướp nước người lính sẵn sàng cầm súng
chiến đấu, bảo vể Tổ quốc, tiêu diệt kẻ thù.

Đó là hình ảnh ngôi sao thơ mộng, lung linh, lấp lánh trên bầu trời trong
những đêm hành quân của người chiến sĩ. Trăng sao là người bạn đồng hành của
cán bộ chiến sĩ giống như miêu tả rất lãng mạn của Nguyễn Đình Thi:

“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây”

Ngôi sao ấy cũng có thể là ngôi sao trên mũ của lí tưởng cao cả

“Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”

Như vậy hình ảnh “ánh sao đầu súng” được chắt ra từ thực tế cuộc chiến, khi
người lính hành quân trong đêm, những ngôi sao lấp lánh như treo trên đầu mũi
súng như Chính Hữu từng miêu tả “đầu súng trăng treo” là biểu tưởng của lí tưởng
cao đẹp của người chiến sĩ, và chính ánh sao là ánh sáng soi đường cho lí tưởng ấy.

Và đó còn là chiếc “mũ nan” giản dị của người lính trong cuộc sống và cuộc
chiến đấu hàng ngày. Rất bình dị, thân thuộc mà chưa đựng bao tâm sức của “người
đan nón, chuốt từng sợi giang”.
c. Không chỉ có bộ đội ra trận mà nhân dân ta ở bất kì đâu cũng hăng hái góp
sức mình vào cuộc kháng chiến. Cùng hành quân với bộ đội là những đoàn
dân công phục vụ chiến đấu.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Dân công là lực lượng đặc biệt cần thiết cho kháng chiến và rất quan trong
với địa hình hiểm trở như Việt Bắc. Bởi có lực lượng dân công vững mạnh ta sẽ có
những con người mở đường, xẻ núi, lăn bom. Ta vẫn nhớ về họ với tình thần quả
cảm của con người “chèn lưng cứu pháo, lấy thân mình lấp lỗ châu mai”, “dốc Pha
Đin chị gánh anh thồ”, của đoàn dân công “đêm nay ngủ ngoài rừng”, đối mặt với
gian khó, hiểm nguy vẫn mạnh mẽ vượt qua.

Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn đuốc cháy sáng
rực trên tay. Gió thổi khiến tàn lửa tung bay khắp mọi nẻo đường, hình ảnh đoàn
dân công vì thế cứ nối dài mãi ra. Một hình ảnh thật hùng tráng, tưng bừng. Một
không khí háo hức của niềm tin và sức mạnh hiện ra trong đuốc sáng. Trong hiện
thực hào hùng, khốc liệt ấy hình ảnh “muôn tàn lửa bay” không chỉ là hình ảnh thực
mà đó còn là nguồn sức mạnh cổ vũ, động viên tinh thần, giúp họ chiến đấu, chiến
thắng quân thù.

Hình tượng “bàn chân nát đá” gợi sức mạnh phi thường của những con
người ấy. Họ có ý chí kiên cường vượt qua mọi gian khó, oai hùng, lẫm liệt như
“tam quân tì hổ”. Sự kì vĩ của những con người mang tầm vóc khổng lồ, hết mình vì
kháng chiến. Họ gánh trên đôi nhiệm vụ lớn lao. Và chính họ là một trong những
con người làm nên huyền thoại của Việt Nam ở thế kỉ XX.

d. Niềm lạc quan tin tưởng vững chắc vào ngày mai chiến thắng của dân tộc ta

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân dân, bộ đội rất
gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu trong đêm tối nên cần đốt đuốc, soi đèn.
Thời gian “nghìn đêm” gợi về thời kì tăm tối, đau thương. Nhà thơ bảo đó là “thăm
thẳm sương dày” mù mịt, chả biết điểm đến. Thời kì ấy còn thật nhiều khó khăn, thử
thách.

Nhưng trong đêm tối ta vẫn nhìn thấy ánh sáng của “ngày mai”, của tương
lai đầy hi vọng. Hai chữ “bật sáng” đủ sức nhấn mạnh khoảnh khắc chói lòa ấy. Đó
không chỉ là ánh đèn ô tô sáng như ban ngày, đó còn là ánh sáng của thời kì mới,
ánh sáng của chiến thắng, của tự do xua tan đi đêm trường nô lệ.

e. Gian khổ, hi sinh rồi cũng được đền bù xứng đáng, những địa danh ghi
dấu tin vui thắng trận cứ tuôn trào theo từng câu chữ, từng nhịp điệu đập
rộn ràng của trái tim con người.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Nếu ta nhìn nhận tám câu thơ trên là cảnh ra quân thì bốn câu thơ sau lại là
khúc ca khải hoàn ăn mừng chiến thắng.Với việc sử dụng phép điệp từ “vui” nhắc
đi nhắc lại tới bốn lần cùng nghệ thuật liệt kê hàng loạt các địa danh trên khắp miền
Bắc như Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi
Hồng…Tác giả thể hiện tiếng reo vui của hàng triệu trái tim con người Việt Nam khi
chúng ta liên tục có những tin báo chiến thắng, những chiến thắng giòn giã, chiến
thắng sau còn vang dội hơn chiến thắng trước. Ngày vui chiến thắng chúng ta đã
chờ đợi từ lâu đến đây đã thực sự trở thành hiện thực, trở thành ngày hội lớn của cả
dân tộc.

8. Việt Bắc là điểm đến, là hy vọng của nhân dân, là quê hương của cách
mạng, đóng vai trò lãnh đạo trung tâm

(8 câu tiếp)

Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Điều quân chiến dịch Thu – đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…


Tác giả đang miêu tả lại về những cuộc họp của Chính phủ. Chúng ta đều biết
rằng hang động luôn là nơi tăm tối thế nhưng với hình ảnh lá cờ đỏ thắm và ngôi
sao vàng rực rỡ thay vì thấy âm u tăm tối, ta thấy sáng ngời niềm tin, lí tưởng. Tất cả
đều tập trung cho những công việc vì nhân dân trong kháng chiến. Từ những cuộc
họp thế này mà cuộc cách mạng của chúng ta tiến dần tới sự thắng lợi hoàn toàn. Từ
điều động chiến sĩ, cho tới phát triển nông nghiệp, giữ đê… Vai trò của Việt Bắc
được thể hiện rõ nét trong việc lãnh đạo, định hướng…

9. Việt Bắc không chỉ là căn cứ quan trọng của cuộc cách mạng mà còn trở
thành một địa chỉ tin cậy của toàn thể dân tộc Việt Nam

(8 câu tiếp)

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy, ai quên

Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng Hòa.

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào

Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc, người là linh hồn và là
người truyền ánh sáng cho muôn dân. Ánh sáng ở người rạng rỡ đến độ bóng tối và
sự u ám của quân thù không thể lấn át được.

Việt Bắc là cái nôi, là cội nguồn cách mạnh, là nơi nhân dân đặt trọn niềm tin
vào trong những ngày tháng chiến tranh khó khăn gian khổ nhất. Từ Việt Bắc chúng
ta đã làm nên chiến thắng lớn lao. Và một lần nữa giai điệu của khúc khải hoàn ca lại
ngân lên xen những tiếng nhung nhớ, nặng tình.

III. TỔNG KẾT


1. Nghệ thuật

- Bài thơ đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: thể thơ lục bát
với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết.

- Lối đối đáp giao duyên quen thuộc, gần gũi, lắng sâu của ca dao dân ca. Nhưng
qua lớp đối thoại của kết cấu bên ngoài chính là lời độc thoại của tâm trạng.
- Cách xưng hô “mình – ta” tâm tình, đằm thắm; phép điệp giàu tính truyền thống.

- Ngôn từ mộc mạc, giàu hình ảnh, giàu sức gợi.

- Các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ đậm đà tính dân tộc.

- Đặc biệt Tố Hữu đã phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt…

2. Nội dung

- “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”. (Tố Hữu).
Chặng đường kháng chiến chống Pháp đầy gian lao kết thúc với sự thắng lợi vẻ
vang, vào thời gian 10.1945, trung ương Đảng và chính phủ từ chiến khu Việt Bắc
dời về thủ đô Hà Nội. Trong buổi chia tay đầy lưu luyến với đồng bào Việt Bắc, Tố
Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

- Bài thơ là khúc hát giao duyên, là lời nhắn gửi tâm tình giữa người về xuôi và
người ở lại, lời giãi bày tình cảm thắm thiết và cả nỗi nhớ trùng điệp của người ra đi.
Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tài năng đỉnh cao, phong
cách của Tố Hữu…

You might also like